Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cò Súng Tử Thần

“Cò súng tử thần” là một tiểu thuyết trinh thám kể về nhân vật chính “James Bond” đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế lại là một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế. James Bond đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ để biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ, đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế là lại một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế *** Loạt tác phẩm James Bond xoay quanh một nhân vật mật vụ người Anh hư cấu, được sáng tạo bởi nhà văn Ian Fleming vào năm 1953. Fleming đã khắc họa Bond trong 12 cuốn tiểu thuyết và 2 tuyển tập truyện ngắn. Sau khi ông qua đời vào năm 1964, đã có tám tác giả tiếp tục viết tiếp các tác phẩm tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết chuyển thể về James Bond, bao gồm: Kingsley Amis, Christopher Wood, John Gardner, Raymond Benson, Sebastian Faulks, Jeffery Deaver, William Boyd và Anthony Horowitz. Forever and a Day của Anthony Horowitz, xuất bản vào tháng 5 năm 2018, là cuốn tiểu thuyết James Bond mới nhất. Ngoài ra, có thể kể đến loạt truyện viết về Bond thời trẻ của Charlie Higson hay Kate Westbrook với bộ ba tiểu thuyết dựa trên cuốn nhật ký của Moneypenny, một nhân vật từng xuất hiện trong loạt truyện. Nhân vật James Bond còn được biết tới với mã tên 007, được chuyển thể rộng rãi thành các tác phẩm truyền hình, phát thanh, truyện tranh, trò chơi điện tử và phim ảnh. Loạt phim về James Bond hiện đang là loạt phim liên tục dài nhất mọi thời đại và thu về tổng doanh thu 7.04 tỉ đô la Mỹ, trở thành loạt phim có doanh thu cao thứ sáu lịch sử. Nó được khởi đầu vào năm 1962 bằng phần phim Dr. No với ngôi sao Sean Connery trong vai Bond. Tính tới năm 2020, loạt phim do Eon Productions sản xuất đã có 24 phần. Spectre (2015) là bộ phim James Bond gần nhất, có sự tham gia diễn xuất của Daniel Craig với lần thứ tư anh thủ vai mật vụ Bond trong loạt phim của Eon. Ngoài ra, còn có hai tác phẩm độc lập: Casino Royale (một phiên bản giễu nhại ra mắt năm 1967, với sự tham gia của David Niven) và Never Say Never Again (bản làm lại bộ phim do Eon sản xuất trước đó của Thunderball, ra mắt năm 1965, cả hai bản đều có sự tham gia của Connery). Năm 2015, với trị giá ước tính 19.9 tỷ đô la Mỹ, James Bond trở thành một trong những thương hiệu truyền thông có doanh thu cao nhất từ trước tới nay. Các bộ phim về Bond nổi tiếng bởi một số điểm đặc trưng, như phần nhạc đệm với các bài hát chủ đề đã nhiều lần được đề cử Oscar và chiến thắng hai lần. Vài yếu tố xuyên suốt quan trọng khác bao gồm những chiếc xe hơi của Bond, các khẩu súng của anh và những thiết bị mà anh được Q Branch cung cấp. Mỗi phần phim cũng chú ý khắc họa mối quan hệ của Bond với nhiều phụ nữ khác nhau, đôi khi được gọi là các "Bond girl". *** Đó là lúc cả thế giới đã bão hòa. Mặt trời đã xuống tới đường chân trời, luồng ánh sáng đỏ mềm mại trườn trên lớp sóng triều, phía cao tít bên trên đàn chim đang vẽ nên những hình kỷ hà ngẫu nhiên trên bầu trời quang. Gió đã ngừng thổi và cái nóng buổi chiều trở nên ngột ngạt, ngập trong khói xăng và bụi. Xuyên qua bầu không khí đó, chiếc Crosley màu lam bất ngờ còn lại một mình chạy theo đường 13, hướng từ biển vào đất liền. Crosley là một chiếc xe nhỏ, xấu, mũi dài, khoang vuông, thân đã bị gỉ sét ăn thủng. Người lái xe, đang gập người trên vô lăng, mắt không rời khỏi con đường phía trước, đã mua nó với giá ba trăm đô la. Tay bán hàng thề thốt rằng chiếc xe có thể chạy sáu mươi cây số chỉ với ba lít xăng và còn có thể tăng tốc lên tám mươi ki lô mét một giờ. Tất nhiên là hắn nói dối… với hàm răng hoàn hảo và nụ cười thân thiện của một con phe tỉnh lẻ. Chiếc Crosley chẳng tăng tốc được thêm chút nào ngay cả trên đường lao dốc, nữa là ở đây, gần với bờ Đông Virginia, nơi địa hình đã trở nên bằng phẳng suốt nhiều cây số. Người lái xe có thể là một giáo sư hoặc một thủ thư. Gã có vẻ ngoài của một kẻ chủ yếu sống trong nhà với làn da xanh xao, những ngón tay ám nicotine và cặp kính theo thời gian đã từ từ chìm vào mũi cho đến khi trở thành một phần vĩnh viễn của khuôn mặt. Tóc gã đã thưa, lộ ra những vết đồi mồi trên trán. Gã là Thomas Keller. Mặc dù hiện đang mang hộ chiếu Mỹ, gã sinh ra tại Đức và vẫn nói tiếng mẹ đẻ trôi chảy hơn nói thứ tiếng của đất nước đã nuôi nấng gã. Không rời tay lái, Keller lật tay liếc nhìn chiếc đồng hồ quân sự Elgin 16 chân kính mà gã mua tại một cửa hiệu cầm đồ ở Salisbury, gần như chắc chắn bị vứt lại đó bởi một quân nhân đang gặp vận đen. Gã rất đúng giờ. Gã nhìn thấy lối rẽ ngay phía trước và bật xi nhan. Sau một giờ nữa thôi, gã nghĩ, gã sẽ có đủ tiền để mua một chiếc xe tử tế và một chiếc đồng hồ tử tế - đồng hồ Thụy Sĩ, tất nhiên, có thể là Heuer hoặc Rolex gì đó - và cuối cùng, một cuộc sống tử tế. Gã dừng lại trước một quán ăn, một cái hộp đẹp đẽ màu bạc trông như vừa mới lấy ra từ sau xe tải. Tên quán - Lucie - được uốn bằng đèn neon hồng ngay trên bốn món ăn đã định hình nền ẩm thực Mỹ đối với hầu hết cư dân của nó, bất kể là họ sống ở bang nào: Bánh kẹp, Xúc xích, Sữa lắc và Khoai chiên. Gã ra khỏi xe, áo sơ mi hơi bị dính vào lớp vỏ bọc ghế bằng nhựa vynil, và nhặt áo khoác để trên ghế trước. Gã đứng lặng một lúc trong không khí ấm nóng, lắng nghe một đoạn nhạc phát ra từ chiếc máy hát tự động, và nghĩ đến hành trình đã đưa gã đến đây. Thomas Keller vừa tốt nghiệp với tấm bằng vật lý và kỹ sư thì gặp được thứ rồi sẽ trở thành niềm đam mê lớn của đời gã. Chuyện xảy ra tại rạp Harmonie ở Sachsenhausen nơi gã cùng một cô gái xinh đẹp tới để xem bộ phim mới của Fritz Lang, Frau im Mond, Người đàn bà trên mặt trăng. Bộ phim bắt đầu được năm phút là gã đã quên tiệt cô gái, và vì thế, cả hy vọng được sờ soạng cô sau đó ngoài bãi đỗ xe của rạp. Thay vào đó, cảnh trên màn hình chiếu một quả tên lửa nhiều tầng đang rời khỏi quỹ đạo trái đất đã đánh thức thứ gì đó bên trong gã và từ đó trở đi hoàn toàn chiếm lĩnh gã. Có thể nói rằng gã đã được phóng đi, bằng một sức mạnh không thể cưỡng lại, đầu tiên là tới Đại học Tổng hợp Berlin, sau đó tới Verein für Raumschiffahrt - Hiệp hội Du hành Không gian - và cuối cùng là tới bờ biển Baltic và cảng biển Peenemünde. Khi đó, nghiên cứu tên lửa của Đức đã có tiến bộ hơn hẳn, vì mặc dù Hiệp ước Versailles bị nhiều người căm ghét đã đặt ra rất nhiều hạn chế đối với việc phát triển vũ khí nhưng du hành không gian lại được miễn trừ. Điều này tạo thuận lợi cho quân đội Đức, họ đã nhanh chóng nhận ra rằng tên lửa sử dụng nhiên liệu lỏng được phóng đi từ một bệ phóng tạm thời và tương đối đơn giản, có thể bay xa và nhanh hơn nhiều loại đạn pháo, đem tải trọng thuốc nổ của nó đến mọi thành phố lớn ở châu Âu. Keller ba mươi sáu tuổi khi gã gặp người phụ trách chương trình không gian của Đức: kỹ sư tên lửa (và là một thành viên SS-Sturmbannführer) Wernher von Braun. Con trai của một bá tước Phổ, von Braun xuất thân từ một gia đình đã từng tham chiến từ thế kỷ 13 và chưa bao giờ đánh mất những đặc trưng quý tộc của mình. Ông ta luôn đi lại khệnh khạng, quát mắng tất cả những ai tranh cãi với mình và có thể trở nên thô bạo lạnh lùng khi rơi vào một tâm trạng nhất định. Nhưng đồng thời ông ta lại vô cùng đam mê công việc, luôn đòi hỏi những điều tốt nhất từ bản thân và từ những người xung quanh. Keller kính trọng ông ta vậy nhưng cũng sợ hãi không kém. Tất nhiên, trong thời gian đó một tay hạ sĩ người Áo đã lên nắm quyền và nước Đức đang có chiến tranh. Nhưng chẳng có chuyện gì thực sự làm Keller quan tâm. Cũng giống như nhiều học giả và các nhà vật lý khác, những người bạn hiếm hoi, gã không quan tâm nhiều đến thế giới xung quanh, và nếu như Hitler lại chuyển tiền - mười một triệu mác Đức trích từ Không lực và quân đội - vào các thiết bị đánh chặn bằng tên lửa và tên lửa đạn đạo thì gã sẵn sàng lờ đi những mối bận tâm kém hấp dẫn khác của đảng Quốc xã. Thực sự là khi cuối cùng đã đến được Peenemünde, lúc những quả tên lửa V-2 đầu tiên rời bệ phóng vào mùa hè năm 1944, gã chưa từng nghĩ đến sự chết chóc và tàn phá mà chúng sẽ đem đến với trọng tải một tấn của mình. Gã là một nghệ sĩ và đây là tấm toan của gã. Việc ngắm nhìn các vụ phóng đã cho gã một giây phút xuất thần tinh khiết: những đám mây khói trắng đầy những tia lửa nhỏ từ bộ đánh lửa đột nhiên đổ xô lại với nhau thành một ngọn lửa đỏ rực rỡ, dây cáp bung ra và một tạo vật xinh đẹp, lịch lãm được tung lên bầu trời. Những rung động xuyên qua gã. Làn da gã dường như sống dậy, gã cảm thấy phấn khích khi biết rằng mình là một trong số ít các kỹ thuật viên đã giúp tạo ra nó, rằng các động cơ sẽ tạo ra công suất đáng kinh ngạc 800.000 mã lực và rằng tên lửa sẽ sớm đạt được năm lần tốc độ của âm thanh. Đám dân thường London sẽ không thể biết gì về sự hoàn hảo, về thiên tài vĩ đại của thứ vũ khí đã giết họ. Thường thì Keller không thể kiềm chế được mình. Gã rơi những giọt lệ của niềm vui thuần khiết. Một thời gian ngắn sau khi chiến tranh kết thúc, Keller tự hỏi không hiểu gã có phải đối mặt với hậu quả nhất định nào đó hay không. Thực ra gã đã có mặt khi von Braun đầu hàng người Mỹ và sau đó bị họ thẩm vấn vì cũng nằm trong Danh sách Đen nổi tiếng, mật danh dành cho các nhà khoa học và kỹ sư Đức có vai trò quan trọng đặc biệt. Nhưng gã không quá lo lắng. Những gì von Braun và nhóm của ông ta đã tạo ra quá có giá trị đối với Đồng minh và gã tin rằng công việc của họ bằng cách nào đó vẫn sẽ được tiếp tục. Gã đã đúng. Hai người họ được thả cùng một ngày. Cùng với hơn một chục nhà khoa học và kỹ thuật viên khác họ đã được đưa ra khỏi nước Đức trên cùng một chuyến bay, và cuối cùng đã tới Fort Bliss, một căn cứ quân sự Mỹ gần Al Paso, nơi mà với những ông chủ mới và trong một số trường hợp ít ỏi khác - nhân thân mới, họ lại tiếp tục công việc từ đúng chỗ trước đó họ đã bị ngắt quãng một cách thô bạo. Giờ Keller năm mươi tư và đã đi gần hết sự nghiệp. Gã sống ở Mỹ đã mười hai năm nhưng chưa bị ai nhận nhầm là người Mỹ. Gã có diện mạo và hình thể của một người nước ngoài, vụng về và chậm chạp. Lối nói chậm rãi và nặng khẩu âm luôn tiết lộ nguồn gốc của gã ngay khi gã bắt đầu mở miệng. Cũng chẳng quan trọng lắm. Chiến tranh đã đủ xa rồi. Người ta cũng chẳng còn quan tâm nữa. Vả lại, trong ý thức gã đã đồng hóa theo cách tốt hơn - và điều đó làm cho gã hoàn toàn thỏa mãn. Ba năm sau khi đến Mỹ, gã lấy một cô tiếp viên Mỹ bán cocktail mà gã gặp ở El Paso làm vợ và hai người họ chuyển đến sống trong một ngôi nhà phong cách thuần Mỹ gần Salisbury, bang Maryland. Keller được thuê làm giám sát viên tổng hợp trong Phòng Thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân (NRL) tại bãi phóng tên lửa của cơ quan này trên đảo Wallops. Gã vừa ra khỏi văn phòng một giờ trước. Giờ thì gã đã đến nơi. Gã bước vào quán và ngay lập tức cảm thấy cái mát lạnh của điều hòa không khí, đúng lúc máy hát tự động phát một bài mới của Everly Brothers. Tạm biệt tình yêu Tạm biệt hạnh phúc… Keller không quan tâm đến âm nhạc Mỹ nhưng gần như không thể thoát được giai điệu này suốt mấy tháng nay. Gã cảm thấy lời bài hát có vẻ lạc quẻ một cách lạ lùng, vì gã đến đây với hy vọng và kỳ vọng vào điều hoàn toàn trái ngược. Người gã đến gặp đang chờ gã ở đúng chỗ mà hắn đã nói, cái bàn cạnh cửa sổ góc. Hắn mặc bộ vét hiệu Brooks Brothers, áo sơ mi cài hết cúc và đi giày lười, kiểu trang phục thường xuyên của hắn. Hắn đến sớm. Trên mặt bàn có một tờ báo và hắn đã điền được một phần trò ô chữ. Keller biết đến hắn với tên gọi Harry Johnson, nhưng gã không chắc đấy có phải tên thật của hắn hay không. Gã giơ tay chào, hơi lúng túng bước trên nền gạch đỏ trắng đến phía bên kia của cái bàn. Đến phút cuối gã mới nhận ra mình đã quên khoác áo vét. Thôi kệ, đằng nào thì cũng đã quá muộn. Gã quyết tâm không làm gì tỏ ra thiếu chuẩn bị hoặc vụng về. Gã đặt cái áo lên ghế bên cạnh. “Anh thế nào, Keller?” Johnson nói đều đều, giọng Manhattan. “Tôi ổn, cảm ơn anh.” Harry Johnson trẻ hơn gã đến mươi mười lăm tuổi, nhưng trông lại có vẻ già dặn hơn với khuôn mặt dài quá mức, má đầy nếp nhăn và mái tóc bạc cắt ngắn. Hắn đang xoay cái bút bi giữa những ngón tay. Trên một ngón tay, hắn đeo chiếc nhẫn vàng có khắc hình. “Thủ đô của Venezuela là gì?” hắn hỏi. “Sao cơ?” Keller sửng sốt. “Thứ chín từ trên xuống, thủ đô của Venezuela. Từ bảy chữ cái bắt đầu bằng chữ C.” “Tôi không biết,” Keller cáu kỉnh nói. “Tôi không chơi ô chữ.” “Này, không sao. Tôi chỉ hỏi thôi mà.” Johnson rời mắt khỏi ô chữ. “Thế nào, xong rồi chứ?” Lần này thì Keller hiểu ý hắn. Đây là lần thứ tư họ gặp nhau. Keller vẫn nhớ lần đầu tiên, một cuộc gặp có vẻ như tình cờ trong một quán rượu trung tâm Salisbury. Johnson bằng cách nào đó đã ở đó, ngay ghế bên. Không thể biết được hắn vào từ lúc nào. Họ đã nói chuyện với nhau. Johnson nói hắn là một doanh nhân, cũng có thể đúng là vậy thật nhưng thực sự thì nó cũng gần như chẳng có ý nghĩa gì. Hắn có vẻ phấn khích khi biết Keller là một nhà khoa học ngành tên lửa và sau ly thứ hai - Johnson đòi được trả tiền - hắn đưa ra một loạt câu hỏi đầy quan tâm nhưng vô hại, không có gì khiến cho gã phải nghi ngờ. Đương nhiên mọi thứ đã được sắp xếp từ trước. Hắn đã biết tất cả về Keller từ trước khi họ mở miệng nói chuyện với nhau. Đến cuối buổi tối hai người đã thu xếp gặp nhau lần nữa. Sao lại không cơ chứ? Johnson là một người bạn tốt, và khi ra về hắn gần như vô tình nói rằng mình có thể đề nghị việc này. “Có thể kiếm cho anh một ít tiền. Mới chợt nghĩ vậy thôi. Lần sau ta trao đổi nhé.” Nhưng đến lần sau đó hắn không nói gì. Họ so sánh vợ con, gia đình, lương lậu, khát vọng. Toàn là những câu chuyện của đàn ông, mặc dù người nói chính vẫn là Keller. Chỉ đến lần thứ ba khi họ đã hiểu nhau rõ hơn thì Johnson mới đưa ra lời đề nghị của mình. Đáng ra khi đó Keller phải tới gặp cảnh sát, hoặc hợp lý hơn nữa là phòng An ninh Hải quân ở phía Nam đảo Wallops. Tất nhiên là gã không làm thế. Johnson, hay những người đứng sau hắn, đã chọn Keller vì họ biết gã sẽ không làm thế. Có khi họ đã tìm hiểu gã nhiều tháng trời rồi. Chính xác thì họ là ai? Keller không quan tâm. Cũng chính chứng chỉ nhìn tầm gần này đã giúp gã qua được cuộc chiến. Gã không có nhu cầu nhìn toàn cảnh. Không quan trọng. Gã đơn giản chỉ tập trung vào đề nghị được đặt ra cho mình và hai trăm năm mươi ngàn đô la, miễn thuế, mà gã có thể có được nếu như làm theo đề nghị đó. Gã đồng ý gần như ngay lập tức và chỉ cần một buổi gặp nữa để thảo luận chi tiết. Rất thẳng thắn. Điều mà gã được đề nghị làm không hề dễ dàng. Nó cần có sự hiểu biết sâu sắc về cơ học chất rắn và ứng suất kéo - nhưng đó chính là lĩnh vực chuyên môn của gã. Và sau khi gã đã đo đếm tỉ mỉ mọi yếu tố thì bản thân công việc này vẫn là một vấn đề. Nhưng may mắn thì gã cũng sẽ có được bốn hoặc năm phút một mình. Có rủi ro đáng kể - nhưng phần thưởng cũng lớn. Đó là tính toán ban đầu của gã. “Thế là xong rồi chứ?” “Phải.” Keller gật đầu. “Nhiệm vụ hóa ra lại dễ hơn tội tưởng nhiều. Tôi từng được vào xưởng lắp ráp trong lúc tập dượt cứu hỏa.” Gã dừng lời. Gã đã lộ ra sự nhiệt tình quá mức và khiến điều gã đã làm được có nguy cơ mất giá. “Tất nhiên là tôi phải làm nhanh. Người ta luôn luôn tăng cường an ninh trong khi chuẩn bị phóng. Và phải làm rất cẩn thận. Có khả năng, anh hiểu chứ, người ta sẽ đi kiểm tra vào phút chót. Việc tôi làm cần phải… unsichtbar.” Gã tìm từ trong tiếng Anh. “Tàng hình.” “Động cơ sẽ hỏng chứ?” “Không. Nhưng nó sẽ không hoạt động tử tế. Lượng thuốc phóng được bơm vào buồng đốt sẽ không đủ. Tôi đã giải thích điều đó cho anh rồi. Kết quả sẽ đúng như mong muốn.” Hai người cùng im lặng khi hầu bàn đưa cà phê và nước lạnh đến. Hai cuốn thực đơn để mở trước mặt. Họ không có ý định ăn uống gì. “Thời điểm phóng thì thế nào?” Johnson hỏi. Keller nhún vai. Gã không thích cà phê. Gã đã nốc hết bao nhiêu lít món này từ khi đến Mỹ, trong lúc hút thuốc và làm việc thâu đêm? Gã đẩy cái cốc sang một bên. “Vẫn còn mười hai ngày nữa từ hôm nay. Tôi đã xem dự báo. Thời tiết tốt. Nhưng thời tiết thì không bao giờ chắc chắn được. Hướng và tốc độ gió rất quan trọng, và nếu như điều kiện không thích hợp thì…” Gã hạ giọng bỏ lửng câu nói. “Nhưng đấy không phải chuyện tôi quan tâm. Tôi đã làm điều anh yêu cầu. Anh có đem tiền không?” Người đàn ông kia không nói gì. Hắn nhìn chằm chằm gã người Đức. Sau đó hắn chìa tay ra và gỡ cặp kính mát gài trên túi áo phía trước. Đó là tín hiệu cho thấy công việc của họ đã kết thúc. “Dưới gầm bàn có một cái cặp.” “Còn tiền thì sao?” “Trong đấy hết.” Johnson toan ra về nhưng Keller ngăn hắn lại. “Tôi phải nói với anh một chuyện,” gã nói. “Quan trọng đấy.” Gã đã tập dượt điều sắp nói. Gã khá tự hào về cách nói mà gã đã nghĩ ra, về việc gã đã suy nghĩ điều đó thật kỹ càng. “Tôi sẽ không đếm tiền. Tôi sẽ coi như đã đủ. Nhưng đồng thời, tôi phải cảnh báo anh. Tôi không biết ai thuê anh, tôi không quan tâm. Rõ ràng là anh làm việc cho những người nghiêm túc. Nhưng một phần tư triệu đô là rất nhiều tiền. Cược đặt rất cao. Và vì sự an toàn của bản thân mình anh có thể chọn cách bịt miệng tôi lại. Không phải khó lắm, phải không? Theo tôi hiểu, có thể trong cái cặp ấy có thuốc nổ và tôi có thể chết trước khi ra đến xe. Hoặc có thể sẽ có tai nạn giao thông.” “Thế nên tôi muốn anh biết rằng tôi đã ghi lại tất cả những gì xảy ra giữa chúng ta với nhau và tất cả mọi thứ tôi được yêu cầu thực hiện. Không những tôi miêu tả anh, tôi còn chụp ảnh. Tôi mong là anh sẽ tha thứ cho sự lừa đảo nhỏ này của tôi, nhưng tôi chắc chắn anh sẽ thông cảm cho tình thế của tôi. Tôi cũng ghi lại thông tin về xe của anh, biển số xe. Tất cả những thứ đó được gửi ở chỗ một người bạn của tôi và gã đã được dặn là sẽ chuyển tất cả cho cơ quan có thẩm quyền nếu có điều gì đó đáng ngờ xảy ra cho tôi. Anh hiểu tôi nói gì chứ? Sẽ không có chuyện tên lửa bị hỏng nữa. Và dù cảnh sát phải tốn chút thời gian để tìm ra anh thì họ cũng đã biết về sự tồn tại của anh và sẽ theo anh mãi mãi.” Johnson yên lặng nghe hết. Keller nói xong Johnson ngờ vực chằm chằm nhìn gã. Đó là lần đầu tiên hắn thể hiện cảm xúc thực của mình. “Anh nghĩ chúng tôi là ai?” hắn hỏi. “Anh nghĩ chúng tôi là gangster à? Tôi phải nói với anh, Tom, anh đọc nhầm loại sách rồi. Chúng tôi yêu cầu anh cung cấp cho chúng tôi một dịch vụ. Anh cung cấp cho chúng tôi dịch vụ đó và anh đã được trả tiền. Nhân tiện mà nói, anh nhầm rồi. Một phần tư triệu đô cũng không phải quá nhiều trong chuyện này. Anh sẽ gặp lại chúng tôi chỉ trong trường hợp anh không làm như chúng ta đã thỏa thuận - và nếu đúng như vậy, trong trường hợp ấy, cuộc sống của anh rất có thể sẽ bị nguy hiểm một chút. Nhưng cho dù anh không tin chúng tôi thì chúng tôi vẫn có niềm tin tuyệt đối nơi anh.” Hắn ném vài đồng xu ra bàn để thanh toán tiền cà phê, cuộn tờ báo lại rồi đứng lên. “Tạm biệt.” “Chờ đã…” Keller cảm thấy xấu hổ. “Caracas,” gã nói. “Caracas?” “Ô chữ còn thiếu của anh. Thủ đô Venezuela.” Johnson gật đầu. “Tất nhiên rồi. Cảm ơn anh.” Keller nhìn hắn đi khỏi. Đúng là bài phát biểu của gã có chút khoa trương, được lấy cảm hứng từ mấy bộ phim gã từng cùng xem với vợ. Và nó cũng không thật. Không có bản ghi nào về những gì đã xảy ra, không có ảnh, không có người bạn nào đang chờ để đến gặp cảnh sát. Gã chỉ nghĩ rằng sự đe dọa này có thể là đủ để bảo vệ mình khi cần. Liệu gã có sai không? Liệu gã có tự biến mình thành thằng ngốc không? Sau đó gã nhớ đến tiền. Gã mò mẫm dưới gầm bàn và cảm thấy các khớp tay mình va phải thứ gì đó đặt sát tường. Cái cặp! Gã kéo nó ra và bật khóa, hé mở vừa đủ để có thể liếc vào trong. Có vẻ có đủ tiền trong đó: tiền năm mươi đô, được buộc thành cọc gọn gàng. Gã đóng cặp, khoác áo vét lên rồi vội vã ra ngoài. Không có dấu hiệu nào của Harry Johnson ngoài bãi đỗ. Gã ra xe, ném chiếc cặp vào ghế trước rồi chui vào xe. Mất hai mươi phút để gã lái xe về đến nhà, nơi gã biết Gloria đang chờ gã. Nghĩ đến Gloria, gã mỉm cười và thư giãn một chút sau tay lái. Xét cho cùng, mọi thứ đều là cho nàng. Nàng trẻ hơn gã mười lăm tuổi, thấp và hơi mũm mĩm theo cái cách làm gã thấy phấn khích, ngực và hông lúc nào cũng căng đầy dưới lớp quần áo. Khi hai người gặp nhau thì nàng đã ở giữa độ tuổi hai mươi, và khi gã kể với nàng về mình thì nàng thấy rạo rực. Này là một người đàn ông được đưa lậu từ châu Âu đến, làm việc cho một cơ sở nghiên cứu tuyệt mật chế tạo tên lửa không gian. Nó giống như tình tiết trong những cuốn sách bìa mềm nàng thích đọc, và mặc dù thực ra gã là người Đức, thiếu hấp dẫn và đôi khi có những yêu cầu làm nàng đau, điều đó có vẻ cũng chẳng quan trọng gì. Họ đã hạnh phúc khi lấy nhau và cả hai đã cùng quyết định chuyển lên phía Bắc, chọn Salisbury vì gần đảo Wallops. Họ đã mua nhà và cùng chọn nội thất. Nhưng từ đó trở đi mọi việc giữa họ đã không còn mấy tốt đẹp. Họ không thể có con, nàng thì phát chán vì ngôi nhà, vì cái công việc quản lý một nhà hàng địa phương hầu như không có khách trừ những ngày cuối tuần. Nàng không muốn nghe bất cứ điều gì về tên lửa và dạo này nàng chỉ miễn cưỡng đến xem các vụ phóng. Nhưng Keller vẫn còn yêu nàng. Dĩ nhiên là gã si mê nàng. Theo một cách nào đó, gã coi nàng như biểu tượng cao nhất về vị thế, sự công nhận đối với công trình của đời người. Nàng là một người vợ Mỹ. Gã xứng đáng có nàng. Gã kể với nàng về người bạn mới của mình, Harry Johnson, về đề nghị gã nhận được. Có nằm mơ gã cũng không dám nhận nếu như không có sự chấp thuận của nàng. Gã mừng là gã đã làm như vậy. Tiền cược là vô cùng cao. Gã sẽ phạm một tội ác mà nếu bị phát hiện gã sẽ bị kết tội phản quốc. Nhưng ngay từ đầu Gloria đã tỏ ra quyết tâm hơn cả gã, thúc giục gã khi lòng dũng cảm của gã không còn. Hàng tuần nay hai người họ đã trao đổi về tương lai mà họ sẽ xây dựng cùng nhau, về việc họ sẽ làm gì với số tiền, họ phải thận trọng để không tiêu hết nó quá sớm ra sao. Keller thấy hình như vợ gã đã biến đổi. Giờ thì gã nhớ lại được nàng như thế nào khi lần đầu tiên gã để mắt đến nàng. Tất cả năng lượng và lebensfreude - sức sống - của nàng đã quay trở lại. Và nàng lại khôi phục được sự thèm khát giường chiếu, hiến dâng cho gã với sự buông thả như trong đêm tân hôn của họ. Nàng đang đợi gã ngoài cửa căn nhà gỗ một cửa sổ. Đó là một ngôi nhà như bước thẳng ra từ catalogue nhà đất với khu vườn gọn gàng phía trước và dãy hàng rào màu trắng. Keller đỗ xe trên lối vào nhà và lại với nàng, tay xách cặp. Họ hôn nhau trên ngưỡng cửa. Nàng mặc chiếc váy hoa ban ngày, chiết eo. Mái tóc vàng óng của nàng đổ những lọn xoắn lên vai. Ngay lúc đó Keller thèm muốn nàng hơn bao giờ hết. “Anh làm được rồi,” nàng nói. “Phải.” “Anh đếm chưa?” “Ở đây cả mà. Không cần.” “Anh phải đếm chứ.” “Mình có thể đếm trong nhà.” Họ cùng nhau vào nhà, vào phòng khách gọn gàng có sofa, bàn cà phê và chiếc ti vi phủ tấm che cửa lật. Họ mở cặp và đếm tiền. Gloria đứng tì vai và mông vào gã, gã vòng tay ôm nàng. Khi đã chắc chắn mọi thứ đều ổn, nàng vặn người hôn má gã. “Em đã để sâm banh sẵn trong tủ lạnh rồi đấy,” nàng nói. Gã theo nàng vào bếp, đứng đó trong khi nàng lục lọi ngăn kéo. “Không thấy cái mở nút chai chết tiệt ấy đâu cả,” nàng nói. Hắn lại chỗ nàng, và chỉ khi tới nơi thì hắn mới nhớ ra là để mở sâm banh thì đâu có cần đến mở nút chai, và đó cũng là lúc nàng quay lại còn gã thì cảm thấy có cái gì đó đè vào mình. Gã cúi nhìn và thấy, không thể nào như vậy, một cái cán dao thò ra từ bụng mình. Hẳn phải có nhầm lẫn gì rồi. Không thể như thế được. Nhưng khi ngẩng lên và nhìn thấy mắt nàng thì gã biết đây chính là sự thật. Gã cố gắng cất tiếng nhưng máu đã ộc ra từ cơ thể, và cùng với nó là hơi thở và sự sống của gã. Vẫn còn ôm lấy nàng, gã khuỵu xuống, rồi, khi nàng bước sang một bên, gã đổ vật xuống sàn. Gloria nhìn xuống gã và rùng mình. Không phải cảnh tượng máu gã tràn trên lớp vải sơn làm ả ghê sợ. Mà là ký ức về đôi bàn tay gã trên thân thể ả, mùi chua chua trong hơi thở của gã. Chẳng còn gì nhiều để làm. Ả đã mua sẵn xăng. Ả vẩy xăng lên tay chồng đã chết, lên bếp, phòng khách, cầu thang. Rồi ả lấy chiếc va li, đóng gói vài thứ định mang theo và đổ tiền vào trong. Cuối cùng, ả bật diêm. Ả lấy chiếc Crosley của chồng, cho dù đấy là một cái xe kinh khủng. Ít nhất thì ả cũng có thể trông chờ vào nó để đến California, nơi ả dự tính sẽ bắt đầu cuộc đời mới. Ả đi tới cuối con phố và rẽ ra đường lớn mà không nhìn lại. Và thế là không nhìn thấy những ngọn lửa đầu tiên khi chúng bùng lên phía sau mình và làn khói đang lan tỏa vào không khí ban đêm.   Mời các bạn đón đọc Cò Súng Tử Thần của tác giả Anthony Horowitz & Phạm Hồng Anh (dịch).  

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tình Yêu Phù Thủy (Biệt Thự Bạch Mã)
Tình Yêu Phù Thủy hay Biệt Thự Bạch Mã là tên bản dịch của cuốn tiểu thuyết The Pale Horse do nhà văn trinh thám nổi tiếng Agatha Christie sáng tác. Trong phầm này, chúng ta sẽ cùng thanh tra Lejeune đi tìm chân tướng sự việc. *** Agatha Christie Tình Yêu Phù Thủy Người dịch: TRẦN BÌNH Lời Mở Đầu Nguyên tác tiếng Anh :THE PALE HORSE Mark Easterbrook, người tường thuật các sự kiện chính trong truyện, chứng kiến một vụ đánh nhau  giữa hai cô gái trong một quán rượu ở Chelsea. Chẳng bao lâu sau đó, anh đọc được tin cáo phó trên báo về cái chết của cô Thomasina Tuckerton, một trong hai cô gái đã đánh nhau đó. Và trong một bữa ăn tối với bạn bè, anh lại nghe một cô gái, Poppy Stirling, nói bóng gió đến CON NGỰA NHỢT NHẠT, một nơi có thể sắp đặt trước cái chết cho người khác. Khi Mark gặp Corrigan, một bác sĩ pháp y bạn anh, anh lại được bạn cho xem một danh sách những cái tên tìm thấy trong đôi giày của cha Gorman, người cũng vừa bị giết chết sau khi đến rửa tội cho một phụ nữ đang hấp hối. Trong đó có tên của phu nhân Hesketh-Dubois, mẹ đỡ đầu của anh, người vừa qua đời gần đây, và tên của Thomasina Tuckerton, cô gái mà anh vừa đọc tin cáo phó trên báo. Anh bắt đầu cảm thấy lo sợ và nghĩ rằng những người có tên trong bản danh sách kia là những người có cái chết đã được báo trước… *** Chiếc bình pha cà phê chạy điện đặt phía sau lưng tôi rít lên như một con rắn đang giận dữ. Tiếng động tự nó có vẻ như là một cái gì thê thảm và gần như là ma quái. Tôi nghĩ rằng trong thời đại của chúng ta có biết bao nhiêu âm thanh làm chúng ta khó chịu như tiếng rú của máy bay phản lực, tiếng gầm điếc tai, doạ nạt của tàu điện ngầm khi ra khỏi đường hầm, tiếng của những vật nặng đi qua làm rung chuyển nhà cửa... cho đến tiếng kêu của những máy móc dùng trong gia đình như tủ lạnh, máy hút bụi... cũng vậy. Hình như chúng nói: "Coi chừng, chúng ta là những vị thần bị buộc chân để phục vụ các người, nếu các người không thể kiểm soát nổi chúng ta và... ". Ôi một thế giới có biết bao nhiêu là nguy hiểm!  Tôi quấy một thứ nước đặc sánh trong một chiếc tách đặt trước mặt. Mùi thơm thật là dễ chịu. - Chỉ dùng có vậy sao, thưa ngài? Một chiếc bánh kẹp thịt, vài quả chuối là một miếng thịt lợn hun khói nữa chứ? Cách ăn uống hỗn tạp như vậy quả là lạ lùng đối với tôi. Nhưng tôi đã ngồi trong một quán rượu ở Chelsea cũng như đã thích ứng được với những thói quen ở đây. Tôi nhận một chiếc bánh kẹp thịt mà nhà hàng đã mời chào. Tuy đã là dân sống ở Chelsea, từ ba tháng nay, trong một căn hộ đủ tiện nghi, nhưng tôi còn xa lạ với nó về nhiều mặt. Tôi đang viết một cuốn sách nói về khoa kiến trúc của Mông Cổ, và để làm được việc đó đáng lẽ tốt hơn cả là tôi có thể sống ở Hampstead hoặc ở Bloomsbury. Môi trường sống của tôi thì lại hoàn toàn khác hẳn: tôi sống trong cái vũ trụ của cá nhân tôi. Tối hôm nay tôi lâm vào một trong những cơn buồn chán thường thấy của các nhà văn. Khoa kiến trúc Mông Cổ, các vị hoàng đế Mông Cổ và tất cả những đặc điểm của cuộc sống Mông Cổ đột nhiên đối với tôi chỉ còn là bụi bậm và tàn tro. Chúng có liên quan gì đến tôi? Tại sao tôi lại muốn viết về chúng? Tôi chối bỏ làm việc. Hình như nó không còn là hay ho đối với tôi nữa, nó nghèo nàn về văn phong và mất hết lý thú. Tôi ném bản thảo đi và đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ quả quít. Đã mười một giờ khuya. Tôi đã ăn tối chưa nhỉ? Chưa, cái dạ dày của tôi trả lời. Còn bữa lót dạ thì đã lâu lắm rồi. Trong tủ lạnh của tôi chỉ còn một miếng lưỡi lợn khô cứng mà tôi chẳng muốn đụng đến chút nào. Do đó tôi xuống đường King s và bước hú hoạ vào một quán cà phê có biển treo, đề tên chủ quán “Luigi" ghép bằng những bóng đèn huỳnh quang màu đỏ. Ngồi trước chiếc bánh kẹp thịt, vài quả chuối và miếng thịt lợn hun khói, tôi nghĩ về những tiếng động trong cuộc sống hiện đại, về những cái xấu luôn luôn trội hơn những cái tốt, về sự bền vững để giành chiến thắng Chiếc bình pha cà phê chạy điện vẫn réo bên tai. Tôi gọi một tách cà phê nữa và liếc nhìn xung quanh. Một trong các chị gái tôi đã nói là đừng bao giờ trở thành người quan sát. Lúc này tôi chăm chú quan sát tất cả. Trong quán ánh sáng lù mù, nhìn không rõ. Khách hàng gồm hầu hết là những người trẻ tuổi. Tôi thấy các cô gái thường là bẩn thỉu như mọi cô gái ngày nay. Hình như các cô mặc quá nhiều quần áo. Một vài tuần lễ trước đây, tôi đã chú ý đến điều này trong khi đi ăn sáng với các bạn tôi. Cô gái ngồi gần tôi khoảng hai chục tuổi, dù trời không lạnh lắm, cô cũng mặc một chiếc săng-đay dày, màu vàng, một chiếc váy đen ra một đôi tất len đen. Mặt cô loáng ướt vì mồ hôi, người có toả ra một mùi len ngấm nhiều mồ hôi và mùi tóc lâu ngày không gội. Theo các bạn tôi thì cô ta là người rất quyến rũ. Còn tôi, tôi chỉ có một ý đỉnh là ném cô vào một bể nước nóng cùng với một miếng xà phòng và ra lệnh cho cô kỳ cọ thật kỹ! Tôi nghĩ rằng, về một điểm nào đó, tôi ít thích nghi với thời đại của mình. Tôi tưởng nhớ một cách thú vị về những cô gái theo đạo Hindu với những mớ tóc đen mượt, những chiếc váy màu sặc sỡ, có nhiều nếp rất duyên dáng theo từng cử động của thân thể. Một tiếng động mạnh kéo tôi ra khỏi những kỷ niệm êm đềm đó. Hai cô gái ngồi bàn bên cãi nhau. Bạn bè khuyên giải nhưng không kết quả. Bất thình lình, một cô tát cô kia đang cố gắng giật chiếc ghế của mình đang ngồi. Họ úm nhau như những chị hàng cá và thét lên những lời tục tĩu. Một cô tóc màu hung rối bù, cô kia tóc màu hoe cứng đờ. Những tiếng kêu động viên nổi lên ở các bàn khác. - Lại đây! Cho nó một trận, Lou! Đứng cuối sàn nhảy, người vô can là Luigi, một người gốc Ý, giọng trọ trẹ, can thiệp: - Ê, đằng kia, chà! Như thế đủ rồi! Cảnh sát sẽ đến tóm cổ các cô. Đủ rồi. Tôi bảo các cô! Nhưng cô tóc hung đã túm tóc cô tóc hoe và điên cuồng giật mạnh. - Mày chỉ là một con đĩ! Một con đĩ cướp chồng người! - Con đĩ chính là mày đấy! Luigi và các vệ sĩ của hai cô kéo họ ra. Cô tóc hung giơ cao mớ tóc màu hoe đẹp trong tay lên với một vẻ chiến thắng rồi ném nó xuống đất. Bất chợt cửa mở và một người cảnh sát đại diện cho chính quyền đứng sững ở ngưỡng cửa. - Ở đây xảy ra chuyện gì vậy? Lập tức mọi người lập thành một mặt trận để chống lại kẻ thù chung: - Người ta vui đùa - Một trong những  trai trả lời. - Đúng - Luigi nhấn mạnh - Bạn bè họ vui đùa với nhau. Anh ta lấy chân đá nắm tóc vào gầm bàn. Những người có liên quan tới vụ ẩu đả nhìn nhau cười ngượng ngùng trước cặp mắt nghi ngờ của viên cảnh sát. Như là một sự tình cờ, các khách hàng khác cho rằng đi khỏi quán lúc này là tốt hơn cả. Người cảnh sát đưa mắt nhìn theo họ: "Cái đó, lần này thôi. Nhưng… các người sẽ được chú ý". Sau đó anh ta bỏ đi. Người vệ sĩ của cô gái tóc hoe thanh toán tiền. - Có đau không? - Luigi hỏi cô gái đang buộc lại khăn quàng dưới cằm. Luigi đã xen vào câu chuyện của cô một cách xấu xa. Họ đã giật tóc cô. - Ô, cái đó không làm tôi đau - Cô lơ đãng trả lời. Cô cười với người chủ quán - Tha lỗi cho chúng tôi, Luigi. Họ đi ra. Quán vắng tanh. Tôi tìm tiền. - Có thể nói là cô ta nổi khùng - Luigi nhận xét. Anh ta cầm cái chổi, quét hất những lọn tóc vào gầm quầy hàng. - Cái đó thật là tàn bạo - Tôi nói. - Nếu là tôi thì tôi đã kêu thét lên rồi - Luigi nói thêm - Nhưng cái cô Tommy ấy, cô ta đã lên cơn khùng. - Anh biết rõ cô ấy chứ? - Cô ta hầu như tối nào cũng có mặt ở đây. Tên cô ta là Tuckerton. Thomasina Tuckerton. Nhưng ở đây người ta gọi cô là Tommy Tucker. Cô ta có vô khối tiền. Ông già cô để lại cho cô cả một gia tài. Và cô ta đã làm gì? Cô ta sống trong một căn phòng bẩn thỉu trên đường Wandsworth Bridge và đi lang thang với một nhóm người như cô. Cái đó làm tôi sửng sốt đến ngã người ra. Họ có nhiều tiền. Họ có thể mua bất cứ cái gì, trọ cả trong khách sạn Ritz nếu họ muốn, nhưng cách sống ấy hình như đã lôi cuốn họ. Tôi thì tôi cắt đứt ngay cái kiểu sống như vậy. Tôi hỏi anh ta về lý do của cuộc cãi đánh nhau. - Ờ, cô Tommy đã nẫng tay trên người bạn trai của cô kia. Không cần phải đánh chửi nhau, xin ngài hiểu ý tôi là như vậy! *** Gợi Ý Thứ Tự Đọc Tác Phẩm - Guide To ReadGợi Ý Thứ Tự Đọc Tác Phẩm - Guide To Read   Nguồn: FB/groups/acvnfan Nhóm đã tổng hợp lại theo bảng xếp hạng của các fan thế giới, xếp theo thứ tự truyện hay nhất đầu tiên. Có 2 cách đọc: Từ dễ đến khó, Đọc theo thể loại. (Hoặc đọc trộn lung tung cho đỡ nhanh chán, dở hay-dở hay-ngắn dài-... cứ thế =))) Ahiru, gõ lại từ ảnh hướng dẫn. CÁCH 1 - TỪ DỄ ĐẾN KHÓ   A. Basic - Truyện cơ bản Gồm các truyện ngắn nổi bật, 20-50 trang cho các bạn tập làm quen với văn phong tác giả. * Poirot Investigates: - Double Sin/ Thừa một chứng tích phạm tội - The Chocolate box/ Hộp Sô cô la - Case of missing will/ Bản di chúc độc đáo * Truyện ngắn Paker Pyne: - A Fairy in the Flat/ Tiên nữ trong căn hộ (trong tập Hãng thám tử tư) - Case of the Distressed Lady/ Người thiếu phụ tuyệt vọng - The Gate of Baghdad/ Cánh cổng thành Bagdad * Hãng thám tử tư/ Partners in Crime: - Finessing the King/ Đưa vua vào thế bí - A Pot of Tea/ Một tách trà - The Man in the Mist/ Người đàn ông trong sương mù * Gợi ý thêm: - Thirteen Problems/ 13 vụ án - Golden Ball/ Quả cầu vàng - The dream/ Giấc mơ khủng khiếp   B. Advance - Truyện nâng cao Là những tiểu thuyết nổi bật. 1. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 2. One Two Buckle My Shoe/ Một, Hai, Ba Những cái chết bí ẩn 3. Death the Clouds/ Cái chết trên mây 4. Peril At End House 5. Crooked House/ Ngôi nhà cổ quái 6. Cards on the table/ Những quân bài trên mặt bàn 7. Appointment With Death/ Hẹn với tử thần 8. Death Comes as the End/ Tận cùng là cái chết 9. Five little pigs/ Năm chú heo nhỏ 10. The Moving Finger/ Ngòi bút tẩm độc *Gợi ý thêm: 11. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 12. 4:50 from Paddington/ Chuyến tàu 16h50 13. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 14. Lord Edgware Dies/ Dao kề gáy 15. Hercule Poirot's Christmas/ Chết trong đêm Noel - Giáng sinh của Hercule Poirot   C. Masterpiece - Kiệt tác Những truyện kinh điển 1. And Then There Were None/ Mười người da đen nhỏ 2. Murder On The Orient Express/ Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông 3. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 4. The Abc Murders/ Chuỗi án mạng A.B.C 5. Curtain, Poirot's Last Case/ Thám tử rời sân khấu 6. A Murder Is Announced/ Cái chết được báo trước 7. Murder on the Links/ Vụ giết người trên sân golf 8. The Mysterious Affair At Styles/ Thảm kịch ở Styles 9. The Murder at the Vicarage/ Án mạng ở nhà cha xứ/ Bí mật trong chiếc vali 10. Toward zero/ Thời khắc định mệnh CÁCH 2 - XẾP HẠNG THEO THỂ LOẠI   A. Đánh lừa tâm lý người đọc - Readers totally blind 1. And Then There Were None/ Mười người da đen nhỏ 2. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 3.Five little pigs/ Năm chú heo nhỏ 4. The Abc Murders/ Chuỗi án mạng A.B.C 5. Cards on the table/ Những quân bài trên mặt bàn 6. Curtain, Poirot's Last Case/ Thám tử rời sân khấu 7. A Murder Is Announced/ Cái chết được báo trước   B. Yêu đương ướt át - Love injured/sloppy 1. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 2. Sad Cypress/ Cây bách buồn 3. Ordeal by Innocence/ Nhân chứng không ai ưa 4. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 5. Endless night/ Đêm dài vô tận 6. The Hollow/ Thung lũng   C. Xã hội đen - Underground 1. Big Four/ Bộ tứ 2. The Pale Horse/ Biệt thự "Bạch mã" 3. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 4. Murder On The Orient Express/ Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông 5. The Seven Dials Mystery/ Bảy mặt đồng hồ 6. The Mystery Of The Blue Train/ Bí mật chuyến tàu xanh   D. Bị chỉ trích nhiều - Most commented 1. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 2. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 3. The Hollow/ Thung lũng 4. The Mysterious Mr. Quin/ Người đàn ông bí ẩn   E. Phiêu lưu - Adventure 1. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 2. Death Comes as the End/ Tận cùng là cái chết 3. Appointment With Death/ Hẹn với tử thần 4. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 5. They Came to Baghdad/ Điệp vụ thành Bagdad   F. Tâm linh - Spirituality 1. The Pale Horse/ Biệt thự "Bạch mã" 2. Dumb witness/ Nhân chứng câm 3. The Sittaford Mystery/ 5 giờ 25 phút 4. A Caribbean Mystery/ Điều bí ẩn của bà Marple   G. Bi kịch gia đình - Too much love 1. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 2. The Hollow/ Thung lũng 3. Nemesis/ Nữ thần báo oán 4. Endless night/ Đêm dài vô tận 5. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 6. Hercule Poirot's Christmas/ Giáng sinh của Hercule Poirot 7. Lord Edgware Dies/ Dao kề gáy   H. Khởi đầu khó tin - Hard to believe at beginning 1. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 2. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 3. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 4. The Seven Dials Mystery/ Bảy mặt đồng hồ 5. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 6. Cat among pigeons/ Cú vọ và đàn bồ câu   I. Cái kết 'khó nuốt' - The end made me not satisfied 1. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 2. The Hollow/ Thung lũng 3. The Seven Dials Mystery/ Bảy mặt đồng hồ 4. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 5. Why didn't they ask Evans? Người trong ảnh   J. Quá ích kỷ - So selfish 1. Mrs McGinty's Dead/ Cái chết của bà McGinty 2. The Hollow/ Thung lũng 3. Endless night/ Đêm dài vô tận 4. Hercule Poirot's Christmas/ Giáng sinh của Hercule Poirot 5. Appointment With Death/ Hẹn với tử thần   K. Vụ hay và dở nhất của bà Marple - Best& Worst MsMarple TUYỆT: 1. A Murder Is Announced/ Cái chết được báo trước 2. The Moving Finger/ Ngòi bút tẩm độc 3. 4:50 from Paddington/ Chuyến tàu 16h50 4. Nemesis/ Nữ thần báo oán 5. The Murder at the Vicarage/ Án mạng ở nhà cha xứ DỞ: 1. A Pocket Full of Rye/ Một nắm lúa mạch 2. Sleeping Murder/ Giết người trong mộng 3. At Bertram's Hotel/ Bí ẩn khách sạn Bectram   L. Vụ hay và dở nhất của Poirot - Best& Worst H.Poirot TUYỆT: 1. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 2. Murder On The Orient Express/ Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông 3. Curtain, Poirot's Last Case/ Thám tử rời sân khấu 4. Five little pigs/ Năm chú heo nhỏ 5. Peril at the End House 6. The Abc Murders/ Chuỗi án mạng A.B.C 7. One Two Buckle My Shoe/ Một, Hai, Ba Những cái chết bí ẩn 8. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 9. Hercule Poirot's Christmas/ Chết trong đêm Noel DỞ: 1. Dead Man's Folly/ Ngôi đền của người chết 2. Big Four/ Bộ tứ 3. Murder in Mesopotamia/ Vụ án mạng ở vùng Mesopotamie 4. The Hollow/ Thung lũng 5. Cat among pigeons/ Cú vọ và đàn bồ câu 6. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 7. Dumb witness/ Nhân chứng câm 8. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 9. The Mystery Of The Blue Train/ Bí mật chuyến tàu xanh (Riêng tui hok thấy danh sách dở này đúng lắm...)   M. Hơi rối và nhàm - A bit complicated & tired 1. Nemesis/ Nữ thần báo oán 2. The Hollow/ Thung lũng 3. Sleeping Murder/ Giết người trong mộng 4. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile Bảng xếp hạng này mang tính tham khảo. Có vài truyện hơi dài dòng với con trai nhưng chị em đọc lại thích kiểu tình củm sướt mướt ^^" Truyện không đề tên tiếng Việt, là những truyện chưa có bản dịch. Truyện mà mình không có đăng lên, là những truyện chưa có bản số hóa. Hiuhiu (_ _______)~~   Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Phù Thủy (Biệt Thự Bạch Mã) của tác giả Agatha Christie.
Người Thay Thế H23
Câu chuyện miêu tả việc CIA muốn đầu độc ,sát hại ,ám sát Fidel Castro nhưng ko thành .Kèm theo đó là sự tài giỏi những điệp viên Cuba trong “Người Thay Thế H23                 Người dịch : Đức Thuần – Hoàng Lan                 dịch từ bản tiếng Nga, Nhà xuất bản Quân sự, Bộ Quốc  Phòng Liên Xô, M., 1982         - Tác giả : Đ.  L. I – BA – NHÉC         - Nhà xuất bản : Quân đội nhân dân         - Năm xuất bản : 1985 *** Người thay thế H.23 ca ngợi tinh thần quả cảm,tài lược mưu trí của lực lượng an ninh Cu-Ba,tinh thần cảnh giác cách mạng cao của nhân dân đập tan các âm mưu phá hoại nhiều mặt của đế quốc Mỹ và bọn phản động quốc tế,bảo vệ vững chắc Nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên lục địa Châu Mỹ. ***   Chiếc đồng hồ treo tường trong phòng tác chiến Phân cục Tình báo trung ương Mỹ ở Mai-a-mi thong thả điểm sáu tiếng. Đã chạng vạng tối. Mai-cơ, người chỉ đạo trực tiếp chiến dịch sắp được mở màn sau mười lăm phút nữa, giơ tay ấn nút chuông điện và cất cao giọng Tây Ban Nha khá sõi:         - Mời vào!         Một gã đàn ông cao lớn, to khoẻ nước da màu đồng hun hiện ra trước ngưỡng cửa. Bộ âu phục ghi sẫm, lịch sự đã tôn thêm dáng vẻ gã lên. Giơ tay nhấc nhẹ chiếc mũ phớt mốt nhất trên đầu và thong thả gỡ cặp kính đen khỏi mắt, gã nói nhỏ nhẹ:         - Chào ngài.         - Ngồi xuống đây, Rô-béc-tô,- Mai-cơ nói với người vừa vào phòng.         - Cám ơn ngài.         - Anh đã hiểu rõ nhiệm vụ của anh có ý nghĩa lớn thế nào chứ?         - Vâng, tôi hiểu rõ cả.         - Thời gian gần đây công việc của chúng ta không được trôi chảy cho lắm. Phần lớn những người của ta tung sang Cuba, bằng cách này hay cách khác đều bị cơ quan an ninh Cuba lần lượt cho vào tròng hết. Hoặc người của ta vừa mới hành động đã bị chúng bắt ngay, hoặc cũng có kẻ tự ra đầu thú với bọn an ninh Cuba.         Vừa nghe Mai-cơ nói, Rô-béc-tô vừa thong thả hút xì gà và ngắm nhìn những vòng tròn khói thuốc đang loang toả lên cao.         - Anh cần hỏi thêm điều gì nữa không? – Mai-cơ hỏi.         - Có ạ, tôi chỉ muốn hỏi một câu nữa thôi. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tôi sẽ trở về bằng cách nào?         Thay vì câu trả lời, Mai-cơ nhếch mép.         - Chỉ có mình Đ-45 là biết rõ nhiệm vụ cụ thể của anh ở Cuba. Ngay khi đến nơi anh cần gọi ngay số điện thoại này báo cho Đ-45 hay tin. - Rô-béc-tô liếc nhìn mảnh giấy Mai-cơ vừa chìa ra trước mặt và dễ dàng nhớ ngay các con số, sau đấy Mai-cơ đốt luôn mảnh giấy nhỏ.         - Như vậy là rất tốt, - Rô-béc-tô nói – nhưng ngài vẫn chưa trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi.         Nheo đôi mắt vẻ không hài lòng, Mai-cơ đáp:         - Đ-45 sẽ chịu trách nhiệm đưa anh rời khỏi đất Cuba, nhưng anh cần phải nhớ một điều quan trọng: Sau khi gọi dây nói báo cáo cho ông ta biết anh đã đến Cuba an toàn thì phải quên ngay ông ta ta đi. Đó chính là sự đảm bảo cho anh hoàn thành nhiệm vụ thắng lợi và mặt khác, đấy cũng chính là đảm bảo cho việc anh trở về nữa.         Mai-cơ giơ tay xem đồng hồ.         - Anh còn ý kiến gì nữa không?         - Hết rồi ạ.         Mai-cơ bước lại gần bàn giấy và bắt chặt tay con người đang đứng trước mặt mình. Nhìn thẳng vào mắt Rô-béc-tô, ông ta nói khẽ:         - Từ giờ phút này trở đi, anh sẽ lấy bí số là Đ-54. Đêm nay anh sẽ trở về đất Cuba. Chúc anh hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao!         - Cám ơn ngài!         Rô-béc-tô cúi đầu và bước ra khỏi phòng.         Đến cổng, gã lặng lẽ ngồi vào chiếc xe đã chờ sẵn và đưa mắt nhìn bãi trống đằng trước, hút tiếp điếu xì gà, nghĩ thầm:         - Giờ định mệnh đã đến!         Trong lúc đó từ cửa sổ phòng mình, Mai-cơ quan sát từng cử chỉ của Rô-béc-tô. Khi chiếc xe vừa rú ga lao đi, ông ta liền ấn nút máy bộ đàm, hạ lệnh:         - Hãy theo dõi hắn.         Suốt nửa giờ liên, Mai-cơ chăm chú xem xét tập tài liệu đặt trên bàn. Ông ta đặc biệt chú ý đến tập hồ sơ riêng của con người vừa mới rời khỏi phòng. Một hồi chuông điện thoại bất ngờ đổ dồn.         - Tôi nghe đây. Vâng, chính Mai-cơ đây… Được. Hẹn gặp lại nhé.         Cuộc nói chuyện trong điện thoại chỉ diễn ra gần một phút nhưng cũng đủ làm cho Mai-cơ xúc động mạnh. Đặt ống nghe xuống, ông ta đứng dậy và im lặng hồi lâu nhìn vào khoảng không xa xăm, mờ ảo. Bên tai Mai-cơ hình như vẫn còn vẳng lại giọng báo cáo của điện báo viên: “”Những bông hoa Ngài đặt sẵn sẽ được gửi theo địa chỉ số 24””. Điều đo có nghĩa là đêm nay điệp viên F-1 sẽ đổ bộ lên Cuba.         Ngả lưng xuống chiếc ghế bành, Mai-cơ quay số điện thoại:         - Trực ban hả?         - Vâng.         - Cho tôi nói chuyện với tiến sĩ.         - Ngài là ai đấy ạ?         - Mai-cơ đây.         - Xin ngài vui lòng chờ một phút.         Mới vài giây trôi qua, Mai-cơ đã cảm thấy nóng ruột. Cuối cùng trong ống nghe vang lên:         - Mọi việc tốt đẹp cả chứ, ông Mai-cơ?         - Hoàn hảo cả, thưa sếp. Một ngày nữa tôi sẽ chuẩn bị bay đi…         - Còn một vấn đề này, ông Mai-cơ ạ. Không có gì khó khăn phiền nhiễu với mấy tấm hộ chiếu ấy chứ?         - Không đâu ạ, thưa sếp.         - Thôi được rồi, vậy hãy hành động đi.         - Tôi sẽ gửi về biếu ngài chai rượu rum “ca nhây”. Xin chào ngài.         Mai-cơ đặt ống nghe xuống.         Ông ta xếp cẩn thận các tập tài liệu vào tủ sắt, mà mỗi ngăn đều có khoá riêng và dấu niêm phong đặc biệt. Sau khi đã kiểm tra lần cuối và đánh dấu riêng cho từng loại, Mai-cơ tắt đèn, bước ra khỏi phòng.         Trên đường ra xe, Mai-cơ thầm nghĩ: “Mọi việc đều đúng với dự tính. Cứ thể xem vận may của chuyến du lịch đang đợi ta ở Cuba sẽ ra sao. Đây không phải là lần đầu và ta cảm thấy cũng chưa phải là lần cuối”.         Thấy Tiến sĩ để nhẹ máy điện thoại lên bàn, người hầu phòng bước lại bàn và hỏi:         - Ngài dùng rượu trước khi về?         - Đúng đấy, anh Ha-xin-tô. Rót ra ly đi!... Khoan đã, loại Rum “Ca-nhây” uống ngon lắm hả?         Ha-xin-tô chăm chú nhìn Tiến sĩ rồi chậm rãi đáp:         - Lúc tôi rời Cuba, thưa ngài, tôi thường uống “Bác-ca-di” nhưng tôi được biết bọn cộng sản dự định đổi tên rượu “Bác-ca-di”. Hiên nay “Ca-nhây” có hai loại nhãn – vàng và trắng. Người ta nói nó cũng khá lắm.         - Cám ơn Ha-xin-tô. Một người bạn định mang về cho tôi chai “ca-nhây”, bởi thế tôi mới phải anh thêm vấn đề này.         Cùng thời gian đó tại một điểm đối diện với cảng La Ha-ba-na cách bờ hai mươi hải lý trên một chiếc tàu thuỷ đã tắt động cơ, lần lượt có hai người nhảy sang chiếc xuồng máy có tốc độ nhanh mang ký hiệu “U-20” bên mạn thành.         Một thanh niên trạc ba nhăm tuổi, dáng cao, nhưng tóc đã điểm bạc ngồi ở đầu mũi. Gã mặc chiếc quần bò, áo sơ mi kẻ sọc, ngoài khoác thêm chiếc Blu-dông đen, đôi mắt nhíu lại chăm chú nhìn dải bờ xa xa đang tiến dần lại. Bóng tối và sự yên tĩnh bao phủ xung quanh. Chiếc xuồng máy tắt động cơ và giờ đây chỉ còn nghe tiếng sóng oàm oạp vỗ nhẹ vào hai bên mạn.         Người thanh niên nhìn đồng hồ. Mười hai giờ kém mười lăm. Máy nổ lại từ từ vang lên, chiếc xuồng máy lao lên và khoảng năm phút sau đã trườn đến phần bắc hòn đảo nhỏ.         Nhảy nhẹ lên bờ, tay lăm lăm khẩu súng ngắn nhỏ, gã ẩn mình sau những tảng đá lởn chởm, nhấp nhô bên bờ biển. Nghe ngóng động tĩnh vài phút, gã băng mình chạy đến gần con đường lớn cách đấy không xa. Đến đó, gã dừng lại, thõng chân xuống hố cát cố làm ra vẻ bình tĩnh ngồi hút thuốc. Đằng xa kia có ánh đèn pha ô tô buýt nhấp nháy, và khi chiếc xe vừa dừng lại, gã nhanh chóng nhảy phóc lên xe. Thế là điệp viên F-1 đã thực hiện được phần đầu kế hoạch xâm nhập vào Cuba của mình.         Cũng lúc ấy, phòng trực ban của cơ quan An ninh Cuba nhận được một bức điện báo: “Điệp viên “Thần thông” sẽ đến thăm các anh. H-23”.   Mời các bạn đón đọc Người Thay Thế H23 của tác giả D. L. I-ba-nhec.
Miền Đất Lạ
Bộ truyện tình báo của Nguyễn Sơn Tùng - Nhà xuất bản Lao Động phát hành năm 1987, 4 tập gồm: Hoa hồng trắng Miền đất lạ Viên đạn ngược chiều Một mình trên đất khách. ***           Sương sớm còn lởn vởn, trải tấm màn mờ đục lên những cánh rừng trùng điệp của Việt Bắc. Mặt trời đã mọc nhưng còn bị che khuất bởi những ngọn núi cao ngất. Chim chóc gọi nhau ríu rít bay đi kiếm mồi. Suối chảy rì rào hòa lẫn tiếng muông thú trong rừng sâu, vọng lên những âm thanh vừa êm đềm vừa huyền bí.   Dưới những lùm cây rậm rạp, một khu nhà lá kiến trúc theo kiểu mới, rất đẹp mắt, mỗi căn chia làm nhiều phòng, mỗi phòng nhiều cửa sổ, cao ráo, sạch sẽ. Từ trong khu nhà vang lên những tiếng nói cười, tiếng máy chữ rào rào, người ra vào tấp nập. Đó là doanh trại của Bộ tư lệnh X.   Trong một căn phòng nhiều ánh sáng, sau chiếc bàn gỗ thô sơ, đồng chí chỉ huy trưởng đang cúi gập người xuống chiếc bản đồ quân sự, tay cầm bút chì xanh đỏ, đánh dấu từng cứ điểm. Cánh cửa liếp hé mở, một vệ binh bước vào:   - Báo cáo tư lệnh! Có tham mưu trưởng xin vào gặp.   - Mời đồng chí ấy vào đây!   Chỉ huy trưởng gập tấm bản đồ rồi ngồi xuống ghế chăm chú nhìn ra cửa.  Một người cao lớn bước vào, anh phải cúi mới khỏi bị cộc vào khuôn cửa, đập gót giày đứng nghiêm giơ tay chào:    - Báo cáo anh, tôi đã có mặt.   Chỉ huy trưởng mừng rỡ đứng dậy, bước ra khỏi bàn, chìa tay:     - Chào đồng chí, hay lắm! Có việc cần phải bàn với đồng chí, ngồi xuống đây!- Sau khi lấy thuốc lá mời tham mưu trưởng, chỉ huy trưởng trở về chỗ cũ, rút cuốn sổ tay rồi hỏi:   - Sức khỏe của các đồng chí ra sao?   - Cảm ơn anh, rất tốt ạ.   - Có tin gì mới không?   - Dạ, đang lập báo cáo, sắp gửi lên đây. Đó là sự tập trung quân của địch trong chiến địch “Ca-mi-gu”(1).   Chỉ huy trưởng gật đầu:     - Cần phải xác minh lại thật chính xác những tin tức nhận được và đã đến lúc chúng ta phải bắn một viên đạn vào buồng tim của địch!- Tham mưu trưởng tán thành:   - Tôi cũng nghĩ như vậy. Đã đến lúc phải nắm lấy thời cơ. Tôi đang dự định đề nghị Bộ tư lệnh cho tiến hành.   - Đồng chí hãy báo cáo cho tội rõ tình hình chuẩn bị đến đâu rồi?   - Báo cáo anh. Theo tin tức của B.50 gửi về thì mọi việc đã chuẩn bị chu đáo. Hiện nay, trong cơ quan tham mưu Pháp ở miền Bắc, tên đại tá Ô-buy vẫn giữ chức vụ quan trọng, có uy tín lớn trong quân đội viễn chinh. Đó có thể là một điểm tựa thuận lợi cho đồng chí của ta hoạt động, ngoài ra những “nhân” của ta đều có những cơ sở vững chắc, có thể tin cậy được.   Chỉ huy trưởng đổi nét mặt, nghiêm nghị:   - Đồng chí Tần! Thời cơ đã đến, chúng ta phải hành động thật đúng lúc và khôn khéo. Lần này các đồng chí sẽ phải đương đầu với kẻ địch mạnh hơn, già dặn kinh nghiệm hơn! Hiện nay trong phòng nhì của quân đội Pháp còn có bọn CIA, cơ quan tình báo của Hoa Kỳ với danh nghĩa là cố vấn nhưng trên thực tế chúng đã thọc tay vào nắm mọi quyền hành lũng đoạn cả cơ quan tham mưu của Pháp.   Trong giai đoạn này, thực dân Pháp phải trông cậy vào bọn can thiệp Mỹ, chúng hy vọng có những khoản viện trợ quân sự hòng đè bẹp cuộc kháng chiến của chúng ta. Bề ngoài xem như bọn chúng cấu kết với nhau rất chặt chẽ, nhưng thật ra chúng không thể giấu nổi những mâu thuẫn đang ngấm ngầm phát triển trong nội bộ chúng. Bọn Mỹ đang có mưu đồ hất cẳng Pháp ở Đông Dương để thiết lập một chế độ thuộc địa kiểu mới, khống chế nhân dân châu Á. Chúng đã và đang đào tạo những con bài dự trữ để sau này có thể thay thế bọn bù nhìn của Pháp ở đây. Bọn này đang được Tòa Bạch ốc nuôi dưỡng chờ đợi thời cơ. Một tên đang lên tiếng công kích Bảo Đại để gây ảnh hưởng. Hiện nay bọn chỉ huy quân sự Hoa Kỳ đang âm mưu xây dựng một kế hoạch mới ở Đông Dương mà tình báo của chúng ta mới phát hiện. Đó là kế hoạch Z.F.I.   - Kế hoạch Z.F.I. phải chăng là những tài liệu mà quân báo của mặt trận chúng ta đang thu thập gửi về?   Chỉ huy trưởng khẽ mỉm cười:   - Những tin tức của quân báo mặt trận ta không có liên quan gì đến nó cả. Chỉ có tình báo trung ương của ta mới nắm được rõ thôi. Kế hoạch Z.F.I. là tên gọi tắt của “khu vực biên giới Đông Dương”. Bộ quốc phòng Hoa Kỳ đã chỉ thị cho tướng Ca-ben phụ trách cơ quan F.B.I chỉ đạo thực hiện. Tất nhiên nó có tầm quan trọng về chiến lược có ảnh hưởng đến sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ ở Đông Dương trong tương lai, vì vậy cấp trên đã chỉ thị cho chúng ta phải phối hợp phá vỡ kế hoạch đó vì chúng ta sẵn có người có khả năng. Chúng ta sẽ chạm trán với bọn gián điệp Mỹ, mạnh mẽ và xảo quyệt hơn bọn phòng nhì Pháp! Vì vậy, muốn hoạt động có kết quả phải làm thật chu đáo công tác chuẩn bị. Đồng chí hiểu ý tôi chứ?   - Dạ, tôi đã rõ.   - Người của ta đã sẵn sàng chưa? Sức khỏe đồng chí ấy ra sao?     - Báo cáo anh hiện nay đồng chi ấy rất khỏe, vừa dự chỉnh huấn xong, rất hăng hái và sẵn sàng nhận nhiệm vu.   - Rất tốt! Chiều nay đồng chí bảo đồng chí ấy lên đây gặp tôi, khoảng 3 giờ có mặt.   - Rö!   - Và từ bây giờ, tôi ủy nhiệm cho đồng chí trực tiếp chỉ đạo công tác này, trước hết thẩm tra lại các cơ sở ở nội thành xem có thật vững vàng không, rồi tìm những biện pháp ngăn ngừa khả năng bất lợi đến với đồng chí mình, tạo điều kiện để dễ dàng hoạt động giành thắng lợi. Đồng chí rõ chưa?   - Tôi đã rõ, xin hứa với anh: Bảo đảm làm tròn nhiệm vụ! - Tôi tin các đồng chí. “Đạn đã lên nòng”, hãy bắn và bắn cho trúng đích!   - Dạ, chỉ huy trưởng cứ yên tâm. Chúng tôi sẽ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ thật tốt!   Tham mưu trưởng nói xong đứng dậy định lùi ra thì chỉ huy trưởng ra hiệu:     - Khoan, cho tôi gửi cái này đã.   Chỉ huy trưởng với tay lên giá sách, lấy xuống một gói nhỏ:   - Đồng chí cầm về cho Sơn, quà của chính ủy gửi tặng hai người đấy!   Tham mưu trưởng thắc mắc hỏi lại:   - Sao lại tặng hai người ạ?     Chỉ huy trưởng giải thích:   - Cho đồng chí Sơn và người thân của cậu ấy: cô Tuyết Trinh.   Hiểu ý, tham mưu trưởng cười:     - Các anh chu đáo quá!   Chỉ huy trưởng cũng cười:     - Đấy mới là quà riêng của chính ủy, còn của tôi nữa, nhưng chớ nói với cậu ta vội, tôi sẽ gửi cho cậu ta một cách bất ngờ.     Hai người vui vẻ bắt tay nhau. Chỉ huy trưởng tiễn chân tham mưu trưởng ra tận cửa phòng.     Mấy tiếng kẻng bỗng vang lên. Khu rừng rộn ràng một lúc, rồi lại trở lại êm đềm huyền bí như cũ.   (1). Pháp mở chiến dịch “Ca-mi-gu” đánh chiếm Vĩnh Phúc, 8-8-1949.   Mời các bạn đón đọc Miền Đất Lạ của tác giả Nguyễn Sơn Tùng.