Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht

Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

20 Giờ Đầu Tiên Cách Học Nhanh Bất Cứ Thứ Gì
Có rất nhiều việc muốn làm… nhưng lại có quá ít thời gian”. Đó là chuyện thường thấy của cuộc sống hiện đại. Hãy dành một chút thời gian để xem có bao nhiêu việc bạn muốn học cách làm. Danh sách của bạn có những việc gì? Điều gì ngăn cản bạn bắt đầu? Thường là do: Thời gian và kỹ năng. Có một sự thật không lấy gì làm dễ chịu, đó là: Những trải nghiệm đáng giá nhất trong đời thường lại đòi hỏi phải có kỹ năng ở một cấp độ nào đó. Cần phải có thời gian và cần phải nỗ lực mới có được kỹ năng - mà thời gian thì chúng ta không có, còn nỗ lực lại là thứ chúng ta ngại gom góp. “Một ngày nào đó tôi sẽ học, khi tôi có thời gian”. Thành thật mà nói, ngồi xem tivi và lướt web bao giờ cũng dễ dàng hơn… Thế nên đó chính là điều mà hầu hết chúng ta vẫn làm, và để cho khao khát của chúng ta vẫn mãi chỉ là những giấc mơ. Vẫn còn một sự thật không lấy gì làm dễ chịu, đó là: Có rất nhiều việc chẳng có gì thú vị cho tới khi chúng ta giỏi việc đó. Kỹ năng nào cũng có cái mà tôi vẫn gọi là rào cản thất vọng - thời điểm bạn cực kỳ không thạo (kỹ năng đó) và đau đớn nhận ra sự thật đó. Tại sao phải bắt đầu một việc mà bạn biết là bạn sẽ chẳng giỏi việc đó chứ? Chẳng phải sẽ rất tuyệt khi có thể thành thạo những kỹ năng mới mà không cần phải tức giận nhiều sao? Để nhanh chóng vượt qua rào cản thất vọng, để có thể chuyển tới phần thú vị, đáng giá? Để tốn ít thời gian cho việc bối rối và lúng túng, để có thêm thời gian thú vị? Liệu có thể học được những kỹ năng mới theo cách tốn ít thời gian và công sức hơn không? Từ kinh nghiệm của riêng tôi, xin trả lời là: Có, có thể. Cuốn sách này là cuộc tìm kiếm của cá nhân tôi nhằm kiểm tra tính nghệ thuật và khoa học của việc học kỹ năng nhanh chóng - làm cách nào để học bất cứ kỹ năng nào nhanh nhất có thể. Mục đích của cuốn sách này là giúp bạn học được những kỹ năng mới trong khoảng thời gian kỷ lục. Theo kinh nghiệm của tôi, mất khoảng 20 giờ thực hành để phá vỡ rào cản thất vọng: để đi từ mức hoàn toàn không biết gì về việc bạn đang cố gắng làm tới mức có thể làm việc đó tốt một cách đáng ngạc nhiên. Cuốn sách này là cách tiếp cận mang tính hệ thống đối với vấn đề học kỹ năng mới nhanh nhất có thể. Phương pháp mang tính phổ quát. Vấn đề không phải là bạn muốn học ngoại ngữ, viết tiểu thuyết, vẽ chân dung, khởi nghiệp hay lái máy bay. Nếu bạn đầu tư ít nhất 20 tiếng để học những điều cơ bản của một kỹ năng, bạn sẽ ngạc nhiên với mức độ thành thạo mà bạn có thể đạt được. Bất kể kỹ năng bạn muốn học là gì, cuốn sách này cũng sẽ giúp bạn đạt được kỹ năng đó với ít thời gian và năng lượng lãng phí hơn. Chỉ cần một chút nỗ lực tập trung, có chiến lược, bạn sẽ thấy mình nhanh chóng tiến bộ mà không thất vọng. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ bắt đầu bằng những nguyên tắc học kỹ năng nhanh: làm cách nào để học những kỹ năng mới nhanh nhất có thể. Những ý tưởng và bài tập thực hành này không hề phức tạp, nên sẽ không mất quá nhiều thời gian để học. Sau đó, tôi sẽ giải thích cách sử dụng những nguyên tắc này trong thực tế bằng cách chỉ cho các bạn biết tôi đã học 6 kỹ năng mới dưới đây trong vòng chưa tới 20 tiếng mỗi kỹ năng, không quá 90 phút thực hành mỗi ngày, như thế nào. Phát triển bài tập yoga cá nhân Viết chương trình máy tính dựa trên web Học lại cách gõ 10 ngón Khám phá boardgame cổ nhất và phức tạp nhất trong lịch sử Chơi được một nhạc cụ Lướt ván Tôi hi vọng cuốn sách này có thể khuyến khích bạn phủi bụi danh sách những việc “muốn làm” của bạn, kiểm tra lại danh sách đó và cam kết học được điều mới mẻ nào đó. *** 1 Chân dung tác giả – người nghiện học Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Sáng nào thức dậy, tôi cũng quyết tâm phải thay đổi thế giới và vui vẻ. Đôi khi điều này khiến cho việc lập kế hoạch theo ngày của tôi trở nên khó khăn. −E. B. WHITE, tác giả cuốn Mạng nhện của Charlotte ▪ ▪ ▪ Xin chào các bạn, tên tôi là Josh Kaufman, và tôi là một người nghiện học. Các giá sách ở nhà và ở văn phòng của tôi đều đầy ắp sách, dụng cụ và những thiết bị chưa từng được sử dụng, đủ các thể loại. Hầu hết những thứ đó đều dần dần bị bụi phủ. Tôi có một danh sách dài ngoằng những thứ “cần học”. Giỏ hàng trên trang Amazon.com hiện tại của tôi có 241 món hàng – tất cả đều là những cuốn sách tôi muốn đọc. Tôi không thể bước vào một hiệu sách mà không quay ra với ba hoặc bốn cuốn sách mới, để thêm vào “bộ sưu tập” 852 cuốn mà tôi đang có. Mỗi ngày, tôi lại nghĩ ra một ý tưởng cho một dự án khác hay một trải nghiệm mới, và tôi lại thêm vào danh sách vẫn không ngừng dài thêm của mình có tên là “một ngày nào đó/có thể”. Chỉ nhìn vào những việc mà tôi muốn học cách làm cũng đủ khiến tôi thấy choáng ngợp, vì vậy tôi không mấy khi nhìn vào danh sách đó. Tôi muốn học cách phát triển công ty xuất bản của mình. Tôi muốn học cách quay và biên tập video. Tôi muốn sản xuất được một chương trình phát thanh. Tôi muốn học cách tổ chức những buổi thảo luận và giảng dạy tốt hơn. Tôi có những ý tưởng cho sản phẩm mới, nhưng tôi không biết làm thế nào để phát triển nó. Tôi có các ý tưởng về chương trình máy tính mới, nhưng tôi không biết làm thế nào để tạo ra chúng. Tôi có nhiều ý tưởng viết lách trong đầu hơn là thời gian và năng lượng để viết ra. Tôi muốn học cách vẽ. Tôi muốn học cách chèo thuyền kayak. Tôi muốn học cách câu cá bằng ruồi nhân tạo. Tôi muốn học leo núi. Tôi muốn có thể chơi được ghi ta, đàn ukulele, piano và violin điện. Có những trò chơi tôi đã thích trong nhiều năm như trò cờ vây, nhưng tôi vẫn chưa học được cách chơi. Có những trò chơi tôi đã biết cách chơi như cờ tướng, nhưng tôi không thực sự giỏi, vì vậy những trò đó không thú vị lắm, và tôi không chơi chúng thường xuyên. Tôi thích ý tưởng chơi gôn, nhưng trận nào tôi chơi cũng đều hóa thành trò cười cho mọi người. (Tôi thường nói rằng tôi chơi gôn ma-ra-tông vì khi đánh được 18 lỗ, tôi đã chạy được cả một vòng ma-ra-tông.) Có vẻ như mỗi ngày tôi lại thêm một số kỹ năng mới vào danh sách những việc tôi muốn mình có thể làm được – danh sách dài vô tận. Khi có quá nhiều thứ cần học, tôi sẽ có ít thời gian hơn. Về bản chất, tôi là người thích tự mình làm việc của mình. Nếu có việc gì cần làm, tôi muốn tự mình làm hơn là nhờ người khác giúp đỡ. Ngay cả khi người khác có thể làm việc đó nhanh hơn hoặc tốt hơn tôi, tôi cũng không nỡ tước mất cái “thú” học để trải nghiệm của bản thân. Để làm cho mọi việc phức tạp hơn, Kelsey, vợ tôi, còn mở một công ty riêng, cung cấp các khóa đào tạo liên tục cho những giảng viên dạy yoga. Công ty mang lại lợi ích cho cả hai chúng tôi, vì thế luôn có rất nhiều việc cần phải làm. Để cuộc sống trở nên thú vị hơn, chúng tôi đã chào đón thành viên mới của gia đình, con gái Lela. Lela mới được chín tháng tuổi khi tôi viết cuốn sách này. Trước khi có Lela, tôi và Kelsey đã thống nhất, nếu có con, chúng tôi muốn đặt việc tự mình nuôi con lên hàng đầu. Một trong những lý do chính khiến tôi từ bỏ công việc quản lý trước đây của mình tại một tập đoàn thuộc danh sách Fortune 500 là để có thể làm việc linh hoạt ở nhà, tự đặt lịch trình cho mình, và dành càng nhiều thời gian càng tốt bên gia đình. Tôi và Kelsey cùng chia sẻ trách nhiệm làm cha mẹ. Vì cả hai chúng tôi đều làm việc tại nhà nên Kelsey làm việc buổi sáng khi tôi chăm sóc Lela. Buổi chiều, Kelsey trông con, còn tôi làm việc tới lúc ăn tối. Như vậy tôi có khoảng 25 tiếng để làm việc mỗi tuần, chưa kể khoảng thời gian tôi có thể tranh thủ được khi Lela chợp mắt. Sau khi Lela chào đời, tôi có cảm giác tôi không có đủ thời gian để làm việc, nói gì tới chuyện học thêm kỹ năng mới. Với một người nghiện học như tôi, đó là cả một vấn đề bức xúc. Tôi không muốn từ bỏ việc học và hoàn thiện bản thân, kể cả khi có những trọng trách mới. Tôi không có nhiều thời gian rảnh, nhưng tôi sẵn sàng đầu tư những gì tôi có theo cách thông minh nhất có thể.14 Đó chính là lý do khiến tôi quan tâm tới việc học kỹ năng nhanh: Phương pháp học kỹ năng mới một cách nhanh chóng. Tôi muốn tiếp tục học thêm các kỹ năng, nhưng tôi không muốn quá trình đó kéo dài mãi. Tôi muốn nắm bắt được các điểm mấu chốt một cách nhanh chóng để có thể tiến bộ vượt bậc mà không phải cảm thấy thất vọng thường xuyên . Tôi tin là bạn có thể hiểu được. Bạn có bao nhiêu thời gian “rảnh” mỗi ngày sau khi hoàn thành công việc và nghĩa vụ với gia đình? Bạn có cảm thấy bạn cần 36 đến 48 tiếng một ngày để cuối ngày mới có thời gian ngồi xuống học một thứ gì đó mới mẻ? Có một câu nói thế này: “Hãy làm việc theo cách thông minh hơn, đừng làm việc chăm chỉ hơn”. Điều này có nghĩa là quá trình học kỹ năng thực ra không phải là số giờ bạn dành cho nó… mà là điều bạn thu lượm được từ quãng thời gian đó. Ông vớ vẩn quá, Malcolm Gladwell Năm 2008, Malcolm Gladwell viết cuốn sách Những kẻ xuất chúng. Trong cuốn sách đó, tác giả đã cố gắng giải thích lý do khiến một số người thành công hơn những người khác. Một trong những ý tưởng mà Gladwell nhắc đi nhắc lại là “nguyên tắc 10.000 giờ”. Dựa trên nghiên cứu của tiến sỹ K. Anders Ericsson của Đại học bang Florida, để đạt được biểu hiện xuất chúng cần 10.000 giờ (bình quân) để luyện tập. 10.000 giờ tương đương với 8 giờ luyện tập mỗi ngày trong khoảng ba năm rưỡi liên tục, không ngừng nghỉ, không có cuối tuần và cũng không có nghỉ lễ. So với tiêu chuẩn 260 ngày làm việc một năm không gián đoạn thì khoảng thời gian đó tương đương với một công việc toàn thời gian trong gần 5 năm. Đó là trong trường hợp bạn dành 100% thời gian và tận dụng 100% năng lượng cùng nỗ lực của mình. Trên thực tế, cấp độ tập trung chú ý này thực sự là một thử thách. Ngay cả những người thuộc đẳng cấp thế giới trong nhiều lĩnh vực cạnh tranh gay gắt (ví dụ như trong âm nhạc và thể thao chuyên nghiệp) cũng chỉ có thể tập trung năng lượng trong khoảng ba tiếng rưỡi để luyện tập mỗi ngày. Điều đó có nghĩa là có thể mất cả thập kỷ hoặc nhiều thời gian hơn nữa để phát triển một kỹ năng tới mức thành thạo. Nghiên cứu của tiến sỹ Ericsson chỉ ra rằng, về bản chất, nếu bạn muốn thành thạo một kỹ năng mới, bạn sẽ phải trải qua một quá trình dài. Để trở thành người giỏi nhất thế giới về bất cứ việc gì cũng đòi hỏi nhiều năm luyện tập không ngừng nghỉ. Nếu bạn không chịu bỏ thời gian và công sức, bạn sẽ chỉ luôn theo sau và bị lu mờ bởi những người đó. Những kẻ xuất chúng lọt vào danh sách những cuốn sách bán chạy nhất và nằm trong danh sách này suốt ba tháng. Chỉ qua một đêm, “nguyên tắc 10.000 giờ” đã có mặt ở khắp mọi nơi. Không những phải dành thời gian để luyện tập… giờ bạn còn phải bỏ ra 10.000 giờ nữa? Hầu hết chúng ta đều tự cho mình là người may mắn nếu có thể dành ra vài tiếng mỗi tuần. Vậy thì tại sao phải quan tâm tới việc bỏ ra quá nhiều thời gian như vậy để giỏi một việc gì đó? Ôi Chúa ơi, hãy nhìn vào công việc của tôi và thất vọng đi! Trước khi từ bỏ hết hi vọng, hãy xét tới điều này. Có một phần trong nghiên cứu của tiến sỹ Ericsson rất dễ bị xem thường: Đó là nghiên cứu về biểu hiện ở mức độ chuyên gia. Nếu bạn mong muốn trở thành một Tiger Woods tiếp theo, có lẽ bạn cần phải dành ra ít nhất 10.000 tiếng luyện tập bài bản và có hệ thống tất cả các khía cạnh của gôn. Hầu hết các gôn thủ chuyên nghiệp đều bắt đầu chơi từ khi còn nhỏ và đã luyện tập không ngừng nghỉ trong ít nhất 17 năm. Để có thể mang đẳng cấp thế giới cần phải có thời gian. Ngược lại, chuyện gì sẽ xảy ra nếu thắng giải PGA không phải là mục tiêu của bạn? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bạn chỉ muốn chơi gôn đủ tốt để có thể chơi thoải mái, không làm bản thân mất mặt, có một khoảng thời gian vui vẻ và có cơ hội chiến thắng trong giải đấu các câu lạc bộ địa phương? Đó lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Muốn đạt đẳng cấp thế giới phải cần tới 10.000 giờ nỗ lực tập trung, nhưng phát triển khả năng để thể hiện đủ tốt vì mục đích riêng của bản thân thì không đòi hỏi phải đầu tư nhiều như thế. Nói vậy không có nghĩa là làm giảm giá trị của việc “luyện tập bài bản” mà tiến sỹ Ericsson đã đề cập: Luyện tập có mục đích và có hệ thống nhằm cải thiện kỹ năng. Luyện tập bài bản là cốt lõi của việc học hỏi kỹ năng. Vấn đề là cần luyện tập bài bản đến mức nào để đạt được mục tiêu của bạn. Thường thì điều đó không cần nhiều như bạn tưởng. Chất lượng, không phải số lượng Tiếp nhận khái niệm vừa đủ là chìa khóa để học kỹ năng nhanh. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ thảo luận về việc phát triển khả năng, chứ không phải sự thành thạo đạt đẳng cấp thế giới. Chúng ta sẽ xử lý khúc cua của đường cong học hành và nắn thẳng nó càng nhanh càng tốt. Hãy để 10.000 giờ cho những người chuyên nghiệp. Chúng ta sẽ bắt đầu với 20 giờ nỗ lực chuyên tâm, tập trung, thông minh. Chúng ta đang nhắm tới những kết quả mà bản thân mong muốn chỉ với một phần nỗ lực. Có thể bạn sẽ không bao giờ giành được huy chương vàng, nhưng bạn sẽ đạt được những phần thưởng bạn quan tâm trong thời gian ngắn hơn. Nếu cuối cùng bạn quyết định phải thành thạo kỹ năng đó, bạn sẽ có cơ hội tốt hơn để thành công nếu bạn bắt đầu với 20 tiếng học kỹ năng nhanh. Bằng cách biết bản thân đang hướng tới điều gì, học những nguyên tắc cơ bản, luyện tập theo cách thông minh và phát triển một quy trình luyện tập, bạn sẽ tiến bộ nhanh hơn và đều đặn hơn. Bạn sẽ đạt được trình độ chuyên gia trong thời gian kỷ lục. Thế nào là học kỹ năng nhanh? Học kỹ năng nhanh là một quá trình – một cách chia nhỏ kỹ năng mà bạn đang cố làm chủ thành những phần nhỏ nhất có thể, xác định phần nào là quan trọng nhất, sau đó chú tâm luyện tập phần đó trước tiên. Chỉ đơn giản vậy thôi. Học kỹ năng nhanh có bốn bước chính: Chia nhỏ kỹ năng thành những phần kỹ năng nhỏ nhất có thể; Học những phần kỹ năng nhỏ nhất để có thể luyện tập theo cách thông minh và tự điều chỉnh trong suốt quá trình luyện tập; Loại bỏ những rào cản về mặt sinh lý, tinh thần và tình cảm xuất hiện trong quá trình luyện tập; Luyện tập những phần kỹ năng quan trọng nhất trong vòng 20 tiếng là ít nhất. Mời các bạn đón đọc 20 Giờ Đầu Tiên của tác giả Josh Kaufman. FULL: AZW3 EPUB MOBI PDF
Bí Mật Của Một Trí Nhớ Siêu Phàm
Cuốn sách Kinh điển về Tư duy, Kỹ năng mà bất cứ ai cũng nên đọc. Phần lớn chúng ta cho đến cuối đời đều chỉ sử dụng được khoảng 10% khả năng ghi nhớ của mình… Và để nhớ mọi thứ thật lâu, lời khuyên của tôi là: Mỗi người hãy nhận thức lại cuộc sống để thấy cuộc sống của chúng ta thật đáng quý. Nhiệt tình với mọi điều trong cuộc sống, mọi thứ với chúng ta sẽ thật dễ nhớ. Ngày nay, chúng ta thường quá phụ thuộc vào máy móc công nghệ để ghi nhớ những gì mình muốn; thậm chí chúng ta còn có những quan niệm hết sức sai lầm về trí nhớ của mình. Ví dụ, bạn thành thật thú nhận rằng trí nhớ của mình rất tồi tệ. Và bạn thường biện hộ rằng bạn chỉ là “người trần mắt thịt” nên việc “quên quên nhớ nhớ” là điều hết sức bình thường. Và bạn không hề nghĩ rằng: “Trí nhớ cũng có thể cải thiện được”. Bạn thường thú nhận: Mình chỉ có thể nhớ được 10% tên của những người mà mình đã gặp. Thực tế là, bạn thường rất ấn tượng với diện mạo của người khác, nhưng lại không bao giờ liên hệ nó với một cái tên. Bạn thường thú nhận: Mình chỉ có thể nhớ được 1% số điện thoại của người thân, bạn bè, đồng nghiệp. Thực tế là: bạn không thật sự chủ động ghi nhớ những con số. Bạn cho rằng bộ nhớ bị lão hóa theo thời gian. Thực tế là: Trí nhớ chỉ thật sự giảm sút khi bạn không sử dụng nó thường xuyên. Nếu có sự tập luyện, trí nhớ sẽ liên tục được cải thiện. Với cuốn sách Bí mật của một trí nhớ siêu phàm, tác giả Eran Katz giúp bạn khẳng định: Trí nhớ của bạn tốt hơn bạn tưởng rất nhiều! Điều nghịch lý là bạn thường không tin vào trí nhớ của mình, cho rằng mình sinh ra đã có một trí nhớ không hoàn hảo, rồi bị động chung sống với nó suốt đời. Do đó, điều bạn cần làm ngay là thay đổi quan niệm sai lầm này. Eran Katz đưa ra những phương pháp ghi nhớ và một hệ thống các bài luyện tập tăng cường trí nhớ đặc biệt, để giúp bạn ghi nhớ tất cả những gì bạn muốn. Trong đó, một cách thức thông dụng mà ông thường xuyên áp dụng cho bản thân là phương pháp liên tưởng. Ông nói rằng: “Từ hàng nghìn năm trước người La Mã cổ đại đã phát hiện ra rằng, muốn có trí nhớ tốt thì phải biết liên tưởng, càng có những liên tưởng đặc biệt, chúng ta càng dễ nhớ mọi việc”. *** Một buổi tối nọ, khi chúng tôi đang đi dạo trên phố dành cho người đi bộ ở Jerusalem thì Gali, cô con gái mới bốn tuổi của tôi đã khiến tôi vô cùng ngạc nhiên khi hỏi: “Bố ơi, cho con xin 25 xu được không ạ?” “Để làm gì vậy, con gái?” tôi hỏi lại. “Để con cho Boris”, con bé trả lời. Tôi không biết người nào tên Boris và chắc chắn không nhìn thấy người nào mà con bé quen biết, nên tôi hỏi nó: “Ai là Boris vậy con?” “À, là người chơi nhạc đó bố”, con bé nói nhỏ. Ngay lập tức tôi hiểu ra, chắc là con bé nói tới người đang chơi đàn măng-đô-lin kia, kiếm sống dựa vào sự tốt bụng và nhân hậu của khách qua đường. Dù vậy, tôi vẫn ngạc nhiên về việc con bé biết tên ông ta. Gali cầm tiền và lại gần người chơi đàn lúc này đang tập trung vào công việc của mình. Gali đứng trước mặt người đàn ông, nhưng không thể khiến cho ông ta chú ý, con bé đã nói nhỏ: “Boris, cho ông này.” Người chơi đàn ngước lên và nhìn chằm chằm con gái tôi một cách sửng sốt: “Làm thế nào mà cháu biết tên ta?”, người đàn ông nhấn giọng. Con gái tôi nhìn ông ta một lát và nói: “Ông đã nói với cháu lần trước mà!” “Nhưng làm cách nào mà cháu nhớ được thế?”, ông ta hỏi với tia nhìn ấm áp ánh lên trong mắt. Con gái tôi không trả lời câu hỏi này. Thực tế dường như câu hỏi này chẳng có nghĩa lý gì với nó, cứ như nó đang tự hỏi mình: “Có vấn đề gì vậy?...Ông đã nói tên cho cháu và cháu nhớ thôi. Có điều gì đáng ngạc nhiên ở đây sao?” Tôi đứng sang một bên ngạc nhiên quan sát tình huống này. Tôi hết sức bất ngờ khi người đàn ông kia, với tôi chỉ là một thành phần không thể thiếu của cảnh vật đô thị ở đất nước tôi, thành phần mà bạn thường không chú ý, thì ngược lại, với Gali, ông ta chính là Boris! Người đàn ông với một cái tên, giống như tôi và con bé - một người đàn ông thú vị có thể khiến con bé hài lòng qua âm nhạc của ông ta. Nhưng những gì xảy ra tiếp theo còn đáng kinh ngạc hơn. Boris xếp lại đồ rồi cầm đàn măng-đô-lin bắt đầu gảy những nốt nhạc đầu tiên. Cùng lúc đó, Gali bỏ tiền vào cái ống đã han gỉ, ngay lập tức Boris ngừng chơi. Ông ta quỳ xuống cái ống, nhặt đồng tiền ra và đưa lại cho Gali. “Cháu là bạn ta. Với cháu, ta sẽ biểu diễn miễn phí…”, người đàn ông nói với nụ cười rạng rỡ. Boris lại tiếp tục chơi đàn. Còn tôi theo dõi mọi chuyện đang diễn ra một cách thích thú. Đã nhiều năm rồi, tôi dồn hết tâm trí vào việc phát triển và thực hiện các cách ghi nhớ, nhận thức được sức mạnh và tầm quan trọng của một trí nhớ tốt, cho nên những gì xảy ra ngày hôm đó là một bước ngoặt thật sự; một cô bé đi trên đường, tiến lại gần người chơi đàn trên hè phố và gọi tên ông ta. Người chơi đàn nghèo sống dựa vào những đồng tiền xu được bỏ vào ống đựng tiền của ông ta lại sẵn sàng trả lại tiền với tâm trạng vô cùng hạnh phúc. Vì sao vậy? Bởi vì có người trong số hang nghìn người đi qua ông ta hàng ngày đã nhớ tên ông ta. Đó chính là Gali. Con bé đã nhớ tên và còn gọi “Boris”. Còn Boris, cảm thấy xúc động và bất ngờ khi có người nhớ tên mình, đã cảm ơn con bé một cách tự nhiên – ông thưởng cho con bé một bản nhạc miễn phí. Ông cảm ơn con bé vì đã nhớ tên ông – một điều bình thường nhất. Một trí nhớ tốt là tài sản quan trọng nhất. Nó là công cụ hữu hiệu mà chúng ta có được, nên ta cần phải đầu tư, rèn luyện và nuôi dưỡng nó thích đáng. Điều này không giống như trước đây. Ở thời Hy Lạp và La Mã cổ đại, người ta chú trọng đến việc phát triển các kỹ năng của trí nhớ. Plato, Aristotle và cá nhà sư phạm khác luôn bị ám ảnh về việc tìm hiểu trí nhớ của con người, tìm ra quy luật liên tưởng hay các phương pháp tăng cường trí nhớ nhằm cải thiện khả năng ghi nhớ của con người. Sau đó, những phương pháp này đã được các nhà tâm lý học nổi tiếng như Hubert và Ebinghouse phát triển. Tôi đã biết đến đề tài này từ 24 năm trước. Tôi đã đọc sách của Harry Loraine, một bậc thầy về các bài luyện tập trí nhớ, và sau đó đọc thêm rất nhiều cuốn sách khác. Qua nhiều năm, tôi chuyển chủ đề này sang một sở thích đặc biệt hơn. Tôi học cách thực hiện các bài tập tăng cường trí nhớ đặc biệt, tôi chọn lọc các phương pháp mới, và nhận thấy hiệu quả đáng ngạc nhiên của chúng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trong cuốn sách này, tôi muốn giới thiệu với các bạn những gì mà tôi cho là các ý tưởng, phương pháp và bí quyết thành công nhất để phát triển một trí nhớ tuyệt vời. Cuốn sách này không chỉ hướng dẫn bạn mà còn chứng minh cho bạn thấy rằng các phương pháp này có hiệu quả. Do đó, bạn sẽ thấy các bài luyện tập vui xuyên suốt các chương được sắp xếp theo thứ tự thời gian và cấp độ tăng dần từ dễ đến khó. Bạn sẽ nhận thấy sự thay đổi khả năng ghi nhớ của mình ngay sau vài chương đầu tiên của cuốn sách. Đọc xong cuốn sách này, có thể bạn sẽ thực hiện những bài tập tăng cường trí nhớ đặc biệt đễ trong phần đời còn lại bạn sẽ có được sự hiểu biết, kinh nghiệm và bằng chứng về việc bạn có thể tin tưởng vào trí nhớ của bản than và khả năng ghi nhớ tất cả những gì bạn muốn. Thân mến! – Eran Katz Mời các bạn đón đọc Bí Mật Của Một Trí Nhớ Siêu Phàm của tác giả Eran Katz.
Lòng Tốt Của Bạn Cần Thêm Đôi Phần Sắc Sảo Tập 1
Một người có thể sống cả đời theo cách mình thích là chuyện vô cùng khó khăn. Chúng ta không giây phút nào không bị thế giới bên ngoài chỉ trỏ, lâu dần sẽ quên mất tâm tư ban sơ, mất đi khả năng suy nghĩ độc lập và giữ vững cái tôi. So với từng câu từng câu an ủi dịu dàng, tôi nghĩ chúng ta cần một chậu nước lạnh hơn. Nó sẽ giúp chúng ta tỉnh táo ý thức được tính tình cáu bẳn của mình, tầm nhìn và lòng dạ hạn hẹp của mình, EQ thấp của mình, và tất cả những vấn đề mà bản thân chúng ta không nhìn rõ, nhưng người khác thấy rõ mồn một mà không muốn nói cho chúng ta biết. Khi bạn khốn đốn, hoang mang, nếu đọc được cuốn sách này, mong rằng bạn có thể rút ra sức mạnh từ trong câu chữ của nó, đừng nộp vũ khí đầu hàng thế giới này. [...] Đời người là một quá trình thử sai, trưởng thành cũng không ngoại lệ. Nên làm những gì, đi con đường nào, mỗi người đều tuân theo tiếng nói của nội tâm, dò dẫm từng bước một. Vấp ngã, thì bò dậy; va vỡ đầu, thì lùi lại; đi đường sai, thì quay lại; lạc lối, thì ngừng chân… Cuộc đời của mỗi người mỗi khác, ai ai cũng phải tự mình trải qua, mỗi người đều có bài học nhân sinh cần bản thân một mình hoàn thành. Bởi vì từng trải, cho nên thấu hiểu. Nguyện cho tất cả những người không hiểu và thấu hiểu trên đời không ngừng trưởng thành nhưng vẫn tốt bụng như xưa! *** Quyển sách được viết bởi một bác sĩ tâm lý cùng với sự trải nghiệm nên từng chữ, từng câu trong cuốn sách đúng vào tâm lý chung của độc giả. Đó là sự chân thành, sức trẻ và nhiệt huyết.  Đồng thời, Mộ Nhan Ca cũng là nghệ sĩ múa nên công việc này cũng chính là nguồn cảm hứng và có góc nhìn uyển chuyển, linh hoạt hơn. Vì vậy, các nội dung cuốn sách được ví như “liều thuốc” giúp độc giả dẫn dắt lòng tốt của mình đúng hướng. *** Khi nghe tựa đề cuốn sách, tôi như bừng tỉnh hẳn và luôn tự chất vấn về lòng tốt chính mình trước đây. Từ đó, tôi càng tò mò và khám phá ngay nội dung bên trong cuốn sách. Văn phong hết sức tinh tế, uyển chuyển và sâu sắc. Qua từng chương sẽ để lại trong tôi nhiều suy nghĩ mãi không thôi. Cuốn sách Lòng tốt của bạn cần thêm đôi phần sắc sảo sẽ giúp bạn cho đi lòng tốt một cách đúng nghĩa để chính bạn và những người xung quanh mình đều cảm nhận được giá trị mà lòng tốt đem lại, giúp bạn sống một cách trọn vẹn giữa cuộc sống đầy những bon chen. Sống tốt đã khó, sống khôn ngoan lại là một bài toán khó hơn. Nếu lòng tốt nếu không được cho đi đúng lúc, đúng người sẽ trở thành con dao 2 lưỡi quay ngược lại đâm ta. Vì vậy, những kỹ năng mà cuốn sách chia sẻ sẽ phần nào giúp bạn có thêm kinh nghiệm để trao gửi yêu thương một cách trọn vẹn. Cuốn sách là một cuốn cẩm nang mà bất kỳ ai cũng cần có trên hành trình hoàn thiện bản thân mình. Đây thực sự là kiến thức vô giá và đã trở thành kim chỉ nam cho tôi, cho những bạn đang muốn hướng thiện và giúp đỡ cho cuộc đời này. Lòng tốt ấy phải hợp lý và đúng mực, đúng ơi, đúng lúc. *** Cuốn sách gồm 6 chương, mỗi chương gồm có nhiều phần nội dung. Từng nội dung xoay quanh phân tích tâm lý về những người “không biết sử dụng lòng tốt”. Từ đó, đưa ra hướng giải quyết thỏa đáng mà có lẽ sẽ có những vấn đề mà trước giờ bạn nghĩ mình làm vậy là hoàn toàn đúng, nhưng thực chất là sai hoàn toàn. Bên cạnh đó, Tác giả minh họa bằng những ví dụ cụ thể trong những nội dung cần thiết nhất. Vì vậy, khi đọc bạn sẽ thấy còn có nhiều câu tâm đắc hơn khiến bạn tỉnh ngộ và cảm thấy nhói lòng. Chương 1: Tưởng là tốt bụng, hóa ra là nhu nhược Nội dung này giúp các bạn sử dụng lòng tốt như thế nào phù hợp. Lòng tốt là hành động tốt nhưng cần đến sự can thiệp của trí tuệ. Tác giả không đưa ra định nghĩa nào cho lòng tốt, nhưng ông nhấn mạnh rằng, chúng ta không sống để nhượng bộ, nhượng bộ càng nhiều, không gian cho việc hít thở càng ít. Bạn càng nhún mình, hạnh phúc sẽ càng xa tầm tay với. Và bạn cũng không cần đặt mình vào vị trí quá thấp. Chương 2: Có câu “Chịu thiệt là phúc” cơ mà Tác giả chỉ cho bạn cách sử dụng lòng tốt, đó là “Bạn không cần đặt mình quá thấp. Thứ thuộc về bạn, phải tích cực dành lấy; Thứ không thuộc về bạn, hãy quyết đoán từ bỏ”. Thông qua đó, tác giả nhắn nhủ các bạn rằng: Thực hiện cuộc sống muôn trùng khó khăn và khốc liệt, không phải ai đều tồn tại dễ dàng trong cuộc đời này. Các bạn muốn vị trí mình đứng vững chắc, bạn phải có bản lĩnh. Điều quan trọng là bạn phải trau dồi kiến thức, kỹ năng để đạt được vị trí mong muốn đó. Chương 3: Người ấy không biết xót xa trước sự hi sinh thừa thãi Trong một số trường hợp, việc làm tốt của bạn được mọi người mặc định là phải như thế. Đôi lúc, họ còn thờ ơ, làm ngơ trước việc tốt của bạn. Hãy nhớ lòng tốt không phải để ban phát mà là giúp đỡ những người cần đến thực sự và hy sinh thừa thãi đều là gánh nặng tình cảm. Vì vậy, bạn muốn sống tốt,  hãy sống cho bản thân mình trước, cho người thân. Sau đó mới nghĩ đến chuyện giúp đỡ những người khác. Bạn phải tinh tế, khéo léo và khôn ngoan mọi hoàn cảnh (như học tập, công việc, giao tiếp trong cuộc sống,..). Chương 4: Bạn tốt bao nhiêu, thì người ấy có thể xấu bấy nhiêu Vốn dĩ, sự nhượng bộ, khiêm nhường và ngay cả im lặng sẽ khiến cho đối phương càng ngày càng háo thắng và xem thường bạn. Đôi lúc, bạn cần khoan dung nhưng đừng nuông chiều mà phải học cách từ chối hoặc nói từ “KHÔNG”. Vì vậy, khi trao lòng tốt cho ai đó, bạn cần suy nghĩ thật kỹ. Hãy nghiêm khắc chính mình một cách có sự chọn lọc thì lòng tốt bạn có giá trị và ý nghĩa sâu sắc. Nếu bạn dễ dãi trao đi lòng tốt cho người khác, bạn đã tự đẩy chính bản thân mình trong hoàn cảnh khó khăn. Chương 5: Bạn không nên kiên cường đến thế, nhưng chỉ có thể một mình kiên cường Những người từng đã làm bạn tổn thương nghĩ rằng điều đó sẽ giúp bạn trưởng thành. Nhưng điều khiến bạn trở nên kiên cường, mạnh mẽ, chính là nỗi đau và sự suy ngẫm của bạn về những việc đã xảy ra. Hay nói cách khác, bản thân bạn trải qua đau khổ không có gì đặc biệt, điều khiến bạn trở nên ý nghĩa là sự kiên cường của bạn. Chương 6: Có thể lo nghĩ thay người khác, nhưng phải sống vì bản thân. Bất cứ ai đều có cuộc sống riêng của mình do chúng ta lựa chọn. Bạn chọn lựa chọn đường đi, giúp đỡ cho mọi người với cái tâm và tấm lòng của bạn. Đồng thời bạn phải sống cho bản thân. Nếu bạn sống tốt tự khắc các bạn sẽ tạo nên phong cách tự tin và lan tỏa ánh hào quang cho mọi người xung quanh. Họ sẽ càng ngưỡng mộ  và tôn trọng bạn. Lòng tốt của bạn thêm phần SẮC SẢO – được ví như một gáo nước lạnh làm bừng tỉnh cho nhiều người có lòng tốt nhưng phải CHỌN LỌC. Vì vậy, hãy đọc nội dung cuốn sách sẽ giúp bạn đặt lòng tốt vừa đúng chỗ vừa đúng số lượng. Mỗi chương gồm có nhiều phần nội dung phân tích theo hướng khác nhau. Qua đó, bạn đã hiểu thêm về sự SẮC SẢO cho lòng tốt của chính bản thân. Để làm tô đậm phần sắc sảo đó, tác giả đúc kết nhiều câu tâm đắc trong cuốn sách khiến bạn tỉnh ngộ và nhói lòi khi đọc. Mời các bạn đón đọc Lòng Tốt Của Bạn Cần Thêm Đôi Phần Sắc Sảo Tập 1 của tác giả Mộ Nhan Ca.
Tán Tỉnh Bất Kỳ Ai
Bất kỳ ai ư? Đúng vậy, thực sự là bất kỳ ai “Tôi không hiểu nổi. Tôi hấp dẫn, thông minh, nhạy cảm, hoàn hảo. Vậy tại sao anh/cô ấy không để ý đến tôi chút nào? Tại sao tôi không thể tìm được tình yêu?” Đã bao lần bạn đấm tay lên gối và tự hỏi mình như vậy? Bạn nghi ngờ mở cuốn sách này, nhưng cũng đôi chút hi vọng sẽ tìm ra giải pháp. Bạn đọc tiêu đề của nó: Tán tỉnh bất kỳ ai. “Đó quả là lời hứa hẹn quá đáng giá”, bạn nghĩ. Thực sự là vậy. Nhưng lời hứa hẹn của cuốn sách này là của bạn nếu bạn thực sự sẵn sàng theo đuổi kế hoạch nắm giữ trái tim của đối tượng tiềm năng. Tại sao khi lịch sử đầy rẫy những trái tim tan vỡ vì yêu, chúng tôi lại tuyên bố có một phương thức khiến bất cứ ai đó sẽ phải lòng mình? Bởi lẽ, sau nhiều thế kỷ đương đầu, rốt cuộc khoa học cũng đã phát hiện ra tình yêu lãng mạn thực sự là thế nào. Cái gì làm phát sinh nó. Cái gì giết chết nó. Và cái gì duy trì nó. Cũng hệt như những người thổ dân châu Phi khi thấy nhật thực đã nghĩ rằng đó là một thứ ma thuật đen, chúng ta ngắm nhìn tình yêu và cho rằng nó đầy mê hoặc. (Đôi khi, nhất là trong những khoảnh khắc bối rối đầu tiên khi chúng ta chặn những người lạ trên phố rồi la lớn: “Tôi đang yêu!”, nó có thể giống như bị bùa mê vậy). Nhưng khi bước vào thế kỷ 21, chúng ta cũng phát hiện ra, tình yêu là một dạng thức hóa học, sinh học và tâm lý học có thể tính toán và xác định rõ ràng. (Và, có lẽ, cũng có một chút ma thuật đen được ném vào trong đó). Khi khoa học bắt đầu “giương buồm” vào những vùng biển chưa từng được khám phá trước đó, thì chúng ta cũng bắt đầu hiểu được những điều gọi là “thiêng liêng nhất, tuyệt vời nhất và tha thiết nhất của những đam mê”, như cách George Bernard Shaw miêu tả tình yêu. Câu hỏi và sự hoang mang về chuyện “Chính xác tình yêu là gì?” không còn mới nữa. Đó là chuyện đã nhận được rất nhiều quan tâm qua bao thời đại của các triết gia nổi tiếng như Plato, Sigmund Freud và Charlie Brown. Trong nhà hát Broadway buổi tối năm 1950, các khán giả xem vở South Pacific đã hoàn toàn đồng tình với Ezio Pinza khi anh này bảo rằng: “Ai có thể giải thích được nó? Ai có thể nói cho bạn vì sao? Những kẻ ngốc đưa cho bạn các lý do. Những người khôn ngoan chẳng bao giờ thử nó”. Dẫu thế thì gần đây, rất nhiều người đàn ông và phụ nữ thông minh đều đã thử. Và thành công. Đừng kết tội Rodgers và Hammerstein. Khi họ soạn ra những bản nhạc trữ tình, cộng đồng khoa học đã tỏ ra bối rối trước tình yêu khi Nellie và Emile de Becque ngân nga nỗi hoang mang về một buổi tối mê muội nào đó. Các nghiên cứu được thực hiện ra sao? Nghiên cứu đầu tiên của tôi, mặc dù ít táo bạo, nhưng cũng không kém mạnh mẽ. Trong hơn 10 năm trời, trước khi trở thành nhà đào tạo truyền thông, tôi là giám đốc một nhóm nghiên cứu do tôi thành lập có tên là “Dự án”. Dự án là một công ty phi lợi nhuận có trụ sở tại thành phố New York, nó được thành lập nhằm tìm hiểu vấn đề tình dục và các mối quan hệ. Trong thời gian làm việc với Dự án, tôi đã phỏng vấn và lên danh sách hàng ngàn vấn đề mà người ta muốn tìm kiếm ở một đối tác. Tôi tập hợp thông tin từ các sinh viên thuộc vô số các trường đại học nơi tôi được mời tới nói chuyện về nghiên cứu của mình. Dự án đã được nhiều người quan tâm và được biết tới ở tầm quốc gia. Một phóng viên của tạp chí Time đã tham dự một trong các buổi nói chuyện của tôi và viết hẳn một trang tuyên bố: “Tưởng tượng tình dục tới sân khấu Broadway”. Điều đó thực sự đã diễn ra. Một nhánh của Dự án có các tình nguyện viên đã diễn các vở kịch về tình yêu thực sự trên sân khấu. Vì không có cảnh khỏa thân và ngôn ngữ tình dục, các vở kịch “thanh khiết” như vậy rất hiếm hoi và giành được sự quan tâm của ba mạng lưới chính. Họ đã diễn các trích đoạn của vở kịch trên kênh truyền hình quốc gia. Điều này dẫn tới hàng chục bài báo trong các ấn phẩm chủ đạo ở Mỹ và châu Âu. Kết quả là, mọi người ở khắp nơi trên thế giới đã gửi cho chúng tôi những câu chuyện của họ, những tưởng tượng và cả những khao khát của họ về tình yêu. Họ gọi điện hoặc viết thư cho Dự án và miêu tả chính xác những gì họ tìm kiếm ở người bạn tình. Hầu hết các bức thư và những cuộc điện thoại chúng tôi nhận được đều có phần mở đầu bằng những bình luận kiểu như: “Tôi chưa bao giờ nói với ai nhưng…” Những người gọi điện và viết thư sau đó đã tiếp tục giãi bày tất cả những khao khát sâu kín nhất của họ với một Dự án vô hình. Chúng tôi lắng nghe đầy biết ơn khi chúng tôi thu thập dữ liệu về những điều đã khiến, hoặc sẽ khiến người ta phải lòng nhau. Những thủ thuật đã được xây dựng như thế nào? Chúng ta hãy rời khỏi thế giới của tình dục trong giây lát. Hãy cùng tôi tới một nhánh thông tin thứ hai, lĩnh vực của truyền thông. Bởi vì đó chính là nơi tôi tìm ra những phát hiện và biến chúng thành những thủ thuật có thể ứng dụng trong việc khiến ai đó phải lòng bạn. Người ta đã chứng minh không thể nghi ngờ được rằng, có rất nhiều cách để khơi nguồn cho những hành vi đam mê ở người khác. Nếu không thế, có lẽ tất cả các chuyên gia tâm lý học và hàng ngàn giảng viên của công ty (tôi cũng có trong số ấy) sẽ thất nghiệp. Có những phương pháp được xây dựng để khơi nguồn cảm xúc và để thay đổi hành vi con người. Chẳng hạn, chúng ta biết cách ứng xử với những người khó tính và làm cho những nhân viên rắc rối hành xử theo cách ta mong muốn. Phản hồi từ những cuộc hội thảo tôi đã trình bày với các tổ chức chính phủ, các trường đại học, các hội nghề nghiệp và các công ty, đã thuyết phục tôi rằng, chúng ta có thể tác động để thay đổi các kiểu hành vi. Chúng tôi đã thực hiện nhiệm vụ phức tạp này với những hiểu biết đầu tiên về các nhu cầu và động cơ cơ bản của con người. Sau đó, bằng việc ứng dụng các kỹ năng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để thay đổi hành vi của họ. Đó cũng là điều tôi làm trong cuốn sách này. Đúc rút từ những nghiên cứu khoa học, tôi phác ra những nhu cầu và động cơ cơ bản khiến ai đó phải lòng người khác. Sau đó, tôi đưa ra cho bạn những kỹ năng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để có thể khơi dậy hành vi bạn mong muốn. Trong trường hợp này, mong muốn đó là khiến cho ai đó yêu thương bạn. Cuốn sách này là kết quả sau rất nhiều năm nghiên cứu và khám phá nhiều lĩnh vực kiến thức: những mối quan hệ liên đới giữa con người với nhau, vấn đề tình dục của con người, các kỹ năng giao tiếp và những khác biệt về giới. Chúng tôi không chỉ đúc rút từ những nghiên cứu khoa học về bản chất của tình yêu và từ nghiên cứu của cá nhân tôi. Chúng tôi còn tận dụng lợi thế của các nhà tâm lý trị liệu hiện đại và các chuyên gia phân tích giao tiếp. Đâu là công thức cho việc khiến người khác phải yêu bạn? Liệu ta có thể rút ra một công thức không? Câu hỏi sau nghe có vẻ đơn giản, nhưng thực sự nó rất phức tạp. Bạn khởi đầu với một nền tảng khoa học chắc chắn về cái làm nên sự hấp dẫn giữa con người với nhau. Sau đó, bạn tập hợp những thông tin đáng chú ý về “đối tượng của bạn”. Kế tiếp, bạn vận dụng những kỹ năng giao tiếp phức tạp, thường là ở tiềm thức để đáp ứng nhu cầu nhận thức và vô thức của anh/cô ấy. Cuối cùng, bạn khẳng định điều đó bằng một khái niệm dứt khoát về chính xác những gì mà anh/cô ấy muốn về mặt tình dục. Vậy là bạn đã có được rồi đấy: công thức khiến cho người ấy “gục ngã” trước bạn. Tôi đã thử nghiệm các thủ thuật như thế nào? Tôi đã không thỏa mãn với việc lệ thuộc đơn giản vào nghiên cứu. Tôi cần phải xét xem những thủ thuật này sẽ phát huy hiệu quả ra sao trên thực tế “tình trường”. Rất nhiều năm trước, để thử nghiệm các lý thuyết của mình, tôi đã tổ chức một hội thảo có tên giống hệt tiêu đề cuốn sách này: “Làm thế nào để tán tỉnh bất kỳ ai?” Thư mời được gửi tới các trường đại học, các nhóm độc lập, các câu lạc bộ và các tổ chức giáo dục thường xuyên trên cả nước. Chính trong sân chơi này, những vấn đề của tôi đã được kiểm nghiệm. Và phản hồi từ các sinh viên của tôi là “Đúng vậy!”. Bạn có thể tán tỉnh bất cứ ai. Nó là một việc đơn giản ư? Không. Nó có đòi hỏi phải hy sinh không? Có đấy. Bạn có thể cho rằng, sau khi đọc cuốn sách này, việc nắm giữ được con tim của anh/cô ấy là quá đơn giản, không đáng phải đầu tư quá nhiều công sức của bạn. Nhưng nếu bạn muốn tiếp tục, hãy theo hướng dẫn của tôi. Chúng ta sẽ khám phá tất cả những kỹ năng cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ, để khiến cho đối tượng tiềm năng của bạn sẽ bị khuất phục. Bạn có để ý là tôi đã sử dụng cụm từ “Đối tượng tiềm năng” hay nói hài hước là “con mồi” rất nhiều lần không. Tôi sẽ dùng cách nói đó trong toàn bộ cuốn sách. Vì mặc dù nó có vẻ dài dòng, nhưng cụm từ này chính xác hơn là chữ “người ấy”, điều mà nhà xuất bản của tôi đã khẳng định một cách rất khôn ngoan là nó dễ đọc hơn. Ai sẽ là đối tượng tiềm năng của bạn? Trước tiên, một đối tượng tiềm năng là ai đó sẵn sàng đón nhận tình yêu. Nếu không phải mọi thứ thì chí ít cũng là một chút. Chẳng hạn, nếu ai đó vừa mất người vợ hoặc người chồng thân thiết của mình, anh/cô ấy sẽ chưa sẵn sàng với tình yêu. Điều đó tạm thời gạt họ ra khỏi danh sách những đối tượng tiềm năng. Thứ hai, một đối tượng tiềm năng là người phải tự do về nhu cầu tâm lý riêng tư (hoặc “bản đồ tình yêu”). Đây là những nhu cầu mà, không phải lỗi của bản thân, bạn không thể lấp đầy. Chúng ta sẽ nói nhiều hơn về bản đồ tình yêu của đối tượng tiềm năng của bạn về sau. Điều đó tạo ra rất nhiều đối tượng tiềm năng, vô số những trái tim để bạn lựa chọn. Chúng ta hãy bước vào hành trình sẽ dẫn bạn tới trái tim của người đàn ông hay người phụ nữ mà bạn khao khát. *** Leil Lowndes là một trong những chuyên gia về nghệ thuật giao tiếp có uy tín trên trường quốc tế. Từ những trải nghiệm của mình và đúc kết từ những cuốn cẩm nang về nghệ thuật thu phục nhân tâm, bà đã tổng hợp thành 92 thủ thuật trong cuốn sách này. Phần lớn các thủ thuật đều hướng đến việc gỡ rối cho đối phương, tỏ ra khéo léo, tinh tế và nhạy cảm... những yếu tố khiến bạn tỏ ra là một người giao tiếp có đẳng cấp và uy lực. Tác phẩm: Nghệ Thuật Giao Tiếp Để Thành Công Kết Giao Tinh Tế Tán Tỉnh Bất Kỳ Ai Nói Cho Hay Kết Giao Cho Khéo Làm Thế Nào Để Mọi Người Yêu Bạn  Giao Tiếp Thành Công Với Mọi Đối Tác - Những Bí Quyết Giúp Bạn Thành Công Trong Kinh Doanh ...   Mời các bạn đón đọc Tán Tỉnh Bất Kỳ Ai của tác giả Leil Lowndes.