Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn

Như Jamie Holmes chỉ ra trong cuốn sách này, sự mơ hồ và bí ẩn, sự nhập nhằng,… khiến chúng ta không thoải mái, do đó chúng ta có xu hướng trốn tránh nó và thường bám riết lấy phương án giải quyết an toàn (nhưng không phải lúc nào cũng là tốt nhất), đặc biệt là trong những tình huống nguy hiểm. Nhưng cũng chính vì thế, chúng ta tước đi của chính mình cơ hội quan trọng để tìm hiểu cách giải quyết vấn đề theo hướng mới hoặc quan sát thế giới từ một góc độ khác. Bằng những hiểu biết về tâm lý học xã hội và khoa học nhận thức của tác giả và thông qua những câu chuyện thú vị - từ trò chơi gián điệp và các giáo phái ngày tận thế cho chiến dịch quảng cáo của Absolut Vodka hay sự sáng tạo của Mad Libs – cuốn sách của Jamie Holmes hứa hẹn sẽ làm thay đổi cách chúng ta tiến hành kinh doanh, giáo dục và đưa ra quyết định. Mọi khía cạnh tích cực của “sự mơ hồ và bí ẩn” và cách tận dụng nó đều nằm trong cuốn sách này! ***   N ăm 1996, Đại học City & Islington ở London tổ chức một khóa học tiếng Pháp cấp tốc cho những người mới học và sinh viên dưới trung bình. Paula, một cô bé thiếu niên nghiêm chỉnh đeo một cặp kính gọng mảnh, chưa bao giờ nói được một từ tiếng Pháp nào. Darminder, người có một bộ râu dê và đeo khuyên tai, không chỉ mới học tiếng Pháp mà còn thất bại trong kỳ thi chứng chỉ tiếng Tây Ban Nha tổng quát của bậc giáo dục trung học (GCSE). Abdul đã rớt kỳ thi GCSE tiếng Đức. Satvinder và Maria đều rớt kỳ thi GCSE tiếng Pháp và giáo viên tiếng Pháp của Emily khuyên cô nên bỏ ý định học thứ tiếng này. Tuy nhiên, thay vì từ bỏ tất cả hy vọng, những học viên này đã đăng ký tham gia một khóa học độc nhất vô nhị. Trong năm ngày học toàn thời gian, họ sẽ áp dụng phương pháp kỳ lạ của một nhà ngôn ngữ học tên là Michel Thomas. Trong chiếc áo khoác màu xanh và với mái tóc muối tiêu, trông Thomas toát lên vẻ nhã nhặn. Ông nói với những học viên mới rằng: “Tôi rất mong chờ buổi dạy ngày hôm nay nhưng dưới những điều kiện tốt hơn, vì tôi không nghĩ rằng các em đang ngồi thoải mái. Tôi muốn các em cảm thấy thoải mái, do đó chúng ta sẽ sắp xếp lại mọi thứ.” Trong một chiếc xe tải ở bên ngoài, Thomas đã chuẩn bị sẵn một số vật dụng thay thế không ai ngờ tới cho một lớp học tiêu chuẩn: ghế bành, gối, bàn cà phê, cây cối, thảm, một cái quạt và thậm chí là những tấm đệm gấp làm bằng liễu gai. Chỉ với chút ít thời gian và công sức, các học viên đã hoàn tất việc thay đổi căn phòng. Những chiếc ghế bành lưng cao bọc vải nhung xếp thành một nửa hình ô van, những chiếc rèm xanh được kéo lại, chỉ để lọt ánh sáng mờ trong căn phòng, và những tấm đệm liễu gai bao quanh những chiếc ghế bành mang lại một cảm giác ấm áp và thân mật hơn. Không có những bàn học, bảng đen, giấy, bút hay chì. Thomas không muốn các học viên viết hay đọc bất kỳ thứ gì. Ông không muốn họ nhớ bất cứ điều gì được học, kể cả việc xem lại chúng vào cuối ngày. Nếu trong thời gian học, các sinh viên không nhớ được điều gì đó, ông nói rằng đó không phải vấn đề của họ. Đó là vấn đề của ông. Emily tỏ vẻ hoài nghi. Darminder và Abdul thậm chí còn không giấu được nụ cười tinh quái. Nhưng không ai trong số những sinh viên này có thể ngăn nổi sự tò mò thực sự về người đàn ông đứng tuổi đang đứng trước mặt mình. Ông ta có nghiêm túc không? Không cố gắng nhớ những gì được dạy trên lớp ư? “Tôi muốn các em thoải mái.” Cảnh tượng này, phương pháp của Thomas và các kết quả sau năm ngày học xuất hiện trong một bộ phim phóng sự của đài BBC mang tên Chuyên gia Ngôn ngữ. Margaret Thompson, Trưởng khoa tiếng Pháp của trường được giao nhiệm vụ đánh giá kết quả của Thomas. Vào cuối tuần, bà theo dõi các sinh viên – trong đó rất nhiều người chưa từng nói được một từ tiếng Pháp nào trước đây – đã dịch được những câu hoàn chỉnh sử dụng các dạng ngữ pháp nâng cao. Emily đã có thể dịch được một cụm từ vốn thường mất nhiều tháng để giải quyết: “Tôi muốn biết liệu anh có muốn đến gặp tôi tối nay hay không?” Paula ca ngợi cách Thomas nhấn mạnh sự bình tĩnh và kiên nhẫn. Các sinh viên nói rằng họ cảm thấy như thể đã học được năm năm tiếng Pháp chỉ trong năm ngày. Khá kinh ngạc với kết quả, Thompson rụt rè chấp nhận đánh giá của những học viên này. Michel Thomas biết rằng việc khám phá một ngôn ngữ mới quả thực rất đáng sợ. Các học viên phải đối mặt với cách phát âm mới cho những từ ngữ quen thuộc, các từ vựng mang ý nghĩa kỳ lạ, những phần thiếu của lời nói hay những cấu trúc ngữ pháp lạ lẫm. Đó là lý do vì sao những sinh viên của Đại học City & Islington dù được học trong một môi trường thoải mái vẫn thể hiện sự bối rối: cười lớn căng thẳng, cười nhẹ ngượng ngùng, xin lỗi thầm, nói lắp, lưỡng lự và những cái liếc mắt lúng túng. Học một ngôn ngữ mới đòi hỏi bạn phải đi vào một vùng đất xa lạ. Thomas mô tả ngôn ngữ mới “là thứ xa lạ nhất” mà một người có thể học. Để bảo vệ bản thân trước sự xâm lấn “xa lạ” này, tâm trí sẽ dựng lên những rào cản theo bản năng, vì vậy thách thức đầu tiên và cũng là khó khăn nhất với giáo viên là giúp các học viên kéo đổ những rào cản này. Thomas đã thay đổi môi trường giảng dạy ở Đại học City & Islington từ đáng sợ, đầy căng thẳng thành tò mò, đầy bình tĩnh. Bằng cách nào đó, ông đã khiến tâm trí của các học viên cởi mở hơn. Các học viên vốn có thói quen gạt bỏ những gì chưa hiểu đột nhiên sẵn sàng dấn thân vào những lãnh thổ xa lạ hơn. Vào thời điểm BBC quay phóng sự này (sau đó được phát sóng năm 1997), Thomas đã là một huyền thoại. Ông thành thạo 11 ngôn ngữ, mở ra những trung tâm gia sư ở Los Angeles, New York và xây dựng một thứ gì đó như một “tôn giáo” nhờ vào một danh sách khách hàng bao gồm Grace Kelly, Bob Dylan, Alfred Hitchcock, Coca-Cola, Procter & Gamble và American Express. Nigel Levy, người đã tham gia lớp học của Thomas trước khi sản xuất ra bộ phim phóng sự của BBC, mô tả những bài học của ông là rất “đáng kinh ngạc”. Emma Thompson mô tả thời gian làm việc với ông là “một trải nghiệm học tập đặc biệt nhất trong đời”. Cựu đại sứ Israel ở Liên Hợp Quốc gọi ông là “người lao động thần kỳ”. Và Herbert Morris, cựu Trưởng khoa Nhân văn của UCLA, tiết lộ rằng ông đã học được cả năm tiếng Tây Ban Nha chỉ trong vài ngày học cùng Thomas và vẫn còn nhớ những kiến thức đó mãi tới chín tháng sau. Thomas cho rằng “điều quan trọng nhất là loại bỏ mọi căng thẳng và áp lực”. Ông đặc biệt quan tâm đến trạng thái tâm lý, thậm chí quan tâm đến cực độ. Ví dụ, ông thường bắt đầu dạy tiếng Pháp bằng cách nói với các học viên rằng tiếng Pháp và tiếng Anh có chung hàng nghìn từ vựng, chỉ là chúng nghe có hơi khác nhau một chút. Ông từng nói đùa: “Tiếng Anh chính là tiếng Pháp được phát âm sai.” Ông giải thích rằng những từ ngữ kết thúc với -ible như possible và -able như table đều có nguồn gốc từ tiếng Pháp. Nhờ việc biến những điều xa lạ thành thân quen, ngay từ đầu Thomas đã trao cho các sinh viên những nền tảng vững chắc. Các sinh viên ghép kiến thức mới vào kiến thức hiện hữu từng chút một, thể hiện tư duy riêng và không bao giờ lặp lại những cụm từ theo lối học vẹt. Thomas dạy họ cách tự học và hiếm khi phải uốn nắn các học viên một cách trực tiếp. Đến năm 2004, những đĩa CD, băng dạy tiếng Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha của Thomas – ghi lại quá trình Thomas dạy từng loại ngôn ngữ cho các nhóm hai học viên – là những khóa học bán chạy nhất ở Anh. Nhưng Michel Thomas không đơn thuần là một nhà ngôn ngữ học. Ông cũng là một anh hùng thời chiến. Cùng năm đó, ông được vinh danh ở Lễ Tưởng niệm Thế chiến II tại Washington D.C, nơi ông nhận được Huy chương Sao Bạc. Ông mất năm 2005 ở New York, là một công dân Hoa Kỳ nhưng sinh ra ở thành phố công nghiệp Lodz, Ba Lan với tên gọi Moniek Kroskof. Ông sống sót qua những trại tập trung, trở thành chỉ huy quân đội, điệp viên và chuyên gia thẩm vấn của phe Đồng Minh. Sau cuộc chiến, ông đã bắt hơn 2.000 tội phạm chiến tranh Đảng Quốc Xã. “Michel Thomas” là nhân dạng giả thứ năm và cũng là bí danh của ông. Kinh nghiệm tuyên truyền chuyên chế và sự nghiệp nằm vùng sau chiến tranh không phải là những điểm đáng chú ý trong lý lịch của Thomas. Những khám phá của ông về cách tâm trí đóng sập cánh cửa hay mở khóa trước sự mơ hồ – trọng tâm chính của cuốn sách này – xuất phát từ những trải nghiệm của ông ở Đức. Ông đã chứng kiến việc Đảng Quốc Xã đã nuôi dưỡng một cách tiếp cận thô bạo, thậm chí khinh bỉ trước sự bất định và phức tạp về đạo đức trong những đảng viên nồng nhiệt nhất như thế nào. Và sau đó ông dành ra nhiều thập kỷ phát triển các phương pháp để nuôi dưỡng một thái độ đối lập tuyệt đối ở những người học ngôn ngữ. Trên thực tế, 50 năm trước khi bộ phim phóng sự của BBC được ghi hình, Thomas đã kiểm tra các ý tưởng đầu tiên của mình trong một phiên bản hoàn toàn đối lập với buổi trình diễn sư phạm của mình ở Đại học City & Islington. *** Năm 1946, Rudolf Schelkmann, cựu thiếu tá đơn vị tình báo SS của Hitler đang lẩn trốn tại Ulm, Đức, đã phối hợp với một mạng lưới những kẻ trung thành với âm mưu tái thiết sự thống trị của Đảng Quốc Xã. Tháng 11 năm đó, Schelkmann cùng ba cựu sĩ quan SS đã bị dẫn dụ vào cuộc gặp với một chỉ huy của lực lượng phản kháng Đảng Tân Quốc Xã hoạt động ngầm và quyền lực hơn. Thực tế, họ sẽ gặp Moniek Kroskof, chính là Michel Thomas, một đặc vụ chìm của Cơ quan Phản gián (CIC) của quân đội Hoa Kỳ. Với nhiệm vụ đem những tên tội phạm chiến tranh này ra trước công lý, Thomas đảm nhận sứ mệnh phát hiện, lần theo dấu vết và phá hủy mạng lưới của Schelkmann. Một nhân viên CIC khác sử dụng cái tên Hans Meyer cũng đã cẩn thận xây dựng quan hệ với những thành viên của mạng lưới, nhưng Schelkmann vẫn rất kiệm lời. Cựu nhân viên SS đã đồng ý chia sẻ các thông tin liên lạc và chi tiết hoạt động, nhưng chỉ sau khi được gặp mặt trực tiếp chỉ huy của Meyer. Thomas phải tránh để Schelkmann và nhóm người của hắn đánh hơi thấy điều gì đó khác thường. Để đạt mục đích này, ông đã tỉ mỉ sắp xếp để đám sĩ quan SS trải nghiệm một chuyến đi quanh co nhiều giờ liền trước khi đến buổi gặp quan trọng. Buổi tối hôm đó, những sĩ quan SS theo lệnh Meyer đã chờ sẵn trong một “ngôi nhà an toàn” ở phía tây nam Ulm. Không được thông báo trước, những chiếc xe mô tô đến đón họ đi. Thomas đã cẩn thận chờ trời đổ mưa; khi đám sĩ quan SS ngồi ở yên sau của những chiếc xe và gió mạnh thổi vào những bộ quần áo thấm đầy nước mưa của họ. Được thả xuống một con đường trống, nhóm sĩ quan bị bịt mắt và bị đẩy vào hai chiếc ô tô. Trong bóng đêm, họ nghe thấy tiếng người trao đổi mật khẩu khi đi qua nhiều trạm kiểm tra an ninh. Họ được kéo ra khỏi xe, dẫn đi qua một con đường đầy bùn lầy và những vũng nước sâu giá lạnh trong trạng thái bị bịt mắt. Chúng phải chờ dưới một hành lang lạnh lẽo và không được nói chuyện. Vẫn bị bịt mắt, chúng lắng nghe những mệnh lệnh ngắn gọn, những bước chân, những tiếng cửa đóng mở vội vã. Khi Schelkmann và nhóm của hắn được dẫn tới một căn phòng lớn bằng gỗ và được cởi bịt mắt, lúc đó đã qua nửa đêm. Thomas – hay Frundsberg với những sĩ quan SS – ngồi sau một chiếc bàn lớn, đối mặt với những kẻ âm mưu. Mặc quần áo thường dân, ngoại trừ chiếc áo sơ mi nâu theo phong cách quân đội, Frundsberg được giới thiệu với nhóm người trung thành với Đảng Quốc Xã là cựu sĩ quan cao cấp của RSHA, một nhóm điệp viên từng nằm dưới quyền giám sát của Himmler. Căn lều đi săn của Frundsberg là trụ sở của tổ chức phản kháng ngầm, được trang trí rất nghệ thuật với tranh chân dung của Hitler và những nhân vật quan trọng của Đảng Quốc Xã, kèm với những quả lựu đạn, súng máy, súng ngắn, súng phun lửa và cả bộc phá. Những xấp tiền mặt nằm trong một chiếc két sắt mở toang. Thomas gật đầu, ngồi xuống và những người đàn ông khác cũng ngồi xuống. Ông im lặng nghiên cứu một tập hồ sơ không rõ nội dung, sau đó nói rõ quan điểm của mình với Schelkmann: ông sẽ không chấp nhận bất kỳ nhóm phản kháng nhỏ lẻ nào. Những hành động quân sự thực hiện ngoài mệnh lệnh của ông sẽ được coi là hành động phản bội, đơn giản và rõ ràng. Với những cử chỉ dường như rất thoải mái, Thomas xem thường Schelkmann và nhóm nhỏ của hắn, và thường nhận những cú điện thoại để nhấn mạnh sự lãnh đạm với nhóm người này. Các cấp dưới của ông đến và đi với những thông cáo rõ ràng rất khẩn cấp. Trong cơn bối rối, vị thiếu tá Đảng Quốc Xã nói ra các chi tiết mà Thomas đang mong chờ: lý lịch của hắn và lý lịch của những sĩ quan SS khác trong phòng, tên của mạng lưới, điều lệ, phương thức, cấu trúc cũng như cách các thành viên được tuyển mộ. Những hoạt động của CIC đêm đó không phải hoàn hảo. Buổi diễn tưởng tượng và tỉ mỉ của Thomas cần khoảng 30 người tham gia đóng kịch, mỗi người đều có một kịch bản được phân công. Các sai lầm và sự thiếu sót nhỏ trong màn trình diễn là điều không tránh khỏi. Thành công của hoạt động phản gián thường nhờ vào việc phát giác ra các chi tiết vụn vặt như vậy, dù những khoảnh khắc lưỡng lự bất thường, phản ứng quái lạ hay những cái giật mình vô tình được hiểu là ác ý hay ôn hòa. Như nhà nhân loại học Margaret Mead từng nói, đó là lý do một số điệp viên Xô Viết thường dùng tẩu. Hành động đó giúp họ duy trì biểu cảm trên khuôn mặt. Những cái nút với khuyết áo đan chéo (chứ không may song song) có thể tiết lộ quốc tịch của điệp viên và làm hỏng cả một chiến dịch khai thác thông tin mật hoàn hảo. Ở Ai Cập, một điệp viên nước ngoài từng bị phát hiện vì tư thế đứng tiểu nơi công cộng. Thomas biết rằng trong hoạt động tình báo, tất cả các chi tiết đều quan trọng và Schelkmann có lý lịch rất đáng gờm trong ngành. Schelkmann có hai cơ hội lật mặt nạ buổi diễn tối hôm đó. Đầu tiên là khi hắn yêu cầu được bổ nhiệm làm giám đốc bộ phận tình báo của Thomas. Thomas sau đó nói với người viết hồi ký của mình, Christopher Robbins, “Tôi không lường trước được điều này. Tôi không thể đáp ứng yêu cầu đó của hắn nếu không tuyển mộ hắn vào tổ chức, một điều tất nhiên là hoàn toàn bất khả thi. Tôi đã chỉ ra các điểm yếu trong hoạt động của hắn, dù trong thực tế đó là điều tôi buộc phải thán phục hắn.” Theo kế hoạch, Thomas không chỉ phải bịa ra một âm mưu phản kháng giả mà còn phải tỏ ra khinh thường một mạng lưới tình báo được quản lý tốt. Schelkmann không phát hiện ra và không phản kháng. Khoảnh khắc thành bại thứ hai của tối hôm đó – theo Thomas là khoảnh khắc nguy hiểm nhất – là khi Schelkmann bất ngờ hỏi xin mệnh lệnh. “Und was befehlen Sie uns jetzt zu tun?” Và giờ ngài ra lệnh cho chúng tôi làm gì? Như Robbins nhớ lại, Thomas sợ rằng mặt nạ của ông bị lộ ra và ông đã bước ra khỏi vai diễn. Nhưng một lần nữa, những sĩ quan SS không để ý thấy điều đó. Thomas trấn tĩnh, ra lệnh cho những người Đức dừng bất kỳ hoạt động đang trì hoãn nào và chuẩn bị cho một cuộc kiểm tra. Màn trình diễn của ông đã sơ suất hai lần, nhưng Schelkmann cũng đã bỏ lỡ cả hai. Đây là lợi ích của những hành động bịt mắt, đổi xe, đi qua bùn đất, quần áo đẫm nước mưa và màn đối xử khinh miệt mà nhóm những kẻ âm mưu bị buộc phải chịu đựng: bỏ qua những manh mối, xem nhẹ các dấu hiệu. Thành công của hoạt động đêm hôm đó không dựa vào sự hoàn hảo trong triển khai. Ngược lại, Thomas biết rằng sẽ xuất hiện những sơ suất có thể làm hỏng buổi diễn và buộc ông phải bắt nhóm đảng viên Quốc Xã ngay lập tức. Tài năng của ông nằm ở khả năng thao túng tâm trạng và làm giảm đi nhu cầu kiểm soát mà nhờ đó, những người này sẽ ít lưu ý đến những sai lầm mang tính khoảnh khắc đó. Vài tháng sau, khi Thomas rời công việc với CIC ở Đức để về Mỹ, một điệp viên mới nhận nhiệm vụ giăng bẫy nhóm đảng viên Quốc Xã liều lĩnh này. Đóng vai phó của Frundsberg, điệp viên thay thế này sắp xếp một cuộc họp với Schelkmann và nhóm người của hắn ở một quán bia địa phương. Vợ và bạn gái được phép tham gia. Lần này, một khoảnh khắc căng thẳng ập đến và điệp viên ngầm này tỏ ra bối rối, khiến nhóm sĩ quan SS cảm thấy có gì đó không đúng. Chúng quyết liệt thẩm vấn anh ta. Điệp viên CIC này hoảng loạn rút ra một khẩu súng ngắn, và các sĩ quan CIC ngầm nấp trong quán bia chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc xông đến bắt đám người này, tóm được ít kẻ âm mưu hơn so với kỳ vọng. Schelkmann ngồi tù 12 năm. Ban đầu khi bị buộc tội, hắn và các đồng sự kịch liệt phủ nhận tuyên bố dường như khó hiểu của bên truy tố rằng Frundsberg cũng làm việc cho những người Mỹ. Cũng giống như những học viên của Thomas, những sĩ quan SS đã đóng tư duy của họ lại. *** Cuốn sách này nghiên cứu cách con người diễn giải thế giới. Nó viết về những gì xảy ra khi chúng ta bối rối và mọi thứ có vẻ không rõ ràng. Tất nhiên, hầu hết thách thức trong cuộc sống thường cực kỳ rõ ràng. Khi trời đổ tuyết, chúng ta biết mặc áo khoác trước khi ra ngoài. Khi điện thoại kêu, chúng ta nhấc điện thoại lên. Đèn đỏ có nghĩa là chúng ta phải dừng lại. Ở chiều ngược lại, nhiều phạm vi kiến thức hoàn toàn khiến chúng ta bối rối. Nếu giống tôi, bạn sẽ chẳng hiểu gì khi đọc chữ Ba Tư hay nghe một cuộc tranh luận của các chuyên gia vật lý hạt nhân. Chúng ta sẽ không thể bối rối nếu có ít nhiều hiểu biết nào đó trong đầu. Thay vì cảm thấy khó chịu vì chỉ hiểu một phần vấn đề, chúng ta nên cảm thấy bình tĩnh trước sự ngu ngơ của bản thân, giống như cách chúng ta an tâm tuân theo những trình tự thường nhật. Cuốn sách này nghiên cứu vùng đất chếnh choáng nằm giữa hai cực, khi chúng ta có vẻ đang thiếu những thông tin cần thiết để thấu hiểu một trải nghiệm hay những thông tin nào đó quá phức tạp. Sự mơ hồ sẽ xuất hiện trong những tình huống không hoàn toàn rõ nghĩa này. Trạng thái tâm trí bối rối vì sự mơ hồ được gọi là trạng thái bất định, và nó là một trạng thái khuếch đại cảm xúc. Nó khiến sự căng thẳng trở nên đau đớn hơn, và cảm giác thích thú trở nên thú vị hơn. Ví dụ, cảm giác thích thú với trò chơi ô chữ đến từ quá trình suy nghĩ và giải quyết các manh mối không rõ ràng. Những câu chuyện trinh thám tạo ra sự hồi hộp bằng cách duy trì trạng thái bất định về những manh mối và kẻ thủ ác. Nghệ thuật hiện đại đi theo hướng bẻ cong tư duy, tính đa dạng của thơ ca, những câu đố của Lewis Carroll, chủ nghĩa hiện thực thần kỳ của Marquez, văn châm biến hiện thực của Kafka – sự mơ hồ thấm đẫm tất cả những hình thái và tác phẩm nghệ thuật của loài người, hàm ý một bản chất cảm xúc sâu sắc. Goethe từng nói rằng: “Sự đồng thuận khiến chúng ta trở nên thụ động, nhưng mâu thuẫn sẽ khiến chúng ta trở nên hiệu quả hơn.” Sự mơ hồ cũng vậy. Những chuyến du lịch, các bảo tàng khoa học và những câu đố trí tuệ xác nhận tiềm năng tuyệt vời của sự mơ hồ trong vai trò quyến rũ trí tưởng tượng của chúng ta. Nhưng chúng cũng cho thấy mối quan hệ giữa chúng ta và sự thiếu trật tự mang tính nhận thức có thể biến đổi thế nào. Chúng ta thích sự bất định được đưa vào nề nếp cẩn thận như một buổi trưng bày nghệ thuật hiện đại. Chúng ta chỉ thích cảm giác mơ hồ trong những bối cảnh không mang tính đe dọa, như khi âm nhạc chơi đùa với những âm thanh chói tai hay một bộ phim kinh dị chơi đùa với sự điên khùng. Khi đối mặt với những trải nghiệm không rõ ràng vượt ra khỏi giới hạn này, chúng ta hiếm khi cảm thấy an toàn. Các tình huống bất định trong đời thực thể hiện ở những sự kiện không thể lý giải, các dự định không rõ ràng, hay những thông tin tài chính, y tế không mang tính kết luận. Có thể vợ hoặc chồng bạn không có được một công việc mà cô ấy/anh ấy hoàn toàn đủ năng lực. Hay bạn cảm thấy không khỏe nhưng các chẩn đoán của bác sĩ không thể lý giải được mọi triệu chứng của bạn. Có lẽ bạn đang thương lượng một vụ làm ăn với ai đó mà bạn không thực sự tin tưởng. Hay có thể bạn đang cố gắng viết một kế hoạch kinh doanh trong một thị trường thay đổi nhanh chóng và rất cạnh tranh. Những lần đưa ra quyết định quan trọng trong cuộc sống của chúng ta – từ chọn trường đại học đến quyết định nơi sinh sống – luôn liên quan đến hoạt động xử lý các thông tin mập mờ trong những tình huống đầy rủi ro. Tuy nhiên, ngày nay thế giới đang trở nên quá tải thông tin và hỗn độn hơn bao giờ hết. Nghịch lý của cuộc sống hiện đại là dù công nghệ phát triển – trong ngành giao thông, truyền thông và sản xuất – có thể mang lại nhiều thời gian hơn cho con người, nhưng các phát minh đó lại làm gia tăng số lượng các lựa chọn theo cấp số nhân. Thư điện tử nhanh hơn thư bưu điện rất nhiều và Internet cũng mang lại cả Twitter, YouTube, v.v... Như nhà xã hội học người Đức Hartmut Rosa mô tả: “Dù có gia tăng ‘tốc độ cuộc sống’ nhanh thế nào đi nữa, chúng ta cũng không thể bắt kịp trận đại hồng thủy các thông tin và lựa chọn.” Kết quả là “phần thế giới mà chúng ta tiếp cận” có vẻ như ngày càng nhỏ lại, thậm chí khi chúng ta tiếp cận nó một cách hiệu quả hơn. Ước tính rằng có 90% dữ liệu trên thế giới đã được tạo ra chỉ trong 5 năm gần đây. Tất cả chúng ta đều đang chết chìm trong cơn lũ thông tin, một thực tế khiến những quyết định đơn giản nhất – ăn ở đâu, đăng ký chương trình chăm sóc sức khỏe gì, mua cà phê từ nhà sản xuất nào – trở nên đầy rủi ro. Trong khi đó, chúng ta đối mặt với những căng thẳng xã hội đến từ sự bất bình đẳng gia tăng và một tương lai kinh tế bất định khi máy móc bắt đầu thay thế con người trong nhiều ngành công nghiệp. Quản lý trạng thái bất định ngày càng trở thành một kỹ năng thiết yếu. Nhà kinh tế học Noreena Hertz gần đây tranh luận rằng một trong những thách thức căn bản của thế giới hôm nay là “sự thiếu trật tự – một sự kết hợp của sự sụp đổ những trật tự cũ, vững chãi và bản chất cực kỳ bất định của thời đại chúng ta.” Tự động hóa và thuê ngoài sẽ đòi hỏi những người lao động trong tương lai phải cách tân và sáng tạo hơn. Như chuyên gia kinh tế Lawrence Katz đã nói, thành công hay thất bại sẽ chỉ dựa trên một câu hỏi: “Bạn giải quyết những vấn đề không cấu trúc như thế nào, và bạn xử lý những tình huống tốt ra sao?” Những công việc mà có thể “được biến thành một thuật toán”, theo cách gọi của ông, sẽ không quay trở lại. Katz nói với tôi: “Kỹ năng sẽ được coi trọng trong tương lai là năng lực học các kỹ năng mới mà vẫn thích nghi với môi trường và năng lực khám phá ra những giải pháp sáng tạo vượt ra khỏi những cách làm tiêu chuẩn.” Cũng như những người lao động ngày nay phải học cách thích nghi với những gì xa lạ, lực lượng lao động ngày mai phải chuẩn bị cho điều đó. Miguel Escotet, một nhà khoa học xã hội đã đưa ra một lập luận rất hay. Các trường học nên “giảng dạy kỹ năng xử lý sự bất định, đơn giản vì với rất nhiều sinh viên, hầu như họ không thể biết chuyện gì sẽ xảy ra vào thời điểm bước chân vào thị trường lao động”. Với Escotet, giảng dạy kỹ năng quản lý sự bất định nghĩa là giúp sinh viên trở nên linh hoạt, tự biện, tò mò và chấp nhận rủi ro – những năng lực có xu hướng biến mất khi sự căng thẳng chiếm lĩnh tâm trí chúng ta. Tương tự, các doanh nhân không thể cách tân nếu không có khả năng đi thong dong vào những vùng lãnh thổ xa lạ khác nhau. Năng lực xử lý sự mơ hồ và trạng thái bất định không phải là một chức năng của sự thông minh. Trên thực tế, khả năng này chẳng liên quan gì đến chỉ số IQ. Tuy nhiên, nó là một thách thức cảm xúc – một câu hỏi về tư duy – và là thứ mà tất cả chúng ta cần phải thành thạo. Vấn đề ngày nay là tìm ra cái phải làm – trong công việc, quan hệ và cuộc sống hằng ngày – khi chúng ta không biết phải làm gì. Sự quan tâm của giới khoa học đối với sự mơ hồ đã bùng nổ trong hơn một thập kỷ qua. Hầu hết đều tập trung vào việc tìm hiểu về một khái niệm mang tên nhu cầu kết thúc vấn đề. Được phát triển bởi nhà tâm lý học lỗi lạc Arie Kruglanski, nhu cầu kết thúc vấn đề của một người được đo lường bởi “một khao khát cụ thể nhằm tìm ra đáp án xác định cho chủ đề nào đó, miễn sao đáp án đó không rối rắm và mập mờ”. Cũng như phương pháp giảng dạy ngược đời của Michel Thomas, khái niệm của Kruglanski – và thực tế là một nghiên cứu tâm lý hiện đại về chủ đề sự mơ hồ – có thể truy ngược để thấu hiểu Chủ nghĩa Quốc Xã. Năm 1938, nhà tâm lý học nghiên cứu Chủ nghĩa Quốc Xã tên là Erich Jaensch đã xuất bản cuốn sách Der Gegentypus (tạm dịch: Vật tượng trưng), một cuốn sách đáng ghê tởm trong đó ông mô tả sự chắc chắn là dấu hiệu đáng ngại của sức khỏe tâm thần. Với Jaensch, hành động chịu đựng sự nghi ngờ là bằng chứng của bệnh tâm thần. Sau cuộc chiến, Else Frenkel-Brunswik, một nhà tâm lý học ở Đại học California, đã giới thiệu khái niệm không khoan dung sự mơ hồ. Trong một thí nghiệm, bà cho các đối tượng nghiên cứu xem một chuỗi các hình ảnh, bắt đầu bằng bản phác thảo hình một con chó. Các hình ảnh dần thay đổi hình dạng thành hình một con mèo. Các đối tượng không khoan dung sự mơ hồ – những người có xu hướng nhìn nhận thế giới theo các phạm trù cứng nhắc – khăng khăng một cách cố chấp rằng hình ảnh đó vẫn là con chó. Phát biểu ngược hoàn toàn với Jaensch, Frenkel-Brunswik cho rằng hành động không thể chịu đựng được những thông tin không rõ ràng cho thấy một trạng thái tâm thần không lành mạnh. Kruglanski đưa ra một luận điểm khiêm tốn và có phần nhiễu loạn hơn Frenkel-Brunswik. Ông hiểu rằng con người có nhu cầu giải quyết trạng thái bất định và diễn giải những gì vô nghĩa. Ông lý luận rằng con người sẽ mất đi tính thích nghi nếu chúng ta không có cơ chế thúc đẩy bản thân giải quyết những sự thiếu nhất quán và ra quyết định. Khi không có động lực giải quyết vấn đề, chúng ta sẽ chẳng bao giờ làm xong việc gì. Đó là nhu cầu kết thúc vấn đề. Nhưng Kruglanski cũng nghi ngờ rằng xu hướng bài xích sự bất định của chúng ta không bất động. Ông tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu khao khát tìm kiếm các đáp án rõ ràng của chúng ta trở nên quá mạnh? Chuyện gì xảy ra nếu Chủ nghĩa Quốc Xã một phần được châm ngòi bởi sự kết hợp nguy hiểm giữa một lý tưởng đầy căm hờn đi kèm với xu hướng ghét bỏ sự mơ hồ bị thổi phồng của những người ủng hộ? Thực tế, đó là điều mà Kruglanski và những nhà nghiên cứu khác đã khám phá ra. Như chúng ta sẽ thấy, nhu cầu “giải quyết những vấn đề còn dang dở” đóng vai trò thiết yếu đối với năng lực hành động của chúng ta ở thế giới này. Nhưng cũng giống như bất kỳ đặc điểm tâm lý nào khác, nhu cầu này có thể bị cường điệu hóa ở vài người và leo thang trong những tình huống nhất định. Như Kruglanski đã nói với tôi: “Tình huống, văn hóa, môi trường xã hội – nếu thay đổi bất kỳ yếu tố nào trong số đó, bạn sẽ thay đổi nhu cầu kết thúc vấn đề của ai đó.” Tâm lý e sợ sự bất định có thể mang tính lây truyền khi những người xung quanh chúng ta bị lây lan một cách vô thức. Trong các tình huống căng thẳng, chúng ta thường tin tưởng những cá nhân trong nhóm xã hội của chúng ta nhiều hơn và tin tưởng những người ngoài ít hơn. Sự mệt mỏi làm chúng ta ưu ái sự trật tự hơn. Áp lực thời gian cũng vậy. Khi nhu cầu kết thúc vấn đề tăng cao, chúng ta có xu hướng quay về những công thức có sẵn, nhảy thẳng đến các kết luận và từ chối những mâu thuẫn. Chúng ta có thể khăng khăng một cách cứng đầu như Rudolf Schelkmann, rằng con chó vẫn là con chó chứ không phải con mèo. Michel Thomas hiểu rõ sức mạnh của bối cảnh đối với việc mở hoặc đóng tư duy. Ông biết cách dùng sự mơ hồ để thao túng các đòn bẩy tình huống vốn kiểm soát sự thoải mái của chúng ta. Hãy suy nghĩ về việc bối cảnh của CIC ở Ulm đã biến đổi thành những bài học của Thomas ở City & Islington hoàn hảo như thế nào. Muốn khiến các sĩ quan SS chịu áp lực thời gian, ông trả lời nhiều cú điện thoại trong thời gian diễn ra cuộc gặp và bảo đảm rằng sẽ có những “trợ lý” luôn ngắt lời ông. Muốn đe dọa họ, ông trưng đầy vũ khí và các xấp tiền trong căn chòi đi săn. Để khiến các sĩ quan SS rơi vào trạng thái phòng thủ, ông nhốt họ vào một căn nhà an toàn xa lạ. Để khiến họ mệt mỏi và cảm thấy không thoải mái, ông bắt họ đi xe dưới trời mưa, đợi trong cái lạnh và đi qua những vũng nước băng giá. Ngược lại, ở London, Thomas khuyến khích các sinh viên kiên nhẫn. Để các sinh viên được thoải mái, ông nói với họ rằng nhiệm vụ của họ không phải là cố gắng ghi nhớ. Ông thậm chí còn yêu cầu họ khiêng những chiếc bàn học ra khỏi phòng và thay chúng bằng nội thất phòng khách cùng với những tấm rèm bằng liễu gai. Các sinh viên tự sắp xếp không gian học riêng. Để giúp họ kiểm soát bản thân tốt hơn, ông trấn an rằng họ đã quá quen với hàng nghìn từ tiếng Pháp. Thomas đã sử dụng những công cụ trấn áp cảm giác nghi ngờ của các đảng viên Quốc Xã để chống lại họ và sau đó áp dụng cách tiếp cận đối lập để giúp các học viên học tập hiệu quả. Sự đe dọa, cảm giác khó chịu, áp lực thời gian – những đồng minh của Thomas – cũng chính là kẻ thù của ông trong vai trò một giáo viên. Thomas biết cách gia tăng khả năng khiến Schelkmann và các sĩ quan của hắn bỏ qua những mâu thuẫn tiềm năng, ông cũng biết cách gia tăng sự thân thuộc giữa các học viên với một ngôn ngữ xa lạ. Thomas hiểu rằng nhu cầu kết thúc vấn đề không phải lúc nào cũng liên hệ trực tiếp đến một trường hợp mơ hồ cụ thể. Những chiếc ghế thoải mái chẳng liên quan gì đến đại từ tiếng Pháp, cũng như những vũng nước lạnh giá chẳng liên quan gì đến việc liệu có nên tin ai đó không. Ông thấy rằng phản ứng của chúng ta trước sự bất định (thậm chí với cả những căng thẳng không liên quan) là cực kì nhạy cảm. Như Kruglanski đã chỉ ra, chúng ta thường không nhận ra một tình huống làm gia tăng hay giảm bớt nhu cầu kết thúc vấn đề, hay việc này ảnh hưởng ra sao đến phản ứng của chúng ta trước sự mơ hồ. Đó là điều khiến phương pháp của Thomas trở nên quá ấn tượng. Chúng ta thường không nghĩ rằng việc đóng mở tư duy bị ảnh hưởng lớn bởi những tình huống xung quanh. Dù có thể nhận ra ai đó ít nhiều cảm thấy thoải mái với sự bất định, nhưng chúng ta có xu hướng xem đây là một đặc điểm bất biến. Tuy vậy, chúng ta không phụ thuộc vào yếu tố di truyền nhiều như chúng ta nghĩ. Cuốn sách này lập luận rằng chúng ta thường yếu kém trong việc quản lý sự mơ hồ và có thể làm tốt hơn. Vài năm trở lại đây, những khám phá mới trong ngành tâm lý xã hội và khoa học nhận thức đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về cách con người phản ứng trước sự mơ hồ theo hướng mà các nhà nghiên cứu của những năm 1950 không thể đo lường được. Những nghiên cứu đột phá tạo ra các cách tiếp cận mới và thông minh hơn để giải quyết sự mơ hồ trong công việc và các mối quan hệ trong gia đình. Những khám phá này sẽ chỉ ra con đường để sự mơ hồ giúp chúng ta học được những thứ mới mẻ, giải quyết một vấn đề khó khăn hay nhìn thế giới từ một góc nhìn khác. Phần I sẽ trình bày các vấn đề nền tảng liên quan đến sự mơ hồ. Chúng ta sẽ khám phá các lựa chọn tự nhiên trong cơ chế tâm lý của chúng ta và gặp một nhà tâm lý học trẻ tuổi ở Hà Lan, người đang lãnh đạo phong trào hướng đến một lý thuyết mới, thống nhất về cách chúng ta diễn giải thế giới. Phần II tập trung vào các rủi ro của việc chối bỏ sự mơ hồ. Chúng ta sẽ nhìn nhận sự khác biệt giữa “phản ứng thông minh” và “phản ứng vội vã” trước những sự kiện bất định, theo dõi một đàm phán viên lão luyện của FBI đối thoại với một nhà lãnh đạo giáo phái lưỡng lự, và quan sát một tình huống mà trong đó cảm giác thoải mái của một bệnh nhân ung thư đã giúp thay đổi cách đưa ra các quyết định y học. Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu cách một doanh nghiệp chuẩn bị cho tương lai bằng việc nhận ra sự vô ích của hoạt động dự báo. Phần III nhấn mạnh vào lợi ích của sự mơ hồ trong những bối cảnh mang tính thách thức như: cách tân, học tập hay nghệ thuật. Sự bất định có những công dụng gì? Làm sao để giáo viên có thể chuẩn bị tốt hơn cho sinh viên trước các thách thức bất định? Liệu hành động ôm ấp sự bất định có giúp chúng ta phát minh hoặc tìm thấy đáp án trong những vùng đất mới, hoặc thậm chí là gia tăng sự cảm thông không? Tại phần này, chúng ta sẽ thấy cách phản ứng của một nhà sản xuất xe mô tô Grand Prix trước một mùa giải thất bại, sau đó chúng ta sẽ làm quen với một nhà sáng chế ở Massachussetts, người đã vượt qua những giới hạn ẩn giấu đằng sau ngôn ngữ. Ngoài ra, chúng ta sẽ xem xét lợi ích của việc sử dụng song ngữ và gặp một nhà sản xuất phim táo bạo ở Jerusalem. Bên cạnh đó, tôi cũng hy vọng rằng bạn sẽ tin vào một tuyên bố đơn giản: trong một thế giới ngày càng phức tạp, bất định, điều quan trọng nhất không phải là IQ, sức mạnh tâm trí hay sự tự tin vào những gì chúng ta biết, mà là cách chúng ta xử lý những gì chúng ta không biết. Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn của tác giả Jamie Holmes.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sống Đời Đáng Sống - David Guy Powers
Bạn đọc đã có trên tay cuốn Sống Đời Đáng Sống của David Guy Powers do Nguyễn Hiến Lê lược dịch. Khi đọc cuốn sách này, xin các bạn lưu ý các vấn đề sau đây: 1. Đây là cuốn sách dịch nên ta không thể hiểu ý nghĩa của “đời sống mới” theo phong trào hiện nay của ta. Nội dung sách chủ yếu đề cập đến những vấn đề luyện trí óc và tình cảm để làm sao mọi người quí mến, giúp đỡ mình, ngược lại mình cũng phải có trách nhiệm quí mến, giúp đỡ họ, tạo mối dây thông cảm, tôn trọng, xây dựng cuộc sống phong phú hơn, tốt đẹp hơn, tránh những trở ngại, tiêu cực trong tư tưởng và lối sống. 2. Là vấn đề tâm lý nên việc luyện tập là quan trọng. Tuy nhiên kết quả chưa thể thấy ngay mà phải trải qua quá trình tự rèn luyện kiên trì, lâu dài trên cơ sở có ý chí và niềm tin. Để thấu đạt ý nghĩa và nội dung sách, đòi hỏi người đọc có một tư duy và nhận thức sâu, tranh nóng vội, hiểu lệch, hiểu sai vấn đề. 3. Do đặc điểm trên, cuốn sách có ý nghĩa tham khảo là chính, còn việc thực hành lại tùy thuộc khả năng mọi người. Được sự đồng ý của người có trách nhiệm về bản quyền, chúng tôi tái bản cuốn sách trên có sửa chữa, để bạn đọc tìm hiểu thêm vấn đề tâm lý trong việc xây dựng một đời sống phong phú hơn. Chắc chắn nội dung sách còn nhiều khiếm khuyết, rất mong bạn đọc lượng thứ và chân tình góp ý xây dựng sách. *** Mấy năm trước tôi lại Forest Hills và sống trong ngôi nhà cũ của bà Helen Keller. Tôi thường ngồi trước lò sưởi của bà mà ôn lại dĩ vãng của bà. Trong phòng đó bà đã tập đọc bằng tay, tập nghe bằng ngũ quan và tập viết bằng tim. Đã đui lại điếc và câm mà bà học làm được rất nhiều việc. Có lần tôi leo lên phòng trên thượng lương được bố trí làm phòng ngủ, ở đó ngó ra cái vũng mà sau này người ta đã lấp để xây dựng ngôi nhà của Liên hiệp quốc. Tôi đã khó nhọc leo lên những bậc thang và tưởng tượng bà đã phải rờ rẫm ra sao mỗi khi lên lầu đi ngủ. Và khi nghĩ đến hình ảnh một người được trời ban cho ít thế mà phân phát tình yêu cho đời được nhiều thế, tôi thường thấy trong lòng phấn khởi. Tôi lấy làm lạ khi phòng có rất nhiều cửa sổ. Ba bức tường thì có tới tám cái cửa sổ. Nhìn ra chung quanh, thấy sự mênh mông thăm thẳm của vũ trụ. Vậy mà đối với bà chỉ là tối đen như mực. Nhưng ánh sáng trong lòng bà phải rực rỡ thế nào, bà mới có thể sống cao đẹp như vậy mặc dầu trong cảnh tối tăm dày đặc. “Đời sống mới” chan hòa trong tâm hồn bà, đã dẫn dắt bà suốt đời. Bà nói: “Đời tôi thu hẹp trong một thế giới không màu sắc, không thanh âm. Nhưng ngay từ hồi còn là một sinh viên, tôi đã vui vẻ tin chắc rằng những cơ quan trên cơ thể tôi không đóng một vai trò quan trọng trong đời sống vì nó không thuộc về phần tinh thần của tôi. Lòng tin đó càng mạnh lên khi tôi đọc câu: Tôi suy nghĩ, vậy là có tôi của Descartes. Câu văn mạnh mẽ đó đã đánh thức một cái gì đó trong thâm tâm tôi cho tới suốt đời. Lúc đó tôi hiểu rằng tinh thần có thể tạo nên hạnh phúc cho tôi, bắt cầu cho tôi qua được cái hư vô tối tăm và yên lặng mà cảm thấy hạnh phúc chói lọi, nồng nhiệt. Tôi hiểu rằng chúng ta có thể tạo được ánh sáng, thanh âm và sự bình ổn trong nội tâm mặc dầu gặp tai nạn lớn lao đến đâu ở ngoại giới”. Bạn thấy đấy, một người đui và điếc mà còn tạo ra được đời sống mới mẻ và phong phú hơn, huống hồ là chúng ta. Phép mầu xảy ra thường ngày ở trên đời. Có những người tiến từ tối tăm tới danh vọng, từ nghèo khổ đến giàu có, từ tuyệt vọng đến đạt nguyện, từ thất bại đến thành công. Cái bùa gì làm được những phép thần đó? Đây, bùa đó như vầy: Những kẻ đó đã bắt được hình ảnh của đời sống mới. Bắt được hình ảnh đó rồi bạn sẽ muốn thấy sống lại, thấy sự hăng hái làm cho sinh lực bạn đổi mới, làm cho hy vọng biến thành dự định rồi dự định biến thành sự thực. Chính hình ảnh đó là cái hy vọng mà Horace đã ca trong bài ca Vita Nova. Nó đã gợi cho loài người tư tưởng về tôn giáo và cảm hứng về nghệ thuật. Nó sẽ làm cho bạn tái sinh nếu bạn biết bắt lấy nó. Khi tôi đem ý đó nói với William Zorach, nhà điêu khắc Mỹ trứ danh, ông đã cảm hứng mà tạo được bức tượng nổi tiếng, bức Vita Nova. Về sau ông bảo tôi: “Ý tưởng đời sống mới ám ảnh tôi hoài cho tới khi tôi khắc được nó lên cẩm thạch. Nó đã đổi mới đời tôi”. Cái năng lực sáng tạo chứa trong tư tưởng đời sống mới mạnh mẽ đến độ ta không ngờ. Cái mà mới lúc nãy đây ta cho là không làm được, mà bây giờ ta thấy là chẳng những làm được mà là điều tự nhiên nữa. Bạn thấy như mọc cánh. Tư tưởng này gợi tư tưởng khác, kế hoạch này tạo kế hoạch khác, và rút cục một lối nên sống thành ra lối phải sống. Một khả năng sáng tác cháy bùng lên và giải thoát những khả năng khác. Y như là leo lần lần lên ngọn núi trọc mà nhìn xuống một thung lũng phì nhiêu. Con đường leo núi đó là con đường đưa tới hạnh phúc của nhân loại. Xin bạn thử nhìn chung quanh xem. Ai là những người sung sướng nào? Chính là những kẻ xây dựng được một thế giới tin tưởng. Tin ở vận mệnh của mình. Tin ở lòng tốt của người. Tin ở mục đích của đời người. Tin ở lòng vị tha. Họ là những người làm việc và khuyến khích những người chung quanh làm nên việc. Họ là những người mà ta mến và tìm tới mỗi khi cần được an ủi. Họ là những người có tinh thần bình thản, sung sướng. Vì chúng ta cần tin để mà sống và càng tin thì đời ta càng phong phú. Hiểu như vậy mà sao ta không thực hiện được sức mạnh làm cho đời ta thêm sinh khí đó? Theo tôi chỉ tại ta có xu hướng muốn ngó về dĩ vãng, để nó phá hủy hiện tại và tương lai của ta. Không có lầm lỡ nào nặng bằng ráng đội trên đầu cái bao nặng của quá khứ và bi kịch của loài người là cứ đòi cho được cái quá khứ khi mà chúng ta chỉ có thể có cái hiện tại. ... Mời các bạn đón đọc Sống Đời Đáng Sống của tác giả David Guy Powers.
Tốc Độ của Niềm Tin - Stephen R. Covey
Bằng một văn phong dễ đọc và lôi cuốn, Stephen M.R. Covey đã mở toang cánh cửa sức mạnh của niềm tin lâu nay bị xem nhẹ và đánh giá thấp bằng những trang sách đề cập đến cái mà ông gọi là "một điều làm thay đổi tất cả". Là một cuốn sách khai phá và làm thay đổi nhận thức, Tốc độ của Niềm tin thách thức giả định lâu nay của chúng ta cho rằng niềm tin chỉ là một đức hạnh xã hội mềm yếu, dễ vỡ và thay vào đó chứng minh rằng niềm tin là một động lực kinh tế, có sức mạnh vật chất - một kỹ năng có thể học hỏi và đo lường được qua đó giúp các công ty làm ra nhiều lợi nhuận hơn, con người dễ thăng tiến hơn và các mối quan hệ trở nên gắn bó hơn. Từ những kinh nghiệm của một cựu CEO của một công ty 100 triệu đô la, Covey đã mô tả một cách sống động kinh nghiệm thực tế của ông trong việc phát triển Trung tâm Lãnh đạo Covey (do cha ông, Tiến sĩ Stephen R. Covey sáng lập) từ một công ty cổ phần với vốn ban đầu không đến 3 triệu đô la tăng lên hơn 160 triệu đô la. Trong cuốn sách mới đầy sức cuốn hút này, Stephen M. R. Covey khắc họa vì sao niềm tin trở thành tiêu chuẩn năng lực lãnh đạo chủ yếu trong nền kinh tế mới toàn cầu. Ông nói cho độc giả biết một cách đầy thuyết phục làm cách nào xây dựng niềm tin lâu dài trong các mối quan hệ cá nhân và quan hệ công việc, từ đó đạt được sự thành công không gì sánh kịp và sự thịnh vượng bền vững trong mọi mặt của cuộc sống. Ông giúp các nhà lãnh đạo thuộc các lĩnh vực kinh doanh, giáo dục, chính phủ... thấy rõ bằng cách nào chiếm được nhanh chóng và bền vững niềm tin của khách hàng, của đồng nghiệp, đối tác hay các cử tri. Covey đưa ra luận điểm rất thuyết phục rằng niềm tin là bộ tăng tốc cho kết quả hoạt động và rằng khi niềm tin tăng lên, tốc độ đạt được kết quả sẽ tăng theo, trong khi chi phí giảm xuống và tạo ra cái mà Covey gọi là "cổ tức niềm tin". Covey nêu ra 13 hành vi phổ biến của các nhà lãnh đạo có độ tin cậy cao trên thế giới và chứng minh đầy sức thuyết phục những ý tưởng có thể vận dụng để giúp bạn thay đổi hành vi của bản thân nhằm tăng cường - và truyền cảm hứng - xây dựng niềm tin trong các mối quan hệ quan trọng trong cuộc sống của bạn. Như những sóng gợn trong hồ nước, Tốc độ của Niềm tin bắt đầu từ bên trong mỗi con người chúng ta, rồi lan sang các mối quan hệ của chúng ta, các tổ chức nơi chúng ta hoạt động, các mối quan hệ trên thương trường và cuối cùng tỏa ra khắp nơi trên thế giới. Covey trình bày bản đồ hành trình để xây dựng niềm tin ở mọi cấp độ, xây dựng tính cách và năng lực, nâng cao mức độ tin cậy và thiết lập sự lãnh đạo truyền cảm hứng cho mọi người. *** Làm sao khi "con hát, cha khen hay" mà vẫn được tin cậy - đặc biệt khi nói đến một cuốn sách về Niềm tin? Trước tiên, mời bạn xem xét điều này. Sau khi trao cho Stephen, con trai tôi, vai trò CEO của Covey Leadership Center, chỉ trong vòng 3 năm, doanh số của công ty chúng tôi đã tăng gần gấp đôi và lợi nhuận tăng hơn 1.200%. Cũng trong thời gian đó công ty đã mở thêm nhiều chi nhánh tại 40 quốc gia trên thế giới và tăng giá trị vốn cổ phần từ 2,4 triệu đô la lên 160 triệu đô la vào thời điểm Stephen chủ trương hợp nhất Covey Leadership Center với Franklin Quest để lập ra FranklinCovey của chúng tôi ngày nay. Nhờ đâu mà chúng tôi đạt được thành tích này? Tất cả chỉ gói gọn trong một từ duy nhất - Niềm tin. Mọi người tin tưởng vào tính cách và năng lực của Stephen cũng như Stephen đã đặt niềm tin của mình vào mọi người. Sự tin cậy lẫn nhau đó đã tạo ra sự cộng hưởng mạnh mẽ đem lại thành tích nói trên. Và, hầu hết mọi người có liên quan đến quá trình này đều công nhận rằng sự chuyển hóa đó là một trải nghiệm đẳng cấp cao nhất, thú vị nhất và cảm hứng nhất trong sự nghiệp của họ. Tôi xin được mở ngoặc nơi đây để nói rằng, Stephen chính là chú nhóc 7 tuổi từng thực hành nguyên tắc "xanh và sạch" mà tôi đã đề cập trong cuốn sách "The 7 Habits of Highly Effective People" ("7 Thói Quen Để Thành Đạt"). Bạn, cũng như tôi, tất nhiên muốn biết câu chuyện tiếp theo của Stephen trong cuốn sách này. Tôi từng nhìn thấy trước những thành tích xuất sắc của Stephen qua việc cháu học cách giữ gìn sân vườn nhà chúng tôi luôn "xanh và sạch". Trên thực tế, điều này đã được minh chứng qua cách Stephen chuyển hóa công ty bằng việc tiến hành hàng loạt các hoạt động cải tổ phương pháp lãnh đạo, công tác huấn luyện - đào tạo - tư vấn và nhiều việc khác cùng với việc cho ra đời cuốn sách này. Ba lý do vì sao tôi đánh giá cao quyển sách này Có ba lý do khiến tôi tin rằng cuốn sách sẽ trở thành một tác phẩm kinh điển. Thứ nhất, nó mổ xẻ tận gốc rễ của vấn đề. Thứ hai, nó sâu sắc, thực tế và toàn diện. Thứ ba, nó mang lại nguồn hy vọng lớn cho bạn đọc. Tôi sẽ phân tích rõ hơn từng ý này dưới đây. Trước hết, cuốn sách đi thẳng vào gốc rễ của vấn đề. Theo Henry David Thoreau, "trong khi một ngàn người lao vào giải quyết phần ngọn của vấn đề thì chỉ có một người nhắm vào gốc rễ của nó". Chúng ta dễ dàng nhìn thấy tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề từ gốc trong mọi mặt của cuộc sống - chẳng hạn trong việc chữa bệnh (xử lý phần ngọn) và phòng bệnh (xử lý phần gốc), hay tập trung vào các biện pháp ngăn ngừa tội phạm (gốc) thay vì thực thi pháp luật (ngọn), hạn chế phương tiện di chuyển cá nhân để tránh ùn tắc giao thông (ngọn) thay vì quy hoạch và xây dựng tốt hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ về mọi mặt (gốc)... Qua quyển sách này, các bạn sẽ nhận thức được tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề tận gốc trong lĩnh vực kinh doanh: thay vì chỉ tuân thủ các nguyên tắc và quy trình sẵn có, chúng ta cần chú trọng tối ưu hóa hoạt động bằng cách phát huy tính cách đạo đức con người, xây dựng động cơ làm việc trong sáng và năng lực vượt trội nhằm đạt được những thành tích xuất sắc và bền vững. Điều này có vẻ phi lý nhưng từ những trải nghiệm của bản thân ở nhiều quốc gia trên khắp thế giới, thì việc thi hành đạo luật Sarbanes- Oxley(1) năm 2002 (hay những biện pháp tương tự) nhằm ngăn chặn những vụ bê bối lớn về tài chính ở các tập đoàn kinh tế lại khiến mọi người xem nhẹ những yếu tố tinh thần như niềm tin vì đã sai lầm gán cho nó tính chất trừu tượng và vai trò thứ yếu trong đời sống doanh nghiệp. Các giám đốc tài chính và kiểm toán viên đã nắm lấy vai trò quyền lực của những chuyên viên phát triển nguồn nhân lực và quản lý nhân sự có đầu óc chiến lược. Trong khi đó, vấn đề đạo đức nổi lên thành một trong những vấn đề nóng bỏng nhất của thời đại ngày nay - đã có vô số buổi thảo luận về đạo đức, kể cả những đề xuất đưa đạo đức vào chương trình giảng dạy trong nhà trường, xây dựng các chương trình rèn luyện về đạo đức và cả việc thiết lập các chuẩn mực đạo đức. Cuốn sách này đã chỉ cho thấy mặc dù đạo đức là yếu tố căn bản và cần thiết nhưng hoàn toàn chưa đủ. Và cái gọi là yếu tố tinh thần thực ra lại rất cụ thể, có thể đo lường được, và có tác động đến tất cả mọi phương diện của các mối quan hệ, tổ chức, thị trường và xã hội. Thắng lợi trong thương trường giúp cho doanh nghiệp đạt được những thành tựu về tài chính, và những thắng lợi như vậy chỉ có được khi doanh nghiệp thành công trong việc áp dụng một chính sách đối nhân xử thế thích hợp trong nội bộ, mà tinh thần xuyên suốt của chính sách đó không gì khác hơn là niềm tin. Kể cả những tác phẩm mà tôi đã viết cũng như các tài liệu tôi đã từng đọc về niềm tin cũng khó có thể sánh được với tác phẩm này. Quyển sách không chỉ bàn đến hành vi đạo đức trong lãnh đạo hay việc tuân thủ, thực thi thuần túy các nguyên tắc đạo đức sẵn có, mà nó còn khai thác đến tâm tư, nguyện vọng thật sự của mỗi cá nhân và khả năng thu phục nhân tâm. Dù bạn định nghĩa niềm tin là sự tin cậy lẫn nhau, là lòng trung thành hay hành vi đạo đức, hoặc giả bạn đánh giá nó trên phương diện kết quả của sự giao quyền, tinh thần đồng đội và sự đồng tâm hiệp lực trong công việc, thì niềm tin vẫn luôn là yếu tố căn bản quyết định mọi ảnh hưởng của chúng ta với mọi người. Khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ có cách nhìn của một nhà sinh thái xã hội và hiểu được các mối quan hệ đa dạng, và ảnh hưởng của niềm tin lên những mối quan hệ đó. Nó giúp chúng ta có một cái nhìn bao quát và từ bỏ lối sống xem nhẹ niềm tin để xây dựng một nền văn hóa của sự tin cậy. Thứ hai, cuốn sách đưa ra một mô hình niềm tin theo chiều sâu, thiết thực và toàn diện. Nó giúp chúng ta thấu hiểu năm tác động của niềm tin. Cũng giống như tác động của một hòn sỏi khi được ném lên mặt nước, ảnh hưởng của niềm tin lan tỏa từ bản thân nó đến các mối quan hệ với mọi người xung quanh, đến các cổ đông và đến toàn xã hội. Thông qua những minh họa thực tế và đầy tính thuyết phục, chúng ta thấy được khả năng ứng dụng rộng rãi của những nguyên lý này trong đời sống cá nhân hay trong quan hệ giữa hai bên, trong gia đình, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện, cơ quan nhà nước, đơn vị quân đội, hay tổ chức "phi lợi nhuận". Thứ ba, cuốn sách này mang lại niềm hy vọng cho mỗi chúng ta. Khi lần lượt đọc qua các chương, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy lạc quan và có cảm hứng rằng dù trong bất kỳ hoàn cảnh thiếu vắng niềm tin nào, bạn vẫn có thể đóng vai trò một tác nhân tích cực trong việc xây dựng hay khôi phục niềm tin và củng cố các mối quan hệ, và nỗ lực đó sẽ nhanh chóng mang lại hiệu quả. Khi được Stephen chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân hay của nhiều người khác trong nỗ lực cứu vãn những tình huống trì trệ gây tác hại và tổn thất cho doanh nghiệp, bạn sẽ tự tin rằng mình cũng có khả năng làm được. Niềm tin - Yếu tố then chốt trong nền kinh tế toàn cầu Bước vào thực tại toàn cầu hóa với tính tương thuộc ngày càng rõ rệt, niềm tin trong các quan hệ giao dịch càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Kinh nghiệm giao dịch của tôi với các nhà lãnh đạo doanh nghiệp trên khắp thế giới đã chứng minh rằng "tốc độ tiếp cận thị trường" đang trở thành một thứ vũ khí cạnh tranh tối thượng. Sự thiếu niềm tin bất kể do hành vi thiếu đạo đức hay hợp đạo đức nhưng không thích hợp với hoàn cảnh đều gây ra nhiều trở ngại. Thiếu niềm tin thường đưa đến những tổn thất lớn nhất trong cuộc sống, trong tổ chức và cả trong đời sống gia đình thông qua những mưu đồ xấu, mâu thuẫn nội bộ, xung đột cá nhân, tình trạng đối kháng giữa các phòng ban, tư tưởng thắng - thua, giao tiếp đối phó - tất cả đều là những yếu tố làm giảm tác dụng thúc đẩy của niềm tin. Ngoài ra, thiếu niềm tin còn làm trì trệ mọi tiến trình - từ việc ra quyết định, giao tiếp, cho đến việc xây dựng những mối quan hệ. Niềm tin chính là hiệu quả. Hiệu quả thuyết phục khách hàng trung thành với một thương hiệu, và cũng chính hiệu quả xây dựng sự tự tin vào thành công của doanh nghiệp. Hiệu quả phục vụ lợi ích cho khách hàng không chỉ khiến khách hàng tiếp tục gia tăng đơn hàng với bạn, mà còn giới thiệu thương hiệu của công ty bạn đến nhiều khách hàng tiềm năng khác. Như vậy khách hàng của bạn lại trở thành đội ngũ tiếp thị và phát triển kinh doanh hữu hiệu nhất cho doanh nghiệp của bạn. Hiệu quả ổn định sẽ làm cho các nhà cung cấp an tâm trở thành đối tác chiến lược vốn đang là vấn đề thiết yếu trong nền kinh tế toàn cầu vốn dựa trên cơ sở tri thức kết hợp với nguồn nhân lực. Niềm tin cũng giống như tầng nước sâu chuyên cung cấp nước cho các mạch nước ngầm. Trong kinh doanh cũng như trong cuộc sống, những mạch nước ngầm này thường được gọi bằng các tên như sự đổi mới, tinh thần đồng đội, sự hợp tác, trao quyền, hệ thống quản lý 6-Sigma, và nhiều khái niệm khác của lý thuyết quản trị chất lượng toàn diện, sự trung thành với thương hiệu, hay nhiều sáng kiến chiến lược khác. Những mạch nước ngầm này nuôi dưỡng các con sông và dòng suối của quan hệ tương tác giữa con người, trong kinh doanh thương mại hay việc ký kết các giao ước. Chúng tạo nên chất lượng cuộc sống bền vững đối với tất cả các mối quan hệ, bao gồm quan hệ gia đình, quan hệ giữa các bộ phận trong tổ chức, quan hệ thường ngày với nhà cung cấp và khách hàng - thực ra, đó là mọi nỗ lực để có sự cống hiến bền vững. Một quyển sách đáng đọc Cuốn sách đề cập đến một chủ đề mang tính thời sự trong "thế giới phẳng" mới mẻ mà chúng ta đang sống, được đúc kết không chỉ từ những trải nghiệm cá nhân mà còn dựa trên những công trình nghiên cứu thực nghiệm chứng minh vì sao tác dụng thúc đẩy của niềm tin lại được xem như một trong những chỉ số đo lường quan trọng trong các bài toán chiến lược của tổ chức cũng như các mối quan hệ cá nhân. Điều làm cho cuốn sách này có sức mạnh, thiết thực và đáng tin cậy là khả năng đo lường niềm tin của nó. Tôi cảm thấy tự hào và thán phục khi nhìn thấy Stephen khai thác vấn đề sâu hơn tôi nghĩ và bổ sung nhiều kiến thức quan trọng. Tôi tin rằng Stephen đã vươn đến một đỉnh cao mới, với tư cách vừa là nhà kiểu mẫu/thực hành vừa là một người dẫn đầu tư duy nghiêm túc và tài năng. Hy vọng các bạn sẽ thu được nhiều lợi ích thiết thực khi đọc cuốn sách này. Tiến sĩ Stephen R. Covey Mời các bạn đón đọc Tốc Độ của Niềm Tin của tác giả Stephen R. Covey.
Nghệ thuật săn việc 2.0 - Jay Conrad Levinson
Bạn có biết vì sao Jay Conrad Levinson và David E. Perry dùng từ du kích trong tất cả tựa sách và trong các buổi trò chuyện của họ không? Đó là vì người du kích biết theo đuổi những mục tiêu thông thường theo những cách khác thường. Các du kích, cũng như độc giả thành công của tạp chí SUCCESS, luôn có cách nhìn thực tế hơn so với những người có khuynh hướng thực hiện ước mơ bằng cách làm theo hướng dẫn trong sách vở. Trước đây, các du kích không có những lợi thế cạnh tranh như bây giờ. Khi tìm việc, nếu bạn làm theo sách vở có nghĩa là bạn đang bước trên con đường đi đến thảm họa và thất vọng, ngoại trừ trường hợp bạn làm theo những nguyên tắc và hướng dẫn được nêu ra trong cuốn sách này, bởi đây là cuốn sách bổ ích, có khả năng giúp bạn tìm thấy những cách thức hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu. Ngoài ra, cuốn sách còn dẫn dắt bạn đến một thế giới chứa đựng biết bao điều bí ẩn đối với những người tìm việc thông thường – một thế giới tôn vinh những người du kích. Có thể nói, trong thế giới cạnh tranh gay gắt, du kích chính là Vua. Phải mất nhiều thời gian và công sức mới có thể trở thành một du kích thực thụ. Và cuốn sách này sẽ tiết lộ cho bạn những bí quyết để đạt mục tiêu này. Mong muốn trở thành du kích là một chuyện, nhưng việc trở thành một du kích thật sự đòi hỏi bạn phải nắm vững rất nhiều chi tiết. Vậy bạn phải học những chi tiết đó ở đâu? Câu trả lời nằm ở những trang sách tiếp theo. Bạn cần biết rằng trên thị trường lao động đã diễn ra những đổi thay rất mạnh mẽ chỉ trong vòng một thập niên qua. Thời buổi hiện nay không giống như thời của bố mẹ bạn. Đây là thời của bạn. Nhưng cơ hội chỉ thuộc về bạn, nếu bạn hiểu biết về phương thức hành động theo lối du kích. Bạn sẽ có được những đặc tính vô giá, nếu bạn biết vận dụng những kiến thức đó cũng như nhận thức được hiện thực đang diễn ra quanh mình. Cuốn sách này sẽ giúp bạn mở cánh cửa đến những công việc mơ ước, đồng thời giúp bạn đạt được ước mơ đó. Với nhiều người, tìm được công việc mình thật sự yêu thích gần như là “nhiệm vụ bất khả thi”. Nhưng du kích là những người xuất sắc về thuật biến cái không thể thành có thể, bởi những hiểu biết về thị trường tuyển dụng giúp họ làm được điều đó. Ánh sáng sẽ bừng lên từng trang sách. Tư duy sẽ thay đổi. Cuộc sống sẽ thay đổi. Ánh sáng sẽ soi rọi con đường. Có thật mọi việc sẽ xảy ra như thế với chỉ một cuốn sách? Đúng vậy, nhưng đó mới chỉ là sự khởi đầu. Nếu bạn không phải là du kích săn việc, chúng tôi chúc bạn thành công. Nhưng nếu bạn thật sự đã là một du kích, bạn chắc chắn thành công. Bạn đã sẵn sàng để xây dựng một cuộc sống có mục đích và tận hưởng những năm tháng thành công chưa? Hãy bắt đầu từ hôm nay! *** Dưới sức ép của dịch vụ thuê ngoài, sa thải nhân sự, di chuyển nhà máy ra nước ngoài, thu hẹp phạm vi hoạt động và nguy cơ phá sản, nước Mỹ đang trải qua thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ trong hoạt động kinh doanh. Đó là kết quả của sự phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, cũng như sự thay đổi giá trị con người và xu thế phát triển của nền kinh tế toàn cầu dựa trên tri thức. Mức độ phức tạp và tinh vi về kỹ thuật trong kinh doanh đã biến đổi hoàn toàn thị trường việc làm. Hoạt động kinh doanh hiện nay ngày càng dựa trên kiến thức và sự chuyên sâu về công nghệ. Hàng năm có khoảng 20 đến 40 triệu người Mỹ thay đổi việc làm. Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, cuộc cạnh tranh để duy trì việc làm lại càng trở nên gay gắt hơn. Nhiều người vẫn luẩn quẩn với những công việc không có cơ hội thăng tiến, bởi vì họ không biết tìm cơ hội phát triển hoặc tự giới thiệu những giá trị của họ đến nhà tuyển dụng. Để thành công trong thị trường việc làm mới hiện nay, bạn phải có một kế hoạch rõ ràng và chi tiết với các tiêu chí sau: Khôn khéo Có mục tiêu Tiếp thị có định hướng Không tốn nhiều chi phí Mang tính thực tế Khả thi Không một cơ quan chính phủ, tổ chức giáo dục hay chuyên gia tư vấn nào có trong tay quả cầu thủy tinh để đoán biết trước tương lai, đơn giản là vì có quá nhiều yếu tố còn chưa được khám phá về ngành nghề hay nhu cầu nhân lực. Song ở đây có một điều chắc chắn rằng nếu bạn là một người săn việc thì bạn đang đứng ở ngã rẽ quan trọng trên con đường sự nghiệp của mình, cho dù bạn săn việc vì đang thất nghiệp hay muốn chuyển sang công việc yêu thích hơn. ... Mời các bạn đón đọc Nghệ thuật săn việc 2.0 của tác giả Jay Conrad Levinson.
Đam Mê Bí Quyết Tạo Thành Công - Stephen R. Covey
Trong một nền kinh tế luôn có những biến động không ngừng, thật khó để giữ được chỗ đứng của mình. Tuy nhiên, vẫn luôn tồn tại những mặt tích cực trong thời đại đầy rủi ro hiện nay. Bạn vẫn có thể đảm bảo cho mình một tương lai tốt đẹp nếu biết thích ứng với những yêu cầu của thời đại mới cũng như biết nắm bắt những cơ hội mà nó mang lại. "Đam mê - Bí quyết tạo thành công" sẽ giúp bạn biết cách phát hiện và vận dụng tài năng, thế mạnh của bản thân để đạt được kết quả tối ưu trong công việc và truyền cảm hứng để bạn có những cống hiến khác biệt. *** Nhận xét về "Đam mê - Bí quyết tạo thành công": “Thật tuyệt vời! Quan điểm độc đáo của hai tác giả Covey và Colosimo đã tạo nên một tác phẩm vượt thời gian. Đam mê – bí quyết tạo thành công mang ý nghĩa sâu sắc, đầy tính thuyết phục bởi nó thôi thúc mỗi người cần xác định cho mình một sự nghiệp đáng để cống hiến và theo đuổi đến cùng! Đây chính là một trong những cuốn sách giàu giá trị thực tiễn cũng như tràn đầy cảm hứng nhất trong thời đại của chúng ta”. - Rick Smith, tác giả cuốn The leap: How 3 simple changes can prope your career from good to great “Tên tuổi của Stephen Covey đã trở thành huyền thoại trong giới kinh doanh. Những lời khuyên của ông luôn đúng trong mọi thời đại và có thể áp dụng cho mọi đối tượng ở bất kỳ ngành nghề nào. Nắm rõ sự thay đổi của thị trường lao động, Covey và Colosimo đề ra phương châm: Muốn tạo được chỗ đứng trong công việc và củng cố vị thế trong xã hội ở những thập kỷ tới, phải xác định rõ đâu là thế mạnh của bản thân và lĩnh vực mình muốn theo đuổi. Đồng thời, hãy luôn phấn đấu trở thành một nhân tố quan trọng và là người giải quyết vấn đề cho các tổ chức. Trong cuốn sách này, mỗi nguyên tắc đầy tính trí tuệ đều được được minh họa bằng các câu chuyện sinh động cùng những trải nghiệm của hai tác giả. Qua đó, độc giả sẽ dễ dàng nhận ra, một cuộc sống vẹn toàn đầy ý nghĩa là điều mà tất cả chúng ta đều có thể thực hiện được”. - Alexandra Levit, tác giả cuốn New Job, New You: A guide to reinventing yourself in a bright new career. “Covey và Colosimo không chỉ thay đổi cách suy nghĩ của bạn về công việc, mà các tác giả còn chỉ ra cho bạn những chiến lược thông minh để giành được những cơ hội lớn trong công việc”. - Keith Ferrazzi, tác giả cuốn Never eat alone: And other secrets to success, one relationship at a time. “Tôi khuyên bạn nên đọc cuốn sách vô cùng thú vị này, bởi nó sẽ tạo ra lực đẩy cần thiết giúp bạn thay đổi bản thân, vươn tới thành công và xây dựng được sự nghiệp như ý”. - Robin Ryan, tác giả cuốn 60 seconds & You’re Hired! “Đam mê – bí quyết tạo thành công” đưa ra một cách suy nghĩ mới mang tính đột phá về công việc và sự nghiệp của bạn. Những lời khuyên thực tế, phù hợp xu thế xã hội sẽ giúp bạn có được một sự nghiệp tuyệt vời, bền vững, bất chấp bạn đang làm việc trong lĩnh nào và nền kinh tế biến động ra sao”. - Vince Beaver, Giám đốc bộ phận chuyển đổi doanh nghiệp, NetApp. *** Nhà tâm lý học nổi tiếng William James đã chỉ ra rằng: “Phần lớn chúng ta vẫn chưa khai thác hết tiềm năng của bản thân trong công việc. Mỗi cá nhân đều có đủ tài năng và phẩm chất để thực hiện những việc mà chúng ta không ngờ tới”. Đây có thể là thời điểm thoát ra khỏi cái khung giới hạn đó, thay vì để guồng công việc nhấn chìm bạn. Mặt khác, khi những đề nghị tiếp tục bị từ chối, bạn có thể bị mất việc làm và cảm thấy mình không còn giá trị. Trong chương này, chúng tôi sẽ giúp bạn nhận biết và phát huy thế mạnh của mình, để từ đó có những đóng góp mang dấu ấn riêng. Nếu biết cách phát huy tối đa thế mạnh của bản thân, bạn hoàn toàn có thể đạt được thành công trong sự nghiệp. Dưới đây là câu chuyện của một người bạn: “Mới đây tôi có dịp trò chuyện với một thanh niên chừng 30 tuổi. Vài năm trước, anh đã tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại ưu. Bằng năng lực của bản thân, anh có quyền chọn cho mình một công việc như ý. Hiện tại, anh đang làm việc cho một công ty về dịch vụ tài chính. Tôi trao đổi với anh một vài vấn đề như: ‘Chiến lược ưu tiên hàng đầu của công ty anh hiện nay là gì?’. Và anh ấy đã không thể trả lời câu hỏi này. ‘Lần cuối anh gặp và nói chuyện trực tiếp với sếp về vai trò của mình trong việc hoàn thành những vấn đề ưu tiên của tổ chức là khi nào?’. Anh cho biết ngoại trừ lần phỏng vấn tuyển dụng ba năm trước, anh vẫn chưa trực tiếp gặp sếp lần nào khác. Cuối cùng, tôi hỏi anh ấy: ‘Anh đã làm được gì cho tổ chức của mình?’. Anh suy nghĩ một lát rồi ngập ngừng nói: ‘Năm ngoái, tôi đã giúp công ty tiết kiệm được 500.000 đô-la.’ Tôi hỏi tiếp: ‘Ngoài anh ra, có ai biết về điều đó không?’. Và anh đáp: ‘Mỗi tuần tôi đều làm báo cáo gửi sếp... nhưng tôi nghĩ là ông ấy đã không đọc đến nó’. Gương mặt anh lộ rõ vẻ chán nản và tôi có thể hiểu được tình cảnh này. Nguồn năng lượng trong anh ấy đã cạn kiệt, lòng nhiệt tình cũng đã tan biến. Vì mải hoàn thành những công việc thường ngày, anh ấy đã lãng quên ước mơ của bản thân về những cống hiến lớn lao. Khi bằng lòng với những công việc không xứng tầm, anh ấy đã tự hạ thấp giá trị của bản thân.” Trong trường hợp này, không thể phủ nhận rằng một phần lỗi là do sự yếu kém của người lãnh đạo, nhưng trong một chừng mực nào đó, nguyên nhân còn do người thanh niên kia đã chấp nhận để điều đó xảy đến với mình. Anh ấy đã đánh mất giá trị của bản thân. ... Mời các bạn đón đọc Đam Mê Bí Quyết Tạo Thành Công của tác giả Stephen R. Covey.