Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hắc Miêu Quán

Trong rừng mù sương tồn tại một ngôi nhà lớn, tên là Hắc Miêu Quán, kiến trúc cũng không lấy gì làm kì dị lắm trừ hai điểm. Một là chong chóng trên nóc mang hình mèo chứ không phải gà như thường thấy. Hai là lại thiết kế bởi thiên tài lập dị Nakamura Seiji. Quản gia của Hắc Miêu Quán mất trí nhớ, quên sạch sự kiện và cả tên mình sau một vụ cháy. Tha thiết tìm lại quá khứ để chết còn nhắm mắt được, quản gia đã đem Nakamura ra làm mồi nhử fan bự của ông ta đến nhà này.  Cùng với người bạn đồng hành trẻ tuổi Conan, fan bự đã đến, và đi lạc vào một thế giới hai mặt. Hắc Miêu Quán là cuốn thứ sáu trong series trinh thám Quán của Yukito Ayatsuji, đi liền sau Thời Kế Quán. Nếu Thời Kế Quán gây ấn tượng bởi thiết kế huy hoàng, bẫy rập tinh vi, nạn nhân đông đảo đặt trong dòng thời gian đằng đẵng pha lẫn quá nhiều kí ức khổ sở, nhân thân phức tạp cùng lời chứng nhỏ vụn đến mức dễ bỏ qua, thì Hắc Miêu Quán lại tự khẳng định bằng chất mạch lạc tối giản. Tối giản về kiến trúc, tối giản về nhân vật, tối giản về động cơ… nhưng lại thâm thúy và khó lường ở ý tưởng xây dựng, đây cũng là mánh khóe lớn nhất mà sự khám phá thuộc độc quyền của ngài thám tử cao gầy, như cây tre miễu. *** Thập Giác Quán (1987) là cuốn tiểu thuyết đầu tay thuộc thể loại trinh thám cổ điển của nhà văn Yukito Ayatsuji. Tác phẩm nằm trong series Quán: Thập Giác Quán – 1987; Thủy Xa Quán – 1988; Mê Lộ Quán – 1988; Hình Quán – 1989; Chung Biểu Quán – 1991; Hắc Miêu Quán – 1992; Hắc Ám Quán – 2004; Kinh Hoàng Quán – 2006  Kỳ Diện Quán – 2012. *** Tác giả: Yukito Ayatsuji. Dịch giả: Hải Yến Thể loại: Trinh thám Nhật. Mức độ yêu thích: 8.5/10 Tôi thật sự thích “Thập giác quán” dù nhiều người chê truyện đó, nên tôi đã đọc toàn bộ những cuốn Quán đã được dịch tiếng Việt + bộ Another của tác giả Yukito Ayatsuji, thậm chí còn nhớ được cái tên (hình như là bút danh) khá dài và rắc rối của ông tác giả này (tác giả là nam, không phải nữ). Giữa hai cuốn mới mua gần đây là “Thời kế quán” và “Hắc miêu quán” thì tôi chọn đọc mèo đen trước vì cuốn này mỏng và bìa ngoài xấu. HẮC MIÊU QUÁN   Một năm trước, một nhóm bốn người bạn – trong đó có con trai chủ nhà – ghé Hắc Miêu Quán để nghỉ dưỡng (thực chất là để ăn chơi + hút cỏ). Họ nhận được sự tiếp đón miễn cưỡng của ông quản gia già. Hắc Miêu Quán là tòa nhà màu đen bí ẩn nằm trong sương mù, tường ngoài đen, tường trong xen kẽ gạch đỏ – trắng, trên mái nhà có chong chóng hình mèo, cũng được thiết kế bởi kiến trúc sư lập dị đã thiết kế các tòa “Quán” khác. Tuổi trẻ ham vui, hai trong số bốn người lái xe đi dạo và đưa về một cô gái trẻ. Trong cuộc ăn chơi thác loạn nửa đêm, án mạng đã xảy ra. Thay vì báo cảnh sát, những người trong nhà thông đồng với nhau để giấu xác, trong khi ngay chính họ cũng không biết ai là thủ phạm. ____ Bối cảnh chuyển đến một năm sau, khi một nhà văn trinh thám cùng người bạn trẻ tuổi của mình tình cờ đọc được sổ ghi chép về những chuyện đã xảy ra, được viết bởi người quản gia Hắc Miêu Quán. Do hoàn cảnh đưa đẩy, họ quyết định tìm đến địa điểm đã xảy ra án mạng để thỏa mãn trí tò mò – chứ không phải để điều tra. Trừ cuốn “Nhân hình quán” mà tôi cho rằng kém hay nhất trong những cuốn Quán tôi từng đọc, nhìn chung thì tôi thích chất trinh thám suy luận + khả năng xây dựng cốt truyện tài tình và đầy tính đánh đố của tác giả Yukito. Hầu như cuốn nào cũng khiến tôi có chút hồi hộp trong khi đọc, thỉnh thoảng vỡ òa những chi tiết bất ngờ (tôi cũng có cảm giác tương tự như khi đọc truyện của một tác giả yêu thích khác của mình là Jeffery Deaver). “Hắc miêu quán” tuy mỏng nhỏ nhưng chứa đựng đầy đủ sự thú vị cuốn hút cần có của một quyển trinh thám, động cơ nghe cũng hợp lý, cách lý giải của (các) vụ án mạng trong cuốn này không quá ảo và khiên cưỡng như trong cuốn “Hokkaido Mê trận án”. Cách xử lý cuối truyện cũng khiến tôi tương đối hài lòng dù nghĩ kỹ lại thì tôi không nên hài lòng với kết cuộc đó! Vốn có một sự yêu thích nhất định đối với văn hóa Nhật nói chung và trinh thám Nhật nói riêng nên tôi hoàn toàn ổn và rất kiên nhẫn với những tên người + tên địa danh dài ngoằng trong truyện Nhật, cụ thể là trong cuốn “Hắc miêu quán” này, nhưng thú thật đôi lúc những cái tên bốn chữ + họ bốn chữ (tức là tên họ ghép lại đọc đến tám âm tiết) cứ trôi tuột khỏi đầu tôi như nước đổ lá khoai, may mà tôi vẫn nắm được là đang nói đến nhân vật nào. Trong truyện có một chi tiết thú vị khiến tôi thích, đó là “Kawaminami” được gọi thành “Conan”, nếu ai có hiểu biết về Kanji của tiếng Nhật sẽ hiểu ngay vì sao một cái tên dài nhằng có thể gọi lại ngắn gọn như vậy. Bên cạnh đó, tuy tác giả đã rất tử tế vẽ sơ đồ đầy đủ của Hắc Miêu Quán (cuốn Quán nào cũng có sơ đồ tòa nhà và danh sách nhân vật đầy đủ tên tuổi nghề nghiệp) nhưng tôi vẫn loạn lên với các địa danh và phương hướng, do đó chỉ chú ý đọc xem diễn tiến truyện ra sao. Với khả năng tiếp thu chỉ 70% truyện như thế, tôi vẫn kết luận rằng mình thích cuốn “Hắc miêu quán” này, mức độ yêu thích ngang bằng với “Thủy xa quán” nhưng kém “Thập giác quán” một chút. Từ lần đầu nhìn thấy bìa “Hắc miêu quán” thì tôi đã không thích lớp bìa ngoài vì trông nó tối tăm mù mờ và không đẹp, nhưng tôi hài lòng với bìa trong của sách. Tuy không tán đồng cách làm sách có hai lớp bìa (vì sẽ tốn tài nguyên giấy, hại môi trường) nhưng tôi thích những cuốn hai lớp bìa như rứa, nếu không thích lớp áo thì có thể lột áo để trần trụi với nhau. Cũng như những cuốn khác của IPM, “Hắc miêu quán” được dịch thuật và biên tập kỹ, trình bày đẹp, trong cuốn này tôi không phát hiện lỗi chính tả hay lỗi in ấn nào. Sách nhỏ mỏng nên với kiểu đọc thiếu tập trung thì tôi đọc xong trong hai ngày, nếu chú tâm chắc có thể đọc xong trong nửa ngày. Cuốn này đã góp phần củng cố tình cảm và sự trung thành của tôi đối với series Quán của tác giả Yukito Ayatsuji. (Sea, 22-5-2020) Cáo Biển Non Xanh *** CHỦ NHẬT 8/7/1990 VÙNG HỒ AKAN, TỈNH HOKKAIDO* Ba người đứng trước cổng, sương mù có vẻ như đã chờ đợi khoảnh khắc này từ rất lâu, dần lan ra từ cánh rừng vân sam rộng mênh mông sau lưng họ. Kawaminami Takaaki khẽ xoa lên phần cánh tay lộ ra khỏi ống sơ mi cộc tay của mình, sau đó xoay người lại. Chiếc xe con chở họ đang đỗ phía trước khoảng vài mét, gần như chặn quá nửa con đường nhỏ hẹp dẫn vào rừng. Thân xe màu xám đã sớm hòa vào màn sương trắng xóa. “Sương dày thật đấy.” Đứng trước Kawaminami vài bước chân, một người cao lớn mặc áo khoác xanh nõn chuối khẽ lẩm bẩm. “Ái chà. Tôi có cảm giác màn sương đuổi theo mình từ Kushiro*.” Người này là nhà văn trinh thám Shishiya Kadomi. Anh ta gầy trơ xương, thân hình cực kì mảnh khảnh. Shishiya đưa tay vuốt mái tóc xoăn mềm, đồng thời gỡ cặp kính đen xuống, quan sát người đàn ông đứng bên cạnh. “Sao rồi, ông Ayuta? Ông có nhớ ra được điều gì không?” “Hừm…” Ayuta Toma ngẩng lên nhìn cánh cổng trước mặt, im lặng hồi lâu, mãi sau mới chịu lên tiếng, “Tôi thấy rất quen.” Giọng ông ta nghe chảng có chút tự tin nào. Ayuta là người gầy gố ốm yếu, lưng hơi gù, cùng lắm chỉ tầm sáu mươi tuổi, nhưng điệu bộ, cử chỉ trông già nua lắm rồi. Ông đội mũ không vành màu nâu để che đi cái đầu hói, mắt trái đeo chụp mắt màu trắng. Quanh chụp mắt là một vết sẹo bỏng rất lớn, lan tới tận gò má và quai hàm, khiến người ta không dám nhìn lâu. Dõi theo ánh mắt Ayuta, Kawaminami cũng nhìn về phía cổng chính. Cổng này rất cao. Trụ cổng bằng đá màu nâu thẫm sừng sững trông chẳng khác nào thân cây mọc lên từ đám cỏ dại. Không thấy biển số nhà, như thể ngay từ đầu đã chẳng hề có. Cánh cửa chia ô bằng đồng cũ nát khủng khiếp. Hàng rào đồng đen ở hai bên ngăn cách ngôi nhà với khu rừng xung quanh. Màn sương dày lặng lẽ len qua các ô vuông trên cổng. Khi nãy mới xuống xe, họ còn thấy thấp thoáng đường nét ngôi nhà, nhưng giờ nó đã biến mất trong màn sương trắng xóa. Mối chốt cổng quấn xích sắt màu đen, phía trên treo một ổ khóa, nhìn rất chắc chân. Shishiya tiến lên, bám hai tay vào khung sắt lắc thử, cánh cổng không hề nhúc nhích. “Shishiya, anh nhìn bên kia Ida.” Kawaminami trỏ sang trái cổng, “Nhìn xem! Bên đó có cổng phụ.” “Hả? Có thật này.” Cổng phụ nằm ở mé bên cổng chính, phía trong là chốt cài đơn giản, chỉ cần luồn tay vào ô vuông cửa là dễ dàng mở ra. Phải nói là khá may. Nếu có mỗi Shishiya và Kawaminami, cả hai có thể trèo cổng hoặc dùng cách khác vào trong, nhưng vì còn có ông Ayuta đồng hành nên không tùy tiện như thể được. “Vào thôi, Conan.” Shishiya mở cửa, quay đâu nhìn hai người còn lại, “Ông Ayuta, chúng ta vào thôi.” Khoác chiếc cặp cùng màu áo khoác lên vai, Shishiya đi trước, bước qua cổng phụ chật hẹp. Ông Ayuta lập tức nối gót, tay phải chống ba toong màu nâu. Kawaminami đi sau cùng. Cả ba rón rén tiến vào giữa lớp sương trắng dày đặc. Bốn bề vang vọng tiếng chim rừng. Giờ đã là đâu tháng Bảy, dù đang giữa trưa nhưng trời chẳng hề ấm lên. Kawaminami thấy lạnh, lại xoa xoa lên cánh tay. Cậu hối hận vì để áo len trên xe, không mang ra ngoài. Mặc dù tầm nhìn bị sương dày cản trở, không thể quan sát rõ ràng, nhưng sân trước có vẻ khá rộng rãi, đâu đâu cũng thấy cây cối mọc xum xuê. Kích thước và độ cao của các cây không hề giống nhau, có cây chưa tới một mét, cố cây lại cao ba, bốn mét liền. “Conan, nhìn kìa!” Shishiya tiến lại gần một cây, quan sát cành lá rồi nói, “Đây là cây hoàng dương, trông cứ tưởng rất lâu rồi chưa được tỉa tót, nhưng nếu quan sát kĩ sẽ thấy bên trong còn lưu lại dấu vết tia cành.” “Tia cành ư?” “Chính là cắt tia cành định kì đế tạo dáng cho cây đấy.” Bằng chứng đây. Cậu nhìn xem, nó có hình gì?” “Hình…” Kawaminami nhìn chằm chằm vào cây, không nói nên lời. Cậu chợt nhớ tới một đoạn trong sổ ghi chép: Trước đây, cây cối trồng ở sân trước được tỉa tót thành hình các con vật. Có thể do màn sương mờ huyễn hoặc, thoáng nhìn qua sẽ thấy bóng cây này giống một con mèo to. Lẽ dĩ nhiên, cái tên Hắc Miêu Quán cũng có ảnh hưởng nhất định tới tâm lý cậu lúc này. Shishiya khẽ vuốt cái cầm nhọn của mình, giẫm lên đám cỏ dại mọc cao quá bàn chân rồi xoay người lại. Ông Ayuta đứng cạnh anh, không ngừng ngó nghiêng tứ phía. Ít nhất thì trước tháng Chín năm ngoái, ông vàn còn là quản gia của nhà này. Ông lão mất trí nhớ đang cố gắng tìm lại những mảnh vụn kí ức trong đầu mình. Có thể màn sương phiền phức đã khiến người ta mất đi cảm giác vốn có. Vắt ngang qua khoảng sân trước rệu rã là lối đi lát gạch đỏ chừng vài trăm mét đản đến ngôi nhà trước mặt. “Cuối cùng cũng tới.” Shishiya thốt lên, “Đây là Hắc Miêu Quán sao?” Trên tường xám bụi bẩn là dãy cửa sổ nhỏ hình chữ nhật. Mái nhà dốc cao, tạo thành hình chóp nhọn. Thoạt nhìn, ngôi nhà nhỏ hai tầng này chẳng có gì kì lạ, nhưng chỉ riêng việc nằm ẩn mình trong khu rừng ít người qua lại ở Hokkaido cũng đủ khiến người ta cảm thấy bất thường. Hơn nữa, hai mươi năm trước, chính Nakamura Seiji đã thiết kế ngôi nhà này. Nghĩ tới việc mùa hè năm ngoái, ở đây đã xảy ra sự kiện được viết lại trong cuốn sổ ghi chép kia, Kawaminami vẫn thấy nổi hết da gà. “Cái chong chóng mèo ở đâu nhi?” Shishiya đứng thẳng người, ngước lên nhìn mái nhà. Kawaminami bắt chước anh, ngẩng đầu ngó quanh quất nhưng không thấy con mèo đâu. “Kia!” Ông Ayuta giơ cánh tay đang chống gậy lên, “Ở kia kìa, đã nhìn thấy chưa?” Theo hướng ông chỉ, mọi người nhìn về phía mé phải ngôi nhà, trên chỗ mái cao nhất là một cái bóng xám nhạt. Thông thường, trên mái nhà hay đặt chong chóng gió hình con gà, nhưng ở đây lại thay thế bằng chong chóng hình động vật khác. Tuy khó quan sát thực hư qua màn sương mù dày đặc, nhưng có thể thấy được mũi tên này không hề giống con gà. “Là cái kia sao?” Shishiya nhìn lên mái, hai tay khoanh trước ngực, toàn thân bất động. Bỗng nhiên, anh nghiêng nghiêng cái đầu, thấp giọng lẩm bẩm mấy câu rồi xoay người lại nói với ông Ayuta, “Chúng ta vào trong thôi.” “Nhưng cửa bị khóa rồi.” Kawaminami nhắc nhở, Shishiya lại khẽ nhún vai. “Thì nghĩ cách đi. Vất vả lắm mới tới được đây, không thể ra về tay không được.” “Tất nhiên.” Một cơn gió lớn chợt thổi qua, cây cối trong vườn xào xạc. Lớp sương mù dày đặc cuối cùng cũng chịu tản đi, ánh nắng giữa trưa lập tức trải đầy trên mặt đất. “Được rồi, chúng ta vào thôi!” Shishiya gọi lớn rồi bước tới hàng hiên vừa được ánh nắng chiếu rọi của Hắc Miêu Quán. Kawaminami liếc nhìn một lần nữa cái chong chóng mèo đang liên tục đổi hướng, kêu lách cách trên mái nhà. Sau đó, cậu mới cùng ông Ayuta bước vào trong. Mời các bạn đón đọc Hắc Miêu Quán của tác giả Yukito Ayatsuji & Hải Yến (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giây Phút Lỡ Lầm - Agatha Christie
Giây Phút Lỡ Lầm là một cuốn tiểu thuyết trinh thám do Agatha Christie viết và xuất bản lần đầu tiên ở Hoa Kỳ vào năm 1951, Dodd Mead and Company.  Nó chứa các tác phẩm từ những ngày đầu tiên của sự nghiệp của Christie, tất cả đều viết về viên thanh tra người Bỉ, Hercule Poirot. Tất cả những câu chuyện được xuất bản trong các tạp chí Anh và Mỹ từ năm 1923 đến năm 1926.  *** Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Sự có mặt thường xuyên của Poirot ở “Bến Nghỉ” có vẻ làm cho nhiều người lo ngại. Victor phản đối với chị dâu : - Tất cả những việc này thật đẹp! Chị không biết loại người như ông ta là thế nào đâu. Ông ta đã tìm thấy ở đây một chỗ ở dễ chịu, và ông ta sẽ vừa nghỉ thoải mái ở đây một tháng, vừa bắt chị phải trả nhiều đồng ghi-nê mỗi ngày. Phu nhân Reuben nhấn mạnh rằng bà đủ sức để tự mình chèo chống công việc. Lily cố gắng che giấu sự lo lắng của mình. Trước đó cô đã tin tưởng Poirot tin ở mình. Bây giờ thì cô không còn chắc chắn nữa. Thái độ của Poirot không thể làm cho mọi người yên tâm được. Năm ngày sau khi đến, ông bước xuống phòng khách để giải trí sau bữa ăn với một cuốn sổ dùng để in dấu tay. Ông ta lấy dấu tay của cả nhà một cách không tế nhị lắm. Không ai có thể từ chối việc in dấu tay của mình lên đó. Khi người đàn ông nhỏ bé ấy đã đi ngủ, Victor nói lên suy nghĩ của mình : - Chị có hiểu ý nghĩa của hành đỘng đó không, chị Reuben? Ông ta nghi ngờ một người trong chúng ta đấy. - Cậu thật ngốc, Victor ạ! - Thế thì ông ta có ý định gì với cuốn sách quỷ quái ấy? Phu nhân Reuben vừa nói vừa ném cho ông Owen một cái nhìn đấy ý nghĩa : - Ông Poirot biết rõ những gì mình làm. Một mặt khác, Poirot bày ra một trò chơi bằng cách lấy dấu giày trên một tờ giấy. Sáng hôm sau, theo như thói quen, ông rón rén bước vào phòng đọc sách làm cho Owen kinh hãi. Owen giật nẩy mình trong chiếc ghế bành cứ như phải lãnh một tràng đạn vào mông ấy. Anh ta nói với vẻ phật ý : - Xin lỗi, ông Poirot ạ, rốt cuộc thì ông sẽ làm cho tất cả chúng tôi bị đau tim mất thôi. - Sao vậy? - Ông ngây thơ hỏi. Viên thư ký nói : - Tôi phải thú nhận rằng tôi cứ ngỡ những chứng cớ buộc tỘi Leverson là rất vững chắc rồi. Nhưng hình như ông không nhất trí với ý kiến đó thì phải. Poirot đang nhìn qua cửa sổ vội quay lại ngay. - Ông Owen ạ, tôi sẽ tiết lộ với ông một điều. - Vâng. Poirot có vẻ như không định nói. Khi ông vừa lên tiếng thì có tiếng cửa ra vào mở rồi đóng mạnh. Ông nói to và rõ, mặc dù là đang tiết lộ bí mật. - Tôi muốn tiết lộ với ông điều này, ông Owen ạ, chúng tôi có một tình tiết mới cho thấy rằng khi Leverson bước vào phòng bên tháp lúc nửa đêm thì ngài Reuben đã chết rồi. Viên thư ký nhìn ông đăm đăm. - Nhưng... sự kiện nào chứ? Sao chúng tôi không được nghe nói đến? - Quý vị sắp được nghe nói đến rồi - Người đàn ông Bỉ bé nhỏ đáp với vẻ bí ẩn - Trong lúc chờ đợi chỉ có tôi và ông biết thôi nhé. Rồi ông vội vã bước ra khỏi phòng đọc sách suýt nữa thì va phải Victor : - Ông vừa về đến sao, ông Victor? - Vâng, thời tiết thật xấu, lạnh và gió nhiều. - Thế thì hôm nay tôi không đi dạo đâu. Tôi giống như một con mèo vậy, thích ngồi gần lò sưởi để sưởi ấm. Buổi tối, Poirot nói với người đầy tớ trung thành : - Mọi việc đều tốt đẹp, George ạ, họ đang ngồi trên than hồng cả đấy. Thật là khổ, anh George tốt bụng ạ, khi phải chờ đợi, nhưng các đó lại cho kết quả tuyệt vời. Ngày mai chúng ta thử nghiệm một lần nữa xem sao. Sáng hôm sau, Owen có việc buộc phải đi London. Anh ta đi cùng chuyến tàu với Victor. Họ vừa rời khỏi nhà là Poirot đã sôi nổi hẳn lên. - George ạ, hãy đến đây. Ta bắt tay vào việc đi. Nếu có cô hầu phòng nào đến gần thì hãy chặn cô ta lại. Hãy tán tỉnh cô ta bằng cách nào đó và thu xếp làm sao để cô ta đứng yên trong hành lang ấy. Thoạt tiên, ông vào phòng viên thư ký lục soát kỹ lương. Mọi ngăn kéo, mọi cái kệ đều không thoát khỏi tay ông. Rồi ông vội vàng sắp đặt mọi thứ lại chỗ cũ và tuyên bó rằng cuộc tìm kiếm của mình đã kết thúc. George, đang đứng ở cửa phòng, kính cẩn đằng hắng : - Xin lỗi, thưa ông. - Gì thế, anh George tốt bụng? - Những đôi giày, thưa ông. Hai đôi màu nâu trên kệ thứ hai còn những đôi giày da đen ở kệ dưới. Ông đã lầm, đổi vị trí của chúng khi sắp xếp lại. - Anh thật là tuyệt - Poirot nói - Nhưng đừng lo, điều đó không quan trọng, tôi cam đoan như vậy. Ông Owen sẽ không bao giờ nhận thấy những chi tiết như thế đâu. - Tùy ông, thưa ông. - Anh nhận thấy điều đó là do thói quen nghề nghiệp đấy thôi. Điều này thật đáng khen. Poirot nói với vẻ động viên. Người đầy tớ không trả lời. Vài phút sau, sự kiến đó lại tái diễn trong phòng Victor, George không nói gì nữa. Thế nhưng trong trường hợp thứ hai này, những sự việc xảy ra tiếp theo đã chứng tỏ sự sáng suốt của người đầy tớ. Thật vậy Victor lao vào phòng khách như một cơn lốc, ông ta hét lên : - Này, đồ nỡm! Đồ dân Bỉ dơ bẩn! Ai cho phép ông sục xạo vào đồ đạc của tôi? Thế là nghĩa lý gì chứ Tôi không thích vậy, ông có nghe thấy không? Chuyện xảy ra như thế đấy khi người ta chứa trong nhà mình một thứ gián điệp dơ bẩn cứ vọc mũi vào mọi chỗ! ... Mời các bạn đón đọc Giây Phút Lỡ Lầm của tác giả Agatha Christie.
Chết Trong Đêm Noel - Agatha Christie
Chết trong đêm Noel (tiếng Anh: Hercule Poirot's Christmas, dịch nghĩa: Giáng sinh của Hercule Poirot) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được nhà sách Collins Crime Club xuất bản lần đầu tại Anh ngày 19 tháng 12 năm 1938 và được đăng ký bản quyền năm 1939. Thuộc dạng vụ án phòng kín, tiểu thuyết nói về vụ giết hại đẫm máu nhà triệu phú Simeon Lee vào đúng đêm Giáng Sinh. Nhân vật chính của tiểu thuyết là thám tử Hercule Poirot. Tiểu thuyết được chia làm 7 phần ứng với 7 ngày cuối năm từ 22 cho tới 28 tháng 12. Simeon Lee là một triệu phú làm giàu nhờ kim cương ở Nam Phi giờ sống tuổi già tàn tật tại dinh thự riêng Gorston Hall ở Longdale, Addlesfield cùng con trai cả Alfred cùng vợ của ông là Lydia. Nhân lễ Giáng Sinh, ông quyết định mời tất cả các con trai của mình cùng gia đình về đoàn tụ tại Gorston Hall. Đó là George Lee, một nghị sĩ keo kiệt sống dựa vào bố có cô vợ Magdalene kém tới 20 tuổi và David Lee, một nghệ sĩ vốn từ mặt ông Simeon đã lâu do thù ghét cách đối xử của bố với mẹ mình, David chỉ quyết định về đoàn tụ ở Gorston Hall sau khi được vợ anh là Hilda thuyết phục. Bữa tiệc Giáng Sinh nhà Lee còn có ba người khách đặc biệt là Pilar Estravados, cô bé có nửa dòng máu Tây Ban Nha, con của Jennifer, con gái duy nhất của ông Simeon, Harry Lee, đứa con hoang đàng của ông Simeon đã bỏ nhà đi từ lâu và Stephen Farr, con người bạn làm ăn của ông Simeon ở Nam Phi là Ebenezer Farr. *** Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Ngày 28 , Tháng Chạp Lydia Lee bảo Pilar: - Cháu có thể ở lại đây cho đến khi chúng ta thu xếp mọi việc cho cháu . Cô gái thân mật trả lời: - Lydia, bác rất đáng mến . Bác đã nhanh chóng tha thứ cho cháu, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếng cả . Lydia cười: - Ta vẫn gọi cháu là Pilar tuy đó không phải là tên thật của cháu . - Thật vậy, cháu là Conchita Lopez . - Cái tên rất đẹp , Conchita . - Bác rất tốt, bác Lydia . Nhưng không nên băn khoăn về cháu . Cháu sẽ lấy anh Stephen và chúng cháu sẽ về Nam Phi . - Ta mừng cho cháu, Conchita . Cháu thu xếp mọi việc rất tốt . Ngập ngừng, cô nói với Lydia: - Vì bác có lòng tốt, bác Lydia . Sau này chúng cháu có tới thăm bác, dự lễ Noel với gia đình được không ? Lúc ấy chúng ta sẽ đốt pháo, có nến sáng và những chú lùn trên bàn ăn! - Chắc chắn là như vậy, cháu và chồng cháu sẽ trở về và chúng ta sẽ có một lễ Noel linh đình . - Thật là tốt, bác Lyida . Lễ Noel năm nay không thành công rồi . - Đối với chúng ta, đây không phải là lễ Noel thực sự - Lydia thở dài . - Tạm biệt anh Alfred - Harry nói - Không nên cho rằng em về chuyến này để quấy phá anh . Em sẽ đi Hawaii . Em vẫn tự nhủ là mình sẽ trở về sống ở đất nước tươi đẹp của chúng ta khi em có ít tiền . - Tạm biệt chú Harry . Anh cầu chúc cho chú sống hạnh phúc ụ Có vẻ khó chịu, Harry lẩm bẩm: - Em lấy làm tiếc nhiều khi em đã làm anh tức giận, anh thân mến . Tinh thần em không vững và thường trêu chọc mọi người . Alfred cố gắng để nói: - Anh cũng cần làm quen với sự bông đùa . Yên tâm, Harry ra đi . - Tạm biệt anh ... hẹn gặp lại! ... Mời các bạn đón Chết Trong Đêm Noel của tác giả Agatha Christie.
Cây Bách Buồn - Agatha Christie
Agatha Christie được mệnh danh là "Nữ hoàng truyện trinh thám" với số lượng tác phẩm được xuất bản nhiều nhất mọi thời đại, chỉ xếp sau Kinh Thánh và Shakespeare. Tại Việt Nam, nhiều thế hệ độc giả đã đọc và say mê sách của bà. Sách của Agatha có mặt trong nhiều tủ sách gia đình, được thế hệ này truyền sang thế hệ khác. Điều đó cũng đủ để chứng minh các tác phẩm của bà có sức sống và sức hấp dẫn đến mức nào. Cô Elinor Carlisle đứng một cách bình thản ở vị trí bị cáo trước tòa với tội danh mưu sát tình địch của mình - cô Mary Gerrard. Bằng chứng đã mười mươi - chỉ có cô mới có động cơ, cơ hội và phương tiện giết người. Tuy nhiên, trong phòng xử án, chỉ có duy nhất một người tin rằng cô gái trẻ đẹp ấy vô tội: Thám tử Hercule Poirot là tất cả những gì đứng giữa Elinor và giá treo cổ. *** Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Đi đi, thần chết kia ơi! Để tôi nằm dưới gốc cây bách buồn. Bay đi, hơi thở chập chờn! Cô nàng độc ác phủ phàng giết tôi. Chao ôi, chuẩn bị đi thôi, Trắng tinh vải liệm dính đầy kim thông. Hỡi ôi, cái chết não nùng. Đúng là tôi góp phần chung đây rồi. SHAKESPEARE - Elinor Katharine Carlisle. Cô bị khởi tố về vụ giết cô Mary Gerrard vào ngày 27 tháng Bảy trước. Cô có phạm tội hay không phạm tội? Elinor đứng rất thẳng, đầu ngước cao. Một mái đầu duyên dáng, khuôn xương rõ nét gọn gàng. Đôi mắt sâu thẳm, linh động, làn tóc đen nhánh. Lông mày tỉa thành một đường thon mờ nhạt. Hoàn toàn yên lặng, một sự im lặng hầu như thấy rõ được. Ngài Edwin Bulmer, luật sư biện hộ, cảm thấy rùng mình hồi hộp. Ông nghĩ "Lạy Chúa, cô ta sẽ kháng biện là có phạm tội mất thôi! Cô ta mất tinh thần rồi." Môi Elinor Carlisle mở ra. Cô nói: - Tôi không phạm tội. Luật sư rùng mình lại. Ông đưa khăn tay phớt lên lông mày, nhận thấy mình vừa thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Ngài Samuel Attenbury đứng lên, thay mặt cho Vương quyền trình bày những nét chính của vụ án. - Kính thưa quý vị trong bồi thẩm đoàn, vào ngày 27 tháng Bảy, lúc ba giờ rưỡi chiều, cô Mary Gerrard chết tại Hunterbury, Maidensford... Giọng ông lướt nhẹ, ngân vang êm đềm, hầu như ru Elinor vào cõi vô tri. Từ lời tường thuật đơn sơ ngắn gọn đó, thỉnh thoảng chỉ có một câu nói xuyên thấu vào tâm trí còn hiểu biết của nàng. -... Đây là một vụ án đơn giản lạ thường, chẳng có chi phức tạp cả... Trách nhiệm của vương quyền là... chứng tỏ động cơ nào đã thúc đẩy, cơ hội nào đã bày ra... Ta có thể thấy rằng, chẳng ai có động cơ nào để giết cô gái bất hạnh Mary Gerrard kia cả, ngoài bị cáo này ra. Mary là một thiếu nữ trẻ trung, tính tình tốt đẹp, được mọi người yêu mến - có thể nói rằng, cô không có đến một kẻ thù nào ở trên cõi đời này... Mary, Mary Gerrard! Bây giờ tất cả mọi sự dường như xa xôi cả rồi... Chẳng còn thật nữa... -... Xin quí vị đặc biệt lưu ý đến những nhận định sau đây: 1. Bị cáo đã có những cơ hội nào và những phương thế gì để đầu độc? 2. Động cơ nào đã khiến cô ta làm như vậy? -... Tôi có phận sự đòi đến trước quí vị những nhân chứng có thể giúp quí vị đi đến một kết luận chân thực về những vấn đề... -... Về vụ đầu độc cô Mary Gerrard, tôi xin cố gắng chứng minh để quí vị thấy rằng không một ai có cơ hội phạm tội ác này ngoại trừ bị cáo kia ra... Elinor cảm thấy như bị giam hãm trong một lớp sương mù dày đặc. Những tiếng rời rạc giạt trôi qua lớp sương đó. -... Báng Xăng-uých... Bột cá nhồi... Tòa nhà trống trải... Những tiếng ấy đâm thủng tấm mền dày cộm bao phủ ý nghĩ của Elinor - giống như những lỗ kim trên chiếc mạng choàng... Đây là phiên tòa. Những khuôn mặt. Hàng dãy, hàng dãy những khuôn mặt! Một khuôn mặt đặc biệt với hàng ria rậm đen và cặp mắt tinh anh, minh mẫn, Hercule Poirot, đầu hơi nghiêng, mặt trầm tư, đang chăm chú nhìn nàng. Nàng nghĩ, ông ta đang cố gắng xem xét vì cớ gì mình lại làm như vậy. Đang cố gắng đi sâu vào đầu óc mình để thấy rõ mình đã nghĩ gì - đã cảm thấy gì... Mình đã cảm thấy gì ư? Chỉ thấy một cảm tưởng sững sờ hơi nhạt nhòa - hơi tởm lợm... Kia là khuôn mặt của Roddy (tên gọi thân mật của Roderick) - vẫn khuôn mặt thân yêu ấy với sống mũi dài dài, cái miệng nhạy cảm... Roddy! Vẫn Roddy ấy - từ cái thuở mà nàng còn nhớ nổi - từ những ngày trước kia ở Hunterburry giữa rặng cây phúc bồn tử, trong bãi nuôi thỏ phía trên, trong lạch ngòi bên dưới. Roddy - Roddy - Roddy... Còn những khuôn mặt khác nữa! Cô điều dưỡng ở Brien, miệng he hé mở, mặt tàn nhang tươi tắn chẩu ra phía trước. Bà điều dưỡng Hopkins xem chừng đắc ý lắm, chẳng chi có thể mủi lòng. Rồi khuôn mặt của Peter Lord - Peter Lord - mới tử tế làm sao, đa cảm biết bao, ân cần an ủi biết bao! Nhưng bây giờ thì xem ra có vẻ như, có vẻ như bị mê mẩn rồi. Đúng thế - bị mê mẩn rồi! Chàng ta đối với tất cả vụ này, bận tâm lo lắng biết bao nhiêu. Trong khi nàng là vai biểu diễn chính, thì lại chẳng hề quan tâm chút nào cả. Giờ đây nàng, hoàn toàn điềm tĩnh lạnh lùng, đang đứng trước vành móng ngựa, bị kết tội sát nhân. Nàng đang phải hầu tòa. Có một vật gì lay động; những nếp chăn bao quanh trí não nàng bừng sáng lên - trở thành rặt những hồn ma bóng quế. Nàng đang hầu tòa, còn người ta thì... Còn người ta thì đang ngả người về phía trước, môi hơi hé, mắt thích thú đăm đăm nhìn nàng, Elinor, với một niềm khoái lạc tàn nhẫn khủng khiếp; họ đang nghe với một hứng vị độc ác, khoan thai, cái con người cao lớn kia đang nói về nàng. - Những sự kiện trong vụ này có thể theo dõi rất dễ dàng và chẳng có chi cần tranh luận. Tôi xin trình bày trước quý vị, rất là đơn giản. Thoạt tiên là... Elinor nghĩ. "Thoạt tiên... Thoạt tiên ra sao nhỉ? Đó là cái ngày mình nhận được bức thư nặc danh khủng khiếp ấy. Vụ này bắt đầu là như vậy..." Mời các bạn đón đón đọc Cây Bách Buồn của tác giả Agatha Christie.
Cái Chết Được Báo Trước - Agatha Christie
Trong làng Chipping Cleghorn, một án mạng đã được báo trước trong mục quảng cáo nhỏ của tờ báo địa phương. Khi các bạn cô Blacklock tụ tập để chơi trò chơi, một kế hoạch giết người âm thầm lên dây cót. Đây là truyện thứ 50 của Christie và giữ danh hiệu thành quả đẹp nhất của Bà Marple. Bối cảnh nước Anh sau chiến tranh cũng rất đáng chú ý (một điểm quan trọng của cốt truyện), đây có thể được coi là tác phẩm cuối cùng trong những truyện Christie gợi ý giỏi nhất và nhịp truyện vừa vặn nhất. *** Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Vào khoảng thời gian giữa bảy giờ ba mươi và tám giờ ba mươi tất cả các buổi sáng, trừ chủ nhật, Johnnie Butt đi xe đạp vòng quanh làng Chipping Cleghorn. Huýt sáo to tướng giữa hai hàm răng, anh ta chống một chân xuống đất, trước cửa mỗi ngôi nhà, để tuồn vào thùng thư những tờ báo hàng ngày đã được đặt trước ở bưu điện trên phố High Street. Vậy là anh ta thả tờ Times và tờ Daily Worker vào nhà bà Swettenham, nhà cô Hinchliffe và cô Murgatroyd tờ Daily Telegraph và tờ News Chronicle, vào nhà cô Blacklock tờ Telegraph, tờ Times và tờ Daily Mail. Ở tất cả các nhà, hay gần như tất cả các nhà ở Chipping Cleghorn, anh ta để vào một tờ North Benham và Chipping Cleghorn Gazette, mà mọi người dân địa phương quen gọi đơn giản là Gazette, vào tất cả các ngày thứ sáu. Vì vậy, buổi sáng thứ Sáu, sau khi lướt mắt trên những tít lớn của tờ báo hàng ngày, phần lớn dân cư ở Chipping Cleghorn vội vã mở tờ Gazette ra để chăm chú đọc những tin tức của địa phương. Sau khi đọc qua mục “Trao đổi thư từ”, chín trên mười độc giả tấn công ngay vào mục “những thông báo cá nhân”, nơi đăng những vật để bán hoặc cho thuê, những nhu cầu vô vọng tìm người hầu, rất nhiều thông báo về chó, mèo, vật dụng làm vườn và tất cả các vụ việc thuộc loại rất thú vị đối với những người tạo nên cái cộng đồng nhỏ bé ở Chipping Cleghorn. 2 Cái ngày thứ sáu 29 tháng mười cũng không khác những thứ sáu khác. Bà Swettenham vén những lọn tóc màu tro xinh xắn rủ trên trán, mở tờ báo Times ra, liếc rnột cái nhìn thò ơ trên trang báo cầm ở tay trái, đọc qua cột viết về dân sự rồi sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đặt tờ Times sang một bên, bà vội vã cầm lấy tờ Chipping Cleghorn Gazette. Khi con trai bà, Edmund, đi vào phòng sau đó một lát, bà đang chăm chú đọc mục “những thông báo cá nhân”. - Chào con thân yêu - Bà nói - Nhà Smedley bán con chó Daimler của họ... nó sinh năm 1935... Đã già rồi! Edmund ậm ừ trả lời, rồi rót một tách cà phê, đặt hai khoanh cá trích vào đĩa, ngồi vào bàn và mở tờ Daily Worker ra để đọc mục “xây dựng”. Bà Swettenham đọc to : - Chó ngao, con chó đẹp... Mẹ cũng chẳng hiểu tại sao mọi người lại thích nuôi chó to đến thế, nhất là lúc này... Selina Laurence lại đăng thông báo tìm một cô đầu bếp. Mẹ có thể nói rằng, thời buổi này, đăng thông báo chỉ phí thời gian. Cô ấy cũng không đăng địa chỉ, mà chỉ có số hòm thư lưu thôi. Chó berger Đức. Mẹ chẳng bao giờ thích chó berger cả, không phải vì chúng là giống Đức, chúng ta chẳng còn câu nệ nữa, mà chỉ đơn giản bởi vì mẹ không thích chúng. Bà cần gì, bà Finch? Cánh cửa mở để cho nửa người và cái đầu phụ nữ dễ sợ thò vào với một cái mũ nồi nhung. - Chào bà! Tôi có thể dọn bàn được chưa? - Chưa được! Chúng tôi chưa ăn xong. Bà Finch liếc nhìn Edmund với tờ báo trong tay, hít hà rồi lui ra. - Con chỉ mới bắt đầu! - Edmund phản đối. - Mẹ mong con đừng đọc những tờ báo khủng khiếp ấy nữa! Bà Finch chẳng thích điều đó một tí nào! - Con không hiểu tại sao những ý kiến chính trị của con lại liên quan đến bà Finch! - Nếu con là công nhân đã đành! Nhưng con có làm việc đâu! Edmund bực bội phản đối. - Hoàn toàn không đúng. Con viết một quyển sách.! - Mẹ nói về một công việc thật sự cơ... Còn về bà Finch, chúng ta không thể chế nhạo điều bà ấy suy nghĩ! Nếu bà ấy bị ốm hoặc không đến nữa thì ai thay bà ấy phục vụ chúng ta? ... Mời các bạn đón đọc Cái Chết Được Báo Trước của tác giả Agatha Christie.