Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Triển Lãm Thuộc Địa

Louis muốn làm chánh tham biện thuộc địa. Thực ra, đó là mong muốn của bà Marguerite, mẹ anh… Đến lúc lên đường, anh không còn thấy “nơi đó” kỳ lạ, mà chỉ thấy kinh khủng… Những xứ sở xa xôi mà người ta thèm muốn bỗng trở nên đáng sợ và Louis từ chối ra đi… Sau này, anh trao lại cho Gabriel, con trai mình, sứ mệnh thực hiện mơ ước của bà nội. “Triển lãm thuộc địa” là câu chuyện về nước Pháp đầu thế kỉ 20 được thổi phồng qua góc nhìn hạn hẹp. Đó là câu chuyện về một kỹ sư, say mê cây cao su, nhựa cao su và những chiếc lốp xe.   Well Leon dịch  *** Erik Orsenna tên thật là Erik Arnoult, sinh ngày 22 tháng 03 năm 1947 tại Paris, là một chính trị gia, đồng thời là tiểu thuyết gia người Pháp.   Một số tác phẩm của ông:   1973 Loyola’s blues   1977 La Vie comme à Lausanne   1977 Espace national et déséquilibre monétaire, dưới tên thật là Érik Arnoult   1980 Une comédie française   1988 L’Exposition coloniale   1992 Besoin d’Afrique, với sự cộng tác của Éric Fottorino và Christophe Guillemin   1993 Grand amour   1996 Histoire du monde en neuf guitares, với Thierry Arnoult   1996 Mésaventures du Paradis, mélodie cubaine, với Bernard Matussière   1997 Deux étés   1998 Longtemps   2000 Portrait d'un homme heureux : André Le Nôtre   2001 La grammaire est une chanson douce   2003 Madame Bâ   2004 Les Chevaliers du subjonctif   2005 Portrait du Gulf Stream   2006 Voyage au pays du coton  *** Mở đầu là cửa hiệu sách.   Tôi đề cập đến thời mà sách vở vẫn còn được coi trọng. Một thời kỳ lùi quá xa với lịch sử của chúng ta, phân cách chúng ta qua hai cuộc xung đột mang tính chất thế giới, vài cuộc thử nghiệm diệt chủng, thiết lập, thối chí, tháp Eiffel và một số các sự kiện khác ít quan trọng hơn.   Như vậy mở đầu là cửa hiệu sách. Tôi đã được thụ thai chính tại đây, giữa môi trường thuận lợi cho những tính cách thích đi đó đây, những mẩu chuyện về các cuộc hành trình, những tấm bản đồ, những cuốn sổ tay vệ sinh nhiệt đới. Bố mẹ tôi mới làm quen với nhau chưa được bao lâu, nhưng nỗi đắm say hai người dành cho nhau thật mãnh liệt. Do đang sống ở nhà bà nội, bố không thể đưa mẹ về chỗ mình. Hơn nữa, bố tôi ghét đồng quê và do chỗ người vợ chưa cưới của ông khước từ những cuộc du ngoại bằng xe ngựa thuê và đến những phòng thuê từng ngày một nên chỉ còn mỗi cửa hiệu.   - Hành động mà nhờ nó con có được cuộc đời đã xảy ra quá nhanh gọn, - mãi nhiều năm sau này ông mới thổ lộ với tôi. – Nếu bố đã giữ được lâu hơn thì chắc con đỡ bị bé nhỏ. Nhưng bố có các tình tiết được giảm nhẹ tội, cửa sắt không hạ, một vị khách có thể xộc vào bất cứ lúc nào… Bố xin lỗi con.  Những lời xin lỗi đã được chấp thuận. Vĩnh biệt vẻ oai vệ! Ta chẳng nói đến nữa. Mở đầu là cửa hiệu sách. Chính từ đây, Louis, bố tôi, đã tới bệnh viện khi đến đúng thời hạn. Quanh bên chúng tôi, các bà xơ từ thiện đi đi, lại lại, vỗ nhẹ các cặp má, làm dịu những tiếng kêu khóc, yêu cầu cho đưa nước sôi tới, trao bình sữa và bô, luôn miệng tạ ơn Chúa, như ta thường thấy diễn ra ở các nhà hộ sinh. Thờ ơ trước cảnh ồn ào náo nhiệt này, bố Louis cúi người bên nôi tôi, ghé miệng vào sát tai. - Ông nên để cháu bé ngủ yên.- một xơ nói.   - Ông không bị cảm đấy chứ? – Một xơ khác bảo.   - Thưa ông, mong ông đừng làm cháu bé bị mệt – bà xơ thứ nhất lại lên tiếng bảo.   Nhưng cháu bé không bị mệt. Nó vẫn được ấp ủ, có điều theo một cách khác. Hơi ấm của lòng mẹ tiếp theo sự âu yếm dịu dàng trong lời nói của cha. Và những cảm giác mới lạ khác nhau, không kém phần ngọt ngào, đôi lỗ tai nhỏ bé, trung khu của thính giác, có thể gây cho tâm hồn nhiều vui thích như toàn bộ da thịt. Sự thật này được năm tháng khẳng định. Các xơ từ thiện lo ngại cho sức khỏe của tôi:   - Thưa ông, tôi xin ông, thưa ông, trẻ sơ sinh cần tĩnh lặng.   Các xơ thì biết gì?   Do chỗ người nói chuyện không cần bận tâm ngay cả đến sự hiện diện của các xơ, các xơ liền cầu cứu hai anh trực phòng. Họ lôi ra khỏi phòng chàng Louis vẫn lẩm bẩm câu chuyện của mình. Gần đâu đây, sản phụ thiếp ngủ.     Cô gái được gọi là Sản phụ hẳn đã hút về mình tất cả giấc ngủ có được trong khu vực Paris, vì Louis, khi quay về nhà, không tài nào chợp mắt nổi, anh chong chong thao thức. Ta có con trai, ta có một đứa con trai, điệp khúc này như ánh mặt trời sưởi ấm lòng anh. Nửa đêm, đang đắm mình trong hồi ức của Christophe Colomb, Louis chợt tự hỏi: điều gì làm con người hạnh phúc hơn, có một đứa con trai hay phát hiện ra châu Mỹ? anh hoang mang khi nghe có tiếng gõ cửa hiệu sách ở dưới nhà.   - Thưa ông, thưa ông…   Một trong hai anh chàng trực phòng, cái tay lực lưỡng nhất, đã thô bạo tống khứ anh rời khỏi phòng, đang í ới gọi qua cửa.   - Mời ông lại ngay cho, mời ông lại ngay đi…   Louis vội nhảy bổ xuống.   - …Con trai ông cứ gào khóc hoài, bác sĩ trưởng khoa nghĩ rằng gào mãi thế cháu có thể chết mất.   - Từ bao lâu rồi?   - Dạ, từ lúc ông rời khỏi phòng.   Hai người vội lao tới bệnh viện. Các xơ đứng đợi ngoài hành lang, tay lần tràng hạt bằng gỗ hoàng dương.   - Mời ông vào đây, nhanh lên, lạy Đức Jésus, Marie, Joseph, ông vào nhanh lên…   Louis ngồi xuống và vừa mở miệng bắt đầu kể những câu chuyện của mình thì chú thính giả bé bỏng liền im bặt, nhìn cặp môi méo xệch và mép dúm lại, tất cả các xơ đang có mặt đều nhất trí cho rằng đấy là nụ cười đầu tiên. Từ lúc đó, chẳng ai còn nghĩ cách tống khứ người nói chuyện nữa. Họ còn cấp cho anh một chiếc giường xếp và một chiếc áo sơ mi theo quy định, rộng thùng thình, dài, màu trắng, vạt trái in hình Sacré – Coeur màu đỏ. Bố tôi phải ngừng kể một lát để xỏ áo. Lập tức những tiếng gào thét của tôi lại dội lên…   Để hai bố con tôi được tự do tâm sự, người ta đã ngăn cho hai bố con tôi một tấm bình phong đen thường dùng để cách ly những người hấp hối với thế giới bên ngoài. Do đó, trong căn phòng công cộng rộng, chúng tôi nghe nổi lên quanh mình những bài kinh cầu siêu và những lời cầu nguyện cho người chết. Dĩ nhiên, phần lời đệm đó không gây hại cho niềm hạnh phúc của cả ba người: tôi – Gabriel - đứa trẻ sơ sinh, Louis - người kể chuyện và mẹ tôi - sản phụ, giữa lúc đó đã thức giấc và chăm chăm nhìn chồng không rời mắt. Các xơ thay phiên nhau lần lượt bước vào căn buồng chúng tôi, viện lý do lấy tin (bà và ông đều ổn cả chứ? Ông và bà cần gì không?). Thật ra, họ làm ra vẻ như muốn có ý kiến và định giải đáp một câu hỏi mang tính thần học: tôi bặt khóc khi bố tôi vừa ghé vào tai tôi nói, liệu đấy có phải là một điều diệu kỳ không? Một số người sẵn sàng chấp nhận điều đó và cảm tạ Đấng Tối Cao đã chọn tu viện hèn mọn của họ để tỏ rõ tất cả Lòng Khoan Dung của Người… Nhưng đại đa số nữ tu sĩ cho rằng đây là loại các sự kiện thuộc kẻ hơi hạ cấp và người ta có thể gọi là ái tình, không thể hơn thế nữa. Mãi đến tận cuối đời mình, bố Louis của tôi vẫn nhắc đi nhắc lại rằng, tại nơi đó, giữa các bà xơ ở Saint- Vincent-de-Paul, bố đã được hưởng những giờ phút tốt đẹp nhất. Các xơ đã ân cần chăm sóc, chăm chút từng li từng tí và thậm chí sùng kính bố tôi (bởi vì giả thuyết về điều kỳ diệu không hoàn toàn loại bỏ, có lẽ cũng còn do ông đẹp trai và trẻ trung biết bao, chưa đầy mười tám cái xuân xanh). Họ bỏ qua cho bố tôi mọi ý thích thất thường, lo sợ ông bỏ về và tôi lại làm huyên náo ầm ĩ. Và bố Louis đã lợi dụng tình thế đó, ngay sáng hôm sau, miệng vừa kể chuyện cho con trai, ông vừa ca cẩm đủ mọi thứ bệnh và có trời mới biết nổi sức tưởng tượng về nỗi khắc khoải của ông thật phong phú biết nhường nào. Lúc thì ông kêu mình bị đau nhức cơ gian sườn, lúc thì kêu tay trái như bị kiến cắn râm ran, ruồi lọt vào mắt, và quãng chín giờ ông lại kêu hai mông ê ẩm… Mỗi lẫn ông kêu ca, người ta lại phải mời bác sĩ đến để an ủi ông: - Không, thưa ông, ông hoàn toàn khỏe mạnh.   - Ông thề đi! - Bố Louis yêu cầu.   - Có Chúa chứng giám, tôi xin thề đấy.   Và thế là chứng bệnh ám khó xác định đành lòng thuyên giảm và để bố tôi được yên vài giờ.   Ngày hôm thứ  mười, sáng ra đã thấy có mấy người đến phòng ở của nhân viên gác cổng, nơi dùng làm chỗ cấp cứu.   - Ở đây có bán sách về du lịch không?   - Không, thưa ông, đây là bệnh viện.   - Nhưng người ta đã cho tôi địa chỉ hiệu sách nhà Ambroise – Paré, lầu hai, hành lang Velpeau.   Bố Louis khi thu xếp nhặt nhạnh áo quần vào cái đêm đầy xúc động nọ, vẫn còn tranh thủ thời gian dán lên cửa cửa hiệu địa chỉ mới của mình.   - Quả thật, thưa ông, ông đã vượt quá giới hạn- giám đốc bệnh viện nói với bố tôi.   - Không buôn bán, tôi lấy gì mà sống?   Một lần nữa bên hành chính lại phải nhượng bộ. Và các hành lang màu lục nhạt của nhà hộ sinh phải chứng kiến cảnh khách quen thuộc lũ lượt kéo tới: các chú choai choai đỏ mặt hau háu những tên sách dâm dục, các giáo sư băn khoăn về những chi tiết đề cập đến vương quốc ở Mali (1240-1599) các người lính cưỡi lạc đã chẳng mấy mong muốn lênh đênh hai năm giữa Tenéré mà không mang theo bản đồ, cuối cùng, hạng người sau chót, ưa thích cửa hiệu sách hơn hết, những cặp vợ chồng viên chức trước khi lên đường yêu cầu lời khuyên về vệ sinh, cách ăn mặc, cách chống muỗi và những loài cắn đốt người.   Mời các bạn đón đọc Triển Lãm Thuộc Địa của tác giả Erik Orsenna.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Nơi Để Nhớ - Anthony Grey
D ưới ách thống trị của người Pháp, năm 1925 Việt Nam bị chia làm ba phần. Nam phần gồm cả Sài Gòn và vùng đồng bằng sông Cửu Long được gọi là Nam kỳ. Trung phần kể cả kinh đô của nhà vua ở Huế cùng các vùng phía Bắc khu vực này dưới quyền bảo hộ của người Pháp là Annam hay Trung Kỳ. Bắc phần cũng thuộc quyền bảo hộ của Pháp với thủ phủ Hà Nội là Bắc Kỳ. Hoàng Đế đang thời của Việt Nam là vua Khải Định. Trên lý thuyết hoàng đế Annam cai trị hai vùng Bắc và Trung Kỳ dưới sự bảo hộ của người Pháp, trong khi đó Nam Kỳ bị chi phối bởi các luật lệ trực tiếp từ Paris, nhưng trên thực tế thì cả ba kỳ đều là thuộc địa của người Pháp. Ngoài các bộ lạc người thiểu số sống rải rác tại các miền rừng núi xa xôi, hẻo lánh, đại đa số dân chúng Việt Nam đều có cùng chung một chủng tộc. Ngày nay họ là người Việt Nam, nhưng thời bấy giờ, thế giới bên ngoài chỉ biết đến họ là người Annam hay Annamites mà thôi. Theo tài liệu lịch sử cho biết thì người Việt Nam trước kia là người Trung Hoa bỏ nước ra đi, di cư tới các quần đảo thuộc vùng ven biển Thái Bình Dương và họ tự gọi mình là Nam Việt. Sau này, khi người Tàu đem quân sang xâm lăng và chiếm cứ vùng đất này suốt mười thế kỷ dài, người Trung Hoa cũng gọi dân bản xứ là người Annam. Trong suốt thời gian bị người Trung Hoa đô hộ, dân chúng ở đây đã hấp thụ sâu đậm nền văn minh và văn hóa của người Tàu trong đó các thể chế vua chúa cũng như các triết thuyết Khổng, Mạnh được dân chúng địa phương áp dụng mãi về sau này. Khi nhà Tần bên Trung Hoa suy sụp thì tại đây người Annam cũng dành lại được sự Tự Do cho đất nước của họ. Họ sửa đồi quốc hiệu của mình nhiều lần bằng nhiều niên hiệu khác nhau. Đại Nam, Đại Việt... Họ đã đẩy lui được quân Mông Cổ và nhiều lần đập tan mọi âm mưu xâm lược của các triều đại nhà Nguyên, nhà Minh và nhà Thanh của Trung Hoa. Đến thế kỷ thứ XIX, họ không có đủ sức mạnh để chống lại với quân đội Âu Châu. Thời bấy giờ, người Pháp sau ròng rã hai thế kỷ dài liên tục đưa các giáo sĩ và các thương nhân đến đây giao dịch, cuối cùng họ quyết định cho áp đặt một chính sách cai trị lên phần đất này chung với hai quốc gia láng giềng là Ai Lao vào Cao Miên bằng võ lực và đặt ba quốc gia này thành một liên bang Đông Pháp. Pháp đã dùng mười sáu ngàn binh sĩ của họ để đàn áp mười lăm triệu dân bản xứ một cách vô cùng dã man, và chính quyền Annam phải đành chấp nhận thua thiệt. Pháp cho bổ nhiệm các viên chức cai trị của họ tới cấp thấp nhất trong guồng máy xã hội khiến cho người dân nơi đây không còn một chút quyền hành nào cho chính họ, và đây là một điều sỉ nhục mà người dân Annam phải gánh chịu ngay trên phần đất của mình. Gạo, than đá và cao su được đem bán ra nước ngoài để đem lợi tức về cho các tay có cổ phần ở Âu Châu trong khỉ đó người dân bản xứ bị đày ải đi làm việc tại các hầm mỏ cũng như tại các đồn điền với đồng lương không đủ sống. Đối với tầng lớp nông dân cũng vậy, họ bị tước đoạt hểt đất đai, ruộng vườn mà không có được một lý do nào cả để đem chia cho các kiều dân Pháp cùng một số ít người bản xứ chịu đứng ra hợp tác với người Pháp. Trong khi một mặt thẳng tay chiếm đoạt đất đai và tài sản của dân chúng, mặt khác người Pháp lúc nào cũng rêu rao, tuyên bố với công luận là họ đến Đông Dương này với nhiệm vụ “Khai Hóa Văn Minh” nhằm giúp đỡ các quốc gia nhược tiễu bước vào ánh sáng văn minh của thế kỷ XX. Các học giả thức thời, các quan chức cao cấp người Annam biết rõ âm mưu giả nhân, giả nghĩa này của ngưởỉ Pháp ngay từ lúc đầu. Họ từ chối không chịu hợp tác với những chủ nhân ông, người ngoại lai này, họ cổ động dân chúng bày tỏ sự bất đồng của mình trước thái độ xâm lăng của người Pháp. Một số người yêu nước đứng ra tổ chức các nhóm chống đối, nhưng không mang lại một kết quả nào. Cũng như tại các thuộc địa khác của mình trên khắp thế giới, người Pháp cho rằng dân chúng người Annam là những người thuộc giai cấp thấp hèn so với người Âu Châu, và vào năm 1925 này, người Pháp đã biểu lộ rõ ràng thái độ và hành động của mình theo quan niệm trên đối với dân chúng tại quốc gia này hàng ngày trên mọi bình diện từ kinh tế đến chính trị, từ xã hội cho đến ngay cả vấn đề luyến ái nữa. *** Bộ sách SàiGòn gồm có: Sài Gòn Một Nơi Để Nhớ Một Chốn Để Thương Sài Gòn Bùn Pha Sắc Xám Sài Gòn Hai Trăm Năm Cũ *** Anthony Grey là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, trong đó có một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. Mời các bạn đón đọc Một Nơi Để Nhớ của tác giả Anthony Grey.
Ăn Mày Dĩ Vãng - Chu Lai
'Ăn mày dĩ vãng' của Chu Lai là một tiểu thuyết chiến tranh nhưng kỳ thực nó phô bày hết mọi mặt của cuộc sống. Từ cuộc chiến tranh đẫm máu giữa hai phe: ta và kẻ thù đến tâm sinh lý con người, đến tình yêu lãng mạn trong thời kỳ dã man và khốc liệt, rồi cả những mặt trái trong thời chiến lẫn thời bình đều được lôi ra tuồn tuột trưng bày cho độc giả nhấm nháp và chiêm nghiệm suy tư. Hải Giang (Cuốn sách của tôi) Tôi - một con nhỏ 21 tuổi, sinh ra, lớn lên và đang sống trong bình, hiếm khi để mắt, hứng thú với đề tài chiến tranh và những cái thuộc về quá khứ. Nhưng không biết một sự đẩy đưa vô duyên cớ nào mà tôi đã tập trung hết sức lực của đầu óc và tim gan một cách cao độ để đọc hết quyển Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai. Về chiến tranh. Phải, ngòi bút chu Lai đã vẽ ra, không, phải nói là đã tạc vào không gian trước mắt người đọc toàn bộ cảnh tượng hãi hùng, đầy mất mát thương đau đến độ cái buồn dai dẳng mà không biểu lộ ra bằng nước mắt, chỉ bằng tiếng kêu inh ỏi trong tim gan, trong óc. Tôi thật sững sờ, ngóng theo từng trang viết và cái tâm hồn yếu đuối, ủy mị thiếu rèn luyện của va chạm cuộc đời, của những vất vả khổ đau, của bất hạnh hay chông gai trở ngại đã bị thay đổi hoàn toàn. Tôi nhận ra quá khứ bị bỏ quên một cách phũ phàng. Đành rằng con người ta sống trên đời cần phải sống cho hiện tại thật tốt và hướng đến tương lai. Nhưng không vì vậy mà phủi sạch mọi thứ của quá khứ, của dĩ vãng kinh người khiến bao nhiêu số phận trở nên lao đao lận đận. Họ lận đận là vì ai, vì họ, không, vì tất cả, vì lẽ sống cho nhân loại, vì yên bình cho mọi người, cho tất cả chúng ta. Tiểu thuyết không vênh vang ca ngợi bằng những lời lẽ khô khốc khuôn sáo, mà chính từ những gì đã xảy ra theo một diễn biến tự nhiên sinh động, thực, rất thực đã tự cho ta thấy được giá trị của những đức hy sinh chân chính. Không hoàn toàn hoàn hảo như thiên thần, họ, những con người vì quê hương bán mạng bám lấy từng mảnh rừng, quyết giữ gìn từng tấc đất, không nề hà sống trong những chốn hiểm nguy, cốt mơ ước khát khao thực thi cho được sứ mệnh cứu nước vĩ đại, cũng đôi lúc "phàm tục". Đó là khi đói quá họ phải ăn trộm hộp sữa trong bồng của đồng đội ăn, hay như cái ông Tám Tính đi vồ con gái người ta để thỏa mãn nhục dục đang lên đến mức cuồng tính, hay để cướp cò B41 làm chết người bạn đồng chí, đồng hương của mình... Họ hết sức bình thường, bình dị giản đơn, những con người chứa đựng cả hai mặt ưu và khuyết điểm. Chỉ những người trong cuộc, từng sống chung và trải qua mới kể lại một cách rành rọt chi tiết, tỉ mỉ và y như thật như thế. Nếu không thì Chu Lai quả là một ngòi bút thiện xạ, có một đôi mắt và óc nhìn khuất lấp, ít nhất là với tôi, ông ấy đã để lại một ấn tượng không phai nhòa về một thời ở một vùng khói lửa chiến chinh với muôn mặt người tốt xấu. Đọc tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng, người ta thấy dù trong thời chiến hay thời bình đều có những nhân vật thừa nước đục thả câu, đục nước béo cò, mà sự thật của những bộ mặt ấy thật đáng nguy hại cho xã hội loài người. Thằng Địch là đồ khốn, nó đáng phải bị bắn nổ sọ vì những trò gian manh ác ôn của nó, của thằng bán nước. Và tôi yêu mến cô Sương từ đoạn đầu tiểu thuyết cho tới lúc cô bị đạn bắn chi chít lên người, "óc phòi ra" khi từ dưới hầm chạy lên, không vì cái ống quần ác nghiệt trong giây phút nghiệt ngã vô thường này, đã chạy đến được với tình yêu đang đợi ở bên suối, sau lưng là sự truy đuổi ráo riết. Tôi sẽ yêu mến cô đến cuối cùng nếu như cô chết ngay lúc đó. Về sau sự yếu đuối và dung dưỡng của cô, và cả cái tình yêu "dần dần mà ra" với tên địch khốn kiếp thiệt đáng trách, đáng ghét, đáng bực mình làm sao. Cô Ba Sương đáng yêu nồng hậu và quyết đoán lại xử sự như thế trước một tên ác ôn quả là đáng lên án, không chịu được, tôi đọc mải miết và cảm thấy bức xúc vô cùng, lần theo từng trang sách tôi vừa hồi hộp vừa run run, tiếc nuối một Ba Sương với bờ vai chim sẻ, thật đáng yêu và đáng trân trọng... Giờ đây, cái tên Tư Lan lạ lẫm, cô ta không xứng với tình yêu của hai Hùng. Anh hai Hùng! Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình yêu vẫn đẹp và lãng mạn, dường như đó là một đặc tính, là bản chất muôn thuở của tình yê. Lối viết của Chu Lai khiến độc giả hồi hộp, tập trung, thần kinh như bị căng ra đến độ muốn đứt nhưng không đứt được, cứ lằn nhằn, khó chịu, bứt rứt, rồi đứng im, rồi hụt hẫng, chao đảo, buồn thương, tiếc nhớ. Xen lẫn một chương hiện tại với một chương quá khứ, Ăn mày dĩ vãng đúng thực là ăn mày dĩ vãng, gã ăn mày không cần tiền vàng chức tước mà chỉ cần một cái quá khứ bị đánh cắp, một cái sự thật rõ ràng, không ngại khó mà lội ngược dòng tìm người thương và những bối rối cả đời cần được tháo gỡ, cần được giải đáp. Thương lắm, cảm động lắm, tình yêu ấy đẹp lung linh và tỏa ra một thứ ánh sáng muôn vẻ... Tôi thầm lặng nhìn lại, chao, tôi đang phí hoài quá một tuổi trẻ, một tình yêu nông cạn và lầm lỗi của chính mình. Cái cách đan xen giữa quá khứ và thực tại như thế làm cuốn hút người đọc, đồng thời nó tạo bố cục hợp lý chặt chẽ giữa các tình tiết một cách tự nhiên, không gượng ép, như cái chương hai Hùng và Ba Sương yêu nhau trong căn hầm, nhờ lần đó mà hai Hùng phát hiện ra nốt rùi nhỏ phía ngực trái như "mắt đôi chim câu" của Sương, sang chương sau - chương hiện tại - đó lại là chi tiết để hai Hùng nhận ra Ba Sương một cách rõ ràng nhất... dù đau khổ và tê tái hay trong tình huống nguy nan kịch liệt, hoặc là dở khóc dở cười, giọng văn của Chu Lai vẫn hóm hỉnh, lạnh nhưng vẫn ấm. Bút pháp mạnh mẽ đến kỳ lạ, cách dùng từ lạ lẫm có sức hút người đọc độc đáo. Tôi còn nhớ mãi cái búi lãi trong bọc nước ở cái bụng mở tang hoác của Bảo khi bị B41 cướp cò từ tay Tuấn, cái họng đầy những đất cát, cỏ cây, đờm dãi và máu của một anh lính mắc ho khi đứng sát chân thằng địch, chỉ vì - cái cách tác giả giải thích cho những điều ông ấy viết ra luôn tự nhiên, tự nhiên đến đau lòng – "lôi được cậu ta ra ngoài hàng rào thì mặt mày đã tím bầm, sưng tấy, mồm miệng nhoe nhoét những dãi dớt trộn máu, trộn đất... Ở cái giây phút cuối cùng, cậu ta đã âm thầm tự nhét đất, nhét cỏ vào đầy cổ họng mình đến tắc thở để cho tiếng ho thứ hai khỏi phụt ra kéo theo cái chết của bạn bè!" Những con người hy sinh nhiều nhất là những con người sau hòa bình lập lại sẽ ẩn sâu vào cuộc sống bình dị đời thường hay ẩn náu nơi chốn nào đó thư thái tâm hồn mà nhớ chuyện ngày xưa, họ sống như một công dân bình thường... Họ không huênh hoang chiến công này, chiến tích nọ, họ luôn im lặng để mặc cho năm tháng chiến tranh, năm tháng mà họ phải chiến đấu gian khổ cực nhọc bào mòn đi tuổi trẻ và hạnh phúc của họ, để lại trên thân thể họ những vết thương đau âm ỉ. Mặc kệ luôn cả những thói đời đang từng ngày làm tổn thương họ thêm lần thứ hai, lần này là về mặt tinh thần, những sự thật méo mó, giả dối tràn ngập giữa dòng đời đang chảy dữ dội, sức người khó lội ngược, vượt qua, nếu cứ lội ngược thì không bèo nhèo thì cũng dễ chết lắm. Mà họ thì không lội ngược không được, thấy nghịch lòng trái lương tâm lắm! Ăn mày dĩ vãng có một cái kết thúc vừa có hậu vừa không có hậu. Nó hợp lý, hợp lẽ, hợp tình. Chỉ tội cái mảnh tình thủy chung của hai Hùng không ráp lại được với Ba Sương ngày gặp mặt sau 20 năm. Nhưng tâm hồn anh hai Hùng giờ đã nhẹ ra và bên anh còn những ông bạn chí cốt, thế là lẽ sống đã không tuyệt đường, vẫn đâu đó niềm hy vọng, một cuộc sống vui vẻ và hạnh phúc, mãi mãi! Cần Thơ ngày 13 tháng 04 năm 2010 *** Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển Mời các bạn đón đọc Ăn Mày Dĩ Vãng của tác giả Chu Lai.
Nắng Đồng Bằng - Chu Lai
Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Rừng miền Đông không thấy tiết xuân. Sáng ra có gió lạnh se se. Trưa đến, nắng lại bừng lên oi ả. Chiều có cái mát mẻ của thu sang. Và khi đêm xuống thì rét thực sự. Mắc võng giữa rừng đã phải đốt củi sưởi. Nhưng vẫn chưa phải là xuân. Rừng vẫn xanh tươi một màu của cây lá Tịnh không có một ngày mưa dầm rả rích. Xuân về nơi đây chỉ là dấu hiệu chấm dứt những trận mưa dầm và bắt đầu vào mùa khô dằng dặc. Thượng nguồn sông Sài Gòn vẫn chở nặng trong lòng nguồn nước của sáu tháng mưa tích tụ lại. Sông đỏ đắn hồng hào, nhưng hai bên bờ không tìm thấy một vạt phù sa. Gió vẫn mang theo cái vị nồng nồng tanh tanh của dòng sông lắm tôm nhiều cá. Mùa khô này, chiến sự đã giạt về phía dông bằng. Rừng đã yên tĩnh trở lại. Đang vào mùa rừng dầu trút lá. Tàu lá dầu liệng xuống như cánh diều phủ vàng mặt đất. Mỗi khi có con hoẵng chạy qua, thảm lá khô vang động như có ai đang bẻ chiếc bánh đa. Những cây dầu con mới lớn, phiến lá đã to gần bằng lá già rụng xuống. Lá như cái quạt nan che lấp cả thân cây Đang giữa trưa nắng, gặp rừng dầu non, mắt bỗng dịu lại như đang lạc vào một vùng rau xanh trù phú. Hết rừng dầu lại tới rừng cao su. Màu xanh lá dầu chỉ có thể so sánh với màu cao su vừa thay lá. Những cánh rừng cao su thăm thẳm, huyền bí như những cái hang động màu ngọc bích. Sắc lá càng xanh biếc trong màu đất ba dan đỏ tươi. Măng lồ ô đã lớn vượt lên thành những thân non màu hồng mượt mà. Rừng sạch sẽ và thoáng đãng đến nỗi muốn ngả lưng nằm xuống thảm lá ngủ một giấc. Thỉnh thoảng lại gặp một, hố bom dầy ắp nước, trong vắt. Xung quanh bờ mơn mởn những vạt mắc cỡ, rau tàu bay, lá giang chua... Chiều xuống hay những buổi sớm tinh mơ đã nghe tiếng dọc, vượn hú gọi nhau. Rừng yên ổn, chúng kéo nhau trở về từng bầy, chuyền thoăn thoắt trên những ngọn cây cao. Trên con đường đất rộng bò ngoằn ngèo trong rừng, có một đoàn người đang lặng lẽ cất bước. Con đường còn hằn lại những vết bánh xe ô tô trũng sâu, nước đã cạn khô. Nhìn hai bên đường còn vương lại những đoạn phên tre mục nát mới chợt nhớ rằng con đường thồ bùn nước lép nhép năm nào đã chạy qua đây. Đoàn người đi chậm rãi, thong thả qua những cánh rừng già. Cứ trông cách ăn mặc, đồ đoàn trang bị, người ta đoán ngay đó là một đơn vị mới ở vùng sâu lên. Chân họ đi dép mềm, dép lỗ, thảng hoặc mới gặp một đôi dép râu. những ống quần buông chùng vẫn còn những đường ly thẳng băng. Thắt lưng người nào cũng đeo toòng teng một cây đèn pin ngoéo đen bóng. Họ hầu như không có súng, trừ một vài cây tiểu liên cực nhanh và M.79. Đầu họ để trần hoặc đội mũ vải rộng vành. Thoạt trông, đoàn người giống như những chàng trai thành thị hiếu kỳ lên rừng đi săn, nếu như trên nét mặt trầm mặc của họ không có những con mắt ánh lên vẻ khắc khổ, dạn dày. Người đi đầu khoảng gần ba mươi tuổi, dáng người chắc lẳn, khuôn mặt cân đối, đẹp trai, có mái tóc mềm vươn xuống trán. Anh như đang mê mải suy nghĩ điều gì, mắt dõi ra xa nhưng vẫn không giấu được vẻ bồn chồn, sốt ruột. Ở đó, phía đoàn người đang đi tới, đang vẳng đến tiếng rì rầm của một dòng sông. Một chiến si trẻ, to lớn, nước da dỏ hồng, xăm xăm chạy lên đầu: - Sắp tới rồi phải không anh? Người có mái tóc xoã gật đầu. - Cho nghỉ một chút anh nhé! Người ấy cũng chỉ gật đầu không nói, rồi lặng lẽ cầm lấy tay người chiến sĩ trẻ bước gấp lên. Con đường đang ngược lên một dình dốc. Rừng thấp dần xuống. Đột ngột, trước mắt đoàn người hiện ra một khoảng trống trải, bao la. Cái bao la của một khúc sông thượng nguồn. Sau ngày ký kết hiệp định Pa-ri, cuộc chiến đấu ở vùng sâu càng diễn ra gay gắt, ác liệt. Kẻ thù lật lọng điên cuồng phá hoại thành quả Cách mạng. Những người bám đất, bám dân hàng chục năm đang khao khát đón đợi một ngày hoà bình, lại tiếp tục cầm lấy cây súng. Khói lửa lại ngày đêm bao phủ lên khắp các bưng biền, sông rạch. Theo chỉ thị của Bộ, để giữ truyền thống của một đơn vị binh chủng, tiểu đoàn đặc công tập trung trở lại. Các chiến sĩ trinh sát rải rác từ khắp các địa bàn hóc hiểm kéo về. Họ nhìn nhau trào nước mắt. Ngày nào xuống hai trăm người mà bây giờ chỉ còn lại gần ba chục anh em... Linh đã được chỉ thị thay Sáu Hoá làm tiểu đoàn trưởng. Và hôm nay, anh dẫn tiểu đoàn đặc công của mình, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ bám giữ địa bàn, hành quân trở về hậu cứ. Họ sẽ được nghỉ ngơi, bổ sung quân số một thời gian để chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Linh ngồi trên đỉnh ngọn bằng lăng cao nhất đang nở xòe những cánh hoa màu tím nhạt. Sau lưng anh là dòng sông. Bên cạnh anh là trung đội trưởng Ma Hồ Lang. Hai anh em đang đau đáu nhìn về một vùng nắng xa xa. Dưới ấy là dông bằng. là vùng ven thành phố. Trên cao nhìn xuống, chỉ thấy một màu xanh thoai thoải và một vệt nắng dài lấp loáng như sông. Không hiểu sao. Linh tin chắc rằng đó là dòng sông Sài Gòn. - Anh Linh ơi! Quê chị Năm đó phải không? Mảng sáng phía bên kia sông Sài Gòn đó? - Lang bỗng rối rít hỏi. Linh nhìn theo hướng tay Lang chỉ, không trả lời. Mắt anh mờ đi như có nước. Anh nhớ lại những ngày tháng đã qua với những căn cứ nhỏ bên sông, những dải rừng chồi lá thấp, những trận đánh ban đêm, những khóm lục bình trôi theo tiếng chim bìm bịp kêu...Nhiều đồng đội của anh dã không cùng trở lại hôm nay. Anh nhớ tiếng cười rộng rãi, phóng khoáng của anh Sáu Hoá. Nhớ cả ánh mắt hằn học, lạnh lùng của thằng Kiêu. Kẻ thù vẫn tồn tại dưới đó. Và những người còn ở lại bám trụ địa bàn như Phận, Hải, anh Út "Cò ngẳng", Rổn… đang đón đợi anh trở về. Thế rồi, trên cái vệt dài lấp loáng nắng kia, anh như nhìn thấy Thúy đang mềm mại đưa đẩy mái chèo, tà áo bà ba bay là là mặt nước, một bên mái tóc xõa ra, kín đáo che đi vết sẹo màu hồng nhạt... - Thúy ơi! Anh sẽ trở lại. Nhất định anh sẽ trở lại dòng sông quê hương em! Lúc ấy, sau lưng anh, bên kia sông xuất hiện những toán bộ đội đầu tiên. Trong chốc lát, cả cánh rừng rộn rịch tiếng những bước chân, những chiếc mũ cối trùng điệp nhấp nhô. Họ là những binh đoàn chủ lực đang chuẩn bị vượt sông tiến về đồng bằng... Sông Sài Gòn - Hè 1978 CHU LAI Mời các bạn đón đọc Nắng Đồng Bằng của tác giả Chu Lai.
Đội Săn Của Quốc Vương Xtac - Vladimir Korotkevich
T rong số Báo văn học (Literarurnaja Gazeta) gần đây, một số nhà phê bình văn học Liên Xô có lưu ý bạn đọc đến một hiện tượng độc đáo trong văn xuôi Xô-viết mà theo ông, còn chưa được đánh giá đúng mức – đó là các truyện dài và tiểu thuyết của Vladimir Kôrôtkêvich, một nhà văn Bêlôruxia quen thuộc. V. Kôrôtkêvich sinh năm 1930 ở tỉnh Oócsa, Bêlôruxia, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kiep năm 1954 và khoa Đại học viết văn ở Mátxcơva năm 1960. Ông sáng tác thơ, tiểu thuyết, kịch. Hầu hết tác phẩm văn xuôi của Kôrôtkêvich như các tiểu thuyết “Kitô giáng thế ở Gôrôđen (1966), Nhành lúa dưới tay liềm (1968), Hắc lâu Oócsanxki (1979), các truyện dài Huyền thoại xa xưa (1961, nhạc sĩ Xmônxki soạn thành ca kịch năm 1978), Đội săn của Quốc vương Xtác (1964, dựng thành phim năm 1980), các tập tùy bút Cổ tích đất nước hổ phách (1963) và Tiếng chuông ngân dưới đáy hồ sâu thẳm (1969) v.v... – đều viết về lịch sử và thiên nhiên đất nước Bêlôruxi, bởi vì đối với ông, “Bêlôruxia là mảnh đất tươi đẹp nhất trên đời” (Truyện Hai chú gấu của tôi). Nói đến văn xuôi Bêlôruxia hiện đại, người ta liên tưởng đến hai tiếng chiến tranh. Những truyện dài và tiểu thuyết nối tiếng của Alêxi Ađamôvich, Vaxin Bưkôp, Ivan Mêlêgiơ và Ivan Samiakin... đã cho cả thế giới thấy tinh thần quật cường của một dân tộc mà cứ bốn người dân thì một người đã ngã xuống trong vòng có bốn năm chiến tranh (1941-1945). Trở lại với lịch sử xa xưa, với thiên nhiên đất nước, Kôrôtkêvich dường như muốn đi tìm cội nguồn của tinh thần quật cường ấy... Bêlôruxia – Bạch Nga – là mảnh đất miền Tây Liên Xô, với những rừng thông bạt ngàn và rừng dương trắng ngần, với những sình lầy rộng mênh mông như biển cả, dài rộng hàng mấy trăm cây số, những hồ nước trong xanh giữa rừng hay đồng cỏ, những lâu đài trung cổ rêu phong vẫn còn gìn giữ bao điều bí ẩn: Những âm thanh huyền bí, những ảo ảnh lạ kỳ... Vốn là một bộ phận của nước Nga Kiep cổ đại vì nằm lọt giữa những quốc gia phong kiến hùng cường thời trung cổ như Nga, Litva, Ba Lan, Áo – Hung nên mảnh đất Bêlôruxia đã phải chịu một số phận đau thương: bị giành đi giật lại, bị chia đôi xẻ ba, bị đàn áp đè nén. Trong những bước gian truân ấy của đất nước, các tầng lớp trên – tầng lớp địa chủ quý tốc Sliăcta trước kia và tầng lớp địa chủ tư sản sau này – vì những quyền lợi ích kỷ đã buôn đi bán lại cả Tổ quốc, phản lại cả dân tộc mình. Chỉ có một số ít những phần tử lẻ loi – những con quạ trắng – như Kaxtuxô Kalinôpxki, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa 1863-1864 của nông dân Bêlôruxia, (sinh năm 1838, bị xử tử năm 1864), như các thanh niên trí thức tiên tiến Xvetilôvich và Bêlôretxki trong truyện Đội săn..., là dám đoạn tuyệt với gai cấp đã thoái hóa của mình đứng hẳn về phía nhân dân, cùng những người dân lao động Bêlôruxia đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Truyện của Kôrôtkêvich phong phú giá trị nhận thức và giáo dục có nhiều yếu tố ly kỳ. Văn ông giàu tính lãng mạn, đan quyện lẫn nhau những yếu tố thực và hoang đường. Truyện dài Đội săn của Quốc vương Xtác là một ví dụ tiêu biểu cho thể loại trinh thám lịch sử, gần đây khá phát triển trong một số nền văn học dân tộc ở Liên Xô. Truyện lấy đề tài trong những truyền thuyết về lời nguyền muôn thuở và sự báo oán khủng khiếp của Quốc vương Xtác cùng đội săn của Người đối với dòng họ Sliăcta Janốpxki đã phản bội Tổ quốc Bêlôruxia. Truyền thuyết, dẫu rùng rợn khủng khiếp đến đâu, vẫn không đáng sợ, vẫn đẹp như mọi câu huyền thoại. Nhưng đáng sợ thực sự, đáng cảnh giác thực sự khi cái đội săn tương truyền đã vùi xác dưới đáy sình lầy cách đây hàng mấy thế kỷ, nay bỗng thoắt hiện, thoắt ẩn, gây nên những tội ác đẫm máu và gieo rắc kinh hoàng khắp một vùng xung quanh. Vậy chúng là ai? Ma quỷ hiện hình hay một lũ bất nhân đội lốt ma quỷ? Xin để bạn đọc thưởng thức tài dẫn dắt câu truyện của Kôrôtkêvich. VŨ THẾ KHÔI *** T ất cả câu chuyện chỉ có vậy. Ngày hôm sau, lần đầu trong suốt thời gian ấy, ánh mặt trời cùng một lớp băng tuyết mỏng rải lên khắp sình lầy, bãi hoang, lên những ngọn cây tùng trong khu vườn, lên những bức tường rêu phong của tòa lâu đài. Bãi cỏ cao lúc đầu bao phủ một lớp phấn trắng giá lạnh, ửng hồng dưới những tia nắng đầu tiên. Cả tường nhà cũng ửng hồng, tươi trẻ ra, dường như bừng tỉnh sau giấc ngủ mê nặng nề ngự trị trên tòa lâu đài suốt ba năm trời. Những ô kính ngũ sắc lấp lánh tươi vui dưới những tia nắng dịu ban mai, mặt đất cạnh tường đổ mồ hôi, thảm cỏ trở nên ướt át. Hai chúng tôi ra đi. Cỗ xe đỗ trước cửa lâu đài. Của nả chẳng có là bao, đã buộc sẵn sau xe. Tôi dắt Nađêia mình choàng một tấm áo lông nhẹ, đưa ra khỏi nhà, đỡ nàng lên xe và leo lên ngồi xuống cạnh nàng, chúng tôi cùng đưa mắt nhìn tòa lâu đài lần cuối, nơi chúng tôi đã cùng nếm trải khổ đau và bất ngờ tìm thấy một tình yêu đáng để hiến dâng cả cuộc sống mà không hề hối tiếc. – Em định làm gì với toàn bộ cái của này? – Tôi hỏi. Nađêia rùng mình như thể bị lạnh. – Những đồ cổ, hiến cho các bảo tàng; còn đâu, để cho anh em mugik đã đứng dậy bảo vệ cửa nhà của chính mà và đã cứu sống em. Tòa lâu đài, hiến làm bệnh viện, trường học hay cái gì cũng được. – Nàng mỉm cười chua chát: - Gia tộc sản! Biết bao máu đổ, cả một mớ những hành vi đê hèn, những tội lỗi, mưu mô hiểm độc... Vì mục đích gì kia chứ? Vì một chút vàng bạc... Thôi, xin trả lại cho Chúa cái gia tộc sản này. Tôi ôm đôi vai mảnh dẻ của nàng. – Anh biết mà. Đúng là phải xử trí như vậy. Chúng ta cần gì cái của nợ ấy, nếu như chúng ta đã tìm được nhau. Chúng tôi trao tòa lâu đài cho người quản gia mới là chị nông dân góa bụa có đứa con nhỏ mà tôi đã có lần bắt gặp bên lề đường, đưa về. Đám gia nhân vẫn nguyên vị. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm khi tòa lâu đài khuất sau rặng cây. Cơn ác mộng đã vĩnh viễn kết thúc. Mời các bạn đón đọc Đội Săn Của Quốc Vương Xtac của tác giả Vladimir Korotkevich.