Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Yêu Những Điều Không Hoàn Hảo

Tình yêu thương vượt qua mọi hiểu biết của con người Đôi khi chúng ta gặp được những bộ phim để lại dư âm trong ta suốt một thời gian dài. Đối với tôi, A river runs through it là một bộ phim như thế. Lấy bối cảnh thiên nhiên đẹp đẽ của tiểu bang Montana nước Mỹ vào đầu thế kỷ 20, bộ phim kể về gia đình Maclean, một gia đình tôn sùng sở thích câu cá như một tôn giáo. Người cha của gia đình ấy là một mục sư có hai cậu con trai, cậu con trai cả Norman thuận theo ý cha trở thành giảng viên, còn cậu con trai thứ Paul lại làm phóng viên cho một tờ báo địa phương, sống cuộc sống có phần nổi loạn. Thế rồi Paul không trả nổi những khoản nợ phát sinh do đánh bạc, anh bị đánh đến chết trên đường phố. Người cha roi vào nỗi đau tột cùng vì mất con, vào buổi thánh lễ ngày Chúa nhật, ông cầu nguyện cho con mình và nói với các tín đồ một câu đầy cảm xúc. "Chúng ta vẫn có thể yêu thương nhau trọn vẹn mà không cần hiểu nhau một cách vẹn toàn." Người cha mục sư không thể hiểu tại sao đứa con trai thứ của mình lại sống ngang tàng như thế, nhưng điều này không có nghĩa là ông ngừng yêu thương Paul. Bộ phim đã gửi đến cho người xem một thông điệp, rằng tình yêu thương vượt xa khỏi phạm vi những điều mà con người có thể hiểu được bằng tri thức. Không phải chỉ khi nào cảm thấy vừa lòng hay hiểu thấu thì ta mới yêu thương lẫn nhau, cũng không phải khi không hiểu nhau nữa thì tình yêu cũng cạn. Tình yêu thương của người cha bắt nguồn ngay từ sự tồn tại của đứa con, dù không vừa lòng, không tán thành những hành động của con, tình yêu thương ấy vẫn không suy suyển. Như dòng chảy của con sông sâu, tình yêu thương luôn luôn chảy trong sâu thẳm trái tim mỗi người. Ngẫm lại cuộc sống của chính mình, ta sẽ nhận thấy rất nhiều điều không hoàn hảo. Trước hết, chỉ nhìn vào bản thân mình thôi ta đã cảm nhận được nhiều thiếu sót rồi: lời nói và hành động mâu thuẫn với nhau, vụng về trong những mối quan hệ xã hội, chuyện học hành, công việc không suôn sẻ như ý muốn. Chưa kể đôi khi ta còn khiến người khác tổn thương, thậm chí còn làm những việc khiến bản thân cảm thấy tội lỗi và hối hận. Và khi nhìn vào những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, ta cũng nhận thấy những điều không-hoàn-hảo tương tự như vậy. Con cái không nghe lời cha mẹ, cha mẹ không hiểu cho lối sống của con cái, những thói quen làm ta khó chịu của người bạn đời... Những người anh em nhiều tuổi luôn khiến ta lo lắng từ chuyện tiền bạc đến sức khỏe, những người bạn thân thiết gặp khó khăn không nỗ lực vượt qua mà chỉ than vãn phàn nàn... Đến một khoảnh khắc nào đó, bạn bỗng muốn rời xa họ. Mỗi ngày, khi theo dõi chương trình thời sự buổi sáng, ta sẽ thấy thế giới không ngừng xảy ra những sự kiện và sự cố bắt nguồn từ những mâu thuẫn, bất hòa. Nhưng dù đang sống giữa thế gian đầy rẫy những điều không hoàn hảo, ta vẫn không thể ngừng yêu thương chính những điều không hoàn hảo ấy. Cuộc sống rất đáng để trân trọng, ta không thể phí hoài cuộc sống vào việc mỉa mai hay căm ghét thứ gì đó chỉ vì không thể hiểu được nó hoặc nó không vừa ý ta. Hơn nữa khi bắt đầu cầu nguyện hoặc tu hành, ta sẽ cảm nhận được rằng bên trong ta không chỉ tồn tại những thiếu sót mà còn có cả cái nhìn từ bi ấm áp dành cho những thiếu sót ấy. Trong bản thân mỗi người chúng ta luôn tồn tại ánh mắt ấm áp chan chứa yêu thương hằng dõi theo và chấp nhận chính bản thân mình, như người mẹ luôn dõi theo đứa con duy nhất của mình vậy. Tuy còn nhiều thiếu sót, nhưng tôi đã tập họp lại trong cuốn sách này những ghi chép và suy nghĩ của mình mỗi khi ngắm nhìn bản thân và thế giới bằng cái nhìn từ bi ấy. Ngoài ra, thông qua những buổi thỉnh giảng như chương trình Hòa nhạc chữa lành trái tim, tôi cũng có cơ hội gặp gỡ nhiều người, họ đã đem lại những bài học lớn và trở thành cảm hứng viết cho tôi. Trong số những trăn trở mà họ đưa ra trong buổi giảng, có những câu hỏi rất cụ thể và nghiêm túc, mà dù có tới vài tấm bằng tiến sĩ tâm lý học tôi cũng không thể nào giải đáp dễ dàng. Từng người từng người đều là những người thầy đưa tôi đến với con đường trí tuệ, đồng thời họ cũng là hiện thân của lòng từ bi giúp tôi luôn rộng mở trái tim mình. Mong sao những dòng chữ nhỏ bé của tôi có thể đem đến cho độc giả dũng khí, giúp họ chữa lành vết thương lòng và dành ra cho riêng mình khoảng thời gian để yêu bản thân hơn đồng thời nhận ra được bản chất thực sự của tình yêu thương. Mong sao cuốn sách này sẽ trở thành bàn tay giữ lấy bạn khi bạn rơi vào tuyệt vọng, sẽ trở thành khoảng lặng để bạn tạm dừng chân giữa những hỗn độn ồn ào. Tại Trường học chữa lành trái tim, Insadong, Seoul Đại đức Hae Min *** Thượng tọa Tiến sĩ Hae min sinh ra và lớn lên tại Hàn Quốc, xuất gia tu học theo Thiền phái Tào Khê (Jogye-jong). Sau khi hoàn thành bằng Thạc sĩ Tôn giáo học đối chiếu ở Đại học Havard và Tiến sĩ Tôn giáo học ở Đại học Princeton, ngài ở lại Hoa Kỳ tham gia giảng dạy về Tôn giáo học ở trường Đại học Hampshire, Massachusetts. Ngài từng là giáo sư Đại học Hoa Kỳ 7 năm, đã dành thời gian hai năm để hoàn thành tác phẩm. Thượng tọa Tiến sĩ Haemin đã có chuyến đi hoằng dương Phật pháp tại Vương quốc Anh và được đài BBC phỏng vấn và đưa tin. Năm 2015, Thượng tọa Tiến sĩ Haemin trở về Seoul, Hàn Quốc, cùng nhiều chuyên gia mở trường Tâm lý Trị liệu, điều trị miễn phí cho những người gặp phải bất hạnh trong cuộc sống, hay đang vướng phiền não nghiệp hướng, mang nhiều khổ tâm. Đại đức Haemin là một trong những người rất có ảnh hưởng tới giới trẻ Hàn Quốc, trang Twitter cá nhân (https://twitter.com/haeminsunim) của ông hiện có tới hơn một triệu người theo dõi. Sách cùng tác giả: - Bước Chậm Lại Giữa Thế Gian Vội Vã - Những vỡ lẽ của tuổi trẻ - Yêu lấy những điều không hoàn hảo. *** ĐỪNG SỐNG QUÁ HIỀN LÀNH Khi còn nhỏ, bạn có thường được khen là hiền lành? Bạn có phải là đứa trẻ không bao giờ cãi lời cha mẹ hoặc thầy cô, gặp chuyện khó khăn cũng cố gắng chịu đựng mà không than phiền tiếng nào? Rồi bây giờ, khi đã trưởng thành, bạn có luôn chịu trách nhiệm và hết mình với công việc được giao cũng như luôn cố gắng để không làm ảnh hưởng đến người khác? Bạn có phải là người dù gặp phải kẻ gây khó dễ cho mình, dù bị đối xử bất công vẫn suy nghĩ rằng chỉ cần mình chịu đựng là được nên cứ thế im lặng cho qua mọi chuyện? Và bạn có phải là người không thể nói lên những điều khiến người khác khó chịu hay làm họ tổn thương? Càng những người "hiền lành" như vậy lại càng dễ mắc bệnh trầm cảm hay chứng rối loạn hoảng sợ, cũng như các bệnh về tâm lý khác nảy sinh giữa những mối quan hệ trong gia đình hoặc nơi làm việc. Điểm chung của những người hiền lành này là cách nói chuyện từ tốn, thái độ nhã nhặn và rất biết nhường nhịn người khác. Cho dù bản thân cũng có điều muốn làm hay có lối suy nghĩ khác đi chăng nữa, họ vẫn luôn sẵn sàng chiều theo ý đối phương. Không chỉ một hai lần tôi chứng kiến và cảm thấy đáng tiếc cho những người hiền lành như vậy, sao ông trời lại vô tâm ban cho họ cõi lòng nhiều khổ tâm đến thế. Thực ra hồi còn nhỏ tôi cũng là một đứa trẻ hướng nội và dễ bảo nên rất hay được khen ngoan. Tôi đã tưởng rằng làm một cậu con trai hiền lành không khiến cha mẹ phiền lòng, một học trò ngoan ngoãn luôn nghe lời thầy cô là việc tốt. Thế nhưng khi sang Mỹ học, lần đầu tiên tôi nhận ra rằng chỉ biết sống hiền lành thôi thì không ổn. Khi làm bài tập nhóm với những người thông minh và cá tính, tôi thường bị đùn đẩy cho phần mà ai cũng tránh. Tôi luôn cho qua, vì nghĩ rằng chuyện đó cũng không có gì là không tốt, nhưng những tình huống tương tự cứ lặp đi lặp lại khiến tôi căng thẳng vô cùng. Và chỉ một mình tôi khốn khổ bởi điều này. Khi tôi kể chuyện này cho một đàn anh thân thiết người Mỹ, anh đã khuyên tôi rằng: "Hãy trở thành một người hiền lành với chính bản thân mình trước khi hiền lành với người khác!" Khoảnh khắc đó, tôi cảm giác như mình bị ai đó đánh thật mạnh vào gáy. Trước đó tôi đã sống mà luôn lo lắng không biết người khác sẽ nghĩ gì về mình. Tôi chưa bao giờ thực sự nghĩ tới việc lo lắng, yêu thương chính bản thân mình cả. Sống hiền lành là như vậy đấy. Khi chúng ta gọi một người nào đó là hiền lành, nghĩa là chúng ta đang nói về một người không nhấn mạnh chủ kiến của mình và luôn nghe theo yêu cầu của người khác. Cho dù rõ ràng cũng có điều muốn nói, muốn làm nhưng họ hiếm khi thể hiện ra mà luôn thuận theo ý kiến, chủ trương của người khác. Người luôn nghe lời người khác như vậy dĩ nhiên là một người dễ chịu, một người tốt, một người hiền lành. Tóm lại, dường như chúng ta luôn gọi những người không thể hiện hoặc đè nén nhu cầu của bản thân vì người khác là người "hiền lành". Tuy không thể khẳng định một trăm phần trăm nhưng khi trò chuyện với những người "hiền lành" mắc bệnh tâm lý như trầm cảm ta có thể nhận thấy vài khuynh hướng chung trong mối quan hệ giữa họ với cha mẹ hoặc những người dưỡng dục họ. Ví dụ, trong số họ có nhiều người lớn lên dưới sự nuôi dưỡng của một ông bố gia trưởng hoặc một bà mẹ nghiêm khắc. Hay một ví dụ khác, có những ngưòi lớn lên với nhiều anh chị em, không được cha mẹ quan tâm nên luôn có xu hướng làm mọi thứ cha mẹ muốn để được công nhận. Một số trường hợp khác, vì mối quan hệ của cha mẹ không được tốt hay hoàn cảnh gia đình khó khăn nên người con nghĩ rằng ít nhất mình cũng phải biết nghe lời để cha mẹ bớt nhọc nhằn. Nhưng vấn đề là, khi ta sống mà quá cố gắng chiều theo yêu cầu của người khác, ta sẽ bỏ bê những cảm xúc và nguyện vọng của chính mình. Nếu không xem trọng mà lơ đi những gì mình đang cảm nhận thì khi trưởng thành ta sẽ không biết mình muốn làm gì, bản thân mình là ai. Hơn nữa khi bị đối xử bất công hay gặp những người làm ta khốn đốn, ta sẽ không thể giải tỏa nỗi oan ức hay phẫn nộ mà mình đang cảm nhận, những cảm xúc đáng lẽ phải bộc lộ với đối phương lại bị dồn nén bên trong ta và dần dần sẽ công kích chính bản thân ta. Và ta không khỏi tự hỏi "Tại sao mình cứ như một kẻ ngốc, không biết nói chuyện thẳng thắn cũng không biết nổi giận với người khác?" Đầu tiên, bạn cần ghi nhớ điều này. Những cảm xúc mà ta đang cảm nhận không phải là những thứ vụn vặt có thể làm lơ, ngược lại chúng vô cùng quan trọng và luôn cần được quan tâm tới. Hon nữa, những cảm xúc đó sẽ không biến mất dễ dàng cho dù ta có đè nén hay lờ chúng đi. Rất nhiều vấn đề về tâm lý nảy sinh bắt nguồn từ thói quen tự đè nén cảm xúc khiến năng lượng của những cảm xúc bị đè nén không được giải phóng khỏi tâm trí một cách lành mạnh. Cảm xúc cũng giống như dòng nước, nếu không chảy thoát được sẽ ứ đọng lại một chỗ và bốc mùi khó chịu. Bây giờ vẫn chưa quá muộn. Từ bây giờ bạn hãy học cách lắng nghe tiếng nói của chính mình để biết mình muốn gì, trước khi hành động theo kỳ vọng của người khác. Nếu người khác có yêu cầu bạn làm cái này, cái kia nhưng bạn cảm thấy mình không muốn làm thì nhất định đừng làm để tránh cảm giác tự ti và thu mình lại sau này. Hãy luôn cố gắng thể hiện cảm xúc của mình cho đối phương hiểu. Đừng lo sợ rằng nói thật cảm xúc của mình sẽ khiến đối phương ghét mình hay khiến mối quan hệ giữa mình và họ sẽ trở nên bất tiện. Cũng rất có thể đối phương vì không biết được cảm nhận của bạn nên mới đưa ra những yêu cầu đó. Khi những người khác đều ăn mì tương đen nhưng bạn muốn ăn cơm rang, hãy đường hoàng nói "Tôi muốn ăn cơm rang." Trở thành người tốt đối xử tử tế với người khác là một việc tốt, nhưng trước hết ta có nghĩa vụ phải trân trọng chính mình. —ooOoo— Biết cách nói lên điều mình muốn mà không cảm thấy khó khăn Là một kỹ năng cần thiết trong cuộc sống, cũng như việc biết lái xe vậy. Nếu không có kỹ năng ấy, bất mãn sẽ liên tục chất chồng Rồi bùng nổ như núi lửa phun trào, phá hủy các mối quan hệ ta đang có. —ooOoo— Bạn có từng cảm thấy tủi thân và tự hỏi Mình phải một mình giúp người khác đến bao giờ nữa? Nếu có, đừng cố nén cảm xúc vào trong mà hãy nói ra thành lòi "Một mình tôi không làm được, bạn giúp tôi được chứ?" Tập thể hiện cảm xúc từng chút từng chút một, bạn sẽ dần khá hơn rất nhiều. —ooOoo— Khi ai đó nhờ vả điều gì Đừng quên rằng bạn luôn có quyền lựa chọn từ chối "Xin lỗi, nhưng việc này hơi khó." Bạn không có nghĩa vụ phải nhận lời nhờ vả của tất cả mọi người, nhất là những nhờ vả quá sức, để khiến chính mình phải khổ sở. Nếu vì bạn không giúp mà mối quan hệ giữa bạn và người đó trở nên xa cách Thì ngay từ đầu đó đã không phải là mối nhân duyên tốt rồi. Khi đi máy bay, ta vẫn thường được hướng dẫn rằng trong trường hợp khẩn cấp Ta cần đeo mặt nạ dưỡng khí cho mình trước khi đeo cho trẻ em đi cùng. Tương tự, chăm lo cho bản thân mình trước Hoàn toàn không phải là một hành động ích kỷ. Bản thân mình phải hạnh phúc thì mới có thể làm cho những người xung quanh hạnh phúc. —ooOoo— Khi bạn tự biết trân trọng bản thân, Thế gian cũng sẽ bắt đầu trân trọng bạn. —ooOoo— Hãy trở thành một người tốt đối với chính bản thân mình. Giống như khi yêu ai đó, bạn luôn muốn được ở bên họ Ngày hôm nay hãy dành thời gian ở bên "bản thân" cũng rất xứng đáng được bạn yêu thương. Hãy mua cho mình món ăn ngon, cho mình đi xem một bộ phim hay, Và đưa mình đến một nơi phong cảnh đẹp. Hãy dành công sức cho bản thân như khi bạn dành công sức cho những người bạn yêu thương. Bạn thân mến Chính nhờ tự cảm thấy mình còn nhiều điều thiếu sót Nên bạn mới có thể rộng lòng hiểu cho người khác, Và biết nỗ lực hơn vì những thiếu sót đó Để rồi cuối cùng chạm đến thành công. Chúng ta, đừng ghét bỏ những gì mình còn thiếu sót Mà hãy một lần nhìn nhận chúng với sự biết ơn. —ooOoo— Dù bản thân có nhược điểm cũng không sao. Làm sao chúng ta luôn giữ cuộc đời mình sạch sẽ như một con hạc trắng được? Trong cuộc sống nhiều khi ta không tránh khỏi để lại những vết sẹo trên cơ thể, tâm hồn, và cả trong những mối quan hệ. Thay vì một cuộc sống không vết nhơ vì không làm gì cả do lo sợ gây ra lỗi lầm Hãy chọn cuộc sống mà bạn có thể trưởng thành giữa những thất bại và tổn thương. Và hãy nói thật lớn với bản thân đang nỗ lực của mình rằng "Tôi, yêu bạn rất rất nhiều." Ai cũng có một nỗi niềm trong lòng Không thể dễ dàng bày tỏ với người khác. Nỗi đau vì chuyện gia đình, cảm giác tự ti luôn giấu kín, một căn bệnh không thể tiết lộ, Hay sự tổn thương trong những mối quan hệ, một trách nhiệm nặng nề không thể né tránh Nhưng chính sức nặng của nỗi niềm đó sẽ giúp ta không hành động ngông cuồng mà luôn khiêm tốn, Hiểu người khác hôn và luôn cố gắng sống đẹp hơn mỗi ngày. Con người ta, vẻ bề ngoài không phải là tất cả. —ooOoo— Chắc hẳn có những lúc bạn cảm thấy ghen tị Khi nhìn thấy hình ảnh vui vẻ của bạn bè đăng trên mạng xã hội? Nhưng đừng ghen tị quá nhiều. Một trong những sai lầm thường gặp nhất của chúng ta Là so sánh hình ảnh bên ngoài của bạn bè với hình ảnh bên trong của chính mình. Chúng ta đâu biết nội tâm của người kia thế nào? Chưa biết chừng người ấy cũng đang nhìn vẻ bề ngoài của bạn mà ghen tị nhiều lắm đấy. Có bao giờ bạn cảm thấy tự ti vì người anh họ luôn giỏi giang hơn mình? Sẽ luôn có một người anh họ học giỏi hơn bạn, theo học một trường đại học danh giá hơn trường bạn và làm ở công ty tốt hơn công ty bạn. Thế nhưng vốn dĩ phải chờ đến khi nhắm mắt xuôi tay ta mới biết được hết giá trị của cuộc đời. Chuyện học hành, trường lớp, nơi làm việc có thể là những thước đo khiến bạn ghen tị lúc này Nhưng khi bạn có tuổi, những thứ ấy sẽ chẳng còn to tát nữa. Ai biết hài lòng và sống cuộc sống của chính mình, đó mới là người chiến thắng. —ooOoo— Con người ta thiếu sức hút không phải vì những điểm yếu, những điều họ cảm thấy mình thua kém người khác, Mà chính là vì khi cảm thấy thua kém người khác, họ sẽ tự xấu hổ về bản thân, và điều đó làm mất đi sức hút của họ. Nếu bạn tự tin và cảm thấy thoải mái với bản thân mình, thì những điểm yếu ấy sẽ chẳng phải điều gì to tát đáng bận tâm. Sự tự tin chính là sức hút của bạn đấy. "Không nhất thiết phải là người giỏi nhất. Là hạng hai, hạng ba thì đã sao? Tôi vui khi thấy mình luôn nỗ lực thế này. Tôi sẽ yêu thương bản thân mình nhiều hơn nữa." Hãy luôn tự nói với mình như thế. —ooOoo— Nếu bạn liên tục bận tâm về những điều người khác chê bai Thì bạn sẽ tự thu mình lại và dần dần không thể làm bất cứ việc gì nữa. Đó chính là điều họ muốn thấy ở bạn. Đừng giao chìa khóa cuộc đời mình cho những người chê bai bạn. Mỗi khi nghe thấy tiếng họ, bạn hãy nói thật to rằng "Hãy xem ai mới là người đúng! Nhờ có các người, tôi sẽ càng cố gắng hơn nữa!" —ooOoo— "Tại sao tôi phải hủy hoại cuộc sống của chính mình Chỉ vì lời chê bai từ những người không biết rõ về tôi?" - Hong Seok Cheon Khi những lời đàm tiếu về bạn hiện lên trong tâm trí Nếu bạn tin vào những lời ấy Thì từ giây phút đó chúng sẽ bắt đầu chi phối bạn. Chỉ vì những lời đó xuất hiện trong tâm trí bạn không có nghĩa chúng đều là sự thật. Đừng quên rằng chúng không phải là suy nghĩ của bạn, và đừng để bị chi phối bởi chúng. —ooOoo— Khi bạn nghe thấy bên trong mình cất lên tiếng nói "Ngưoi vốn dĩ có biết vẽ bao giờ đâu" Thì lúc đó bạn nhất định phải vẽ nhiều hơn nữa. Tiếng nói đó sẽ im lặng ngay thôi. - Vincent van Gogh —ooOoo— Chúng ta được yêu thương không phải vì chúng ta làm tốt điều gì đó. Chỉ riêng sự tồn tại của chúng ta thôi cũng đã đáng được yêu thương rồi. Hãy tự coi trọng và biết yêu thương chính bản thân mình. Có chút thiếu sót, có chút lỗi lầm cũng không sao. Cho dù ta không hoàn hảo theo những quy chuẩn, những thước đo của thế gian Sự tồn tại của chúng ta đã là thứ có giá trị và đáng được yêu thương rồi. Khi đến Ấn Độ, bạn sẽ thấy người ta chào nhau bằng câu "Namaste." Thật ra "Namaste" là một câu nói có ý nghĩa rất đẹp và sâu sắc. "Điều thiêng liêng bên trong tôi Xin được cúi đầu chào điều thiêng liêng bên trong bạn." Bản thân mỗi người chúng ta Đã là sự tồn tại vĩ đại và thiêng liêng hơn chúng ta nghĩ, rất nhiều. Mời các bạn đón đọc Yêu Những Điều Không Hoàn Hảo của tác giả Hae Min.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Viên Ngọc Trai - John Steinbeck
Viên Ngọc Trai, có bản dịch khác với tựa Viên Trân Châu, là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng của John Steinbeck. Vì bài học có giá trị nhân văn của nó, nó đã được dùng để giảng dạy trong trường trung học cơ sở ở một số nơi trong Hoa Kỳ. Giống như bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền trong dân gian, “Viên ngọc trai” cũng đề cập đến hai vấn đề muôn thuở: Thiện và ác – Bóng tối và ánh sáng. Phàm đã mang kiếp con người, có lẽ ai cũng sẽ thuộc về một trong hai thái cực ấy. Ranh giới giữa thiện và ác rất mong manh, nó nằm trong bản chất nội tại của con người, lệch 1 chút về phía ánh sáng sẽ là “người”, nghiêng nhiều về phía bóng tối sẽ trở thành “con”. Từ đó, con người nhất định sẽ là con người tốt hoặc phải là một kẻ vô lại theo quan niệm chung của nhân loài. Và hiển nhiên là không có điều gì có thể thay đổi được định luật này cả. “Viên ngọc trai” – một câu chuyện ngụ ngôn đầy ý nghĩa, tuy có phần trừu tượng nhưng John Steinbeck đã xây dựng một tiểu thuyết với kỹ năng đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu, không chỉ hoàn thiện về ý nghĩa biểu tượng mà còn sắc bén với những chi tiết rõ nét, như được quay qua một ống kính máy ảnh. Viên Ngọc Trai có một bài học đạo đức cao bao gồm một cuộc sống của một người nông dân bình thường đã có một chút lòng tham đã đem lại điều đau khổ, thậm chí còn nghèo khổ và mất mát nhiều hơn trước khi anh có Viên Ngọc Trai. Cuốn tiểu thuyết đã cho chúng ta cái nhìn qua nhân vật thầy tu, đã tham gia vô sự đàn áp dân chúng. Cuốn truyện con nhắn cho chúng ta về sự ác bức và sự phân biệt chủng tộc qua đời sống của một thường dân. Viên Ngọc Trai, chỉ là một thứ nằm trong lòng bàn tay đã có thể mang tới cái chết và hủy diệt của một gia đình hiền hòa được mọi người yêu mến. Kino chỉ nhìn thấy một tương lai giàu có mà Viên Ngọc Trai sẽ mang lại, tuy nó mang lại sự thịnh vượng có hạn nhưng nhiều người tin rằng nó có năng lực tột cùng. *** John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Trong thị trấn ấy người ta vẫn kể lại câu chuyện về một viên ngọc trai thật quái đản - về xuất sứ như thế nào nó được tìm thấy cũng như lý do tại sao nó lại bị mất đi. Người ta kể về Kino, một người đàn ông sống bằng nghề thuyền chài, cùng với vợ của anh là chị Juanna. Đứa con nhỏ bé của họ là Coyotio. Câu chuyện được kể đi kể lại nhiều lần, cuối cùng đã bén rễ, ăn sâu vào tâm trí của những con người sinh sống nơi đây. Giống như bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền lại từ ký ức của con người khác, câu chuyện này nhắc đến hai điều: Thiện và Ác. Bóng đêm và ánh sáng. Cái tốt và sự Quỷ quyệt. Phàm đã mang kiếp con người, ai cũng sẽ thuộc về một trong hai thái cực ấy. Khó mà có chuyện anh bạn sẽ là người ba phải. Anh bạn nhất định sẽ là con người tốt hoặc phải là một kẻ vô lại. Tất nhiên là không có điều gì thay đổi được định luật này cả. Nếu câu chuyện về viên ngọc trai sắp đuợc kể ra dưới đây, như là một chứng tích hay là một câu truyện ngụ ngôn, hy vọng bạn có thể sẽ sẽ rút ra được cho mình một bài học ý nghĩa riêng biệt. Bạn sẽ thấy mình là một nhân vật của câu chuyện. Tóm lại như thế này, trong một làng chài bình dị ấy, người ta kể rằng... Mời các bạn đón đọc Viên Ngọc Trai của tác giả John Steinbeck.
Trăng Lặn - John Steinbeck
John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Tin tức được lan truyền mau chóng trong thị trấn, qua những lời thầm thì trước cửa, bằng cái liếc nhanh đầy ngụ ý― “Thị trưởng bị giam giữ”. Khắp cả thị trấn lan ra một sự rộn ràng thầm lặng, một sự rộn ràng nhỏ nhoi nhưng mãnh liệt; người ta tụm lại thầm thì trò chuyện với nhau rồi tản đi; người đi mua thực phẩm nghiêng đầu sát vào người bán hàng và trong khoảnh khắc họ trao nhau lời nói. Dân chúng đi vào đồng ruộng, vào những khu rừng, tìm kiếm chất nổ. Và những đứa trẻ chơi đùa trong tuyết cũng tìm thấy chất nổ, đến lúc này cả những đứa trẻ cũng biết đến những lời chỉ dẫn. Chúng mở gói hàng, ăn phần sô-cô-la, và sau đó chúng chôn những thanh chất nổ trong tuyết rồi nói lại cho cha mẹ chúng vị trí chôn dấu. Ở tận ngoài đồng xa một người nhặt được ống chất nổ, hắn đọc lời chỉ dẫn và tự nói với mình, “Không hiểu nó có nổ được không.” Hắn cắm ống chất nổ vào trong tuyết và châm mồi, rồi vừa chạy lui ra xa vừa đếm. Nhưng hắn đếm hơi nhanh, nó nổ khi hắn đếm được đến 68. Hắn nói, “Ðược đấy,” rồi hắn vội bỏ đi, tìm những ống chất nổ khác. Gần như là có một hiệu lệnh, dân chúng đi vào trong nhà và đóng cửa lại, đường phố lặng ngắt. Ở hầm mỏ, quân lính cẩn thận lục soát từng người thợ đi vào trong hầm, lục soát rồi lại lục soát, và quân lính trở nên cáu kỉnh, cộc cằn, họ nói với những người thợ mỏ bằng những lời lẽ thô bạo. Những người thợ nhìn họ bằng ánh mắt lạnh căm, và đằng sau ánh mắt ấy có chút ít sôi sục rộn ràng. Trong phòng khách của dinh Thị trưởng chiếc bàn đã được dọn dẹp sạch sẽ, một người lính đứng gác ở ngay trước cửa phòng ngủ của Thị trưởng. Annie đang quì trước vỉ lò sưởi, gắp từng mẩu than bỏ vào lò. Bà ngước lên nhìn người lính gác đang đứng trước cửa phòng Thị trưởng Orden và bà nói với hắn bằng giọng gay gắt, “Này, mi làm cái gì với ông ấy đây?” Người línhh không trả lời. Cánh cửa ngoài mở ra một người lính khác bước vào, hắn nắm cánh tay của Bác sĩ Winter. Hắn đưa Bác sĩ Winter vào, đóng cánh cửa lại, đứng bên trong phòng chắn ngay trước cánh cửa. Bác sĩ Winter nói, “Chào Annie, Ðức ông khoẻ chứ?” Và Annie chỉ vào phòng ngủ nói, “Ông ấy ở trong đấy.” “Ông ấy không bệnh chứ?” Bác sĩ Winter nói. “Không, ông ấy chẳng có vẻ gì bệnh cả,” Annie nói. “Ðể tôi coi thử, có thể nói ông ấy biết là Bác sĩ ở đây.” Bà bước đến người lính gác và nói như ra lệnh. “Nói với Ðức ông là Bác sĩ Winter ở đây, mi có nghe không?” Người lính gác không trả lời và không cử động, nhưng từ phía sau, cách cửa mở và Thị trưởng Orden đứng ở ngưỡng cửa. Ông đi lướt qua, không để ý đến người lính, bước vào trong phòng. Trong thoáng chốc người lính như có ý kéo ông trở lại, nhưng rồi hắn qua lại vị trí cũ bên cạnh cửa. Orden nói, “Cám ơn, Annie. Ðừng đi xa đấy? Tôi có thể cần đến bà.” Annie nói, “Không đâu, thưa ngài. Phu nhân khoẻ chứ?” “Bà ấy đang làm tóc. Bà có muốn gặp bà ấy không, Annie?” “Vâng, thưa ngài,” Annie nói, và bà lại đi lách qua người lính gác, vào trong phòng ngủ, đóng cửa lại. Orden nói, “Ông có cần gì không Bác sĩ?” Winter nhếch môi cười mỉa mai và chỉ ra về người lính đứng phía sau lưng. “Vậy đấy, tôi đoán là tôi đã bị bắt. Ông bạn này dẫn tôi đến.” Orden nói, “ Tôi nghĩ rồi cũng đến nước này thôi. Tôi tự hỏi họ sẽ làm gì đây?” Hai người nhìn nhau một lúc lâu và người này chợt hiểu người kia đang nghĩ gì. Rồi Orden nói tiếp như ông chưa từng ngừng lời. “Ông biết không, tôi không thể ngăn được chuyện đó cho dù tôi có muốn đi nữa.” “Tôi biết,” Winter nói, “nhưng bọn họ thì không.” Ông nói tiếp điều ông đang suy nghĩ. “Một dân tộc coi trọng giờ giấc,” ông nói, “và giờ giấc đã gần điểm. Họ nghĩ rằng chỉ vì họ chỉ có một lãnh tụ và một cái đầu nên họ cho tất cả chúng ta cũng như vậy. Họ biết nếu mười cái đầu bị chặt đi họ sẽ bị tiêu diệt, nhưng chúng ta là những người tự do, chúng ta có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu cái đầu, và đến lúc cần những lãnh tụ sẽ mọc lên trong chúng ta như nấm.” Orden đặt tay lên vai của Winter và ông nói, “Cám ơn. Tôi biết điều đó, nhưng nghe ông nói thật hay. Dân chúng thấp bé kia sẽ không bị khuất phục, đúng không?” Ông bồn chồn nhìn khuôn mặt của Winter dò hỏi. Bác sĩ Winter khẳng định với ông, “Sao, không, không đâu. Sự thực là họ sẽ trở nên lớn mạnh hơn với sự giúp đỡ từ bên ngoài.” Căn phòng im lặng một lát. Người lính gác hơi chuyển thế đứng, cây súng va vào một hạt nút nghe lanh canh. Orden nói, “Tôi có dịp nói chuyện với ông, Bác sĩ, và có lẽ tôi sẽ không thể nói chuyện với ông lần nữa. Trong đầu tôi đã nghĩ đến những điều hơi hổ thẹn.” Ông ho và liếc nhìn người lính đang đứng nghiêm, nhưng người lính không có vẻ nghe thấy gì hết. “Tôi đã nghĩ đến cái chết của tôi. Nếu họ cứ theo trình tự thông tường, họ phải giết tôi, và họ sẽ phải giết ông.” Và khi thấy Winter im lặng, ông nói, “Ðúng không?” “Ðúng, tôi đoán vậy.” Winter bước đến bên một chiếc ghế bịt vàng, vừa lúc sắp ngồi xuống, để ý thấy thảm bọc ghế bị rách, ông dùng ngón tay vuốt chỗ đệm ngồi như thể làm vậy sẽ vá nó lại được. Ông se sẽ ngồi xuống vì chiếc ghế đã rách. Orden nói tiếp, “Ông cũng biết, tôi sợ, tôi đã từng nghĩ những phương cách để trốn thoát, phủi tay. Tôi đã từng nghĩ đến việc bỏ chạy. Tôi đã từng nghĩ đến việc van xin tha mạng, và chuyện ấy làm tôi hổ thẹn.” Mời các bạn đón đọc Trăng Lặn của tác giả John Steinbeck.
Phía Đông Vườn Địa Đàng
Phía đông vườn địa đàng là câu truyện của những người Mỹ, khoảng những năm từ nửa cuối thế kỷ trước đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tác giả cho nó diễn ra ở chính quê hương mình.  Tiểu thuyết được xuất bản năm 1952. Có thể là nhà văn đã thai nghén nó trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai. Phải chăng cuộc “người tàn sát người” khủng khiếp ấy đã làm cho Steinbeck băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống, về bản chất của con người và cố tìm ra lời đáp.  Phía đông vườn Địa đàng, đây là cuốn truyện về con người. Nhận vật trung tâm mang cái tên Adam, con người đầu tiên của nhân loại. Với nó nhà văn muốn đặt cơ sở cho một chủ nghĩa nhân đạo hữu hiệu. Steinbeck khẳng định niềm tin vào con người, vào cuộc sống, nhưng không phải một niềm tin lý tưởng hóa. Niềm tin ấy phải là cái cây đứng chắc, bắt rễ sâu vào miếng đất thực tế có cả đất màu mỡ lẫn sỏi đá, biết tránh sỏi đá, hút màu mỡ mà sinh trái ngọt. *** John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Cách đây mấy năm, tôi có dịp nói chuyện với một giáo sư người Mỹ. Ông được giới thiệu là một nhà Việt Nam học. Trong lúc trò chuyện, tôi đặt một câu hỏi: “Tôi không hiểu tại sao nhà văn John Steinbeck lại ngồi trên phi cơ bay trên trời Việt Nam và ca ngợi những phi công ném bom nhân dân nước tôi?” Ông trả lời: “Đừng nói đến John Steinbeck nữa. Bây giờ thanh niên Mỹ không ai đọc ông ta nữa. Ông ta lẩm cẩm rồi.” Nói thế, không biết vì muốn làm vui lòng tôi, hay vì là nhà Việt Nam học, tự nhiên ông đứng về phía Việt Nam. Tôi chắc lý do thứ hai đúng hơn, ông tỏ ra là một người thẳng thắn. Nhưng câu trả lời không khiến tôi vui, mà làm tôi suy nghĩ. Tôi hiểu rằng thanh niên Mỹ bây giờ không đọc John Steinbeck nữa không phải vì họ bất bình về việc nhà văn ủng hộ ném bom Việt Nam. Chính ông giáo sư Việt Nam học ấy đã nói thanh niên Mỹ thuộc thế hệ sau chiến tranh Việt Nam hầu như không ai biết Việt Nam là gì. Vậy thì, không đọc John Steinbeck nữa, ấy là vì họ cho rằng nhà văn đã cổ lỗ rồi, không hợp thời nữa. Thanh niên Mỹ ưa chạy theo “mốt”. Nếu đúng như thế, thật đáng buồn. Vì tác giả củaChùm nho uất hận,Chuột và ngườivàPhía đông vườn Địa đàngmà chúng ta đang đọc đây là một nhà văn nhân văn chủ nghĩa. Các tác phẩm vừa kể mang giá trị nhân đạo cao cả. Đó là những tác phẩm làm vinh dự cho dân tộc Mỹ. Nếu thanh niên Mỹ bây giờ thấy những tư tưởng ấy là “lẩm cẩm” thì thật đó là một điều không hay. Nhưng tôi không tin là có điều ấy. Tôi vẫn thấy tác giảChùm nho uất hậnlà đáng kính mến. Bây giờ nói vềPhía đông vườn Địa đàng. Nghĩ về người Mỹ, người ta nghĩ ngay đếnchủ nghĩa thực dụng. Phương Tây cho là như thế. Đích thân người Mỹ cũng tự cho mình như thế. Tất nhiên là có nhiều cách hiểuchủ nghĩa thực dụngkhác nhau. Ta thì nói:chủ nghĩa thực dụng Mỹ, với ý phê phán. Đại khái như thế này: người Mỹ cái gì cũng tính toán bằng tiền. Ngồi với nhau, ai có thuốc lá thì lấy ra hút, không mời người khác. Bàn việc, hỏi ngay phần tôi bao nhiêu, phần anh bao nhiêu. Bố con mượn tiền nhau cũng là vay trả sòng phẳng. Đến những việc lớn hơn, Mỹ sản xuất vũ khí, buôn bán vũ khí, chỉ nhằm thu lợi nhuận, bất cần nhân nghĩa, đạo lý “sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi.” Đối với Mỹ chẳng có gì thiêng liêng hết, họ đem tất cả ra làm quảng cáo, để bán hàng v.v... Ta nhìn nhận Mỹ như vậy là có lý do. Ta thù ghét Mỹ. Ta và Mỹ đã gặp gỡ nhau trong những trường hợp không có gì vui vẻ. Những người Việt Nam ở miền bắc, ở các vùng kháng chiến miền nam đã bị bom đạn Mỹ gây cho biết bao nhiêu đau thương tang tóc. Những người trong các vùng đô thị thì căm giận các cuộc bố ráp, những cuộc tra khảo, những tai nạn lính Mỹ gây ra trên đường phố, những phụ nữ bị lính Mỹ xúc phạm đến nhân phẩm, những thanh niên hư hỏng vì “lối sống Mỹ”. Tất cả những cái đó ta quy tội chochủ nghĩa thực dụng Mỹ. Nó đồng nghĩa vớibần tiện, tham lợi, tàn nhẫn, phi nhân. Cũng có thể đó là những biểu hiện sai xấu củachủ nghĩa thực dụngnhưng không nên hiểuchủ nghĩa thực dụng chỉ là như vậy. Nói một cách cô đúc thì nội dung căn bản củachủ nghĩa thực dụnglà ở điểm, chỉ thừa nhận các chân lý của một lý thuyết sau khi đã thể nghiệm nó trong ứng dụng vào thực tế. Nguyên lý này được dùng cho cả khoa, triết lý, đạo đức, tôn giáo. Chỉ được coi là chân lý, một nền triết lý, một nền đạo đức, một tôn giáo có tác dụng cải thiện cuộc sống. Như vậy chủ nghĩa thực dụng là mộttriết học vị nhân sinh. Nước Mỹ là một nước mới, lịch sử chỉ có hơn hai trăm năm. Những người dân ở Âu châu, Á châu, Úc châu đến đây tổ chức một xã hội mới. Ở xứ sở của họ, họ sống trong những khuôn khổ đã định hình từ bao nhiêu đời trước. Họ suy nghĩ phán đoán theo những nếp cũ, theo truyền thống. Đến vùng đất mới này, mọi cái đều mới mẻ. Những người đến đầu tiên tập mình làm trọng tài cho mình. Họ không có cách nào khác là lấy hiệu quả để đánh giá những chủ trương, những việc làm của mình và điều này trở thành một lối tư duy của người Mỹ. Rõ ràng là trong tiểu thuyếtPhía đông vườn Địa đàng John Steinbeck đã chấp nhận lối tư duy ấy và khẳng định nó. Tác phẩm của ông đầy sức thuyết phục. Giả sử ông là triết gia và trình bày chủ nghĩa thực dụng bằng triết học chưa chắc ông thuyết phục được mạnh mẽ. Nhưng ông là nhà văn, và tiểu thuyết chính là bức tranh phản ánh cuộc sống cho nên chính cuộc sống chứng minh và như thế không ai chối cãi được. Tuy nhiên, để điều vừa nói không bị nghi ngờ, tôi cần phải nói về bút pháp của Steinbeck. Tiểu thuyết Mỹ, chí ít là tác phẩm của tiểu thuyết gia tiêu biểu, thể hiện một tính hiện thực rất trội. Có những cuốn có giá trị như một công trình nghiên cứu xã hội học, nhân chủng học (tất nhiên là bằng văn chương cho nên có thể còn rõ ràng hơn là khoa học nữa vì sinh động hơn, cụ thể hơn, tỉ mỉ hơn). Chúng không chỉ khảo sát một quãng đời mà cả cuộc đời, có khi từ đời nọ sang đời kia. Nhưng chẳng phải vì vậy mà chúng dày cộm, rậm rạp. Và đấy chính là chủ nghĩa thực dụng áp dụng vào lĩnh vực viết văn. Trong cuốn tiểu thuyết ta đang đọc đây Steinbeck theo dõi những nhân vật từ đời cha đến đời con. Ông chú ý đến từng chi tiết rất nhỏ, nhiều khi người đọc phải ngạc nhiên không biết ông làm thế nào mà quan sát được tinh tế như thế. Nhưng ông lại bỏ qua rất nhiều hành động, lời nói, tình huống mà thường thường nhiều tiểu thuyết gia đưa vào tác phẩm. Nghĩa là ông chọn chi tiết trên hiệu quả thực tiễn mà nó mang lại. Sự chọn lọc này thật khe khắt. Đọc sách, người ta thấy ông trình bày rất khách quan. Người ta không thấy có dụng ý gì muốn lái độc giả theo hướng này hướng khác. Đôi khi ông cũng phát biểu ngoài lề những ý kiến của ông. Nhưng những ý kiến ấy cũng thật khách quan, đúng là cuộc sống như vậy, ông chỉ phiên dịch lại trung gian. Nhưng Steinbeckkhách quanmà khôngkhách quan chủ nghĩa. Tôi muốn nói: người ta không thấy ở ông sự vô tình, thái độ trối kệ. Tôi phải so sánh cho rõ ý: ĐọcCuốn theo chiều giótôi thấy tác giả miêu tả rất trung thực, nhưng tôi vẫn cảm thấy ngòi bút hiện thực ấy hơi tàn nhẫn. Thuyền trưởng Butler có cái đầu óc thực tế rất hay, nhưng đối với Scarlett quả là ông đối xử quá tàn nhẫn. Tác giảNhững kẻ trần truồngvànhững người chếtcũng rất hiện thực, tôi không trách gì ông, nhưng ông cố ý phơi bày những mảng hiện thực kinh tởm quá. Vấn đề lànhìn hiện thực một cách hiện thực, nếu có thể nói như vậy. Cái hiện thực mà John Steinbeck trình bày, không bị tàn phế, uốn nắn chút nào, đầy những trầm luân khổ ải, nhưng nó không dọa nạt khủng bố người đọc mà làm cho người ta chấp nhận được. Chẳng phải là trong thực tế người ta vẫn sốngđượcvới đau khổ đó sao. Ta hãy nhớ lại bài thơ ngụ ngôn của La Phông-TenTử thần và tiều phu. Những người Mỹ đứng đắn thường bày tỏ thành thực cái ý muốn của họlàm cho cuộc sống có thể chịu đựng được. Nói thế nghĩa là: cuộc sống không chỉ có hoa thơm trái ngọt đâu, rất nhiều cay đắng nhưngcó thể chịu đựng được. Và người Mỹ thường có một phương châm, coi như một cách ngôn:Hãy giữ nụ cười. Cuộc sống là cuộc sống. Nó như thế. Vậy thì nhăn nhó cau có cũng chẳng thay đổi được gì. Tốt hơn là hãy giữ lấy nụ cười. Đó là chủ nghĩa thực dụng. Nó không phải dở, hay là khác. John Steinbeck chọn hai nhân vật để thuyết minh cho tư tưởng của ông. Hai con người bình thường. Một là ông Samuel Hamilton nguồn gốc Ái Nhĩ Lan nông dân, có nghề lò rèn và kiêm nghề đào giếng. Một là Lee nguồn gốc Trung Hoa, nấu bếp. Dường như John Steinbeck gửi gắm một ý nghĩ vào trong sự chọn lựa của mình: một người đơn giản hồn nhiên kiểu trẻ thơ, và một người đã được thừa kế, một gia tài khôn ngoan của một nền văn hóa lâu đời vào bậc nhất trên hành tinh này. Hai người gặp nhau thống nhất với nhau trong một quan niệm: chỉ có thực tiễn là chân lý. Thêm vào đó, tác giả lại viện dẫn Sáng thế ký của Kinh Thánh mà ông cho là người Trung Hoa đã tìm ra nghĩa đúng nhất. Đó là đem chúa Trời nói với Cain “Nếu người làm lành há chẳng ngước mặt lên sao? Còn như chẳng làm lành thì tội lỗi rình đợi trước cửa thềm người lắm, nhưng ngươi phải quản trị nó.” Phải quản trị nó trong nguyên văn hê-brơ, là Timshel. Theo LeeTimsheldịch làquản trịhaykiềm chếđều không đúng mà, phải dịch làngươi có thể chế ngự nó. Steinbeck dùng chi tiết này không phải do yêu cầu của nghĩa chữ mà chính là để nêu lên một quan niệm xử thế như bàn dưới đây. Hơn một thế kỉ nay, từ lúc các nước phương Tây đi chiếm các thuộc địa ở các nước phương Đông, có những triết gia, chính trị gia, nhà văn đặt câu hỏi: Phương Tây và phương Đông có thể gặp được nhau không? Trên thực tế, họ cũng gặp nhau rồi, đúng hơn là phương Tây đã gặp phương Đông bằng thế mạnh 1 Câu hỏi đặt ra là muốn có sự gặp gỡ tự nguyện kia. Nhiều câu trả lời khác nhau. Về phía phương Tây có người bảo có thể được. Có người bảo Tây là Tây, Đông là Đông không thể gặp nhau. Có người đề xuất công thức: Phương Tây là thầy, phương Đông là trò. Với nhân vật Lee, Steinbeck có câu trả lời độc đáo: Lee làđầy tớ trung thànhvà là thầy dạy khôn cho chủ. Không rõ nhà văn có đọc các truyện xưa của Trung Hoa không mà ông đã xây dựng nhân vật Lee như một quân sư, một mưu sĩ, một môn khách? Steinbeck tỏ ra rất hiểu phương Đông, rất hiểu cái thâm thúy của triết học, văn hóa Trung Hoa mà ông khâm phục. Nhân vật Lee, nhà văn xây dựng thật hay. Tim shel – ngươi có thể chế ngự nó: ấy là tư tưởng chỉ đạo của cuốn tiểu thuyết. Mỹ châu vốn là nơi tao ngộ của tứ hải anh hùng. Nói nôm na hơn và đúng với sự thực: tìm đến lập nghiệp ở nước Mỹ là những người thuộc nhiều quốc gia, nhiều màu da, có chung một cảnh ngộ bị thất cơ lỡ vận, không còn sống ở quê hương xứ sở mình. Cái cảnh ngộ chung ấy dạy họ nên biết chấp nhận những dị biệt của nhau, có khi những sự đối chọi nhau nữa, để chịu đựng, để sống chung với nhau trên miếng đất có thừa điều kiện để nuôi tất cả. Các nhà văn Mỹ thường có cái nhìn thực tế, nói là thực dụng cũng được đối với con người. Con người rất đa dạng, bao nhiêu người là bấy nhiêu mô hình, không ai có quyền áp đặt cái mô hình của mình cho người khác. Con người không phải làthầncũng không phải làquỷ, có cả xấu lẫn tốt, xấu hay tốt đều là tương Steinbeck cố ý đưa vào trong tiểu thuyết câu truyện trong Kinh Thánh về hai anh em sinh đôi Abel và Cain một tốt, một xấu và đặt cho hai nhân vật của ông là Aron và Cal cùng là anh em sinh đôi, hai cái tên gần giống như trong Kinh Thánh. Phải chăng tác giả muốn nói Abel cũng là con người, và Cain cũng là con người. Con người là cả Abel lẫn Cain, cái nghiệp dĩ là như vậy, phải chấp nhận thôi. Hơn thế, nhà văn lại có ý dành tấm lòng ưu ái của mình cho những người bị coi là xấu. Trong tiểu thuyết có hai tuyến nhân vật: Tốt, xấu. Adam, Aron được mô tả như những con người tốt. Họ muốn làm những việc tốt, họ nuôi trong tâm trí một lý tưởng. Nhưng họ chỉ thu hoạch được những thất bại mà chính khuynh hướng lý tưởng hóa là nguyên nhân. Còn những nhân vật bị coi là xấu thì lại thành công trong mọi việc làm. Bên cạnh Adam rất tốt là Cathy, vợ chàng, cực xấu. Cô lừa dối tất cả mọi người và ai cũng bị lừa. Bên cạnh Aron luôn luôn hướng về mục đích thánh thiện là người em Cal luôn luôn bị những ý tưởng xấu điều khiển và Cal bao giờ cũng đạt kết quả. Nhưng ta chớ vội tưởng Steinbeck chủ trươngác thắng thiện. Cuốn tiểu thuyết cho ta thấy những thành công của Cathy, Cal đem lại cho họ không phải sự sung sướng mà là sự đau khổ. Nhà văn muốn nói với chúng ta rằng: Cuộc sống là cuộc sống, nó không uốn theo những ý tốt của chúng ta đâu, đừng lý tưởng hóa. Bởi vì ta lý tưởng hóa cho nên ta liệt người này người khác vào loại xấu. Thực ra họ chỉ là sản phẩm khách quan của cuộc sống. Nếu ta biết nhìn họ một cách thực tế, không định kiến thì ta sẽ thấy họ đều có khả năng chế ngự cái phần xấu ở họ. Nhà văn đã nhờ người bếp Trung Hoa làm phát ngôn nhân cho ông. Lee nói với Cal: “Chú đã nhận ra rằng những điều thiêng liêng đễ bị tiêu diệt, trong khi điều ác lại cứ tồn tại và phát triển. Chú nghĩ rằng cơn thịnh nộ của Thượng đế đã trút lửa từ nồi kim loại nấu lỏng xuống hủy diệt hết để làm cho thanh khiết công trình nhỏ bé bằng bụi đất do ngài đã nặn ra... Mỗi người trong mỗi thế hệ đều được tầy uể bằng lửa... Không một người nào trên đời này tránh khỏi nguyên tắc đó nếu muốn trở nên một người hoàn toàn.” Mỗi người trong mỗi thế hệ đều cần được tẩy uế... cho nên cuộc sống yêu cầu mỗi người phải khoan dung, độ lượng với đồng loại của mình. Sự khoan dung độ lượng ấy là cần thiết, là yếu tố quyết định để mỗi người có thề vượt qua thử thách và hoàn thiện mình. Lee cầu xin ông Adam: “Ông Adam, xin ông hãy tha thứ cho Cal. Đừng để nó cô độc vì mặc cảm tội lỗi... Xin ông hãy giúp nó. Hãy cho nó một cơ hội. Hãy giải tỏa mặc cảm cho nó. Nhờ đó nó sẽ vượt được mọi thử thách, hãy giải thoát cho nó. Hãy tha thứ cho nó.” Đó là mấu chốt của vấn đề. Nhà văn bày tỏ một quan niệm sống rất nhân đạo, một chủ nghĩa nhân đạo không phải trên lý thuyết xa vời, đẹp thì có đẹp nhưng vô ích vì không thể vươn tới được, mà một chủnghĩa nhân đạothực tiễn, nói là thực đụng cũng được, phù hợp với kích thước, hoàn cảnh của con người. Phía đông vườn địa đànglà câu truyện của những người Mỹ, khoảng những năm từ nửa cuối thế kỉ trước đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tác giả cho nó diễn ra ở chính quê hương mình. Tiểu thuyết được xuất bản năm 1952. Có thể là nhà văn đã thai nghén nó trong thời kì chiến tranh thế giới lần thứ hai. Phải chăng cuộc “người tàn sát người” khủng khiếp ấy đã làm cho Steinbeck băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống, về bản chất của con người và cố tìm ra lời đáp. Phía đông vườn Địa đàng, đây là cuốn truyện vềcon người. Nhận vật trung tâm mang cái tên Adam, con người đầu tiên của nhân loại. Với nó nhà văn muốn đặt cơ sở cho một chủ nghĩa nhân đạo hữu hiệu. Steinbeck khẳng định niềm tin vào con người, vào cuộc sống, nhưng không phải một niềm tin lý tưởng hóa. Niềm tin ấy phải là cái cây đứng chắc, bắt rễ sâu vào miếng đất thực tế có cả đất màu mỡ lẫn sỏi đá, biết tránh sỏi đá, hút màu mỡ mà sinh trái ngọt. Trong phong trào đổi mới của ta hiện nayPhía đông vườn Địa đànglà cuốn sách nên đọc. 9-1988 Tuy xuất bản rất nhiều tác phẩm từ xã hội đến hoạt kê qua tình cảm, John Steinbeck tuyên bố rằng “Phía đông vườn Địa đàng”, là tác phẩm quan trọng nhất của ông. Quan điểm đó cũng được nhiều nhà phê bình đồng ý. Sau ngày xuất bản “East of Eden” cho đến khi ông được trao tặng giải Nobel về Văn Chương năm 1962, không có tác phẩm nào quan trọng hơn tác phẩm này. “East of Eden” sau khi xuất bản, đã được đạo diễn kiêm văn sĩ Elia Kazan quay thành phim và do James Dean, nam tài tử lừng danh quốc tế đóng vai chính cùng nữ tài tử Pier Angeli, mối thất vọng lớn của James Dean, khiến anh phóng xe đua hết tốc lực đến ngộ nạn tử thương; gây thương tiếc cho giới trẻ mộ điệu một dạo. Ở Mỹ, “East of Eden”, đã được tái bản gần bốn mươi lần và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài.   Mời các bạn đón đọc Phía Đông Vườn Địa Đàng của tác giả John Steinbeck.
Bí Mật Dầu Lửa - Robert Gaillard
Cuốn “Bí mật Dầu lửa” này tả đời mạo hiểm, gian lao của Đại tá khi ông đi tìm và đào mỏ dầu lửa đầu tiên ở làng Titusville, miền Pensylvanie. Ông được chàng Sam Smith giúp từ đầu chí cuối. Năm 1935, nghĩa là 76 năm sau, chàng còn sống và kể lại chuyện Đại tá cho những du khách du lịch tới thăm quê hương của dầu lửa. Tác giả, ông Robert Gaillard là một trong những khách du lịch ấy. Khi về Pháp, ông viết cuốn “Le secret de l’or noir” để chép lại chuyện đó. Ông tiểu thuyết hóa nó một chút, nhưng chuyện vẫn là chuyện thật. Khung cảnh trong chuyện là một miền mênh mông hoang vu giữa nơi rừng núi của dân Da đỏ Cherakee ở gần hồ Erié. Vai chính gồm năm người: - Đại tá Drake, có nhiều sáng kiến, cương quyết, chịu hy sinh cho khoa học và nhân loại, nhưng tính rất nóng nảy. - Chàng Sam, được lòng người Da đỏ, có chí làm giàu và một lòng tin vô biên ở Đại tá. - Ông già Smith, thân phụ chàng Sam, điềm tĩnh, mềm mỏng và rất có nhiều kinh nghiệm. - Nàng Marjorie vui vẻ và kiên nhẫn. - Và chàng Hoggan can đản, tận tâm vô cùng. Những đức tính của năm vai đó bổ túc lẫn cho nhau. Thiếu một người thì công việc không thành. Không có chàng Sam thì Đại tá không tới được miền có dầu lửa và cũng không được người Da đỏ giúp sức. Không có ông già Smith thì Đại tá nóng nảy quá, không biết mềm mỏng với thổ dân mà tất lỡ việc. Không có Hoggan kiếm thêm được tiền để mua khí giới và máy móc thì công việc phải bỏ dở. Và không có nàng Marjorie thì không ai đủ kiên tâm để đào tới lớp dầu hết. Nàng vui vẻ an ủi, khuyến khích, săn sóc mọi người. Mối tình của nàng với Sam thật êm đềm. Tác giả đã khéo tả, vừa cho ta cảm tưởng Marjorie là một nàng tiên trong những chuyện thần thoại vừa cho ta thấy địa vị quan trọng của đàn bà trong nhiều công việc phát minh của nhân loại. Một nhân vật khả ái nữa là Kaghmisham tù trưởng Da đỏ: chàng cùng với bộ lạc chống bọn người Mỹ khi ngờ họ lại chiếm đất đai, nhưng khi biết người Mỹ chỉ tìm dầu lửa thì chàng tặng cho bọn Đại tá Drake một cánh đồng dầu lửa để đáp ơn cứu sống chàng. Vì vậy, đọc truyện này, chẳng những các bạn trẻ biết được phong cảnh hoang vu và hùng vĩ của một miền ở Bắc Mỹ, biết cách mạo hiểm trong rừng sâu, biết đời sống và tính tình của một bộ lạc Da đỏ, mà còn học được những gương quyết tín ở sự thành công rực rỡ, hy sinh cho một lý tưởng cao cả không màng danh lợi, kiên nhẫn đi cho tới đích, biết cương quyết, nhưng cũng có lúc nên mềm mỏng và luôn luôn phải tập suy nghĩ, có óc sáng kiến. Có đủ bấy nhiêu đức thì mới thành công trong những việc lớn được. Thấy chuyện của Robert Gaillard đã hứng thú lại rất có lợi cho sự đào luyện nhân cách, cho nên tôi dịch lại để cống hiến các bạn thiếu niên một món giải trí bổ ích và mong rằng các bạn tập được tinh thần mạo hiểm của người phương Tây để sau này tìm kiếm khai thác những mỏ kim thuộc còn đương yên giấc ngủ hàng triệu năm trong lòng đất của non sông, tại miền thượng du Bắc Việt và dãy núi Trường Sơn ở Trung Việt. Và biết đâu đấy, một ngày kia các bạn chẳng đào được một mỏ dầu như Đại tá Drake, hoặc một mỏ… uranium nữa, để cải thiện đời sống của nhân loại chứ không phải để chế bom nguyên tử! Long Xuyên ngày rằm tháng chạp năm Tân Mão (1951) Nguyễn Hiến Lê *** Dược sư Peter Kier không phải như vố số ông lang băm hồi đó ở Mỹ, trộn đại vài vị thuốc không công phạt gì hết rồi nói rằng thuốc trị được bá chứng mà làm giàu một cách mau chóng. Không, “thánh dược” của ông, ông phải đích thân đi kiếm năm 1858 ở dãy núi Alleghanis. Ông phải chịu ngàn nỗi nguy hiểm, trốn tránh dân Da đỏ Delawares, chống cự với những thú dữ đói khát ; nhưng sau, chính Pontiac, vị Chúa Da đỏ đã ân cần tiếp đón ông và để tỏ tình thân thiện, lại tặng ông một chiếc khăn choàng thêu, một đôi giày da hoẵng.[1] Và cho một bọn hộ tống ông chở vị thuốc đó về Pittsburgh nữa. Các thân chủ của ông bấy giờ khát khao vị thuốc ấy lắm. Cho nên suốt ngày khách mua nườm nượp trước cửa tiệm nhỏ của ông trong đó ông bán đủ thứ: thuốc uống, đồ chơi, thức ăn. Chưa bao giờ ông buôn bán được phồn thịnh như vậy. Tại phía sau, Sam Smith, một thanh niên giúp việc ông ở Venango cùng về với ông, túi bụi đổ thuốc vào những ve 10 phân lít một. Chất dầu đen và nặng làm nhờn tay chàng và cái mùi băng phiến của nó làm cho chàng chóng mặt như say rượu, nhưng chàng không sao ngừng tay được vì làm không kịp, người mua đông quá. Mỗi ve nhỏ bán 2 xu mà thùng đựng tiền của ông Kier đầy nhóc bạc cắc. Từ mấy ngày nay ông khỏi phải hết hơi khoe như hồi đầu những tánh chất của vị thần dược của người Da đỏ đó nữa. Nhiều người đã thấy nó linh nghiệm rồi, khỏi cần phải quảng cáo. Vả lại ông khôn khéo, cho in những tờ cáo bạch rồi thuê tụi nghèo đói rách rưới đi phát cùng đường ở châu thành Pittsburgh. Trong tờ cáo bạch ông tuyên bố: “Bà con có đau bệnh gì, cứ dùng thuốc của tôi thì sẽ mạnh. Dầu của tôi đã nổi danh là trị được bệnh đui, bệnh điếc, bệnh tê liệt. Muốn biết nó thần hiệu ra sao, xin bà con cứ hỏi các người cùi, đau gan, đau mật, hoặc bị chứng phong thấp, bị bệnh thần kinh.” Ở dưới lại in lời cảm tạ của những thân chủ: ông Hawkes ở Boston đau tim chỉ uống 3 ve mà khỏi, bà Childreek ở Savannah dùng thuốc có 3 ngày mà hết tàn nhang ở mặt. Sau cùng một người hói muốn giấu tên, chỉ bôi có nửa tháng mà tóc mọc lên rậm, mềm và tơ hơn hồi trước nhiều. Đã 6 giờ chiều mà khách hàng còn chen chúc đợi ở trước. Ông Kier bảo họ hôm sau trở lại vì ông sắp đóng cửa tiệm. Rồi ông vào phía sau nói lớn tiếng: - Sam! thôi nghỉ. Rửa tay đi và có muốn đi chơi thì đi. Nhưng ngày mai rán tới sớm nhé. Sam đáp: Dạ Vài phút sau chàng đóng cửa tiệm, rồi đi dạo trên đại lộ, trong lòng dương dương tự đắc và tràn trề hy vọng vì tự nghĩ mới 17 tuổi đầu được tự do mà mỗi tháng lại để dành được ba Mỹ Kim lận. Chàng rảo bước, đút tay túi quần, vừa đi vừa huýt gió và xóc những đồng tiền vàng cho nó kêu keng keng. Vì những đồng tiền ấy mà đêm nào chàng cũng mộng thấy của cải và hạnh phúc. Thật chàng đã khó khăn mới xin phép được cha để theo ông Kier. Cô em họ xa của chàng, nàng Marjorie King cũng khóc lóc khi chàng lên đường. Chính chàng đã rán lắm mới giữ được khỏi thổn thức, vì chàng không ưa thành thị, chàng thích căn nhà có cha già ở Titusville, thích hồ Erié đầy cá và khu rừng rộng đầy con mồi. Nhưng chàng có tham vộng và chỉ muốn làm giàu. Muốn vậy chỉ có cách là ra thành thị. Chàng tự nhủ: “ Ba Mỹ kim bắt đầu lên rồi đây. Khi mình về cô ả Marjorie chắc ngạc nhiên lắm, hồi đó nghi ngờ về tương lai của mình và khuyên mình an phận ở nhà theo nề nếp tổ tiên”. Chàng đương khoan khoái nghĩ tới những chiếc bánh tráng bột bắp rất ngon của cô Marjorie, tới thứ rượu bia ba chàng chế và thứ thuốc hút mà ông tẩm rượu và mật, thì bỗng thấy có ai chạm vào vai mình. Chàng quay lại. Một người trạc tứ tuần đương ngắm chàng, thân hình cao thẳng và mạnh như cây bá hương đỏ. Trên gương mặt cương quyết của con người ấy có một thẹo dài nằm ngang má từ tai bên trái tới miệng. Người đó hỏi: - Có phải anh làm cho dược sư Kier không ? Sam đáp: - Phải. - Và chính anh giúp ông ta bán thuốc ? Sam gật đầu một lần nữa. - Tôi là Đại tá Edwin Drake. Anh còn trẻ, không nhớ được cuộc chiến tranh với Mễ-Tây-Cơ cho nên anh chưa biết tôi. Không sao. Anh đi lại tiệm ăn với tôi, tôi có chuyện muốn nói với anh. Rồi Đại tá nắm tay Sam, dắt lại một quán ồn ào, rất đông khách. Trong góc quán có một lò lớn để quay gà, vịt và heo sữa. Các công tử và các ông hội đồng thường lại đó uống rượu “rom” trước bữa ăn và sau bữa còn nốc thêm mấy ve bia nữa. Đại tá Drake bảo Sam ngồi xuống và hỏi: - Anh có biết dược sư Kier kiếm thứ dầu mà ông khoe là trị được bá chứng ấy ở đâu không ? Sam hơi ngạc nhiên và lấy làm tự đắc được ngồi trong một quán sang trọng, bên cạnh một vị Đại tá anh hùng. Chàng đáp: - Biết chứ! Ở tại xứ tôi mà! Ở Titusville, gần hồ Erié, trên Suối Dầu và trên mặt hồ. - Anh biết miền đó không ? - Thưa ông, biết rõ lắm. Tôi sanh tại Venango rồi qua ở Titusville. Tôi đã thấy tất cả các bộ lạc[2] Da đỏ từ Michilimakinak tới Ohio. Tôi biết nói các thổ ngữ[3] Sioux, Mandangua, Cherakee, Delaware. Tất cả tụi đó đều là bạn thân của tôi. - Được lắm. Thôi chúng ta uống rượu đi rồi ăn. Ông Kier trả công anh bao nhiêu ? - Thưa mỗi ngày năm cắc nhưng tôi chắc chắn rằng khi bán hết dầu, ông chủ tôi sẽ dắt tôi theo để đi lấy dầu với ông và lúc đó tôi sẽ được thưởng mười đồng nữa. Đại tá mỉm cười: - Ông Kier rộng rãi thật. - Dạ! Vì tuy khỏi Alleghany, đường có nguy hiểm và khó nhọc thật, nhưng lấy dầu thì không gì dễ bằng. Nó ở ngay trên mặt hồ hoặc suối. Chỉ việc cúi xuống múc từng thùng một! Tụi Da đỏ không phản kháng chi hết, chúng biết rằng ông Kier có múc hoài cũng không khi nào hết mà sợ. - Và anh tin rằng dầu ấy thật linh nghiệm ư ? Sam nhún vai: - Tôi thú thật với ông, không bao giờ nghĩ tới điều ấy hết. Tụi Da đỏ dùng nó làm thuốc. Tôi nghĩ chỉ những thầy mo[4] của bọn họ mới biết cách chế thứ thuốc ấy thôi. Ông Kier thì múc dầu về rồi bán liền, không chế gì hết. Nếu nó không trị được bệnh thì cũng vô hại. Đại tá uống một hơi hết ly rượu, kêu một ly khác rồi nhìn thẳng vào mặt người thanh niên bảo: - Anh Sam nè, tôi thẳng thắn đề nghị với anh như vầy: tôi trả anh mỗi ngày một đồng để dắt tôi lại suối Dầu và nếu mọi sự xong xuôi, tôi sẽ thưởng anh hai chục đồng. Chàng mừng quá, mãi mới ấp a ấp úng được: - Ông nói thật chứ ? - Thật! Nếu anh bằng lòng thì khoảng tám ngày nữa chúng ta khởi hành. Tôi cho anh hay trước tôi sẽ có ba chiếc xe, mười con la cái, một số lớn dụng cụ và đủ khí giới tốt để cho tụi chó chết Da-đỏ[5] không dám ngó ngóc bén mảng tới đoàn xe của ta. Đại tá thường có giọng thô lỗ ấy của các quân nhân. Sam nói: - Ông muốn cạnh tranh với ông Kier. Nếu tôi giúp ông thì bất nghĩa với ông chủ của tôi, ông ấy tốt với tôi lắm. Đại tá cười rộ: - Quỉ thần ơi! Ông chủ anh là một đứa con nít. Thứ dầu ấy mà chỉ dùng để chữa bệnh tê bại và bệnh cảm thôi ư ? Không biết dùng nó vào việc khác thì là đồ tồi. Này em, tôi thề với em rằng hai chúng ta có thể làm xáo trộn cả thế giới. Em có quả quyết theo tôi không ? Sam như bị lòng nhiệt huyết và giọng cương nghị của Đại tá thôi miên, nhìn ông một lúc, mắt long lanh ngưỡng mộ rồi hăng hái đáp: - Dạ có! Ông Drake chìa bàn tay hộ pháp ra: - Đập vào đây[6]. Thỏa thuận chứ ? Thôi, ăn đi và hẹn tám ngày nữa sẽ gặp nhau. *** Suốt một tuần lễ, Sam mơ tưởng tới vàng. Chàng tưởng tượng cảnh giàu có. Nhưng nào chỉ có bấy nhiêu ? Chàng sẽ còn làm xáo trộn cả thế giới kia! Tên chàng, bằng chữ vàng, sẽ chói lọi trên cẩm thạch như tên các vị danh nhân như Washington[7], như thị trưởng Bucchanan! Chàng đã xin ông Kier cho chàng thôi việc, nói rằng xa ông chàng buồn lắm, nhưng một vận may vô cùng đã tới và chàng phải đi để lập một sự nghiệp lớn lao hơn. Dược sư cho rằng chàng hơi khùng và kiếm được ngay người khác để thay. Ở Pittsburgh có cả trăm thanh niên đương thèm thuồng chỗ đó. Sau cùng, ngày quan trọng đã tới. Từ hừng sáng Sam lại chợ Pittsburgh đã thấy Đại tá Drake với xe cộ, la cái và hai người đồng hành nữa: Jack Hoggan và George Kent, cả 2 đều mạnh mẽ, da mặt rám nắng, chai như da nai. Coi điệu bộ của họ cũng biết ngay họ đã lưu lạc giang hồ, đã cả ngàn lần thoát chết trong những cánh đồng cỏ mênh mông hoặc những khu rừng xanh thăm thẳm. Những kẻ qua đường thấy họ, không ngạc nhiên chút chi hết, vì thời đó thường có những người khẩn hoang bỏ thành thị, mạo hiểm dấn thân vào những miền xa lạ để làm giàu hoặc chôn xương nơi đất khách. Sam vừa leo lên một chiếc xe do Đại tá đánh thì cả đoàn lữ hành lên đường ngay. ... Mời các bạn đón đọc Bí Mật Dầu Lửa của tác giả Robert Gaillard.