Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

The Inevitable: Làm Chủ Công Nghệ Làm Chủ Tương Lai

Khi tôi 13 tuổi, bố dẫn tôi đến thăm quan triển lãm thương mại máy vi tính tại thành phố Atlantic, New Jersey. Đó là năm 1965 và bố tôi đã vô cùng phấn khích khi nhìn thấy những cỗ máy to bằng cả căn phòng được sản xuất bởi những công ty hàng đầu của Mỹ như IBM. Bố tôi tin tưởng vào bước tiến này, và ông cho rằng những chiếc máy tính đầu tiên ấy sẽ mở ra cánh cửa hướng đến tương lai. Tuy nhiên, là một thiếu niên bình thường, tôi chẳng có chút ấn tượng gì về mấy cái máy tính đó. Trông chúng thật tẻ nhạt khi nằm trong sảnh trưng bày rộng lớn. Chẳng có gì để xem ngoại trừ hàng dãy hộp máy kim loại hình chữ nhật bất động. Chẳng có màn hình nhấp nháy, cũng không có thiết bị âm thanh đầu vào, đầu ra. Việc duy nhất những chiếc máy có thể làm là in ra từng hàng chữ số màu xám trên những tờ giấy đã được gấp gọn. Vốn đã biết về máy tính thông qua những cuốn sách viễn tưởng sống động, tôi chẳng thể tin những cái máy này là máy tính thực sự. Năm 1981, tôi được đặt tay lên chiếc máy tính Apple II tại phòng thí nghiệm của trường Đại học Georgia nơi tôi làm việc. Mặc dù chiếc máy này có một màn hình màu đen và xanh để hiển thị văn bản, tôi vẫn chẳng mấy ấn tượng với nó. Apple II có thể gõ văn bản tốt hơn một cái máy đánh chữ, và nó thực sự là một chuyên gia về số đồ thị và ghi chép dữ liệu, nhưng đối với tôi, đó vẫn chưa phải một chiếc máy tính thực sự. Nó chẳng làm cuộc đời tôi thay đổi chút nào. Thế nhưng chỉ một vài tháng sau, tôi đã thay đổi quan điểm hoàn toàn khi thử cắm chính chiếc Apple II đó vào đường dây điện thoại với một cái modem1. Lúc ấy, mọi thứ đột ngột thay đổi. Có cả một vũ trụ rộng lớn và gần như vô tận xuất hiện ở đầu kia của giác cắm điện thoại. Ở đó có các bản tin trực tuyến2, các hội nghị trực tuyến thử nghiệm, và thế giới đó được gọi là Internet (mạng). Cổng thông tin qua đường dây điện thoại đã mở ra một thế giới rộng lớn mà vẫn ở quy mô vừa đủ với loài người. Nó có tổ chức, kết cấu và rất tuyệt vời. Nó kết nối con người và máy móc theo một cách cá nhân. Tôi có thể thấy cuộc đời mình đã đi lên một tầm cao mới. Khi nhìn lại dòng lịch sử, tôi cho rằng thời đại của máy vi tính chỉ mới thực sự bắt đầu ở khoảnh khắc ấy, khi máy tính được kết nối với điện thoại. Chỉ riêng máy tính thôi thì không đủ. Những tính năng có giá trị của máy tính đến những năm 1980 mới xuất hiện, khi máy tính được kết hợp với điện thoại để làm nên một thiết bị hỗn hợp. 1 Thiết bị điện tử cho phép một máy tính truyền tin đến một máy tính khác ở khoảng cách xa thông qua đường dây điện thoại tiêu chuẩn. 2 Diễn đàn trực tuyến nơi người tham gia có thể đăng nhập để chia sẻ thông tin và ý tưởng. Hệ thống bản tin trực tuyến đã trở thành một cộng đồng trực tuyến chủ đạo để trao đổi giữa người dùng những năm 1980 và đầu những năm 1990, trước khi hệ thống mạng lưới toàn cầu (world wide web) ra đời. Trong ba thập kỷ sau đó, sự kết hợp công nghệ giữa truyền thông và tính toán ngày một nở rộ và phát triển. Hệ thống Internet (mạng kết nối máy tính), web (mạng kết nối người dùng) và di động từ chỗ chỉ được một bộ phận trong xã hội biết đến (năm 1981) nay đã tiến vào vũ đài trung tâm của xã hội hiện đại toàn cầu. Trong vòng 30 năm, nền kinh tế xã hội dựa trên công nghệ đã có những lúc thăng trầm, với những nhà kinh doanh phất lên rồi lại chìm xuống. Nhưng rõ ràng là đã có một xu hướng ở quy mô lớn chi phối những gì đã diễn ra suốt 30 năm qua. Những xu hướng có tính lịch sử này đóng vai trò quan trọng bởi những điều kiện thúc đẩy nền tảng của chúng vẫn còn có giá trị và đang tiếp tục phát triển. Và một khi điều kiện còn, thì những xu hướng ấy vẫn sẽ tiếp diễn trong vài thập kỷ tới mà không thứ gì có thể ngăn lại được. Thậm chí những thế lực có thể gây cản trở như tội phạm, chiến tranh hay những hành động vượt quá giới hạn của con người cũng sẽ đi theo xu hướng này. Trong cuốn sách này, tôi sẽ mô tả 12 sức mạnh công nghệ định hình tương lai của chúng ta trong 30 năm tới. “Tất yếu” là một tính từ mạnh. Đối với một số người, đây có thể là lời tuyên chiến, bởi họ luôn phản đối rằng chẳng có gì là tất yếu. Họ cho rằng loài người với khả năng cung cấp năng lượng và có mục đích rõ ràng có thể và nên chuyển hướng, khống chế cũng như kiểm soát mọi xu hướng cơ khí. Theo họ, “điều tất yếu” chỉ xảy ra khi chúng ta đầu hàng ý chí. Khi ý niệm về sự tất yếu được gắn với những công nghệ hào nhoáng, như tôi đang làm trong cuốn sách này, sự phản đối một định mệnh được định sẵn lại càng dữ dội và quyết liệt hơn. Đã có người định nghĩa về “điều tất yếu” là kết quả cuối cùng của thí nghiệm tư duy kinh điển. Theo đó, nếu chúng ta lội ngược dòng lịch sử và sống lại thời kỳ khai hóa văn minh hết lần này đến lần khác, thì dù chúng ta có “tua lại” bao nhiêu lần, loài người vẫn luôn đi đến thời điểm năm 2016, khi các thiếu niên cứ năm phút một lại đăng một tweet. Nhưng đó không phải điều tôi muốn nói đến. Tôi muốn nói về sự tất yếu theo một cách khác. Luôn có một định kiến trong bản chất của công nghệ khiến nó nghiêng về một vài đường hướng nhất định. Trong khi mọi thứ đều ngang bằng, hai yếu tố đưa công nghệ đi lên là vật lý và toán học lại có xu hướng thiên vị một số hành vi. Những xu hướng này tồn tại chủ yếu trong những nhân tố tổng hợp định hình sự phát triển chung của các loại hình công nghệ chứ không điều chỉnh những trường hợp chi tiết và cụ thể. Chẳng hạn, sự hình thành Internet, một mạng lưới của các mạng lưới trải rộng toàn cầu, là điều không thể tránh khỏi, nhưng loại hình Internet cụ thể chúng ta lựa chọn thì chưa chắc đã xuất hiện. Bởi chúng có thể mang tính thương mại thay vì phi thương mại, mang tính quốc gia hơn là quốc tế hay mang tính cá nhân hơn là công khai. Tương tự, điện thoại, thiết bị liên lạc đường dài, là tất yếu, nhưng iPhone thì không. Phương tiện di chuyển bốn bánh là tất yếu, nhưng một chiếc ô tô SUV thì không. Và tin nhắn là tất yếu, nhưng đăng tin cứ năm phút một trên twitter thì không. Theo một cách hiểu khác, năm phút một lần đăng tweet không phải là điều chắc chắn xảy ra. Chúng ta đang tiến lên hối hả đến nỗi những sáng chế mới chúng ta tạo ra còn nhanh hơn tốc độ truyền bá và sử dụng thành thạo chúng. Ngày nay, chúng ta mất cả thập kỷ sau khi một công nghệ mới ra đời để đạt được đồng thuận trong xã hội về tính năng và cách sử dụng nó. Trong năm năm nữa chúng ta sẽ tìm được một cách sử dụng twitter lịch sự và thích đáng, giống như khi chúng ta phát hiện ra cần phải làm gì để giải quyết vấn đề điện thoại réo lên mọi nơi (đơn giản là tắt chuông và bật chế độ rung). Và như thế, bởi tốc độ ra đời của công nghệ quá nhanh, phản ứng đầu tiên của con người khi đón nhận một công nghệ mới sẽ sớm mất đi và chúng ta sẽ thấy nó chẳng còn cần thiết hay tất yếu nữa. “Điều tất yếu” mà tôi đang nói đến trong lĩnh vực kỹ thuật số chính là kết quả của động lực, một động lực của sự dịch chuyển công nghệ đang tiếp diễn. Làn sóng mạnh mẽ định hình công nghệ số trong 30 năm qua sẽ tiếp tục được mở rộng và củng cố trong 30 năm tới. Điều này không chỉ đúng với Bắc Mỹ, mà còn được áp dụng cho toàn thế giới. Trong cuốn sách này, tôi sử dụng những ví dụ quen thuộc ở Mỹ để độc giả dễ hiểu hơn, nhưng đối với mỗi ví dụ, tôi đều có thể dễ dàng lấy một trường hợp tương ứng ở Ấn Độ, Mali, Peru hay Estonia. Chẳng hạn, những người đi đầu thực sự của hệ thống thanh toán điện tử lại ở châu Phi và Afghanistan, nơi tiền kỹ thuật số đôi khi trở thành loại tiền tệ duy nhất được lưu hành. Trung Quốc hiện đang là nước dẫn đầu về phát triển các ứng dụng trên điện thoại di động. Trong khi yếu tố văn hóa có thể thúc đẩy hoặc cản trở các biểu hiện của công nghệ, những nhân tố nền tảng vẫn tồn tại ở mọi nơi. Sau khi sống trong thời đại công nghệ trực tuyến (online) suốt 30 năm, từ khi là người tiên phong trong một lĩnh vực tương đối hoang sơ và sau đó trở thành một phần đóng góp vào miền đất mới mẻ ấy, sự tự tin của tôi về tính tất yếu của công nghệ được dựa trên những thay đổi công nghệ sâu sắc mà tôi từng chứng kiến. Sự hấp dẫn của những công nghệ mới lạ vẫn xuất hiện mỗi ngày trong dòng chảy chậm chạp của cuộc sống. Gốc rễ của một thế giới số hóa nằm ở các nhu cầu vật chất và xu hướng tự nhiên của bit (đơn vị thông tin nhị phân), thông tin và mạng lưới. Bất kể ở điều kiện địa lý nào, trong công ty nào, hay nền chính trị nào, những đầu vào cơ bản của bit và mạng lưới sẽ mang đến những kết quả tương tự hết lần này đến lần khác. Tính tất yếu của công nghệ bắt nguồn từ tình trạng vật lý cơ bản của chúng. Trong cuốn sách này, tôi đã nỗ lực tìm đến nguồn gốc của công nghệ số để từ đó, tôi có thể đưa ra dự đoán về những xu hướng công nghệ bền vững trong ba thập kỷ tới. Tuy nhiên, không phải mọi sự dịch chuyển công nghệ sẽ đều được đón nhận. Những nền công nghiệp lâu đời sẽ bị lật đổ vì phương thức làm ăn lạc hậu của họ không còn hiệu quả. Toàn bộ ngành nghề sẽ biến mất, cùng với đó, đời sống của một bộ phận dân cư cũng bị ảnh hưởng. Những nghề nghiệp mới ra đời và sẽ phát triển một cách không đồng đều, từ đó gây ra sự ganh tị và bất công. Sự tiếp diễn và mở rộng của những xu hướng mà tôi chỉ ra sẽ thách thức các niềm tin pháp lý hiện hành và chạm đến phần rìa ngoài của vòng pháp luật, trở thành một rào cản cho các công dân tuân thủ luật pháp. Về bản chất, công nghệ mạng lưới kỹ thuật số sẽ làm ảnh hưởng đến biên giới quốc tế vì nó vốn không có giới hạn. Sẽ có những vụ việc đáng tiếc, những xung đột, những mập mờ lộn xộn và cả những lợi ích đáng kinh ngạc. Phản ứng đầu tiên của chúng ta khi đối mặt với sự thay đổi công nghệ mạnh mẽ trong lĩnh vực kỹ thuật số có lẽ sẽ là sự chối bỏ. Ban đầu, chúng ta sẽ tìm cách chấm dứt nó, ngăn cản, phủ nhận nó hay ít nhất là làm nó khó sử dụng hơn. Ví dụ, khi Internet khiến việc sao chép nhạc và phim ảnh dễ dàng hơn, Hollywood và nền công nghiệp âm nhạc tìm mọi cách để ngăn chặn việc sao chép, nhưng không có kết quả, các nhà sản xuất nhạc và phim chỉ càng làm cho các khách hàng đối đầu với họ. Ngăn cấm những điều tất yếu thường chỉ đem đến kết quả ngược lại. Cấm đoán là biện pháp tạm thời tốt nhất, nhưng vẫn gây phản tác dụng về lâu dài. Một đường lối thận trọng và cởi mở sẽ đem lại hiệu quả hơn nhiều. Mục đích của tôi khi viết cuốn sách này là tìm ra nguyên nhân của những thay đổi kỹ thuật số để chúng ta có thể nhiệt tình chấp nhận chúng. Khi tìm được nguyên nhân ấy, chúng ta có thể hợp tác với bản chất của chúng thay vì ra sức chống lại chúng. Việc sao chép hàng loạt đã và đang diễn ra, cũng như việc lần theo dấu vết và giám sát toàn phần. Quyền sở hữu đang dần mất đi. Còn thực tế ảo lại trở nên chân thực hơn bao giờ hết. Chúng ta không thể ngăn cản trí tuệ nhân tạo (AI)1 hay robot phát triển, làm việc và cướp đi việc làm của chúng ta. Đó có thể là phản ứng bước đầu của chúng ta, nhưng dần dần chúng ta nên chấp nhận sự tiến hóa không ngừng của những công nghệ này. Chỉ bằng cách làm việc cùng chúng thay vì ngăn chặn chúng, chúng ta mới có thể đạt được những lợi ích tốt nhất mà công nghệ mang đến. Điều này không có nghĩa là ta nên phó mặc mọi thứ cho công nghệ, mà vẫn cần kiểm soát và quản lý những phát minh mới để ngăn ngừa những mối nguy hại thực tế (so với những tác hại giả định) bằng biện pháp công nghệ và pháp lý. Chúng ta cần phải phổ biến rộng rãi và làm quen với việc sử dụng các phát minh mới tùy vào từng đặc tính cụ thể của chúng. Nhưng chúng ta chỉ có thể làm được như vậy nếu chúng ta tìm hiểu sâu, trải nghiệm thực tế và chấp nhận một cách thận trọng những công nghệ mới này. Chẳng hạn, chúng ta có thể và nên quản lý các dịch vụ taxi như Uber, nhưng chúng ta không thể và không nên hạn chế sự nhân rộng của các dịch vụ. Những công nghệ này sẽ không bao giờ biến mất. 1 Artificial intelligent. Thay đổi là tất yếu. Cho đến nay, chúng ta đã chấp nhận rằng mọi thứ có thể và đang được thay đổi, dù rằng có nhiều sự thay đổi không thể nhận thấy. Những ngọn núi cao nhất cũng đang mòn dần, trong khi mọi động vật và thực vật trên hành tinh cũng đang thay đổi vô cùng chậm chạp. Kể cả ánh dương vĩnh cửu cũng đang mờ dần đi trên lịch thiên văn, dù đến khi điều này dễ nhận thấy hơn thì chúng ta cũng lìa đời rồi. Sinh học và văn hóa cũng là một phần của sự chuyển biến gần như vô hình này. Trung tâm của những biến đổi này có lẽ chính là công nghệ. Công nghệ là nhân tố gia tốc của loài người. Nhờ có công nghệ, mọi thứ chúng ta làm ra đều nằm trong quá trình “trở thành”. Mọi thứ đều đang được cải tiến để trở thành một thứ khác, khi ta nói nó “có thể là” và dần chuyển thành nó “đích thực là” cái gì mới. Mọi thứ đều vận động. Không có gì đã kết thúc, cũng không có gì đã hoàn thành. Sự biến đổi không hồi kết này chính là trục xoay then chốt của thế giới hiện đại. Sự vận động không ngừng có nhiều ý nghĩa hơn chỉ đơn giản là “mọi thứ sẽ khác”. Nó có nghĩa rằng quy trình, cũng chính là động cơ của sự vận động, còn quan trọng hơn sản phẩm. Phát minh vĩ đại nhất của chúng ta trong suốt 200 năm qua không phải một vật dụng hay công cụ cụ thể mà là bản thân quy trình nghiên cứu khoa học. Khi phát minh ra một phương pháp khoa học, ngay lập tức chúng ta có thể tạo ra hàng nghìn thiết bị tuyệt vời mà chúng ta đã có thể không bao giờ khám phá ra. Quá trình tạo ra phương pháp làm nên thay đổi và cải tiến còn đáng giá hơn một triệu lần so với việc phát minh ra bất kỳ sản phẩm cụ thể nào, bởi kể từ khi được tạo ra, quá trình này đã làm ra một triệu sản phẩm mới trong hàng thế kỷ. Khi ta nắm bắt quá trình này một cách chính xác, nó sẽ không ngừng mang lại lợi ích. Trong kỷ nguyên mới của chúng ta, quy trình sẽ chiến thắng sản phẩm. Xu hướng chú trọng đến quy trình này đồng nghĩa với việc những thay đổi không ngừng sẽ là vận mệnh cho mọi thứ chúng ta tạo ra. Chúng ta đang dịch chuyển từ một thế giới của những danh từ cố định sang thế giới của những những động từ thể hiện chuyển động. Trong 30 năm tới, chúng ta sẽ tiếp tục biến những vật chất rắn như ô tô hay giày thành những động từ trừu tượng. Các sản phẩm sẽ trở thành các dịch vụ và các quy trình. Trong lĩnh vực số hóa phi vật chất, không có gì là bất động và cố định. Mọi thứ đều đang cải tiến để “trở thành” cái gì mới. Mọi gián đoạn của sự hiện đại đều bao trùm lên những thay đổi không ngừng này. Cho đến nay, tôi đã được chứng kiến sự bùng nổ của nhiều nguồn sức mạnh của công nghệ để có thể phân chia chúng thành 12 động từ, như truy cập, theo dấu và chia sẻ. Nói một cách chính xác, chúng không chỉ là động từ, mà còn là “hiện tại phân từ”, một thể ngữ pháp diễn tả hành động đang diễn ra. Và nguồn sức mạnh này là những hành động đang không ngừng tăng tốc. Trong đó mỗi hành động lại là một xu hướng đang tiếp diễn và có đầy đủ bằng chứng cho sự tồn tại của nó trong ít nhất ba thập kỷ tới. Tôi gọi những xu hướng biến đổi này là “tất yếu” vì chúng bắt rễ từ bản chất của công nghệ, chứ không phải từ bản chất của xã hội. Đặc tính của 12 động từ này đi liền với những định kiến của các công nghệ mới, một định kiến mà mọi công nghệ đều có. Trong khi những nhà chế tạo như chúng ta có thể đánh giá và đưa ra quyết định trong việc kiểm soát công nghệ, thì bản thân công nghệ cũng có những phần chúng ta không thể chi phối. Những quy trình công nghệ cụ thể tất yếu sẽ “thiên vị” và hướng đến những điều kiện cụ thể. Ví dụ, các quy trình công nghiệp (như động cơ hơi nước, nhà máy hóa chất, đập) thì cần nhiệt độ và áp suất ngoài sức chịu đựng của con người, còn các công nghệ số (như máy tính, Internet hay ứng dụng trực tuyến) thì cần được nhân rộng với giá rẻ và phổ biến ở mọi nơi. Sự thiên vị dành cho nhiệt độ và áp suất cao trong quá trình công nghiệp đã đẩy các khu chế tạo xa khỏi khu dân cư để đến những nhà máy tập trung quy mô lớn, bất kể đó là nền văn hóa, chính trị hay nền tảng xã hội nào. Cũng như vậy, sự thiên vị dành cho những bản sao tràn lan với giá rẻ của công nghệ số luôn xuất hiện mà không cần xét đến điều kiện về quốc tịch, kinh tế hay nhu cầu của con người, và do đó khiến công nghệ trở nên phổ biến trong xã hội. Những định kiến này đã được gắn vào bản chất của các bit kỹ thuật số. Trong cả hai ví dụ này, chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng tối đa công nghệ khi “lắng nghe” điều nó cần và điều chỉnh các kỳ vọng, quy tắc cũng như các sản phẩm theo những xu hướng cơ bản của công nghệ. Nếu việc sử dụng công nghệ thuận theo xu hướng phát triển mang tính thiên vị, chúng ta sẽ dễ dàng kiểm soát những phức tạp, tối ưu hóa lợi ích và giảm thiểu những tác động xấu của các công nghệ cụ thể. Chính vì thế, mục đích của cuốn sách này là tập hợp lại và phơi bày ra trước mắt chúng ta những xu hướng đang vận động trong các công nghệ mới nhất này. Mười hai động từ tôi sắp xếp và chỉ ra trong cuốn sách này đại diện cho những thay đổi trong nền văn hóa của chúng ta trong tương lai gần. Những bước tiến lớn này đã và đang diễn ra trong thế giới ngày hôm nay. Còn những chi tiết cụ thể như việc công ty nào sẽ dẫn đầu thì được quyết định bởi xu hướng sở thích, phương thức và thương mại, những nhân tố hoàn toàn không thể dự đoán. Nhưng xu hướng chung của sản phẩm và dịch vụ trong 30 năm tới thì có thể nắm bắt được. Bởi về cơ bản, chúng bắt nguồn từ những công nghệ đang nổi lên và ngày càng trở nên phổ biến. Hệ thống công nghệ rộng lớn và phát triển nhanh chóng này sẽ làm thay đổi xã hội một cách khó nhận biết nhưng từ từ và chắc chắn. Nó sẽ mở rộng các nguồn sức mạnh sau: Trở thành, Cải tiến, Dòng chảy, Trình chiếu, Truy cập, Chia sẻ, Sàng lọc, Remix, Tương tác, Theo dấu, Đặt câu hỏi và Bắt đầu. Mặc dù tôi chia mỗi sự vận động kể trên thành một chương, nhưng chúng không phải là các động từ rời rạc hay những quá trình hoạt động độc lập. Trên thực tế, chúng là những nguồn sức mạnh có sự giao thoa, phụ thuộc và thúc đẩy nhau. Khó có thể nói về một nhân tố mà không đồng thời liên hệ đến các nhân tố khác. Sự chia sẻ gia tăng sẽ thúc đẩy và cùng lúc phụ thuộc vào dòng chảy. Cải tiến đòi hỏi sự theo dấu. Trình chiếu không thể tách rời với tương tác. Bản thân mỗi từ đã là một sự tháo và ráp lại (remix), và tất cả các sự vận động này là những biến chuyển đang trong quá trình trở thành. Chúng là một dòng chuyển động thống nhất. Những nguồn sức mạnh này là con đường, chứ không phải đích đến. Chúng không cho biết trước ta sẽ dừng lại ở đâu. Chúng chỉ cho ta biết rằng trong tương lai gần chúng ta tất yếu sẽ đi theo hướng nào. Mời các bạn đón đọc The Inevitable: Làm Chủ Công Nghệ Làm Chủ Tương Lai của tác giả Kevin Kelly.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Túi Yêu Thương - Gail Reichlin & Caroline Winkler
Cuốn sách này ủng hộ việc các bậc phụ huynh nghiêm khắc dạy bảo, uốn nắn sửa sai khi trẻ mắc lỗi, nhưng đồng thời cũng đề cao thái độ tôn trọng cả cha mẹ và trẻ nhỏ. Cuốn sách khuyến khích bạn không chỉ nghĩ về những gì bạn nên nói, mà cả cách bạn nói điều đó ra như thế nào. Cách mà chúng ta giao tiếp với con trẻ có thể khích lệ con hợp tác hơn, giúp gắn kết các thành viên gia đình, và để chúng ta có thêm những khoảnh khắc hạnh phúc bên nhau. *** Lần đầu tiên nuôi dạy một đứa trẻ, bạn sẽ có rất nhiều câu hỏi. Một số câu hỏi không thực sự quan trọng, một số khác bạn có thể tự trả lời bằng chính bản năng làm cha mẹ và bằng những kiến thức sẵn có của bản thân. Nhưng sẽ còn rất nhiều câu hỏi mà bạn không tìm được câu trả lời, trong suốt nhiều năm, cho đến khi con dần khôn lớn. Bạn biết tìm ai để có thể nhận được lời khuyên? Bạn có thể tìm được câu trả lời qua rất nhiều cuốn sách nuôi dạy trẻ nhưng thực tế là chỉ có một vài trong số đó đáng để bạn mua. Những câu trả lời mang tính tức thời, nặng tính lý thuyết, thiếu thông tin, không thể nào áp dụng thành công cho các tình huống thực tế trong cuộc sống. Thực tế, nuôi dạy trẻ là một lĩnh vực đầy phức tạp và khó khăn. Đã nhiều năm, tôi khuyên các cha mẹ trẻ tìm tới ông bà – những người đã làm rất tốt công việc nuôi nấng những đứa trẻ của họ, và hãy để bản năng làm cha, làm mẹ chỉ đường cho bạn. Ai sẽ cho lời khuyên về những vấn đề như dạy một đứa trẻ đang chập chững ngồi bô tốt hơn một bà mẹ đã thành công trong việc nuôi con? Hay để có lời khuyên khi đứa trẻ lên 3 bị đau ốm thì còn gì tốt hơn là tìm đến và nghe lời chia sẻ của một ông bố đã thành công trong tình huống như vậy? Gail Reichlin và Caroline Winkler chính là những vị phụ huynh mà bạn cần tìm. Tôi đã biết Gail được một vài năm nay, và tôi cảm thấy cô có khả năng viết nên một cuốn sách nuôi dạy trẻ. Cô rất giàu kinh nghiệm và là người đặc biệt quan tâm tới trẻ em. Cô và người cộng sự, Caroline Winkler, hai phụ nữ giỏi giang, những bà mẹ tuyệt vời của ba đứa trẻ, họ có cả một kho báu kinh nghiệm để cho bạn những lời khuyên, những hướng dẫn chính xác và đáng tin cậy. Họ cũng là những người thường xuyên tiếp xúc, gần gũi với các ông bố, bà mẹ, thậm chí cả các chuyên gia về trẻ em. Được viết nên từ những kiến thức thực tế và tấm lòng chân thành, ấm áp, cuốn sách chứa đựng hầu hết những điều mà người đọc tìm kiếm và sẽ tìm thấy, ngay trong cuốn sách này. — Tiến sĩ Burton L. White Tác giả của cuốn sách The New First Three Years of Life (tạm dịch: Ba năm đầu tiên của cuộc đời) và Raising a Happy, Unspoiled Child (tạm dịch: Nuôi nấng một đứa trẻ hạnh phúc, ngoan ngoãn) Mời các bạn đón đọc Một Túi Yêu Thương của tác giả Gail Reichlin & Caroline Winkler.
Gia Huấn Ca - Nguyễn Trãi
Đặt quyển sách, vắt tay nằm nghĩ, Hễ làm người dạy kỹ thì nên, Phấn-son cũng phải bút-nghiên, Cũng nhân-tâm ấy há thiên-lý nào.  Nguyễn Trãi hiệu Ức Trai, người làng Nhị-khê, huyện Thượng-phúc (tức phủ Thường-tín, tỉnh Hà-đông bây giờ). Năm 21 tuổi, đỗ Thái-học-sinh (Tiến-sỹ) niên-hiệu Thánh-nguyên thứ 1 triều Vua Hồ Quí Ly (1400). Làm quan đến chức Ngự-sử-đài chánh chưởng. Thân-phụ là Nguyễn Phi Khanh, đỗ Bảng-nhỡn niên-hiệu Long-khánh thứ 2 triều Vua Trần Duệ-Tông (1374), vì cớ là hàn-tộc mà lấy con-gái Trần Nguyên Đán là tôn-thất nhà Trần, theo phép nhà Trần không được bổ-dụng. Mãi đến triều nhà Hồ mới được dùng làm Trung-thư thị-lang. Khi quân Minh sang xâm-lấn, hai cha con vua nhà Hồ bị bắt, Phi Khanh cũng bị giải về Tàu. Nguyễn Trãi khóc theo đến Nam-quan. Phi Khanh ngoảnh lại bảo rằng : « Con về rửa hờn cho nước, báo thù cho cha, mới là người đại trung đại hiếu, không nên theo nhi-nữ thường tình ! » Nguyễn Trãi trở về đi theo Lê Thái-Tổ khởi nghĩa ở Lam-sơn. Trong 10 năm kháng-chiến với quân Minh, giúp Vua Lê bằng mưu-kế : phàm các văn-thư từ-trát giao-thiệp với tướng nhà Minh, đều do một tay ông thảo thiện. Sau khi đã đánh đuổi ngoại xâm về Tàu, Nguyễn Trãi được phong tước Quan-phục-hầu, liệt vào hạng khai quốc công thần đệ-nhất. Triều Vua Lê Thái-Tông được làm Nhập-nội hành-khiển (tức Tể-tướng). Năm 60 tuổi, về trí-sĩ tại Côn-sơn (thuộc huyện Chí-linh, tỉnh Hải-dương bây giờ). Ba năm sau, vì án Nguyễn Thị Lộ, bị tru di tam tộc. Sử chép : Niên-hiệu Đại-bảo thứ 3 triều Lê Thái-Tông (1442), nhà vua đi tuần phương đông, duyệt võ ở Chí-linh, Nguyễn Trãi đón xa-giá đến chơi chùa Côn-sơn. Thiếp của Nguyễn Trãi là Thị Lộ, có tài có sắc, được nhà vua vời. Khi xa-giá đến vườn Lệ-chi (xã Đại-lai, huyện Gia-bình, tỉnh Bắc-ninh bây giờ) nhà vua bị bệnh sốt, Thị Lộ vào chầu suốt đêm rồi Vua mất, ai nấy đều nói Thị Lộ thí nghịch, nên Nguyễn Trãi phải tội tru di. Năm ấy Nguyễn Trãi 63 tuổi, có người thiếp đương có thai trốn được, sau sinh ra Nguyễn Ánh Vũ. Đời Lê Thánh-Tông, Nguyễn Trãi được minh oan, truy tặng Tế-văn-hầu. Anh Vũ được bổ chức Tri-châu. Nguyễn Trãi chẳng những là bậc năng-thần kinh bang tế thế, mà còn là một nhà đại văn-hào của Việt-nam ta. Tác-phẩm của Tiên-sinh bằng chữ Hán rất nhiều, hiện nay còn truyền lại đều in trong bộ Ức Trai toàn tập như Ức Trai thi-tập, Ức Trai văn-tập, Quân-trung từ-lệnh tập, An-nam Vũ-cống, v.v… Tác-phẩm bằng Quốc-âm, nay chỉ còn truyền lại có 2 : tức là tập « Gia huấn ca » này và bài thơ « Hỏi ả bán chiếu » mà người ta thường truyền-tụng. Mời các bạn đón đọc Gia Huấn Ca của tác giả Nguyễn Trãi.
3 Chìa Khoá Mở Cửa Thành Công - Lord Beaverbrook
LỜI NGƯỜI DỊCH TUNG loại sách ích lợi trực tiếp cho các bạn trẻ hai mươi năm trước đây, tôi đã chọn cuốn MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG (Un art vivre) của André Maurois để dịch ra VIỆT NGỮ (1953). Lần này tôi chọn cuốn « BA CHÌA KHÓA MỞ CỬA THÀNH CÔNG » của Lord Beaverbrook, vì cuốn sách này có thể đem lại nhiều ích lợi thực tiễn cho các bạn trẻ muốn thành công trên đường đời. Hơn thế nữa, những kinh nghiệm bản thân của tác giả tác phẩm giá trị này được đúc kết như là một thứ cẩm nang tranh đấu trên đường kinh doanh có thể giúp các bạn thanh niên học hỏi để tiến mạnh tới đích. Dịch giả không ước mong gì hơn là các bạn trẻ bước vào đời xem qua cuốn sách này sẽ rút ra được những bài học thích đáng đưa đến một tương lai tốt đẹp. HOÀNG THU ĐÔNG *** LỜI MỞ ĐẦU CỦA J. P. KENNEDY Tôi chưa biết người nào đủ tư cách hơn là Huân Trước Beaverbrook để hướng dẫn thanh niên, cũng chưa thấy có người nào mà lịch sử thành công của đời sống cá nhân hấp dẫn bằng. Sinh ra trong một gia đình thanh bạch ở Tân Brimswich, tại Gia Nã Đại, Max Aitken (về sau trở thành Lord Beaverbrook) ngay từ lúc nhỏ tuổi đã tỏ ra những dấu hiệu có năng khiếu kinh doanh. Khi lên mười chẳng hạn, ông ta hết sức mong ước một chiếc xe đạp, song những may mắn để có được còn yếu kém hơn số lương ít ỏi của thân phụ ông, một mục sư. Thế rồi một hôm, có một hãng xà bông đề nghị treo giải thưởng một chiếc xe đạp mới cho đứa trẻ nào gởi về số giấy gói xà bông nhiều nhất. Thay vì đến các nhà hàng xóm để yêu cầu họ mua dùng loại xà bông có thứ giấy gói quý giá kia, Max nghĩ ra một sáng kiến đặc biệt. Ông ta đem tất cả số tiền dành dụm được ra mua các kết xà bông kia, đem bán lại mỗi bánh theo một giá hạ hơn trên thị trường – với điều kiện người mua trả lại giấy gói cho ông – và lập đi lập lại nhiều lần dịch vụ này. Nhờ thế mà Max đã đoạt được chiếc xe đạp, ghi vào bảng kinh doanh sự thành công đầu tiên trong số nhiều thành quả trên đường hoạt động dịch vụ. Đầu óc tháo vác và hiểu biết bén nhậy của ông được khai thác về sau đã mang lại cho ông tài sản, danh tiếng quốc tế, địa vị Nam Tước, các sở hữu địa ốc ở Sirrey, ở Jamaique, ở Nassau và Fredericton, một nông trại ở Ontario, một khách sạn đặc biệt ở Luân Đôn, một cao ốc văn phòng choáng ngợp bằng sắt và kính ở Fleet-Street, nhiều cổ phần lên đến nhiều triệu bảng Anh trong các đại xí nghiệp, làm chủ một tờ báo hàng ngày có số xuất bản vào hàng mạnh nhất trên thế giới. Buổi đầu Max kiếm ra tiền bằng cách bán báo, rồi mở rộng sự phát hành báo chí ở thị trấn quê nhà tại New Castle. Như thế còn chưa đủ, ông thành lập một hội và ấn hành tờ báo nhỏ của mình, NGƯỜI LÃNH ĐẠO (The Leader), trông nom lấy tòa soạn, sắp chữ và in bằng máy quay tay. Rời ghế nhà trường, Max làm việc ít lâu trong một tiệm tạp hóa, rồi đến một văn phòng pháp luật, trong lúc vừa tiếp tục học luật ở Saint John tại trường đại học Tân Brimswisk. Ông đã khổ công để giao thiệp, làm quen với người mới. Cho đến đỗi ông phải thuê dạ phục về mặc với hy vọng được mời dự một cuộc họp quan trọng có nhiều người tại Quốc hội. Ông chờ đợi cho đến giờ mở cửa buổi dạ hội, song tấm thiệp mời không bao giờ đến. Đau lòng vì cảm thấy bị gạt bỏ ra bên lề, Max nhất quyết phải thành công để có thể mở ra bất cứ cánh cửa nào bấy lâu vẫn khép kín đối với ông. Tin chắc rằng có tiền bạc mới có thể đến khắp mọi nơi, ông đã sử dụng tất cả đầu óc sáng tạo và hiểu biết của mình để làm ra tiền. Sau một thời kỳ ngắn ở trong hãng Bảo hiểm sinh mạng, ông đến Halifax và vào làm thư ký cho John F. Stairs, một tài phiệt già có nhiều quyền lợi lớn ở phía đông Gia Nã Đại. Ông chủ và người làm công trẻ tuổi chẳng mấy chốc trở thành đôi bạn. Max đề nghị với Stairs tập hợp lại nhiều ngân hàng nhỏ địa phương để tăng cường năng suất. Stairs cho phép Max thi hành dịch vụ, nhìn nhận là anh phải thành công. Anh chàng trẻ tuổi bị thử thách đã không lùi bước. Bấy giờ ông chưa được hai mươi mốt tuổi, gặp phải những giám đốc ngân hàng khắc khổ liên hệ đến dịch vụ, thảo luận với họ, thuyết phục họ là sáng kiến của ông đem lại lợi tức. Việc phối hợp các ngân hàng thành tựu, và lần đầu tiên trong đời Max được 10.000 đô la. Stairs lấy làm thích thú, mới giao cho ông vụ bán trái khoán của Hội Cưa và Thanh Tân-Ê-Cốt. Từ văn phòng này đến văn phòng nọ, Max đi tìm kiếm những khách hàng có thể mua, mang trái khoán trong một cái túi xà cột. Nhiệm vụ thành công và kiếm được một món lời riêng khá lớn. Max tạo lập « Nghiệp hội An Ninh Hoàng Gia » với Stairs làm chủ tịch, còn ông thì trở thành tổng giám đốc. Trong những năm đầu của thế kỷ này, người ta chứng kiến buổi đầu điện khí hóa, đã trở nên vô cùng quan hệ trong đời sống hiện nay. Nhiều tài sản lớn lao đã được tạo nên nhờ thiết lập điện trong những nhà ở, kỹ nghệ, nông trại, xe lửa. Max đã dấn thân hết mình trong công cuộc phát triển lớn lao này, đem về lợi tức quan trọng cho « Nghiệp hội An Ninh Hoàng Gia ». Khi John Stairs mất, phần cả Max sau khi giải quyết dịch vụ lên tới 50.000 đô la. Bấy giờ ông mới về ở Montréal, rồi lại bắt đầu trông nom tổ chức và thay đổi các hội, nhưng trên một phương diện to lớn hơn. Vào lúc cực thịnh của thời kỳ ở Montréal, ông được Ngân hàng thế lực Montréal giao phó công việc kiểm soát hoạt động dịch vụ của ba hội xi măng Gia Nã Đại. Trong lúc hoàn thành nhiệm vụ này, Max nhận thấy khả năng phối hợp cả ba hội lại và phụ thêm các hãng xi măng khác nữa để thành lập một hội liên hiệp mới quan trọng. Việc này đòi hỏi phải góp một số vốn 38 triệu đô la, một số tiền hết sức lớn lao chưa từng thấy trong lịch sử Gia Nã Đại, và sẽ lợi ích cho nền kinh tế chung trong nước. Ngân hàng Montréal và các xí nghiệp Gia Nã Đại khác chấp thuận kế hoạch và ủng hộ ông. Tuy vậy, trong lúc đang thương thuyết, một phe liên hệ đề nghị đem một công ty xi măng của mình nhập cuộc. Max từ chối, cho rằng lời yêu cầu bán công ty kia quá cao và nhận thấy dịch vụ không được lương hảo về mặt tài chính. Tác giả đề nghị liền rút lui khỏi buổi họp đang tiếp tục, phản đối Max trước Nghị viện, buộc tội ông đã tạo nên những tiền lời bất hợp pháp khi phóng đại giá trị tư bản pháp định của Hiệp hội. Như vậy là Max phải đương đầu với một đối thủ quỉ quyệt, có nhiều thế lực để đánh ngã bất cứ một thanh niên nào dưới ba mươi tuổi. Song Max đã không chiến bại. Anh chỉ có việc trình bày những dữ kiện ra trước Nghị viện và dân chúng, thế là chấm dứt nội vụ. Một khi bắt đầu, hiệp hội tỏ ra là một cơ sở tuyệt hảo và làm cho giá xi măng hạ xuống khắp Gia Nã Đại. Tuy vậy, ấm ức xót xa vì những lời lẽ rỉ tai của bọn thù nghịch loan truyền trong dân chúng chống lại ông, Max thanh toán phần của mình lên tới gần năm triệu đô la lúc bấy giờ, và tuyên bố là từ bỏ mãi mãi giới kinh doanh. Thời ấy ông đang ở lợi thế để lưu ý đến việc thực hiện một hoài bão vẫn ôm ấp bấy lâu : là đồng nhất những địa phận cách biệt của Đế quốc Anh thành một khối thịnh vượng hơn bằng cách hạ bỏ hàng rào thuế quan. Ông bắt đầu suy nghĩ thực sự đến việc nhảy vào chính trường để tranh đấu cho một sự cải cách giá biểu thuế quan và như thế là đảm bảo cho một sự đoàn kết chặt chẽ hơn của Đế quốc Anh. Ông đã gặp Bonar Law, một ngươi đồng hương ở Tân Brimswich, hoạt động chánh trị từ vài năm nay ở Anh. Max đến Luân Đôn, đi gặp Law, nói chuyện cải tổ quan thuế và Đế quốc Anh. Law hết sức quan tâm đến. Một tình bạn nồng ấm và lâu dài bắt đầu. Ít lâu sau đó, khi Law bắt đầu cuộc vận động bầu cử cho phe Đoàn kết, ông yêu cầu Max giúp cho một tay. Max mới quyết định đứng chung liên doanh với Law. Ông ra ứng cử trong một khu vực ở Lancashire. Khi bắt đầu cuộc vận động tranh cử, chỉ còn có mười ngày nữa thôi, mà ông lại phải đương đầu với một đối thủ có tên tuổi. Nhưng Max không sợ. Ông đã có dịp làm mau lẹ và đâu ra đấy. Ông liền thảo một kế hoạch vận động có thể giúp mình gặp tất cả những cử tri trong địa hạt. Max chưa có một kinh nghiệm nào về hùng biện chính trị, và hơn thế nữa giọng nói Gia Nã Đại của Ông làm cho cử tri Anh nghe lạ tai lắm. Bởi thế khi giới thiệu bạn cùng liên doanh, Bonar Law đã phải nói : « Xin quí vị đừng xét đoán bạn tôi qua các bài diễn văn đầu tiên. Tôi xin bảo đảm cùng quí vị rằng Ông ta sẽ giúp được nhiều việc cho khu vực nào bầu ông lên ». Law đã lo ngại không đúng. Thái độ chân thành của Max, sự ngay thật gạt bỏ những mánh lới mị dân, tất cả làm cho dân chúng chất phác ở Lancashire khoái chí tử. Max đã thắng lợi với một đa số đáng kể. Ông ta không gây sôi nổi trong năm đầu tiên ở nghị trường. Ông nghiên cứu thấu đáo những vấn đề chính trị Anh và liên kết bạn hữu trong tất cả các giới công luận, cũng như ông đã từng làm trong giới kinh doanh. Ông áp dụng cách trau dồi tuyệt hảo tài hùng biện của mình bằng lối chấp nhận đứng lên phát biểu khắp mọi nơi. Dần dà ông trở thành một nhân vật chính trị. Ông được trao tặng chức hiệp sĩ năm 1911. Mặc dù hết sức gắt gao, chính trị chỉ thu hút một phần hoạt động hăng say của Sir Max. Tuy đã tuyên bố là rời bỏ kinh doanh, ông trở thành chủ tịch Ngân hàng Thuộc địa và Công ty tổ hợp Công binh, trong lúc ông có mặt tại Luân Đôn từ một năm nay. Năm 1912, trong một tháng, đầu óc tháo vát của Ông đã phá vỡ những kỷ lục của ông. Ông điều đình mua tất cả những mễ cốc chở đến trong cùng một tỉnh,135 kho mễ cốc và hai máy xay, cộng với 1.370 đô la tài sản địa ốc ở Montréal, cũng trong thời gian ấy, ông làm tăng số vốn của một hội kim khí từ 200.000 đô la lên đến một triệu và gia tăng sự sản xuất theo đà ấy. Nhưng đến năm 1.913, ông đã trả giá cho nhưng năm lao lực không ngừng, phát bệnh nặng. Trong thời kỳ dưỡng bệnh, ông khám phá ra rằng tinh thần tháo vát và sự hiểu biết mà ông đã trông vào để tạo nên sự nghiệp, không đáng kể gì thiếu sức khỏe. Cho nên, ông tự hứa là ngừng bớt hoạt động. Bệnh trạng đã giúp ông tìm thấy một chìa khóa thứ ba, cộng thêm với hai chìa khóa đã đưa ông tiến lên khá xa. Người ta thấy Sir Max miễn cưỡng tỏ ý quyết liệt từ chối nhiều đề nghị hấp dẫn của người ta mang đến tận văn phòng ông tại Thredneedle Street. Một nghiệp vụ hiếm có thời bấy giờ có vẻ hình như là một lỗi lầm của thời đại lúc ấy, nhưng sẽ bộc lộ là nguyên nhân của một sự thành công lớn lao, đó là việc mua một số cổ phần nhỏ của nhựt báo xuất bản ở Luân Đôn, tờ Daily Express. Thế rồi vụ Sarajevo châm lửa vào là thuốc súng. Chiến thanh thế giới thứ nhứt xảy đến, và những quyết định hạn chế hoạt động của Max liền quên đi. Sir Max tự cảm thấy phải nhảy vào cuộc đấu tranh vì chính phủ Anh dấu kín không cho dân chúng biết những tin tức xấu từ mặt trận đưa về từng giờ. Ông nghĩ rằng người ta phải nói sự thật, dù là tốt hay xấu, và chỉ sau khi biết rõ các tai họa thì đế quốc Anh mới cảm thấy cần đoàn kết với nhau để nổ lực chiến thắng. Ông muốn nhất là những đồng bào Gia Nã Đại của ông biết rõ sự thật, chắc hẳn rằng họ sẽ chịu nổi và sẽ vì thế mà hành động quyết liệt. Sự khẩn khoản của ông gắt gao đến độ người ta phải cử ông làm đại diện cho chính phủ Gia Nã Đại ở mặt trận. Bắt đầu bằng mặt trận ở Ypres năm 1915, Sir Max nói cho thế giới hay những nỗi khốn khổ và tính chất anh hùng của binh sĩ Gia Nã Đại ở chiến trường. Trong khi chính phủ Anh còn dấu diếm dưới các hình thức tốt đẹp những sự thiệt hại ghê gớm của binh sĩ, thì Sir Max không rời nhiệm vụ đã định, chấp nhận cho những thông tín viên chiến tranh được tự do vào các phòng tuyến Gia Nã Đại và cung cấp cho họ tất cả những tin tức đòi hỏi, nếu không phương hại đến bí mật quân sự. Việc làm của ông có kết quả. Từ Tân Brunswich đến Vancouver, người Gia Nã Đại nỗ lực gấp đôi, khoác đầy mình danh dự. Tại Luân Đôn, hành động của Sir Max cũng được chú ý vì đến năm 1917, ông được phong làm huân tước Beaverbrook. Vài tháng sau, ông kiểm soát hoàn toàn nhựt báo Daily Express. Tất cả mọi người ở Fleet Strees đều cho rằng ông đã nhắm quá cao. Huân tước Northcliff, ấn hành tờ báo thế lực Daily Mail, tiên đoán rằng Max sẽ tiêu tan đến đồng xu cuối cùng vì báo chí. Cuối năm ấy, tờ Daily Express chứng tỏ thành công. Tuy vậy, Beaverbrook không ngủ trên những vòng hoa chiến thắng, đưa ra nhiều câu hỏi, nghiên cứu, hoàn bị kiến thức về nghề làm báo như ông đã từng hoàn bị kiến thức về tài chánh, kinh doanh. Nhiệm vụ nặng nề trông nom một nhựt báo bán chạy chưa đủ chiếm hết thì giờ, năm 1918 ông nhận giữ chức bộ trưởng Thông tin và hoàn thành nhiệm vụ khá tốt đẹp. Bao nhiêu nỗ lực làm việc đã được tưởng thưởng. Năm năm sau khi ông chủ trương tờ Daily Express vượt con số một triệu ấn bản. Ngày nay, các cơ sở xuất bản của ông ở Luân Đôn, Manchester và Glasgow, cùng hai tờ báo khác mà Beaverbrook lấy về sau đó, những nhựt báo buổi chiều ở Luân Đôn và Glasgow, Evening Standard và Evening Citizen, tổng cộng có năm triệu độc giả. Khi những đám mây đen vần vũ của chiến tranh thế giới thứ hai nổi lên, Beaverbrook (đã sáu mươi tuổi) thuộc nhóm ít người hướng dẫn cho nước Anh đang hướng về họ. Có dịp may được tham dự gần cuộc chiến đấu của những lũ khổng lồ, tôi có thể xác nhận với tính cách chứng nhân, rằng huân tước Beaverbrook, có lẽ hơn ai hết, là một trong số người tạo nên chiến thắng bằng cách làm cho nước Anh kiêu hãnh bị chiến bại đè nặng, đã ngẩng đầu lên trở lại. Vì cuộc chiến đã thắng lợi trên không nhờ R.A.F. (Không lực Hoàng gia), trong tháng chín năm 1940. Huân tước Beaverbrook, với tư cách là Tổng trưởng sản xuất Hàng không, đã cho « vài người » làm ra vô số phi cơ để chiến thắng trận đánh Anh quốc cho « bao nhiêu người ». Khi Thủ tướng Winston Churchill đưa ông lên làm Tổng trưởng Không quân năm 1940, Beaverbrook không để mất thời giờ chờ đợi chính phủ cấp cho những văn phòng cần thiết cho công việc bề bộn này. Ông lập tức biến đổi cơ sở của mình thành Đại bản doanh tạm thời, soạn thảo ngay cho mình và các cộng sự viên trực tiếp một kế hoạch làm việc bắt đầu từ tám giờ mỗi sáng để kết thúc vào hai giờ sáng hôm sau. Trong ngày hôm ấy, ông đến viếng bất ngờ một cuộc họp của những tay cầm đầu kỹ nghệ hàng không thường vẫn diễn ra. Ông tuyên bố rõ rệt với họ rằng bổn phận của họ không phải là mất thì giờ nhóm họp với nhau để bàn cãi các vấn đề. Vận mệnh của đất nước đang lâm nguy. Họ chỉ có một công việc độc nhất để làm : trở lại xưởng của họ để đóng máy bay. Ông đã nói với họ một cách hết sức giản dị, song thông điệp của ông mang đầy ý nghĩa : nếu họ muốn cho đất nước của mình còn tồn tại, thì họ phải hành động gấp, gấp hơn bao giờ hết và cho các phi công Anh phương tiện, bất cứ phương tiện gì, để hạ oanh tạc cơ của Hitler. Một ủy ban chủ nhân đem trình với ông một kế hoạch ba tháng sắp tới, ông mời họ về luôn, tuyên bố ngay rằng ông không để ý đến một kế hoạch cho ba tháng sắp tới. Họ có thể cho ông bao nhiêu máy bay trong ngày mai đây ? Không bận bịu vì giấy tờ, gạt bỏ tất cả những gì trên lối đi, ông chiếm các khoảng đất thuộc các cơ quan khác của chính phủ để làm xưởng máy, thu nhận những nhà chuyên môn tài giỏi có thể kiếm được, bất chấp các sự liên lạc của họ với chính phủ và quốc tịch của họ ; ông chỉ cần sản xuất máy bay với bất cứ giá nào. Kết quả ra sao ? Trong vòng một năm, Beaverbrook làm tăng con số sản xuất máy bay Hurricane từ 500 lên đến 2.850, máy bay Spitfire từ 430 lên đến 1.500. Ông giao cho không lực Hoàng gia (R.A.F.) 9.000 máy bay được sửa chữa trong một năm và 12.000 động cơ xét lại. Thương thuyết ký hiệp ước với chính phủ Hoa Kỳ, ông đã nhận được thêm 3.000 máy bay mỗi tháng. Ông kêu gọi những bà nội trợ Anh đi quyên hàng tấn nhôm phế thải. Ông mở một chiến dịch lớn hô hào gởi tặng phẩm để có « một phi cơ ghi tên bạn ». Ban đầu các nhóm gởi tiền cho ông, để mua các phi cơ lẻ loi, nhưng rồi chẳng mấy chốc, ông nhận được nhiều tiền để sắm cả bao nhiêu phi đoàn. Cuối chiến dịch này, ông nhận được các chi phiếu từ 25.000 đến 100.000 đô la, cùng một chi phiếu một triệu đô la. Khi Huân tước Beaverbrook bước vào bộ Không quân, vấn đề lớn đối với Anh quốc là tìm đủ số máy bay cho phi công, một năm sau, vấn đề là tìm ra đủ số phi công cho tất cả những máy bay sản xuất. Khi hòa bình trở lại, huân tước Beaverbrook quay về với báo chí của ông, tiếp tục cuộc đấu tranh cho sự thống nhất hợp tác, tương trợ lẫn nhau giữa các địa phận của Đế quốc Anh. Ông hết lòng ủng hộ vị trí Hoa kỳ trong cuộc chiến tranh Triều tiên, đến độ sa thải một viên chủ bút đã tỏ ra xem thường việc đó. Từ đấy, ông luôn luôn làm việc theo hướng làm sao cho Anh và Mỹ hiểu biết nhau hơn. Ông cho rằng việc liên lạc tốt đẹp giữa hai nước nầy là một cần thiết hệ trọng cho thời đại chúng ta. Sau gia đình, ông vẫn yên nhất là Đế quốc Anh : lý tưởng của ông là những vấn đề quốc tế phải do sự đoàn kết Anh Mỹ chi phối. Trong đời ông chẳng làm việc gì mà không phục vụ cho Đế quốc Anh. Điều đó cũng thực như việc ông phối hợp các ngân hàng nhỏ ở Halifax để có thể phục vụ thân chủ tốt hơn, việc ông hăng say sản xuất phi cơ trong thời chiến đã qua. Cho đến các đại nhựt báo của ông, trước tiên đối với ông không phải là phương tiện để làm ra tiền. Phần lớn những số tiền do các báo mang lại, ông đều đem tái đầu tư để phát triển báo chí và thúc đẩy phục vụ Đế quốc Anh tốt đẹp hơn.   J. P. KENNEDY Mời các bạn đón đọc 3 Chìa Khoá Mở Cửa Thành Công của tác giả Lord Beaverbrook.
Hiệu Ứng Tuyết Lăn - Những Kỹ Thuật Giao Tiếp Hiệu Quả - Andy Bounds
Hòn tuyết lăn khi trên đỉnh núi rất nhỏ, nhưng càng xuống tới đáy thì lại vô cùng lớn và đủ sức phá tan mọi chướng ngại vật mà nó đi qua. Cũng như thế, bạn làm việc và thời gian đầu bạn chưa được chú ý, nhưng khi bạn cứ làm liên tục, liên tục thì bạn sẽ dần thu hút được xung quanh. Tuy nhiên để có được sự thu hút này, thông điệp truyền thông phải đúng. Cuốn sách Hiệu Ứng Tuyết Lăn của tác giả Andy Bounds sẽ giúp bạn: - Thuyết phục người khác đồng ý nhanh hơn, thường xuyên hơn - Hứng thú với công việc hơn - Tháo gỡ những trở ngại thường xuyên gặp phải trong giao tiếp - Hoàn tất được nhiều việc hơn trong thời gian ngắn hơn. Gói gọn trong 350 trang sách là một bộ công cụ gần như hoàn thiện từ giai đoạn xây dựng nền tảng để giao tiếp thành công, đến những kỹ năng như: khiến người khác làm ngay những gì bạn muốn, giúp gây ấn tượng với bài thuyết trình được soạn thảo cấp tốc, kết nối công việc của mình với người khác, hiểu được dộng lực thôi thúc người khác, đối thoại hai chiều môt cách hiệu quả... *** Dẫn nhập H ãy thử tưởng tượng xem nếu đột nhiên bạn trở thành một người có khả năng giao tiếp và truyền đạt vượt trội hơn hết thảy mọi người, cuộc sống của bạn sẽ thay đổi ngoạn mục biết dường nào. Chính bạn cũng khó lường nổi những lợi ích sẽ đạt được. Nói gì đi nữa thì người giao tiếp giỏi bao giờ cũng thành công hơn. Họ làm được nhiều việc hơn. Họ dễ thuyết phục được người khác hơn. Họ cũng làm việc một cách hứng thú hơn. Đơn giản chỉ vậy thôi. Chỉ cần giao tiếp tốt hơn là chúng ta đã thành công hơn. Dĩ nhiên, vấn đề nằm ở chỗ giao tiếp hiệu quả không hề đơn giản. Nếu không thì hằng ngày chúng ta đã chẳng phải nghe những cuộc đàm thoại tẻ nhạt, những cuộc họp chẳng đi đến đâu và những buổi thuyết trình dài lê thê, ngắm diễn giả lải nhải theo những dòng trên slide thuyết trình của họ. Phong cách giao tiếp là thứ sẽ phát triển theo chúng ta cả đời. Nó đã trở thành một phần tác phong của ta. Phá bỏ những thói quen đã ăn sâu theo thời gian ấy thật không dễ chút nào. CÁCH DUY NHẤT ĐỂ HOÀN THIỆN KỸ NĂNG TRUYỀN ĐẠT Tôi đã tư vấn cho nhiều công ty hàng đầu thế giới về hoàn thiện kỹ thuật truyền thông. Tôi đã diễn thuyết tại hơn 30 nước về những phương thức truyền thông hiệu quả nhất. Mẹ tôi bị mù, nên cả đời mình, tôi đã trải nghiệm việc trò chuyện với một người không thể nhìn thấy như mình – một kỹ năng rất thiết thực trong giao tiếp. Cuốn sách trước đây của tôi, The Jelly Effect (Hiệu ứng Thạch dẻo) là một tựa sách bán chạy trên toàn thế giới (chỉ thua duy nhất tập cuối của Harry Porter, giữ ngôi vị số 1 trên Amazon.com). Cho nên tôi biết cách giúp người khác hoàn thiện khả năng truyền đạt. Và tôi luôn luôn nhận ra một điều: Cách tốt nhất để mỗi người tự hoàn thiện đến nơi đến chốn là áp dụng dần từng kỹ thuật đơn giản. Cố thay đổi quá nhiều thứ cùng một lúc là cách mà mọi người thường làm và luôn luôn dẫn đến thất bại. Giống như sau những bữa ăn kiêng, rốt cục người ta lại ăn uống thật thịnh soạn để bù đắp lại. Điều đó nghĩa là, muốn thay đổi lâu bền cũng hệt như chơi trò quả cầu tuyết lăn: Vê một quả cầu tuyết bằng nắm tay rồi cho lăn xuống sườn đồi. Quả cầu càng lăn, tuyết bám càng dày và quả cầu nhỏ bé ngày càng phình to lên, không gì có thể ngăn cản được nó nữa. Cuốn sách này sẽ giúp bạn tự tạo hiệu ứng tuyết lăn ấy. Bạn sẽ được hướng dẫn những kỹ thuật đơn giản để giao tiếp hiệu quả hơn bao giờ hết. Đây là điều mà mọi người thường khó làm được vì đủ mọi nguyên do: Người ta truyền đạt theo trình tự mà họ nghĩ, nghĩa là các ý chính – những ý đòi hỏi phải suy nghĩ nhiều – thường xuất hiện cuối cùng. Tuy nhiên, sự chú tâm của người nghe giảm dần trong khi giao tiếp, nên đến lúc người nói bắt đầu đề cập đến các ý chính thì người nghe đã mất tập trung. Khi chuẩn bị phát biểu, người ta thường tự hỏi “Mình muốn nói gì?”, thay vì “Mình muốn họ làm gì sau khi nghe mình nói?”. Nhưng mục đích giao tiếp là để dẫn đến hành động. Đó là cốt lõi của vấn đề. Vì vậy, trước tiên ta cần phải luôn luôn xác định mục đích, sau đó mới suy ngược lại để quyết định những gì cần nói nhằm đạt được mục đích đó. Người ta thường đinh ninh người khác sẽ đi theo trình tự suy nghĩ của mình, từ Khởi điểm A cho đến Kết luận Z. Nhưng nếu người nghe đang ở điểm B thì sao? Một người ở London sẽ không thể chỉ đường cho một người ở New York rằng “Bắt đầu từ London, anh hãy đi theo hướng…” bởi vì người kia không xuất phát tại đó. HIỆU ỨNG TUYẾT LĂN SẼ CẢI THIỆN KHẢ NĂNG GIAO TIẾP CỦA BẠN RA SAO? Cuốn sách này gồm 5 phần: PHẦN A – Xây dựng nền tảng: Nền móng để giao tiếp thành công PHẦN B – Đạt hiệu quả cao hơn và nhanh hơn: Tiết kiệm một tháng làm việc mỗi năm PHẦN C – Thuyết phục thêm nhiều người: Thuyết phục người khác làm theo ý mình PHẦN D – Hứng thú hơn với công việc: Tăng thêm niềm vui trong công việc PHẦN E – Loại trừ những tác động tiêu cực: Loại bỏ những trở ngại trong giao tiếp Các phần này gồm nhiều chương ngắn, mỗi chương trình bày một kỹ thuật đơn giản mà bạn có thể áp dụng ngay sau khi đọc. Nói cách khác, mỗi chương là một nắm tuyết để đắp nên quả cầu bé nhỏ làm nhân. Tiêu đề của các chương cho thấy mỗi kỹ thuật sẽ giúp bạn đạt được hiệu quả gì. Bạn có thể đọc theo bất kỳ thứ tự nào bạn muốn – mỗi chương đều có ý nghĩa riêng. Cho nên… Nếu bạn muốn… Cách tốt nhất để đọc cuốn sách này là… Tìm hiểu cách truyền đạt trong một tình huống cụ thể. Dò tiêu đề chương và đọc thẳng vào (các) chương phù hợp. Học hỏi một khía cạnh cụ thể trong giao tiếp, chẳng hạn như cách họp hành hiệu quả. Dò theo mục lục để tìm phần liên quan đến hội họp. Đọc như một cuốn sách bình thường. Đọc từ trang đầu đến trang cuối. Dù bạn chọn cách nào, tôi vẫn khuyên bạn bắt đầu đọc từ Phần A – Xây dựng nền móng. Phần này trình bày cách thiết lập nền móng vững chắc cho các kỹ năng then chốt. Nếu làm tốt phần này, bạn có thể tạo được nhân để tuyết lăn một cách thành công. Nếu bỏ qua phần này, tuyết của bạn sẽ không có chỗ để bám. CUỐN SÁCH NÀY LÀ MỘT BƯỚC KHỞI ĐẦU TUYỆT VỜI. NHƯNG CŨNG CHỈ LÀ BƯỚC KHỞI ĐẦU. Cuốn sách này sẽ mang lại cho bạn một sự thay đổi lớn lao. Khi áp dụng các kỹ thuật này, bạn sẽ giao tiếp hiệu quả hơn. Nhưng đây cũng chỉ là bước khởi đầu. Nói theo lời nhà soạn kịch người Anh George Bernard Shaw,“Vấn đề lớn nhất trong giao tiếp chính là ảo tưởng mọi chuyện đã xong”. Nói cách khác, mọi người cho rằng giao tiếp như thế là xong, nhưng thường mọi chuyện không như thế. Giao tiếp đòi hỏi một quá trình củng cố và theo đuổi một cách liên tục, tận tâm và chuyên cần. Bởi việc giao tiếp chẳng bao giờ kết thúc, việc học hỏi kỹ năng giao tiếp cũng thế. Do đó, để ứng dụng các kỹ thuật trong sách này, bạn hãy thử nghiệm và áp dụng một cách linh hoạt tùy theo từng tình huống. Chúng ta hãy thành thật với nhau rằng: Giao tiếp một cách hoàn hảo là không đơn giản. Nhưng thay đổi từng chút một để hướng đến một sự đại hoàn thiện thì lại không khó. Và bạn càng làm tốt điều này thì hiệu ứng tuyết lăn mà bạn gây ra sẽ càng mãnh liệt không gì ngăn cản được. Andy Bounds Mời các bạn đón đọc Hiệu Ứng Tuyết Lăn - Những Kỹ Thuật Giao Tiếp Hiệu Quả của tác giả Andy Bounds.