Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngợi Ca Sống Chậm

Những ngày này, nền văn hoá của chúng ta dạy rằng nhanh là đúng. Và để nhanh được, chúng ta đã phải trả giá bằng tất cả: công việc, ăn uống, sức khoẻ, các mối quan hệ và đời sống dục tình của chúng ta. Cuốn sách kỳ diệu của Carl Honoré đã thách thức sự tôn thờ tốc độ bằng cách chứng minh: Sống chậm mới là thời thượng. Sống lành mạnh hơn trong một thế giới hiện đại cuồng nộ, tạo lập sự cân bằng nhanh và chậm, điều độ, tự chủ và minh triết. Những điều tra đầy hứng thú của Honoré soi sáng phương thức mới mẻ để sống trọn vẹn đời ta một cách viên mãn, hiệu quả, trong triết lý sâu sa của chậm. " Hãy đọc cuốn sách này mỗi ngày một chương - để thông điệp mang tính đột phá của nó ngấm vào trong bạn, hoàn toàn thay đổi cuộc đời bạn " Bill Mackibben, tác giả của The End of Nature " Cuốn sách này đã phản kháng một cách đầy thuyết phục với lối sống gấp vô tình và đưa ra những gợi ý thật cụ thể, hấp dẫn về những cách thức để kéo dài khoảnh khắc sống " Los Angeles Times " Truyền cảm hứng gấp triệu lần bất kỳ cuốn sách nào về đổi thay lối  sống..." Sunday Express *** Nhà tâm lý học và triết gia người Mỹ William James từng nói: “Cuộc đời có đáng sống không? Tất cả phụ thuộc vào người sống nó.” Bạn có đáp án cho câu hỏi này rồi chứ? Nếu để ý bạn sẽ thấy cuộc sống giống như cầu vồng bảy sắc vậy, nhiều màu sắc rực rỡ nhưng cũng không thiếu những mảng màu u ám. Khi thì bạn muốn giang tay ôm cuộc sống này thật chặt, lúc khác bạn lại muốn vùi nó xuống tận đất sâu. Đôi khi bạn cảm thấy mệt mỏi với những kế hoạch nối tiếp thất bại, nhưng có lúc bạn lại háo hức bắt tay vào những dự định mới mẻ. Đôi khi bạn chỉ muốn chạy trốn khi công việc và cuộc sống chồng chất những phiền phức, nhưng có lúc bạn lại thấy bận rộn đem đến sự tự tin và năng động. Đôi khi bạn chỉ biết ngồi than thân trách phận vì cuộc đời mình sao hẩm hiu đến vậy, nhưng có lúc bạn lại ngạc nhiên với sự cứng rắn và mạnh mẽ của chính mình. Dù cuộc sống có thế nào, bạn vẫn phải lựa chọn một phương thức sống và sống đến tận cùng. Sống chậm lại, rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi sẽ giúp bạn làm điều đó. Cuốn sách không kỳ vọng mang đến cho bạn những cái nhìn mới mẻ về cuộc sống, nó chỉ giúp tâm hồn bạn bớt chông chênh hơn khi sợ hãi và chán ghét cuộc sống mà thôi. Cuốn sách là những bài viết nhỏ, dưới cái nhìn của cô gái trẻ mới bước ra từ cuộc sống sinh viên và chân ướt chân ráo thành nhân viên văn phòng. Những trải nghiệm chưa đủ nhiều và chưa thật sâu sắc nhưng rất gần gũi với các bạn trẻ. Những điều mà tác giả viết ra không giống như những câu chuyện hạt giống tâm hồn bay bổng, nó chân chất như những cuộc “tám” chuyện giữa các bạn trẻ với nhau. Bạn sẽ tìm thấy điểm tựa trước những tình huống như làm sao để thoát khỏi nỗi sợ hãi, làm sao đối diện với sự thay đổi, xác định mục đích sống cho mình như thế nào… Hy vọng cuốn sách sẽ giúp bạn cảm thấy cuộc đời lạc quan và tươi mới hơn. *** Con người sinh ra rồi kết hôn, sống rồi chết, đều ở giữa vòng náo loạn điên cuồng đến mức bạn tưởng như họ sẽ phát điên. WILLIAM DEAN HOWELLS, 1907. Vào một buổi trưa chan hòa ánh nắng hè năm 1985, chuyến du lịch châu Âu thời niên thiếu của tôi tới chặng dừng trên một quảng trường ở ngoại ô Rome. Chuyến xe buýt quay về thành phố đã chậm hai mươi phút và vẫn chưa thấy bóng dáng đâu. Tuy vậy, sự chậm trễ chẳng làm tôi phiền lòng. Thay vì đi đi lại lại trên vỉa hè hoặc gọi điện cho công ty xe buýt để phàn nàn, tôi mở máy nghe Walkman, rồi ngả người trên ghế băng, lắng nghe Simon và Garfunkel hát về nỗi hân hoan được chậm rãi và làm cho thời khắc kéo dài. Từng chi tiết của quang cảnh ấy đã in sâu trong ký ức tôi: hai chú nhóc đá bóng quanh đài phun nước thời Trung cổ; những cành cây lòa xòa quệt trên nóc bức tường bằng đá; một quả phụ già nua xách túi rau về nhà. Mười lăm năm thoắt trôi qua, mọi sự đều đã thay đổi. Khung cảnh giờ chuyển thành sân bay Fiumicino nhộn nhịp của thành Rome và tôi là một phóng viên nước ngoài đang vội vã bắt chuyến bay về nhà ở Luân Đôn. Thay vì thư thái lấy chân đá sỏi cuội trên đường, tôi lao vội qua phòng chờ khởi hành, thầm nguyền rủa những ai cắt ngang đường mà lại đi chậm hơn. Đáng lẽ nghe dân ca từ chiếc Walkman rẻ tiền, tôi lại nói chuyện bằng điện thoại di động với một biên tập viên cách xa hàng ngàn cây số. Bên cửa lên máy bay, tôi nhập vào cuối một hàng người dài dằng dặc, ở đấy chẳng có việc gì để làm ngoại trừ, đúng vậy, việc không làm gì cả. Duy có điều tôi không chịu được cảnh không làm gì cả ấy nữa. Để chờ đợi cho hữu ích, cũng là để bớt sốt ruột, tôi đọc lướt một tờ báo. Chính lúc đó, mắt tôi bắt gặp một bài viết sau này gợi cho tôi cảm hứng viết cuốn sách về sự chậm rãi. Những dòng chữ bắt tôi dừng lại giữa đường ấy là: “Chuyện kể một phút trước giờ đi ngủ.” Giúp các bậc cha mẹ thu xếp ổn thỏa với bọn trẻ mất-thời-giờ, nhiều tác giả đã rút gọn các câu chuyện cổ kinh điển thành những mẩu hoàn chỉnh mất đúng sáu mươi giây. Hãy thử tưởng tượng Hans Christian Andersen mà bắt gặp những mẩu tóm tắt lỗi lạc này thì sẽ ra sao. Phản ứng đầu tiên của tôi là reo lên Eureka! Khoảng thời gian này tôi thường bị kẹt vào một cuộc-chiến-buổi-tối-gay-go với cậu con trai hai tuổi, cháu rất thích những câu chuyện dài đọc bằng giọng trầm bổng êm tai. Tuy vậy, mỗi buổi tối tôi lái cháu sang những chuyện cực ngắn và đọc thật nhanh. Chúng tôi thường cãi cọ. Cháu kêu: “Bố đọc nhanh quá.” Hoặc, trong khi tôi đi ra cửa, “Con muốn chuyện nữa cơ!” Một phần trong con người tôi cảm thấy cực kỳ ích kỷ khi làm qua quít thủ tục trước giờ đi ngủ, nhưng phần kia đơn giản không sao cưỡng nổi mong muốn mau mau chuyển sang các mục còn lại trong thời gian biểu của bản thân – nào là bữa tối, thư điện tử, đọc báo chí, hóa đơn thanh toán, thêm chút ít công việc cơ quan, phần điểm tin quen thuộc trên truyền hình. Làm một cuộc dạo chơi dài dòng, lê thê qua thế giới của Tiến sĩ Seuss[1]không phải là một chọn lựa. Nó quá chậm chạp. Vì vậy, thoạt nhìn, loạt truyện Một-phút-trước-giờ-đi-ngủ nghe ra tuyệt vời đến khó tin là thật. Đọc một mạch sáu hay bảy “truyện”, chỉ mất chưa tới mười phút – còn gì có thể tốt hơn? Tiếp đó, khi tôi bắt đầu tự hỏi liệu Amazon có thể giao cho tôi cả bộ sách ấy chóng đến độ nào, lập tức cảm giác ăn năn xuất hiện dưới dạng một câu hỏi vặn: phải chăng tôi đã hoàn toàn mất trí? Lúc hàng người rồng rắn tiến đến cửa soát vé cuối cùng, tôi cất tờ báo và bắt đầu suy nghĩ. Toàn bộ cuộc sống của tôi té ra là một cuộc tập luyện trong vội vã, trong dồn nén ngày càng nhiều vào từng giờ. Tôi là một kẻ keo cú kè kè chiếc đồng hồ bấm giờ, bị ám ảnh phải tiết kiệm từng khoảnh khắc thời gian, ở chỗ này một phút, ở chỗ kia vài giây. Và tôi không đơn độc. Mọi người quanh tôi – đồng nghiệp, bạn bè, gia đình – đều bị cuốn vào vòng xoáy ấy. Năm 1982, Larry Dossey, một bác sĩ người Mỹ, đã đặt ra thuật ngữ “căn bệnh thời gian” để mô tả một tín điều ám ảnh là “thời gian đang trôi đi, không còn đủ thời gian, và bạn phải nhanh hơn, nhanh hơn nữa mới hòng bắt kịp.” Những ngày này, cả thế giới mắc bệnh thời gian. Tất cả chúng ta đều thuộc cùng một giáo phái tôn sùng tốc độ. Đứng trong hàng người chờ chuyến bay trở về nhà ở Luân Đôn ấy, tôi bắt đầu vật lộn với những câu hỏi nằm ở tâm điểm cuốn sách này: Vì sao chúng ta luôn vội vã như vậy? Đâu là phương thuốc cho căn bệnh thời gian? Liệu có thể, hoặc thậm chí có nên ao ước, chậm lại chăng? Trong những năm đầu của thế kỷ hai mươi mốt này, mọi người mọi vật đều chịu sức ép phải khẩn trương hơn. Cách đây không lâu, Klaus Schwab, người sáng lập đồng thời là Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới, đã giải thích rõ nhu cầu tăng tốc bằng những từ ngữ trần trụi sau đây: “Chúng ta đang chuyển từ thế giới cá lớn nuốt cá bé sang thế giới nhanh nuốt chậm.” Lời cảnh báo ấy vang xa tới tận bên kia thế giới thương mại kiểu Darwin. Trong thời đại bận rộn hối hả này, mọi thứ là cuộc chạy đua với chiếc đồng hồ. Guy Claxton, nhà tâm lý học Anh, cho rằng tăng tốc là bản năng thứ hai của con người: “Chúng ta mới phát triển một tâm lý nội tại là tốc độ, tiết kiệm thời gian và tối đa hóa hiệu quả, tâm lý ấy đang mạnh lên từng ngày.” Nhưng giờ đây, đã đến lúc phải thách thức nỗi ám ảnh của chúng ta rằng làm gì cũng phải nhanh hơn. Tốc độ không phải lúc nào cũng là cách tối ưu. Quá trình tiến hóa tuân theo nguyên lý thích nghi nhất thì tồn tại, chứ không phải là nhanh nhất. Hãy nhớ ai đã thắng trong cuộc đua giữa rùa và thỏ. Trong khi chúng ta hối hả sống, nhồi nhét nhiều hơn cho từng giờ, chúng ta đang tự căng mình đến điểm tới hạn. Tuy vậy, trước khi đi sâu hơn, cũng xin nói rõ một điều: cuốn sách này không phải là lời tuyên chiến chống lại tốc độ. Tốc độ đã giúp tái tạo thế giới chúng ta theo những cách kỳ diệu và tự do. Liệu có ai muốn sống thiếu Internet và đi lại bằng máy bay phản lực? Vấn đề là tình yêu tốc độ của chúng ta, nỗi ám ảnh của chúng ta muốn sản xuất được ngày càng nhiều trong thời gian ngày càng ít đã trở nên thái quá, đã thành cơn nghiện, thành sự sùng bái. Thậm chí khi tốc độ bắt đầu phản pháo, chúng ta vẫn viện tới tín điều phải-gấp-gáp-hơn. Rớt dài trong công việc ư? Hãy đăng ký một kết nối Internet nhanh hơn. Không có thì giờ cho cuốn tiểu thuyết mua dịp Giáng sinh ư? Học cách đọc nhanh hơn. Chế độ ăn kiêng không tác dụng? Thử hút mỡ. Quá bận rộn không kịp nấu ăn? Hãy mua lò vi sóng. Tuy vậy vẫn có một số việc không thể, và không nên, tăng tốc. Chúng cần thì giờ; chúng cần sự chậm rãi. Khi bạn tăng tốc những gì không nên tăng tốc, khi bạn quên cách chậm lại, bạn sẽ phải trả giá. Trường hợp phản tốc độ khởi đầu từ nền kinh tế. Chủ nghĩa tư bản hiện đại sản sinh nền thịnh vượng khác thường, nhưng cái giá phải trả là tàn phá các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhanh quá mức Mẹ Thiên nhiên có thể tái tạo. Hàng ngàn dặm vuông rừng mưa Amazon bị đốn chặt hàng năm, trong khi sự đánh bắt vô độ bằng lưới quét đã đưa giống cá tầm, cá mú Chilê và nhiều loài cá khác vào danh sách nguy cơ tuyệt chủng. Chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh quá mức, ngay cả vì lợi ích của chính nó, khi áp lực phải tới đích đầu tiên chừa lại quá ít thời gian cho khâu kiểm tra chất lượng. Hãy quan sát ngành công nghiệp máy tính. Trong những năm gần đây các nhà sản xuất phần mềm bắt đầu có thói quen hối hả tung ra thị trường các sản phẩm trước khi cho thử nghiệm đầy đủ. Kết quả là một nạn dịch sự cố, lỗi phần mềm rồi trục trặc phần cứng gây thiệt hại cho các công ty mỗi năm hàng tỉ đô la. Tiếp đó là vấn đề chi phí nhân lực trong chủ nghĩa tư bản-tăng tốc. Vào những ngày này, chúng ta tồn tại để phục vụ cho nền kinh tế chứ không phải vì cái gì khác. Nhiều giờ liên miên trong công việc làm chúng ta mất hiệu năng, dễ nhầm lẫn, không vui vẻ và phát ốm. Phòng mạch đông chật những người mắc các chứng do stress gây ra: mất ngủ, đau nửa đầu, cao huyết áp, hen suyễn và rối loạn tiêu hóa. Cung cách lao động hiện nay cũng xói mòn tinh thần lành mạnh của chúng ta. Một hướng dẫn viên đời sống làm việc tại Luân Đôn nói: “Kiệt lực là bệnh ta gặp chủ yếu ở những người ngoài tuổi bốn mươi. Hiện giờ, theo tôi quan sát, cả nam giới lẫn phụ nữ trạc tuổi ba mươi, thậm chí hai mươi tuổi, cũng hoàn toàn kiệt lực.” Cung cách làm việc đúng đắn, vốn dĩ có thể lành mạnh trong điều độ, đang dần dần vuột khỏi tầm tay. Hãy xem xét tình trạng “ngại đi nghỉ” tràn lan, ác cảm với việc có một ngày nghỉ thực thụ. Trong một điều tra ủa Reed trên năm ngàn công nhân Anh, 60% nói họ sẽ không dùng hết phép trong năm 2003. Trung bình, người Mỹ bỏ quên đến một phần năm số thời nghỉ có đài thọ. Thậm chí ốm đau cũng không còn níu được người lao động hiện đại xa rời nhiệm sở; cứ năm người Mỹ thì có một người gượng dậy đi làm trong khi đáng ra nên yên vị trên giường hay đi khám bác sĩ. Để có thể hình dung viễn cảnh đáng sợ về hậu quả mà hành vi này gây ra, hãy đừng nhìn đâu xa hơn nước Nhật, nơi người dân bản xứ có một từ - karoshi – vốn có nghĩa “chết vì lao lực.” Một trong những nạn nhân nổi tiếng nhất của karoshi là Kamei Shuji, một nhân viên môi giới nhiều tham vọng thường đều đặn làm việc chín mươi giờ một tuần trong suốt thời kỳ bùng nổ thị trường chứng khoán Nhật Bản những năm cuối thập kỷ tám mươi. Công ty nơi anh làm việc đã tuyên truyền rùm beng về khả năng chịu đựng siêu phàm của anh trong các bản tin, các cẩm nang đào tạo nghề, biến anh thành chuẩn mực vàng cho tất cả các nhân viên noi theo. Trong một phá bỏ nghi thức, việc hiếm khi xảy ra ở Nhật, người ta yêu cầu Shuji huấn luyện cho các đồn nghiệp lão làng về nghệ thuật bán hàng, điều chồng chất thêm stress lên đôi vai đơn độc của anh. Khi quả bong bóng chứng khoán Nhật Bản nổ tung năm 1989, Shuji thậm chí còn làm việc nhiều giờ hơn để cứu vãn kinh doanh ế ẩm. Năm 1990, anh đột tử do một cơn đau tim. Anh lúc ấy mới hai mươi sáu tuổi. Dầu một số người nêu Shuji ra như câu chuyện cảnh báo, song cung cách làm-việc-chí-chết vẫn ăn sâu bám rễ ở Nhật. Năm 2001, chính phủ báo cáo kỷ lục 143 nạn nhân karoshi. Những người chỉ trích nêu con số người chết hàng năm do lao động quá sức ở Nhật Bản lên tới hàng ngàn. Tuy vậy, từ trước khi có karoshi dự phần, lực lượng lao động đã kiệt quệ lắm rồi. Hội đồng An toàn Quốc gia ước tính stress trong công việc khiến mỗi ngày hàng triệu người Mỹ chểnh mảng công việc, tiêu hao của nền kinh tế mỗi năm trên 150 tỷ đô la. Năm 2003, stress thay cho bệnh đau lưng trở thành nguyên nhân hàng đầu gây ra nạn vắng mặt không lý do chính đáng ở Anh. Lao động quá sức còn nguy hiểm cho sức khỏe xét về nhiều phương diện khác. Nó chừa quá ít thời gian và sức lực cho rèn luyện thân thể, khiến chúng ta thích uống quá nhiều cồn hoặc dùng những đồ ăn tiện lợi. Không phải ngẫu nhiên các nước nhanh nhất thường là béo nhất. Có tới môt phần ba người Mỹ và một phần năm người Anh hiện nay mắc chứng béo phì bệnh lý. Thậm chí Nhật Bản cũng đang có tình trạng tăng cân. Năm 2002, điều tra dinh dưỡng toàn quốc cho thấy một phần ba đàn ông Nhật trên ba mươi tuổi bị béo phì. Để duy trì nhịp độ với thế giới hiện đại, để tăng tốc, nhiều người, ngoài cà phê, còn tìm đến các chất kích thích công hiệu hơn. Côcain vẫn là liều thuốc bổ trợ ưa thích trong giới chuyên nghiệp văn phòng, song amphêtamin, còn có tên gọi khác là “tốc độ”, đang nhanh chóng đuổi kịp. Sử dụng chất kích thích tại công sở Mỹ tăng đột biến 70% kể từ năm 1998. Nhiều nhân viên ủng hộ loại mêthaphêtamin tinh thể, giải phóng mãnh liệt trạng thái hưng phấn và tỉnh táo, kéo dài gần như cả ngày làm việc. Nó cũng tránh cho người sử dụng cảnh ba hoa đáng xấu hổ thường là tác dụng phụ của loại bạch phiến hít. Vấn đề là ở chỗ các dạng ma túy công hiệu thuần tốc độ dễ gây nghiện hơn heroin, kết quả sau một lần hút có thể gây ra suy nhược, kích động và hành vi bạo lực. Một lý do khiến chúng ta cần chất kích thích là vì nhiều người ngủ không đẫy giấc. Làm việc nhiều như thế, lại có ít thời gian như vậy, ngày nay trung bình người Mỹ mỗi đêm ngủ ít hơn một thế kỷ trước chín mươi phút. Nam Âu, mảnh đất thiêng của la dolce vita (cuộc sống nhàn dật), giấc ngủ trưa đã nhường chỗ cho công việc theo giờ hành chính: chỉ có bảy phần trăm người Tây Ban Nha còn chợp mắt sau bữa ăn trưa. Ngủ không đủ có thể tổn hại đến hệ tim mạch, hệ miễn dịch, sinh ra bệnh tiểu đường, bệnh tim, gây khó tiêu, cáu bẳn và trầm cảm. Mỗi đêm ngủ ít hơn sáu tiếng có thể làm suy yếu điều phối của hệ thần kinh vận động, ngôn ngữ, phản xạ và óc xét đoán. Sự mệt nhọc dự phần vào một vài trong số những thảm họa tồi tệ nhất của kỷ nguyên hiện đại: Chernobyl[2], Exxon Valdez[3], Three Mile Island[4], Union Carbide[5] và tàu con thoi Challenger[6]. Buồn ngủ gây ra nhiều vụ đụng xe hơi hơn uống rượu. Trong một cuộc thăm dò dư luận mới đây của Viện Gallup, 11% tài xế Anh thừa nhận từng ngủ gật trên vô lăng. Một nghiên cứu của Ủy ban Quốc gia Mỹ về Rối loạn Giấc ngủ quy tội một nửa tai nạn xe cộ là do mệt nhọc. Gộp tất cả với xu hướng say mê tốc độ, kết quả là thảm cảnh trên đường. Tai nạn xe cộ hiện đứng ở mức 1,3 triệu vụ/năm trên toàn thế giới, hơn gấp đôi so với năm 1990. Mặc dù, ở những nước phát triển, các quy chuẩn an toàn đã giúp giảm bớt con số tử vong, Liên hiệp quốc dự báo rằng đến năm 2020 giao thông đi lại sẽ là nguyên nhân gây tử vong lớn thứ ba trên thế giới. Ngay lúc này, mỗi năm có trên bốn chục ngàn người chết và một triệu sáu người bị thương dọc các tuyến đường bộ châu Âu. Sự nôn nóng của chúng ta khiến ngay cả vui chơi giải trí cũng trở nên nguy hiểm hơn. Mỗi năm, hàng triệu người trên thế giới khốn khổ vì thương tật liên-quan-đến-thể-dục-thể-thao. Đa phần bởi thúc ép cơ thể quá mạnh, quá nhanh, quá sớm. Ngay cả yoga cũng không miễn nhiễm. Một người bạn của tôi mới đây bị sái cổ do luyện yoga trước khi cơ thể của cô sẵn sàng. Nhiều người khác còn gặp phải những tai nạn trầm trọng hơn. Ở Boston, bang Massachusetts, một giáo viên thiếu kiên nhẫn đã làm vỡ xương chậu một nữ sinh khi ép em này vào tư thế xoạc. Một người đàn ông ngoài ba mươi tuổi hiện giờ bị liệt vĩnh viễn một mảng cơ đùi phải sau khi giãn dây thần kinh xúc giác trong buổi luyện yoga tại một phòng tập thời thượng quận Manhattan. Điều không tránh khỏi là một cuộc sống vội vã có thể trở nên hời hợt. Khi vội vàng, chúng ta qua quýt bề ngoài, không thiết lập được mối ràng buộc thực sự với thế giới và những người xung quanh. Như Milan Kundera đã viết trong tiểu thuyết ngắn Chậm rãi (1996) của ông: “Khi mọi việc xảy ra quá nhanh, chẳng ai có thể chắc chắn về bất cứ điều gì, bất cứ điều gì hết, ngay cả về chính bản thân mình.” Tất cả những gì ràng buộc chúng ta lại với nhau và làm cho cuộc sống đáng sống – cộng đồng, gia đình, bè bạn – phát triển trên một nền tảng không bao giờ có đủ: thời gian. Trong một cuộc thăm dò dư uận gần đây của hãng ICM, phân nửa số người Anh trưởng thành than thở thời gian biểu dồn dập làm cho họ mất hết liên lạc với bạn bè. Hãy xem xét tác hại do sống trong làn cao tốc gây ra cho đời sống gia đình. Với ai nấy đi đi về về, những mẩu giấy dán trên cánh tủ lạnh hiện là hình thức thông tin chủ yếu của nhiều gia đình. Theo con số do chính phủ Anh công bố, trung bình các bậc phụ huynh đang làm việc dành thời gian xử lý thư điện tử gấp đôi thời gian chơi cùng con cái. Ở Nhật Bản, các ông bố bà mẹ ngày nay gửi con vào những trung tâm giữ trẻ hai-mươi-bốn-giờ-liền. Khắp thế giới công nghiệp, trẻ em rời trường trở về căn nhà trống trải nơi chẳng có ai lắng nghe những câu chuyện, những tâm tư, thành tích học tập cùng bao nỗi sợ hãi của chúng. Trong một cuộc thăm dò ý kiến thanh thiếu niên Mỹ do tạp chí Newsweek thực hiện năm 2000, 73% nói các bậc cha mẹ dành quá ít thời giờ cho con cái họ. Có lẽ lũ trẻ là khổ sở nhất vì chứng cuồng tăng tốc. Chúng cũng đang lớn lên nhanh hơn bao giờ hết. Nhiều trẻ em ngày nay bận bịu không kém gì cha mẹ, cố gắng sắp xếp sổ ghi nhớ vốn bị nhồi nhét đủ thứ từ phụ đạo sau-giờ-lên-lớp đến những bài học dương cầm và tập bóng đá. Một bức biếm họa mới đây đã nói lên tất cả: hai cháu gái nhỏ đứng ở bến xe buýt của nhà trường, trong tay mỗi cháu có thời gian biểu cá nhân. Cháu này nói với cháu kia: “Được rồi, tớ sẽ lùi môn ba lê lại một giờ, thay lịch tập thể dục, hoãn cả học dương cầm… còn cậu chuyển giờ học viôlông sang thứ Năm và bỏ buổi tập bóng đi… như vậy chúng mình sẽ rảnh từ 3h15’ đến 3h45’ thứ Tư ngày 16 để đi chơi.” Sống như những người trưởng thành đầy đủ năng lực chẳng còn đâu thời giờ cho những thú vui làm nên thời thơ ấu: tán gẫu với bạn bè, chơi đùa không có sự giám sát của người lớn, mơ mộng vẩn vơ. Nó cũng gây hại cho sức khỏe, bởi trẻ em ít có khả năng chống chọi với chứng mất ngủ và stress, là cái giá phải trả cho lối sống hối hả. Các bác sĩ tâm lý chuyên điều trị chứng lo âu ở trẻ vị thành niên nhận thấy ngày nay các phòng chờ chật kín trẻ em mới năm tuổi đã khổ sở vì đau dạ dày, đau đầu, mất ngủ, suy nhược và rối loạn tiêu hóa. Tại nhiều nước công nghiệp, số vụ thanh thiếu niên tự tử gia tăng. Và chẳng có gì là lạ, nếu xét tới gánh nặng nhiều trẻ em phải đương đầu ở trường. Năm 2002, Louise Kitching, một thiếu nữ Anh mười bảy tuổi ở Lincolnshire đã nức nở bỏ chạy khỏi phòng thi. Em học sinh xuất sắc này sắp viết bài thi thứ năm trong ngày, mà chỉ được nghỉ giải lao mười phút giữa giờ. Nếu chúng ta tiếp tục nhịp độ kể trên, nạn sùng bái tốc độ sẽ chỉ càng trở nên tồi tệ. Khi người người lựa chọn sống nhanh, lợi thế của sống nhanh sẽ mất, buộc chúng ta phải sống nhanh hơn nữa. Cuối cùng, còn lại cho chúng ta là một cuộc chạy đua vũ trang trên nền tốc độ, mà chúng ta đều biết cuộc chạy đua vũ trang kiểu ấy rồi sẽ kết thúc ở đâu: trong thế bí tàn nhẫn của Sự Hủy Diệt-Lẫn nhau-Chắc chắn. Nhiều thứ đã bị hủy hoại. Chúng ta đã quên mất csach hân hoan chờ đợi sự việc, cả cái cách tận hưởng giây phút thành tựu. Các nhà hàng cho biết những thực khách vội vã ngày càng thích vừa thanh toán hóa đơn và gọi taxi vừa ăn tráng miệng. Nhiều người hâm mộ rời các sự kiện thể thao thật sớm, chẳng kể đến tỉ số sít sao, chỉ vì muốn tranh thủ giành đường. Tiếp đến là tai họa của tội ôm đồm nhiều việc cùng một lúc. Làm hai việc đồng thời xem ra có vẻ hết sức thông minh, hết sức hiệu quả, hết sức hiện đại. Song thông thường cái đáng nói là cả hai việc đều không được tốt. Giống nhiều người khác, tôi đọc báo trong lúc xem tivi – rốt cuộc thấy mình tiếp thu cả hai kém hẳn. Trong thời đại của no-đủ-thông-tin, dồi-dào-dữ-liệu, lướt-kênh-truyền-hình, chơi-game-máy-tính, chúng ta đã đánh mất nghệ thuật tiêu khiển để chậm lại và ngồi một mình với những suy nghĩ của riêng mình. Sự buồn chán – danh từ tự nó khó lòng tồn tại 150 năm trước – lại là một phát minh hiện đại. Mất hết mọi cảm giác phấn hứng, chúng ta bồn chồn, hoang mang, trông chờ điều gì đó, bất kể điều gì, ngõ hầu tận dụng hết thời gian. Lần cuối cùng bạn thấy ai đó chỉ ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ toa tàu là khi nào vậy? Tất cả mọi người đều quá bận đọc báo, chơi game hình, nghe iPod, làm việc trên máy tính xách tay, càu nhàu vào điện thoại di động. Thay vì suy nghĩ cặn kẽ, hoặc để cho một ý tưởng nung nấu tận đáy lòng, ngày nay bản năng của chúng ta là chộp lấy miếng ngon gần nhất. Trong chiến tranh hiện đại, các phóng viên thực địa và bình luận viên tại trường quay tung ra hàng lô phân tích tức thời những sự kiện vừa mới xảy ra. Thông thường nhận định của họ té ra là nhầm lẫn. Song những ngày này chuyện đó chẳng hề gì: trên mảnh đất của tốc độ, ai phản ứng tức thời sẽ làm vua. Cùng với việc sử dụng vệ tinh và các kênh thông tin hai mươi bốn giờ liên tục, truyền thông đại chúng điện tử bị chi phối bởi nhân dạng mà một nhà xã hội học người Pháp gán cho cái tên “nhà tư duy nhanh nhạy” – người không để lỡ nhịp có thể gọi ra câu trả lời liến thoắng cho bất cứ câu hỏi nào. Về một phương diện nào đó, ngày nay tất cả chúng ta đều là những nhà tư duy nhanh nhạy. Sự nôn nóng của chúng ta không thể nguôi dịu đến mức, như nữ nghệ sĩ-tác gia Carrie Fisher châm biếm, ngay “hài lòng tức thời cũng quá mất thì giờ.” Điều này phần nào lý giải tâm trạng phẫn nộ kinh nghiệm sôi sục ngay bên dưới bề mặt cuộc sống hiện đại. Bất kỳ ai, hoặc bất cứ thứ gì bước vào con đường chúng ta đi, khiến chúng ta chậm lại, ngăn chúng ta đạt được đúng thứ mình cần khi mình muốn, đều trở thành địch thủ. Vì vậy, thụt lùi dù nhỏ nhất, trì hoãn dù chớp nhoáng nhất, một thoáng chậm trễ chẳng đáng kể chút nào, ngày nay cũng có thể gây ra xung nộ vỡ-mạch-mà-chết ở những người lúc khác rất bình thường. Những bằng chứng kiểu giai thoại nhan nhản khắp mọi nơi. Tại Los Angeles, một người đàn ông gây sự đánh nhau ngay tại quầy thu tiền của siêu thị chỉ vì khách hàng đằng trước ông ta gói buộc hàng quá lâu. Một phụ nữ cào xước sơn chiếc ô tô đụng phải bà ta trong bãi đỗ xe ở Luân Đôn. Ủy viên quản trị một công ty lao bổ vào tiếp viên hàng không khi chuyến bay của ông này buộc phải lượn vòng phi trường Heathrow thêm hai mươi phút trước khi hạ cánh. “Tôi muốn hạ cánh ngay bây giờ!” Ông ta quát to, hệt một đứa trẻ hay quấy nhiễu: “Bây giờ, bây giờ, bây giờ!” Một chiếc xe giao hàng dừng bên ngoài nhà hàng xóm của tôi, buộc xe cộ phía sau phải đợi trong khi anh tài xế dỡ một chiếc bàn con. Chỉ trong phút chốc, nữ doanh nhân trạc tứ tuần trong chiếc xe đầu tiên đập ghế thình thình, tay khua khoắng, đầu lắc tới lắc lui. Tiếng rền rĩ khàn khàn từ yết hầu vuột ra cửa xe để ngỏ. Giống một cảnh trong bộ phim Người trừ tà[7]. Cho rằng cô ta lên cơn động kinh, tôi chạy xuống dưới nhà toan giúp đỡ. Nhưng lúc tôi đến vỉa hè, thì hóa ra cô chỉ cáu bẳn vì tắc đường. Cô nhoài người ra ngoài cửa xe, gào lên với không ai cụ thể. “Anh mà không rời cái xe tải chết tiệt ấy di, tôi sẽ giết chết anh.” Người giao hàng nhún vai tỏ vẻ đã quen chứng kiến cảnh ấy, đoạn trượt vào sau vô lăng và lái xe đi. Tôi mở lời định khuyên Cô To Mồm nguôi giận, nhưng lời nói của tôi chìm nghỉm trong tiếng lốp xe của cô ta xiết trên lớp đường nhựa. Đây là đích đến cho nỗi ám ảnh của chúng ta với sự nhanh và tiết kiệm thời gian. Giận dữ đường bộ, cáu kỉnh đường không, tức tối khi mua bán, bực bội trong quan hệ, khó chịu ở văn phòng, tức giận trong kỳ nghỉ và rồ dại trong phòng tập. Nhờ ơn tốc độ, chúng ta sống trong thời đại của sự rồ dại. Sau lần giác ngộ bất ngờ với câu-chuyện-trước-giờ-đi-ngủ tại phi trường thành Rome, tôi quay trở về Luân Đôn với một sứ mệnh: tìm hiểu cái giá của tốc độ và triển vọng chậm lại trong một thế giới bị ám ảnh phải ngày một nhanh hơn. Tất cả chúng ta đều than phiền về các kế hoạch làm việc điên rồ, nhưng liệu đã có ai thực sự làm gì chống lại nó hay chưa? Có, ấy thế mà có. Trong lúc phần còn lại của thế giới tiếp tục rú ga om sòm, một thiểu số đáng kể ngày càng tăng đang lựa chọn không làm gì ở công suất tối đa. Trong mỗi một nỗ lực con người bạn có thể nghĩ tới, từ tình dục, lao động, rèn luyện thân thể đến ăn uống, chữa bệnh, thiết kế đô thị, những nổi loạn này đang làm điều không tưởng – chúng đang dọn chỗ cho sự chậm rãi. Và tin tức tốt lành chính là nhiều việc đang dần giảm tốc. Bất chấp những lời cằn nhằn bất mãn kiểu Cassadran[8] từ giới doanh nhân yêu tốc độ, chậm hơn lại thường có nghĩa tốt hơn – sức khỏe dồi dào hơn, lao động hiệu quả hơn, kinh doanh thành công hơn, cuộc sống gia đình êm đẹp hơn, tập luyện dẻo dai hơn, nấu nướng ngon hơn và tình dục hạnh phúc hơn. Trước đây chúng ta đã từng như vậy. Vào thế kỷ mười chín, dân chúng đã cưỡng lại sức ép tăng tốc theo những cách quen thuộc với chúng ta ngày nay. Các nghiệp đoàn đòi thêm nhiều giờ giải trí. Cư dân thành thị bị stress tìm nơi trú ẩn và phục hồi sức khỏe ở chốn thôn quê. Các họa sĩ và nhà thơ, nhà văn và thợ thủ công tìm kiếm nhiều cách hòng bảo tồn giá trị thẩm mỹ của sự chậm rãi trong thời đại máy móc. Tuy vậy, ngày nay, phản ứng dữ dội với tốc độ đang chuyển sang xu hướng chủ đạo khẩn cấp hơn bao giờ hết. Mệt mỏi tận gốc rễ, trong các nhà bếp, nơi công sở, phòng hòa nhạc, nhà máy, phòng tập thể dục, phòng ngủ, nhà hàng xóm, phòng trưng bày nghệ thuật, bệnh viện, trung tâm giải trí và trường học gần nhà bạn, ngày càng có nhiều người không chịu chấp nhận mệnh lệnh vô lý nhanh hơn luôn luôn là tốt hơn. Và trong nhiều hành động giảm tốc đa dạng của họ ẩn chứa mầm mống của Phong trào Chậm Toàn Cầu. Giờ là lúc phải định nghĩa thuật ngữ của chúng ta. Trong cuốn sách này, Nhanh và Chậm hàm ý rộng hơn nhiều, chứ không chỉ miêu tả sự thay đổi tốc độ đơn thuần. Chúng chính là giản lược về cách sinh tồn, hoặc triết lý sống. Nhanh là bận rộn, kiểm soát, xông xáo, vội vàng, phân tích nhanh nhạy, stress, hời hợt, nôn nóng, tích cực chủ động, số-lượng-trên-chất-lượng. Chậm có nghĩa ngược lại: thư thái, cẩn trọng, tiếp thu, điềm tĩnh, trực giác, không vội vàng, kiên nhẫn, suy nghĩ thấu đáo, chất-lượng-trên-số-lượng. Tức là tạo lập những kết nối thực sự và có ý nghĩa – với con người, văn hóa, công việc, dinh dưỡng và mọi thứ. Nghich lý là ở chỗ Chậm không phải lúc nào cũng có nghĩa là chậm. Như chúng ta sẽ tìm hiểu, thực hiện một nhiệm vụ theo cách Chậm thường mang lại kết quả nhanh hơn. Cũng có thể tiến hành công việc nhanh trong lúc vẫn duy trì một khuôn khổ tư duy chậm. Một thế kỷ sau khi Rudyard Kipling[9]viết hãy giữ lý trí của bạn trong khi hết thảy chung quanh đang loạn trí[10], con người mới học cách giữ điềm tĩnh, cách duy trì nội tâm thư thái, ngay cả khi họ phải vắt chân lên cổ cho kịp thời hạn công việc hoặc đưa bọn trẻ đến trường đúng sít giờ. Một trong những mục đích của cuốn sách này là chỉ ra cách làm sao được như vậy. Bất chấp phát ngôn của một vài người chỉ trích, phong trào Chậm không nhằm tiến hành mọi việc theo tốc độ sên bò. Cũng không phải một nỗ lực bột phát kiểu Luddite[11], hòng kéo toàn thể hành tinh trở về thời kỳ tiền công nghiệp không tưởng nào đó. Trái lại, phong trào tập hợp những người như các bạn và tôi, những người muốn sống tốt hơn trong một thế giới hiện đại, tốc-độ-cao. Chính vì thế, triết lý sống Chậm có thể tóm tắt chỉ trong một từ duy nhất: cân bằng. Hãy nhanh khi đáng để nhanh, chậm khi cần chậm. Hãy cố gắng sống ở cung bậc mà các nhạc sỹ gọi là tempo giusto – nhịp chuẩn. Người đề xướng hàng đầu việc giảm tốc là Carlo Petrini, sáng lập gia người Ý của Phong trào Đồ ăn Chậm, một phong trào quốc tế chuyên tâm cho quan niệm rất văn minh là những thứ ta ăn nên được trồng cấy, chế biến và tiêu thụ ở nhịp độ khoan thai. Tuy bàn ăn là mặt trận chủ yếu, song Đồ ăn Chậm vượt xa một lời bào chữa cho những bữa trưa kéo dài. Tuyên ngôn của nhóm là lời hiệu triệu chung tay chống lại căn bệnh sùng bái tốc độ dưới mọi hình thức: “Thế kỷ của chúng ta, vốn dĩ đã khởi đầu và đang phát triển dưới biển hiệu của văn minh công nghiệp, thoạt tiên phát minh ra máy móc sau lấy máy móc làm chuẩn mực cho đời sống. Chúng ta thành nô lệ của tốc độ và thảy đều chịu thua con vi rút âm ỉ kia: Cuộc sống Gấp gáp, nó phá vỡ thói quen của chúng ta, len vào đời sống riêng tư của nhà chúng ta và buộc chúng ta ăn Đồ ăn Nhanh.” Vào một chiều hè nóng bức ở Bra, thị trấn nhỏ Piedmontese, vốn là đại bản doanh của phong trào Đồ ăn Chậm, tôi gặp Petrini để chuyện phiếm. Đơn thuốc của ông dành cho đời sống là một gợi ý hiện đại rất đáng hoan nghênh. “Nếu lúc nào anh cũng chậm, thì anh là xuẩn – và đó hoàn toàn không phải là mục tiêu chúng tôi nhắm tới,” ông nói với tôi. “Chậm nghĩa là anh làm chủ nhịp sống của mình. Trong từng hoàn cảnh cụ thể, chính anh quyết định phải nhanh đến cỡ nào. Nếu hôm nay, tôi muốn nhanh, thì tôi nhanh; ngày mai tôi muốn chậm, tôi sẽ chậm. Cái mà chúng tôi đang đấu tranh giành giật chính là quyền định đoạt nhịp sống của riêng mình.” Triết lý sống hết sức giản đơn ấy đang góp tiếng nói trong nhiều lĩnh vực. Tại các công sở, hàng triệu người đang cố gắng – và sắp đạt tới – mức cân bằng hợp lý hơn giữa công việc và đời sống. Trong phòng ngủ, người ta khám phá thú vui của tình dục chậm, thông qua Tantra[12] và các dạng khác nhau của giảm tốc làm tình. Quan niệm Chậm hơn là tốt hơn tạo nền móng cho sự bùng nổ các chế độ tập luyện – từ yoga đến Thái Cực quyền – và y học thay thế - từ thảo dược đến liệu pháp vi lượng đồng căn – dùng phương pháp nhẹ nhàng toàn diện tiếp cận cơ thể con người. Khắp mọi nơi, các thành phố sửa sang cảnh quan đô thị để khuyến khích dân chúng giảm lái xe và tăng cường đi bộ. Nhiều trẻ em cũng sửa soạn rời làn cao tốc, vì các bậc cha mẹ bớt dần lịch học cho chúng. Rõ ràng, phong trào Chậm phần nào trùng khớp với cuộc thập tự chinh chống toàn cầu hóa. Những người đề xướng cả hai phong trào đều tin rằng chủ nghĩa tư bản tăng tốc chào mời chiếc vé một chiều tới kiệt lực, cho hành tinh này và nhân loại sống trên đó. Họ cho rằng chúng ta có thể sống tốt hơn nếu chúng ta tiêu dùng, sản xuất và làm việc với một nhịp độ hợp lý hơn. Tuy nhiên, cùng với những người chống toàn cầu hóa ôn hòa, các nhà hoạt động vì sự lắng mình Chậm lại cũng không khăng khăng xóa bỏ sạch trơn chế độ tư bản. Đúng hơn, họ cố tìm cho nó một khuôn mặt nhân bản. Bản thân Petrini cũng nói về “toàn cầu hóa đúng mực.” Dù vậy phong trào Chậm sâu sắc và rộng khắp hơn nhiều cải cách kinh tế đơn thuần. Lấy đích nhắm là vị chúa tốc độ giả hiệu, phong trào dò đến cốt lõi những gì cần có để làm người trong kỷ nguyên của con chip silicon. Tín điều Chậm có thể sinh lợi khi áp dụng theo lối dần dần. Nhưng để có được lợi ích toàn diện từ phong trào Chậm, chúng ta cần phải tiến xa hơn nữa, và triệt để cân nhắc phương pháp tiếp cận mọi vấn đề. Một thế giới Chậm đích thực không gì khác hơn một cuộc cách mạng về lối sống. Phong trào Chậm mới đang hình thành. Nó chưa có tổng hành dinh hoặc trang web, chưa có lãnh tụ duy nhất, chưa có đảng phái chính trị để chuyển tải các thông điệp. Nhiều người quyết định lắng mình mà không hề cảm thấy là bộ phận của một trào lưu văn hóa, chưa nói gì đến một cuộc thập tự chinh toàn cầu. Tuy thế, cái đáng kể là một thiểu số ngày càng tăng đang lựa chọn chậm thay vì tốc độ. Mỗi một hành động giảm tốc chính là tạo thêm cú hích cho phong trào Chậm. Giống quần chúng chống toàn cầu hóa, đám đông chủ trương chậm lại đang rèn những mắt xích, tạo đà và mài giũa triết lý của họ thông qua các hội nghị quốc tế, Internet và truyền thông đại chúng. Các Nhóm Chậm-Nhà-Nghề đang mọc lên khắp mọi nơi. Một số, chẳng hạn Đồ ăn Chậm, tập trung chủ yếu vào một lĩnh vực của đời sống. Các Nhóm khác mở rộng hơn triết lý Chậm. Trong số này có Câu lạc bộ Thư Thả ở Nhật, Quỹ Bây giờ Chậm trụ sở tại Mỹ và Hiệp hội châu Âu về Giảm tốc Thời gian[13]. Phần lớn phát triển của phong trào Chậm khởi phát từ phối kết hợp. Nhóm Đồ ăn Chậm hiện đã cho ra các nhóm con kế tiếp. Dưới ngọn cờ của các Đô thị Chậm, trên sáu chục thành phố Ý đang nỗ lực chuyển mình thành những ốc đảo êm đềm. Thị trấn Bra cũng là quê hương của Tình dục Chậm, một xu hướng nhằm xua đuổi sự hùng hục vội vã ra khỏi phòng ngủ. Tại Mỹ, học thuyết Petrini đã gợi hứng cho một nhà giáo dục hàng đầu phát động phong trào “Giáo dục Chậm ở nhà trường.” Mục đích của tôi trong cuốn sách này là giới thiệu phong trào Chậm tới đông đảo độc giả, giải thích phong trào bênh vực cái gì, hiện tiến triển ra sao, vấp phải những trở ngại nào và vì sao đem lại điều gì đó cho tất cả chúng ta. Tuy nhiên, những động cơ của tôi không hoàn toàn vị nhân sinh. Tôi là người say tốc độ, vì vậy cuốn sách này cũng là một cuộc hành trình hết sức cá nhân. Ở phần cuối hành trình ấy, tôi muốn tìm lại vài cảnh êm đềm cảm nhận được lúc chờ chuyến xe buýt nọ tại thành Rome. Tôi muốn có thể đọc sách cho con trai mà không phải liếc đồng hồ. Giống hầu hết mọi người, tôi muốn tìm ra con đường để sống tốt hơn nhờ vào tạo lập thế cân bằng giữa nhanh và chậm.   Mời các bạn đón đọc Ngợi Ca Sống Chậm của tác giả Carl Honore.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vịnh Mõm Đen
(Gồm 2 truyện dài là Vịnh Mõm Đen và Kolkhida) Tác giả: Konstantin Paustovsky Nguyên tác: Кара-Бугаз (1932), Колхида (1933) Dịch giả: Nguyễn Hải Hà NXB: Thanh Niên (1978) Ghi chú: Bản dịch đã được sửa phiên âm và hiệu đính khá nhiều lỗi dịch thuật, có tham khảo thêm bản tiếng dịch tiếng Anh. Nguồn text: bản chụp của bạn qingqing T ên tuổi nhà văn Xô-viết Konstantin Paustovsky từ lâu đã trở nên quen thuộc và được bạn đọc nước ta, đặc biệt là bạn đọc trẻ tuổi, ưa thích. Nếu bạn đã say mê văn học, và tìm thấy ở văn học một cuộc sống thật sự của ngày mai, một sức mạnh hướng dẫn đầy ân tình và đủ sức thuyết phục thì, có lẽ bạn sẽ khó có thể thờ ơ được khi thấy người bên cạnh mê mải với những «Bông hồng vàng» và «Truyện ngắn Paustovsky». Tác giả «Bông hồng vàng» và những truyện ngắn kỳ diệu đó đã tìm thấy phương châm sống và sáng tạo nghệ thuật của mình trong câu nói nổi tiếng của nhà thơ Ba Tư Saadi, mà ông đã trích dẫn trong bài «Một con người lớn lao» viết năm 1919 nhân dịp kỷ niệm M. Gorky 50 tuổi: «Tôi dùng 30 năm để chu du. Tôi đã sống nhiều ngày với những con người thuộc mọi dân tộc và đã sưởi ấm bên nhiều đống lửa trại. Tôi đã thấy chút ít vẻ đẹp lớn lao tràn đầy vũ trụ. Tôi đã dùng 30 năm để học và 30 năm cuối cùng để sáng tác. Sung sướng thay kẻ nào, sau khi sống cuộc đời như thế, đã để lại cho con cháu dấu ấn của tâm hồn mình» . Và, noi theo gương M. Gorky, Paustovsky đã ra sức trau dồi vốn sống, bởi vì theo ông: «Cuốn sách hay chỉ ra đời như kết quả của một cuộc đời đầy giá trị và sáng tạo» . Trước Cách mạng tháng Mười, Paustovsky đã từng đi lái xe điện, làm y tá trên các đoàn tàu cứu thương, làm người chọn phế phẩm ở xí nghiệp sản xuất đạn trái phá, học nghề đánh cá, rồi làm báo... Trong thời kỳ đó và trong những năm đầu của Cách mạng tháng Mười ông đã viết rất nhiều, nhưng trong nhiều năm các nhân vật của ông vẫn chơi vơi trong bầu trời lạnh lẽo của những cá nhân tự coi là phi thường nên đơn độc (tiểu thuyết Những đám mây lấp lánh (1929) và tập truyện Những người lãng mạn (viết từ năm 1916 đến năm 1923, in năm 1935). Họ cảm thấy mình «ở ngoài cuộc sống chung» , vì thế họ bị coi là «những con người tình cờ» đến sống giữa thế gian này. Nhưng không khí sôi nổi, xây dựng đất nước cuối những năm 20, đầu những năm 30, khi Liên Xô đang sải rộng đôi cánh công nghiệp hóa trên đà bay thần kỳ của những kế hoạch năm năm đã giúp cho ngòi bút của Paustovsky đi đúng hướng: ông không phải đi đâu xa để tìm tính chất lãng mạn cho ngòi bút của mình, vì chính nó đang hiện hiển sinh động ở ngay trong cuộc sống xây dựng lớn lao bề bộn đó. Sự ra đời của Kara-Bugaz  [1] và Kolkhida đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời sáng tác của Paustovsky và làm cho tên tuổi ông nổi tiếng khắp Liên bang. Trong Kara-Bugaz và Kolkhida Paustovsky muốn phản ánh tính chất lãng mạn và tinh thần anh hùng được thể hiện một cách sinh động trong cái bình thường mà không phải bất kỳ ai cũng dễ dàng nhận thấy. Là một vịnh biển huyền bí nằm bên một vùng sa mạc hoang vu, Kara-Bugaz – nơi có trữ lượng muối mirabilite phong phú nhất thế giới - đã gắn liền với những vụ đầu cơ, lường gạt, ăn trộm và khai thác một cách vô tổ chức của một số nhà tư bản dưới thời Nga hoàng. Kara-Bugaz, với hòn Đảo Đen - là nơi bọn Bạch vệ mưu toan đẩy hàng trăm tù binh Hồng quân vào bàn tay thần chết trước giờ phút bọn chúng rút chạy - đã nhắc nhở mọi người rằng mỗi tấc đất quê hương mà ta đang xây dựng hôm nay đã được giành giật, giữ gìn bằng xương máu của biết bao liệt sĩ. Còn Kolkhida, địa danh khởi nguồn từ Colchis - trong thần thoại Hy Lạp là nơi các dũng sĩ Hy Lạp với con tàu Argo dưới sự chỉ huy của Jason đã đến và tìm được ở đó thứ lông cừu vàng mà người xưa hằng mơ ước – lại là một vùng đầm lầy với khí hậu á nhiệt đới vô cùng khắc nghiệt và bệnh sốt rét ác hại đã cướp đi từng làng, thậm chí từng vùng. Nhưng với những con người giàu lòng tin ở sức mạnh của chính mình và của tập thể thì «Trong thiên nhiên quanh ta hầu như không có tai ương nào không thể đem sử dụng cho nhu cầu và lợi ích của con người» . Và với kỹ sư Prokofyev say sưa đi tìm ngọn nguồn của dầu lửa, với nhà địa chất Vasilyev đi thăm dò các vỉa than và phosphorite, với kỹ sư Davydov cả đời lăn lộn trên sa mạc, với những dự án phát triển sản xuất lớn, tới Khorobrykh trẻ tuổi quyết mang hết sức mình ra tìm cách làm con đường đi tới Kara-Bugaz, và với đội ngũ trùng trùng điệp điệp những con người say mê làm giàu cho Tổ quốc, Kara-Bugaz đã trở thành một khu liên hiệp công nghiệp hóa chất với một vành đai công nghiệp lớn bao quanh. Và đầm lầy Kolkhida đã biến thành một vùng đất trồng trọt phì nhiêu, xanh tốt, thành đất vàng đầu bạc tràn đầy khí trời và ánh nắng dưới bàn tay lao động cần cù sáng tạo của một lớp người dũng cảm ngoan cường, như Gabunia, người ký sự đào kênh tưới nước, như Kahiani, nhà cải tạo chất đất, như Pakhomov, người tìm cách làm khô cạn đầm lầy bằng phương pháp bồi lắng, như Nevskaya, nữ kỹ sư ươm cây nhiệt đới... Trong Kara-Bugaz và Kolkhida những chủ đề Tuổi trẻ, Khoa học và Ước mơ luôn luôn là ba người bạn đồng hành thân thiết. Là nhà văn của những chân trời xa, Paustovsky đã dẫn người đến với một Kara-Bugaz trong giai đoạn công nghiệp hóa Liên bang Xô-viết, với một Kolkhida đã thực sự trở thành một thiên nhiên mới đối với những người lao động tự do. Theo Paustovsky, bản chất của cách mạng là sáng tạo và ước mơ: «Tính lãng mạn đầy sinh khí đi cùng đường với cách mạng và xây dựng... Nếu không được ánh sáng lãng mạn chiếu rọi, chủ nghĩa thực dụng sẽ chết cứng» . Nhận thức văn học là bông hoa của lòng kiên trì và tình yêu cuộc sống, Paustovsky đã coi sáng tác của nhà văn là việc gom góp bụi vàng của người quét bụi để đúc nên bông hồng vàng. Với ý nghĩ đó, Kara-Bugaz và Kolkhida cũng chính là những bông hồng vàng xinh xắn mà Paustovsky đã đúc nên bằng những hạt vàng do ông kiên trì thu lượm trong đời đề tặng lại cho đời. Những tác phẩm hay bao giờ cũng làm cho người ta thêm yêu đời, chắp cánh cho tâm hồn bạn đọc và hướng dẫn bạn đọc đến với cái đẹp của thực tế cuộc đời. Xin thân ái gửi các bạn một sáng tác của Paustovsky - mà với nó Paustovsky có quyền vui sướng, vì theo ông: «Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường vào cái đẹp, của người biết đi tới tương lai, nơi nhân dân dốc hết sức hy vọng của mình để vươn tới» - và chúc các bạn lập nhiều chiến công. Hà Nội, tháng 6 năm 1978, Nhà xuất bản Thanh Niên     Ghi chú [1] Kara-Bugaz: nghĩa là Mõm Đen không bao giờ đã khát (tiếng Armenia). Chúng tôi xin đổi tên truyện này là Vịnh Mõm Đen (Nhà xuất bản và người dịch). ***   Mời các bạn đón đọc Vịnh Mõm Đen của tác giả Konstantin Paustovsky.
Đứa Con Muộn
Anatoly Georgyevich Alexin (tên thật là Goberman) sinh năm 1924 tại Moskva. Ông làm thơ đăng báo từ thuở bé, trải qua những năm Chiến tranh Vệ quốc chống phát xít trên công trường xây dựng ở ngoại ô thành phố Moskva và làm biên tập báo địa phương ở Ural, tốt nghiệp ngành Ấn Độ học tại Viện Đông phương học Moskva vào năm 1950. Năm 1950 cũng là năm Alexin cho ra mắt tập truyện đầu tay Ba mươi mốt ngày. Tập truyện được đón nhận tích cực và những tác phẩm tiếp sau đó, như Sasha và Shura(1956), Những cuộc phiêu lưu lạ thường của Seva Kotlov (1958), Tầng bảy đang phát thanh (1959), Kolia viết cho Olia, Olia viết cho Kolia (1965), Anh trai tôi chơi kèn clarinet (1968), Đứa con muộn (1976), Người thứ ba ở hàng thứ năm (1977), Evdokina dở hơi (1978), Những người phát tín hiệu và thổi kèn hiệu (1985)… đã đem lại cho ông danh hiệu “nhà văn của tuổi trẻ”. Alexin chủ yếu viết về lứa tuổi thiếu niên, về những cuộc đụng độ của họ với thế giới người lớn. Đó là những bức tranh cuộc sống thường nhật trong gia đình, trường học – những chốn thân quen gần gũi nơi các cô bé, cậu bé trải qua những thử thách đầu tiên của cuộc đời để lớn lên thành người. Đó cũng là những bức chân dung của thế hệ trẻ, cũng như của người Xô Viết nói chung các thập niên 1950 – 1980. Không ít sắc thái tươi sáng lãng mạn, lý tưởng, đồng thời có cả những gam màu tối dự báo về sự tha hóa đạo đức. Những câu chuyện giản dị, nhẹ nhàng, hài hước nhưng cũng đầy kịch tính, những miêu tả tinh tế về đời sống sinh hoạt cũng như tâm lý con người thời đại đã khiến tác phẩm của Alexin trở thành các bài học đạo lý sâu sắc không chỉ dành riêng cho trẻ em, mà cả cho người lớn. Alexin còn viết tiểu thuyết và kịch. Nhiều kịch bản phim được chính ông chuyển thể từ các truyện vừa và truyện ngắn của mình. Alexin nhận được nhiều giải thưởng, trong đó có bốn lần được trao Giải thưởng Nhà nước của Liên Xô và của Liên bang Nga. Ông được bầu làm Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Giáo dục Liên Xô năm 1982. Năm 1993, ông rời Nga đến Israel định cư vì lý do sức khỏe, và từ năm 2011 sống ở Luxembourg cùng gia đình con gái. Tuy nhiên, nhà văn từng nói với báo chí: “Trái tim tôi nằm ở Moskva, tôi là nhà văn Nga…” Ngày 1 tháng 5 năm 2017, Alexin ra đi ở tuổi 93 và được đưa về quê hương chôn cất. Trái tim nhà văn Nga sẽ mãi mãi nằm lại ở Moskva đúng như di nguyện của ông.   Người dịch *** Anh trai tôi chơi kèn Clarinet Ngày 21 tháng Mười Hai Hầu như tất cả bọn con gái trong lớp tôi đều viết nhật ký. Bọn nó viết trong đó đủ thứ vớ vẩn. Chẳng hạn: “Vasia hôm nay hỏi mượn mình quyển vở Hình học. Hỏi một cách kín đáo và rất khẽ, để không ai nghe thấy. Để làm gì? Tại sao cậu ấy lại bí mật và hồi hộp như thế? Đã nửa đêm rồi, nhưng mình cứ nghĩ mãi về chuyện này và đến tận sáng vẫn không ngủ được”. Vasia chỉ đơn giản muốn chép bài tập về nhà môn Hình học mà thôi. Đúng là như thế, bởi cậu ta cũng đã chép của tôi. “Khẽ khàng, kín đáo!...” – Thử hỏi ai lại làm chuyện đó một cách ồn ào? “Hồi hộp!” – Làm sao mà thằng Vasia không hồi hộp được! Bọn con gái luôn thích gán cho những hành vi bình thường nhất của bọn con trai ý nghĩa đặc biệt nào đó. Tôi cũng là một cô bé, nhưng tôi hiểu là nhật ký phải được viết bởi những người xuất chúng. Không, tôi không nghĩ đó là tôi. Nhưng tôi có một người anh, anh ấy đang học năm thứ hai ở nhạc viện. Anh ấy sẽ trở thành một nhạc sĩ vĩ đại. Điều này là chắc chắn. Tôi không hoài nghi về việc đó! Và qua nhật ký của tôi, người ta sẽ biết anh ấy hồi thơ ấu như thế nào. Anh trai tôi chơi kèn clarinet. Tại sao lại không chơi vĩ cầm, hay dương cầm, như ông nội mong muốn. Ông nội mất khi tôi mới hai tuổi. Còn anh Leva lớn hơn tôi những năm tuổi, và ông nội đã bắt đầu dạy nhạc cho anh ấy. Từ nhiều năm tôi đã nghe nói, rằng ông nội tôi “chơi nhạc ở phoi-ơ[1]”. Tôi không biết “phoi-ơ” là gì, nhưng tôi thấy từ đó rất đẹp. “Phoi-ơ” – tôi phát âm rất rõ ràng. Nhưng khi lần đầu tiên vào rạp chiếu phim và nhìn thấy các nhạc công chơi đàn trong phoi-ơ, tôi thấy thương ông nội tội nghiệp của tôi lắm: Khán giả thì nói chuyện với nhau, nhai bánh kẹp, sột soạt giở báo, còn những nhạc công già trên sân khấu chơi một bản valse. Họ áp cằm vào đàn và nhắm mắt: Có thể là vì say mê, nhưng cũng có thể để không nhìn thấy các khán giả nhai bánh kẹp. Anh trai tôi sẽ không chơi nhạc ở phoi-ơ! Anh ấy sẽ biểu diễn trong những hội trường nhạc thính phòng sang trọng. Bây giờ anh ấy đang chuẩn bị cho cuộc thi của các nhạc công trình diễn kèn hơi. Tôi thấy tiếc là clarinet lại bị gọi là kèn hơi. Khi tôi nghĩ đến kèn hơi, không biết sao lại lập tức nhớ đến các đám tang và đội kèn đồng đi theo sau quan tài. Lẽ ra kèn clarinet phải được gọi bằng một cái tên khác... Nhưng biết làm sao được! Tôi học trung bình, nhưng điều này không có ý nghĩa gì cả. Tôi quyết định hiến dâng toàn bộ cuộc đời mình không phải cho bản thân, mà là cho anh trai. Các em gái của vĩ nhân đều như thế. Họ thậm chí còn không lấy chồng. Và tôi cũng không lấy chồng. Không đời nào! Không bao giờ!... Đúng thế đấy. Leva cũng biết về điều này. Ban đầu anh ấy phản đối, nhưng sau đó đã đồng tình. Chúng tôi đã thỏa thuận, rằng khác với tôi, bản thân Leva thì phải có quyền cho cuộc sống riêng của mình, nhưng chỉ khi đã đạt được những thành tựu âm nhạc lớn. Bởi Leva sẽ phải thuộc về nghệ thuật một cách trọn vẹn. Anh ấy sẽ không có thời gian cho những công việc và mối quan tâm bình thường của con người. Mọi thứ đó sẽ do tôi đảm nhiệm. Thực ra tôi từ chối cuộc sống riêng của mình là vì anh trai! Và vì thế những điểm Ba[2] của tôi chẳng có nghĩa lý gì cả. Tiếc là bố và mẹ lại chẳng hiểu điều đó. – Con sắp đặt cũng không tồi. – Mẹ nói – Nghĩa là, Leva sẽ học, từ sáng đến tối chơi clarinet, tu dưỡng, chuẩn bị cho các kỳ thi, còn con sẽ dâng hiến cả cuộc đời mình cho anh con. Con thật toàn có ý nghĩ điên rồ! – Thế có nghĩa em gái của Chekhov cũng là điên rồ sao? – Tôi vặc lại. – Thôi… đủ rồi đấy! Mẹ ngán ngẩm khoát tay. Khi không nói gì được nữa, thì dễ hơn cả là khoát tay. Nói chung, bản thân tôi cũng có lỗi: Không nên quá cởi mở với cha mẹ mình – họ nhất định sẽ lợi dụng sự cởi mở đó để chống lại mình. Nhưng rồi khi nào người ta viết sách về Leva, những đoạn nhật ký của tôi sẽ được đưa vào trong đó. Cách đây không lâu tôi có đọc một cuốn sách viết về một nhà thơ vĩ đại. “Em gái nhà thơ” – dưới một bức ảnh có ghi như thế. Còn dưới ảnh của tôi người ta sẽ viết: “Em gái của nghệ sĩ kèn clarinet”. Hay thế này thì hơn: “Em gái của nhạc sĩ”. Đó sẽ là phần thưởng khiêm tốn dành cho tôi. Đấy, vì sao mà tôi viết nhật ký. – Bố chưa bao giờ nghe nói đến cái nghề như vậy: Nghề em gái của nghệ sĩ clarinet! – Có lần bố tôi nói với tôi. Chao, cả ông cũng không phải lúc nào cũng hiểu tôi. Thật không may là chẳng phải ai cũng biết clarinet là nhạc cụ quan trọng như thế nào. Chính nó khởi đầu cho bản giao hưởng số năm của Tchaikovsky. Chẳng lẽ nhiều người biết chuyện đó sao? “Nhân vật không nổi bật của dàn nhạc” – Leva nói như thế về clarinet. Anh ấy thậm chí còn mừng vui vì clarinet là nhạc cụ “không nổi bật”. Cả anh ấy nữa, có lẽ cũng muốn không nổi bật. Tính anh ấy thế. Nhưng tôi không để chuyện đó xảy ra! Mùa hè, cả nhà tôi vang lừng tiếng kèn clarinet. Nhưng nhiều người không biết những âm thanh đó phát ra từ cửa sổ nhà ai. Tôi giải thích rằng đó là anh trai tôi chơi kèn. Thậm chí khi trời lạnh tôi cũng mở toang cửa sổ để mọi người không quên tiếng kèn clarinet của anh Leva. Tôi kể cho tất cả hàng xóm rằng Leva đang chuẩn bị cho cuộc thi âm nhạc. Cứ mặc mọi người bảo tôi không khiêm tốn: Tôi sẵn sàng chịu mọi đau khổ vì anh trai mình! Nói chung, từ lâu tôi đã quyết định viết nhật ký. Nhưng tôi không muốn bắt đầu nó một cách đơn giản, mà phải bắt đầu từ một ngày trọng đại nào đó. Và ngày hôm đó đã đến! Hôm nay, trước khi hồi chuông đầu tiên đổ, anh học sinh lớp Mười Robert, có biệt danh là “Robert – nhà tổ chức” túm lấy tôi ở chỗ gửi áo khoác. Tác phong của anh ấy là thế, không chặn lại, không nắm lấy tay ai anh ấy đang cần gặp, mà là túm lấy. Túm lấy bất cứ chỗ nào lọt vào tay anh ấy: tay, vai, thậm chí là cổ. Bạn tưởng tượng được không? Anh ấy túm lấy tay áo tôi. – Em thu xếp mời anh em nhé? Cho buổi dạ hội của học sinh năm cuối! Robert chỉ nói được câu đầu là bình thường, theo cách của con người, còn sau đó anh ta chẳng còn thời gian để giãi bày. Anh bắt đầu nói liến thoắng, bỏ qua cả các động từ, cứ như đang đọc điện tín vậy. – Dạ hội mừng năm mới! Phần một – thơ và nhạc cổ điển. Phần hai – Jazz và khiêu vũ. Ta không có nhạc cổ điển. Mọi hy vọng trông vào anh trai của em. Tôi lập tức hình dung, rằng trong đời sẽ không có thêm một cơ hội tuyệt vời như thế để có thể vinh danh khắp trường. Tôi không thể đi báo cho mọi người rằng anh trai tôi học ở nhạc viện, nhưng bây giờ thì mọi người đều lập tức biết ngay! Tuy nhiên, tôi quyết định làm khó Robert một tí, để anh ta không nghĩ rằng có thể có được anh tôi một cách dễ dàng như thế. – Anh biết không? – Tôi bắt đầu – Anh em đang chuẩn bị cho cuộc thi dành cho các nhạc sĩ trình diễn… Tôi bỏ qua các từ “nhạc cụ bộ hơi”. – Dạ hội dành cho học sinh lớp cuối, chỉ cho lớp Mười thôi! – Robert nói – Em mới học lớp Bảy. Nhưng có hai vé cho em đây! Cho em và cho anh trai em. Em thu xếp được không? Bọn bạn gái của tôi sẽ thế nào khi chúng nó biết tôi được mời đến dự dạ hội của học sinh lớp cuối? Điều mà chúng nó chỉ có nằm mơ! Một giấc mơ hạnh phúc nhất!... Mời các bạn đón đọc Đứa Con Muộn của tác giả Anatoly Alexin.
Canh Bạc Hôn Nhân
Một thập kỷ trước, Hầu tước Bourne bị chính kẻ từng nâng đỡ mình chiếm đoạt hết gia sản, chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Thời gian sau, anh gây dựng lại cơ ngơi và trở thành đối tác của một sòngbạc nổi tiếng nhất London. Nhưng con người lạnh lùng đó vẫn nuôi ý định trả thù và sẵn sàng làm bất cứ điều gì để lấy lại tài sản từng mất, kể cả việc kết hôn với quý cô Penelope Marbury - người có phần thừa kế gồm cả gia sản của anh. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đầy toan tính đó cuối cùng lại biến thành một cuộc hôn nhân của tình yêu thật sự, giúp Bourne tìm được người con gái luôn sẵn lòng đặt cược tất cả - kể cả trái tim cô - để bảo vệ tình yêu dành cho anh. *** Sarah MacLean sinh ngày 17 tháng 12 năm 1978 tại Rhode Island, nước Mỹ. Bà là một cây bút đầy tài hoa chuyên về tiểu thuyết lãng mạn lịch sử, đồng thời cũng là một trong các tác giả của những cuốn sách ăn khách nhất do New York Times và Romantic Times bình chọn. Bà tốt Smith năm nghiệp 1978 và có chuyên tại bằng tiểu ngành thạc bang sĩ Lịch chuyên Rhode sử ngành Nhân loại học tại Đại học Harvard. Hiện tại bà đang sống tại New York cùng chồng, con gái và sở hữu một bộ sưu tập những cuốn tiểu thuyết lãng mạn hết sức đồ sộ. Sarah có niềm đam mê với lịch sử và văn học lãng mạn từ khi còn rất nhỏ. Bà từng dành hầu hết thời gian trong suốt thời niên thiếu vùi mình trong các thư viện sách. Đó cũng chính là nơi đã khơi dậy trong bà nhiệt huyết với sự nghiệp viết lách, để sau đó trở thành một trong những tiểu thuyết gia lãng mạn nổi tiếng thế giới. Khi rảnh rỗi, bà thích du ngoạn khắp mọi miền đất nước, tìm hiểu về các nền văn hóa, giáo dục, và khám phá thế giới xung quanh dưới con mắt của một lữ khách đầy lạc quan, yêu đời. Các bài viết của bà thường xuyên xuất hiện trên chuyên mục của New York Times Book Review, Washington Post và Parents Magazine. MacLean tự nhận mình là người theo chủ nghĩa bình quyền, và đó cũng chính là phương châm xuyên suốt các tác phẩm của bà, đan xen với dòng chảy của những điều lãng mạn, ngọt ngào. Bà là một trong các tác giả ăn khách nhất do New York Times, USA Today và Romantic Times bình chọn. Cuốn tiểu thuyết đầu tay - 9 tuyệt chiêu tóm kẻ phóng đãng - ra đời ngay sau khi Sarah tốt nghiệp đại học đã giúp tên tuổi của bà trở nên quen thuộc với nhiều độc giả khi được dịch ra mười thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm này thuộc series Love By Numbers, cùng hai tác phẩm 10 bí quyết chinh phục trái tim và 11 tai tiếng hạ gục công tước đã được Bách Việt xuất bản vào năm 2013. Hãy thử cầm trên tay những tác phẩm của Sarah MacLean để cảm nhận được ma lực từ một cây viết đầy trí tuệ và tài hoa. Hãy bước vào thế giới muôn hình vạn trạng trong tiểu thuyết của bà để thấu hiểu những giá trị nhân văn sâu sắc qua từng trang sách...   Các tác phẩm đã và sẽ được BachvietBooks giới thiệu tới độc giả: - 9 Tuyệt Chiêu tóm kẻ Phóng Đãng - Sarah Maclean (2013) - 10 Bí quyết chinh phục trái tim - Sarah Maclean (2013) - 11 Tai Tiếng hạ gục Công tước - Sarah Maclean (2013) - Canh bạc hôn nhân (2014) - Chàng Có Thể Hủy Hoại Em Không? (2014) - Đam Mê và Thù Hận - Sarah MacLean (Quý II/2015) - Sự Trả Thù Của Quý Cô *** London Mùa đông, 1821 Lá tám rô đã hủy hoại cuộc đời anh. Nếu nó là con sáu, anh còn có thể cứu lấy mình. Hoặc giả như nó là con bảy, anh sẽ ra khỏi nơi đó với tài sản nhân ba. Nhưng nó lại là con tám. Hầu tước Bourne trẻ tuổi nhìn lá bài bay qua tấm vải len xanh lá và lướt đến chỗ kế bên lá bảy chuồn nằm lật ngửa trên bàn, như đang trêu tức anh. Mắt anh đã nhắm lại từ lúc nào, luồng không khí hết sức khó chịu ồ ạt thoát khỏi căn phòng. Hai mươi hai. Hơn một điểm so với hai mươi mốt mà anh đặt cược. Nhưng anh đã đặt cược mọi thứ. Những tiếng thở gấp trong phòng vang lên khi anh vẫn giữ nguyên chuyển động của lá bài bằng một đầu ngón tay - trong lúc những người ngoài cuộc đứng xem nỗi kinh hoàng với vẻ thích thú mãnh liệt hiện rõ trên mặt những kẻ vừa thoát chết trong gang tấc. Tiếng xì xào bắt đầu vang lên. “Ngài ấy cược hết à?” “Tất cả những thứ không nằm trong quyền thừa kế.” “Trẻ quá nên mới hành động thiếu khôn ngoan như vậy.” “Đủ chín chắn rồi chứ, không gì khiến một người đàn ông trưởng thành nhanh hơn việc này.” “Cậu ta thật sự mất toàn bộ mọi thứ sao?” “Mất hết.” Anh mở mắt ra, tập trung vào người đàn ông ngồi phía bên kia bàn, bắt gặp cái nhìn u tối, lạnh lẽo anh đã biết từ lâu. Tử tước Langford từng là một người bạn và hàng xóm của cha anh - Hầu tước Bourne đời trước. Ông ta được cha anh cẩn thận lựa chọn làm người giám hộ cho đứa con trai và người thừa tự duy nhất của mình. Sau cái chết của cha mẹ anh, Langford chính là người đã bảo vệ danh vị của Hầu tước Bourne, làm cho tài sản của anh tăng lên gấp mười lần, và bảo đảm cho nó phát triển thịnh vượng. Rồi chiếm lấy nó. Hàng xóm thì có thể. Bạn thì đừng hòng. Cảm giác bị phản bội chạy vụt qua chàng hầu tước trẻ. “Ông cố tình làm thế.” Lần đầu tiên trong hai mươi mốt năm, anh nghe thấy giọng mình có phần trẻ người non dạ. Và anh ghét điều đó. Đối thủ của anh cầm tờ giấy có chữ ký ở chính giữa bàn lên, mặt không chút cảm xúc. Bourne kìm nén thôi thúc muốn cau mày trước nét ký nguệch ngoạc một cách kiêu ngạo của mình ở bên kia trang giấy trắng - bằng chứng cho thấy anh đã mất tất cả. “Đó là lựa chọn của cậu. Cậu đã chọn đặt cược nhiều hơn khả năng thua cuộc của mình.” Anh đã bị lừa. Langford dồn ép anh hết lần này đến lần khác, thúc ép anh nhiều và nhiều hơn nữa, để anh thắng cho đến khi anh không thể hình dung được có lúc mình sẽ thua cuộc. Đó là một mánh khóe cũ rích, nhưng Bourne còn quá trẻ, nên không thể nhận ra. Quá hăm hở. Bourne ngước lên nhìn chằm chằm Langford, vẻ tức giận và bực bội làm anh nghẹn lời. “Và ông chọn cách đoạt lấy nó.” “Không có ta thì đừng mơ có gì để chiếm đoạt”, người đàn ông lớn tuổi nói. “Cha ơi”, Thomas Alles, con trai của tử tước và là bạn lâu năm nhất của Bourne bước tới, giọng run run, “Đừng làm thế”. Langford ung dung gấp tờ giấy có chữ ký lại và đứng lên khỏi bàn, phớt lờ con trai mình. Thay vào đó, ông ta phóng cái nhìn lạnh lùng về phía Bourne. “Cậu nên cảm ơn ta vì đã dạy cho cậu một bài học đáng giá khi ở độ tuổi còn trẻ như vậy. Thật không may là bây giờ cậu chẳng còn gì ngoài bộ quần áo trên người và một trang viên trống rỗng.” Tử tước liếc nhìn chồng tiền trên bàn - phần còn lại của số tiền thắng cuộc từ buổi chiều tối. “Thế này nhé, ta sẽ để lại cho cậu số tiền kia, được không? Một món quà từ biệt, nếu cậu muốn. Xét cho cùng, cha của cậu sẽ nói sao nếu ta bỏ đi mà không để lại gì cho cậu?” Bourne bật dậy khỏi ghế, đẩy nó lùi ra sau. “Ông không đủ tư cách để nói về cha tôi.” Langford nhướng một bên mày trước việc biểu lộ cảm xúc không kiềm chế ấy, và để sự im lặng bao trùm một lúc lâu. “Cậu biết đấy, ta tin rằng rốt cuộc thì mình sẽ lấy số tiền đó thôi. Và cả tư cách hội viên của cậu ở câu lạc bộ này. Đến lúc cậu phải rời đi rồi.” Má Bourne đỏ bừng khi thấm thía từng từ ngữ kia. Tư cách thành viên câu lạc bộ của anh. Đất đai, người hầu, ngựa, quần áo của anh, tất cả mọi thứ. Toàn bộ ngoại trừ một căn nhà, vài mẫu đất, và một tước hiệu. Một tước hiệu giờ đây trở thành nỗi nhục nhã. Tử tước nhếch mép cười nhạo báng và búng một đồng ghi-nê qua không trung về phía Bourne. Theo bản năng, anh vươn tay ra bắt lấy đồng tiền vàng khi nó lóe lên trong ánh đèn sáng rực của căn phòng đánh bài ở White. “Hãy chi tiêu một cách khôn ngoan nhé chàng trai. Nó là thứ cuối cùng cậu có được từ ta.” “Cha à”, Tommy thử lần nữa. Langford chĩa mũi dùi sang cậu. “Không nói thêm một lời nào nữa. Ta sẽ không để ngươi cầu xin cho nó.” Người bạn lâu năm nhất của Bourne nhìn anh buồn bã, giơ bàn tay ra dấu lực bất tòng tâm. Tommy cần cha của mình. Cần tiền của ông ta. Sự chu cấp của ông ta. Bourne đã không còn những thứ đó cho riêng mình. Lòng căm thù bùng lên mãnh liệt và dữ dội trong giây phút ngắn ngủi, trước khi nó biến mất và bị dập tắt bởi vẻ kiên quyết lạnh lùng. Bourne bỏ đồng tiền vào túi rồi quay lưng lại với giới quý tộc của anh, câu lạc bộ của anh, thế giới của anh, và cuộc sống mà anh đã luôn quen thuộc. Thề sẽ báo thù. Mời các bạn đón đọc Canh Bạc Hôn Nhân của tác giả Sarah MacLean.
Trân Châu Cảng
*“Trân Châu cảng” - ngày 07/12/1941 - một sự kiện kinh hoàng cho nước Mỹ và cả thế giới khi không quân Nhật bất ngờ tấn công vào Trân Châu cảng. Điều này đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ “ngây thơ vô tội”…và là sự khởi đầu đầy vinh quang của nước Mỹ. *Với bút pháp thần kỳ, mang đậm nét nhân văn, Randall Wallace sẽ mang đến cho độc giả sự đồng cảm sâu sắc về nỗi đau, nỗi mất mát lớn lao về tinh thần lẫn thể xác mà chiến tranh để lại cho nhân loại. *“Trân Châu cảng” - một câu chuyện bất ngờ gây chấn động, một thất bại thảm hại, một chiến thắng anh dũng và vượt trên tất cả là sự gắn kết một chuyện tình tuyệt đẹp! *** Trận Trân Châu cảng là một chiến thắng thể hiện rõ tinh thần và khả năng của quân nhân Nhật Bản, đặc biệt là hải quân và không quân. Ngoài ra nó cũng cho thấy kỹ nghệ phục vụ chiến tranh của Nhật Bản rất phát triển, thể hiện rõ qua số lượng tàu sân bay cao hơn cả của Mỹ và Anh cộng lại vào thời điểm đó. Tuy nhiên, tham vọng quá lớn của giới quân phiệt đã đẩy Nhật Bản đến thất bại cay đắng và như giới chuyên môn đã nhận định, việc lôi kéo Hoa Kỳ vào cuộc chiến là sai lầm chiến lược dẫn đến thất bại của phe trục trong Thế chiến 2. Cuốn sách tổng hợp rất nhiều thông tin chi tiết, bố cục hợp lý, là một tài liệu tham khảo tốt. *** Mùi thơm ngọt ngào của mảnh gỗ thông bay đến mũi Danny Walker. Rafe McCawley đã khoan hai lỗ nhỏ bằng đầu đinh rồi luồn sợ dây thừng qua. Sau đó, hai thằng bé cột chặt sợ dây ngang thắt lưng trông cho giống dây an toàn thường thấy trên máy bay. Hai đứa đang ngồi trong một thùng bia cũ bằng gỗ. Miệng thùng chẳng to hơn cái thố đựng nước là mấy, tuy nhiên cũng đủ rộng cho hai thân hình mỏng dính gầy gò. Rafe và Danny mới 10 tuổi đầu. Chúng ở trên mảnh đất vốn là một thái ấp cũ. Lúc này, nước Mỹ đang trong cơn đại khủng hoảng của những năm 1930. Nhưng hai thằng bé này sang lắm! Có máy bay riêng! Một chiếc máy bay có hai tầng cánh, thuộc loại nhỏ dùng để rải phân bón ngoài ruộng - một phương tiện lao động thường thấy ở khắp miền Nam nước Mỹ. Cha của Rafe mang chiếc máy bay cũ kỹ ấy về nhà. Thân máy bay bị bể. Máy móc hư nát, không thể dùng được. Ông tháo tung cỗ máy cồng kềnh ấy ra để lấy những phần phụ tùng còn tận dụng được. Lúc này, cánh máy bay là những mảnh gỗ, giẻ rách và đống dây kẽm gai rỉ sét. Quạt gió là cái cánh quạt gẫy nát ai đó vất sau góc vườn nhà. Rafe lượm về lắp cho máy bay của mình. Còn kính chắn gió của máy bay được làm bằng tổ chim sẻ. Khi còn nguyên vẹn, máy bay này đã từng lướt nhẹ trên bầu trời Tennessee. Bây giờ trong tâm trí của hai thằng bé sống nơi thôn dã, chiếc máy bay này là thứ tàu lượn bay nhanh nhất và xa nhất thế giới. Rafe hét lên: - Quân địch đang tới từ phía cánh trái kìa! Nó giả vờ nghiêng ngửa, ngả vai vào người Danny. Tuy tay thằng Rafe gầy gò, chỉ có da bọc xương, nhưng thân hình khá cao ráo. Đặc biệt, nó có cặp mắt nhanh nhẹn của một phi công. Mặc dù mới bước sang tuổi 11 nhưng Danny cũng nhận ra Rafe có tố chất thiên bẩm qua ánh mắt của bạn mình. Không hề có sự sợ hãi, tức giận. Chỉ là ánh mắt rất tinh tường và quả quyết. - Tớ thấy chúng rồi! - Danny trả lời. Trong khi ấy, thằng Rafe đá lưỡi kêu rừ rừ tạo Rafe âm thanh gầm rú của những chiếc máy bay tưởng tượng. Vừa la lối, và vừa cầm chiếc chổi cũ lượn tới lượn lui như thể nó đang lướt đi trong không trung vậy. - Danny! Hạ chúng ngay! - Được rồi! Rafe.. pằng pằng.. Thằng Danny mím môi phát ra âm thanh giả tiếng súng máy đang nã đạn. Danny thích cái cách Rafe gọi tên nó. Nghe âu yếm như hai người anh em ruột gọi nhau vậy. Rafe là người duy nhất trên đời này gọi nó là Danny. Trước đây, mẹ nó cũng gọi nó là Danniel. Nhưng bà đã chết khi Danny mới lên 4 tuổi. Cái từ đẹp đẽ nhất mà cha nó thường gọi nó chỉ đơn giản là nhóc tỳ mà thôi.   Mời các bạn đón đọc Trân Châu Cảng của tác giả Randall Wallace.