Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mười Lẻ Một Đêm

"Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm". Đó là hai người nửa bạn nửa tình nhân mới gặp lại nhau sau hơn mười năm xa cách, và họ muốn trao thân cho nhau, lần đầu tiên. Họ mượn căn hộ của một người bạn - Họa sĩ Chuối Hột - để gặp gỡ, và đã bị nhốt ở đó bởi sự đãng trí ma lanh của ông bạn trời đánh. Chỉ một tình huống trớ trêu ấy mà cả một không gian xã hội rộng lớn đã mở ra, mở ra theo những trải nghiệm quá khứ của ba nhân vật tham gia tấn trò đời: Họa sĩ Chuối Hột, Người đàn ông và Người đàn bà. Tiếp đó là hàng loạt nhân vật khác. Tất cả các câu chuyện đều được kể lại từ ngôi thứ ba số ít; và luôn luôn giọng phát ngôn này bị đan cài, bị đánh lẫn vào giọng của chính các nhân vật đang được nói tới, nó tạo nên một kiểu giọng tưng tửng, giỡn cợt, giễu nhại rất đặc trưng cho văn xuôi Hồ Anh Thái. *** Chất hài hước, nghịch dị trong 'Mười lẻ một đêm' Bằng tiếng cười, tác giả của “Mười lẻ một đêm” đã phanh phui những cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc sống. Mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở đây, bây giờ, tất cả đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật tự tương đối, sẽ phải mất không ít thời gian và nỗ lực! 1. Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm 1 của nhà văn Hồ Anh Thái có thể khiến người ta phải bật cười, bởi tính chất hài hước của nó. (Tôi không nói đây là cuốn tiểu thuyết hài, vì như thế sẽ sa vào một sự phân loại cực kỳ phức tạp). Cái đó có thể có gì đặc biệt hay không? Tôi cho rằng có. Nếu tôi không nhầm thì kể từ khi Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng ra đời đến nay, văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng đã đánh mất (một cách rất đáng tiếc) tiếng cười hài hước. Suốt một thời gian dài các nhà văn Việt Nam ít cười và cũng ít muốn khiến cho độc giả phải bật cười thông qua tác phẩm của mình. Chúng ta quá trang nghiêm, trang nghiêm đến mức coi sự cười cợt thoải mái là một trò lố, một sự vô bổ và thậm chí là có hại. Khi bắt tay vào việc viết một cuốn tiểu thuyết, nếu tôi không võ đoán, hẳn là các nhà văn của chúng ta đều "hằm hằm" nghĩ đến chuyện tác phẩm của mình sẽ phản ánh cái gì và phản ánh đến đâu, nó có vươn tới phục vụ những nhiệm vụ chính trị xã hội hay không và phục vụ đến đâu, nó có nêu một tấm gương đạo đức hay không và nêu đến đâu, nó có đưa ra một sự cảnh báo hay không và cảnh báo đến đâu... Nói chung, việc sáng tác tiểu thuyết bị đè xuống bởi một cứu cánh quá ư đạo mạo, nghiêm túc; và trong tình thế ấy thì không (hoặc khó) có thể bật ra tiếng cười giòn giã, vang rền, "xả láng". Nếu có chăng, nó chỉ là cái cười gằn, cười mỉa, hoặc cười mà ầng ậc nước mắt mà thôi! 2 2. Trở lại với tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của nhà văn Hồ Anh Thái. Ta hãy đọc đoạn mở đầu tác phẩm: "Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm. Mười lẻ một đêm và mười lẻ một ngày. Chính xác thì không đúng mười lẻ một đêm ngày, nhưng thực sự là bao nhiêu thì độc giả phải theo dõi hết cả cuốn sách mới biết được. Chẳng phải tác giả giữ mánh hay giấu bí quyết gia truyền, mà cái gì cũng phải tuần tự. Đôi khi đọc sách cũng là dịp thử thách lòng kiên nhẫn. Sách dở thì thử thách lòng khoan dung". Có thể thấy, giọng văn ở đây là kiểu giọng phát ngôn tưng tửng, nó được xuyên thấm bởi tính bỡn cợt, giễu nhại. Dường như có một khế ước mà tác giả đã thảo ra trước bạn đọc: "Các anh nên đọc hết cuốn sách này. Đọc xong các anh có thể tin hoặc không, vì những chuyện tôi kể có thể rất nghiêm túc hoặc có thể hết sức tầm phào”. Không đặt mục tiêu thuyết phục độc giả, nhà văn bày ra một cuộc chơi, bước vào cuộc chơi ấy, độc giả có thể vừa thưởng thức, vừa chứng nghiệm, vậy thôi! Và, cuộc chơi này được bắt đầu từ tình huống như vừa kể trên, "Một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm. Mười lẻ một đêm. Và mười lẻ một ngày". Còn số mười lẻ một đêm buộc người ta phải nghĩ đến truyện Nghìn lẻ một đêm lừng danh mà người Ba Tư đã cống hiến cho nhân loại, nghĩ đến những chuyện kể được tạo nên bằng sự tưởng tượng cực kỳ phóng túng, bất chấp logic đời sống thực tế. Chất phóng túng ấy có ở Mười lẻ một đêm. Trước hết, nó được thể hiện qua các nhân vật đậm tính nghịch dị (grotesque, mà hầu như tất cả các nhân vật của cuốn sách đều là nhân vật nghịch dị). Họa sĩ Chuối Hột chẳng hạn: "Bốn mươi tám cái xuân xanh là bốn mươi tám mùa cởi mở. Thời trang yêu thích nhất là bộ cánh lúc lọt lòng mẹ". Sở thích - nếu có thể gọi đó là sở thích - khoả thân của Họa sĩ Chuối Hột được tác giả phóng đến cực đại. Ấn tượng nhất có lẽ là hình ảnh này: "Trong một góc nhà gã chống đầu xuống đất hai chân dốc thẳng lên trời, thân người bóng nhẫy, trắng lôm lốp như thân chuối. Tất nhiên là chuối hột trổ hoa ở quãng lưng chừng trời". Đó là cảnh hoạ sĩ Chuối Hột khoả thân tập yoga khi cửa nhà mở ra thông thống! Cảnh này, không hiểu sao cứ khiến tôi phải liên tưởng tới chàng hiệp sĩ xứ Mantra của Cervantes - nhân vật nghịch dị vĩ đại trong văn học thế giới: khi điên cuồng nhớ tới nàng Dulcinea, Don Quijote đã trồng cây chuối, áo sơ mi dốc xuống trùm mặt và chàng ta không hề mặc quần! Nhân vật Bà mẹ cũng đậm chất nghịch dị. Cái dâm của người đàn bà này được mở rộng tới mức quá khổ trên văn bản. Qua năm lần đò và vô vàn những cuộc phiêu lưu tình ái - tất cả đều diễn ra trước cặp mắt của đứa con gái, "con bé phải chứng kiến tất cả các thể loại đàn ông của mẹ" - Bà mẹ quả là mẫu người ham hố nhục dục đến mức vô độ và vô sỉ. "Về làm gì, ở lại đây ngủ cho vui" - đó là câu nói được bà mẹ lặp đi lặp lại với từng đối tác mới trong thú vui xác thịt triền miên vô tận. Cũng có thể coi đó như một dấu hiệu cá biệt hoá nhân vật, giống câu "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi" của cụ Cố Hồng trong văn Vũ Trọng Phụng. Nhẹ dạ, nông nổi, nhiều lầm lạc, con thiêu thân trong lò lửa đam mê - không ít lần tác giả làm người đọc ngỡ tưởng như vậy về nhân vật Bà mẹ - nhưng tất cả ấn tượng ấy phải được xét lại trước một thực tế thế này: "Năm lần lấy chồng, năm lần li dị, mỗi lần li dị được một cái nhà. Chồng đầu tiên được một cái nhà để xe. Chồng thứ hai được chia đôi căn phòng 26m2. Chồng thứ ba căn hộ tập thể tầng hai. Chồng thứ tư được 9m2 phố cổ. Chồng thứ năm khá nhất, giáo sư viện trưởng, căn hộ chung cư chất lượng cao". Việc nâng dần cấp độ đền bù sau mỗi lần li hôn như vậy là một cách phóng đại cho cái tham của Bà mẹ. Để rồi, người đọc không khỏi bật cười trước sự tổng kết của cô con gái: "Mẹ ngửi thấy mùi đàn ông và mùi đất đều chén được"! Có một cặp nhân vật nghịch dị không thể không nói đến trong Mười lẻ một đêm, đó là giáo sư Một tên Xí, giáo sư Hai tên Khoả. Ông Khoả vốn là chồng thứ năm của nhân vật Bà mẹ. Ông khác đời ở cái bệnh cười vô tiền khoáng hậu: "Chỉ định bật lên một tiếng cười thôi thì cứ thế mà cười mãi. Không sao hãm lại được. Hơ hơ hơ hơ. Mãi. Chập dây thần kinh cười". Không có thuốc chữa tận gốc căn bệnh ấy, chỉ có một giải pháp tình thế: "Hễ bật lên tràng cười không tắt được thì chỉ việc tát cho chàng một cái. Đứt luôn". Từ cái bệnh cười ấy của ông mà tác giả cho chúng ta một "xen" hài kịch đáng xem: ông Khoả hướng dẫn luận văn cho nữ sinh viên, đến lúc ra về, sinh viên khẩn khoản xin lại thầy cái chân. "Thầy bật cười khan. Cười khan tức là chỉ cười một tiếng. Chết dở, nãy giờ thầy cho em về mà thầy vẫn giữ đùi em. Thầy cười khan, nhưng bệnh cười vượt quá quy định, bắt đầu nhân ra thành chuỗi cười bất tận. Cô sinh viên hoảng quá. Chẳng biết ứng phó thế nào. Cũng không dám rút chân ra khỏi tay thầy. Đúng lúc nàng (tức Bà mẹ) về. Nàng chồm lên tát vào mặt chồng một cái. Tịt. Nàng hất chân con kia ra khỏi tay chồng. Dứt". Hoạt cảnh này bóc lộ cái dâm, sự bất lực và cả cái quái đản của nhân vật, chính vì thế mà người ta phải bật cười. Từ hình ảnh một ông giáo sư già, tay nắm chân một người con gái trẻ, miệng cười không dứt, người đọc có quyền liên tưởng tới hình ảnh một con đười ươi tay giữ ống tre, nhìn về phía mặt trời cười sằng sặc, như dân gian thường kể, không nhỉ? Đó là ông giáo sư Hai, còn người tạo nên với ông hình ảnh cặp bài trùng, ông giáo sư Một, thì sao? Ngay từ đầu tác giả đã giới thiệu với chúng ta rằng ông là một nhà văn hoá lớn, là người duy nhất trong đám giáo sư tiến sĩ có thể sử dụng tiếng Anh để giảng dạy. Nhưng ngay sau đó, ông đã bị "lật tẩy" bằng chính những hành vi cực kỳ đối nghịch với các chuẩn mực văn hoá hiện hành. Dù không phải là đại biểu được mời tham luận trong một hội nghị quốc tế, ông vẫn "vô tư" phát biểu quá thời lượng cho phép, khiến cho cả chủ và khách đều lâm vào tình thế khó xử, mọi thứ rối tung như canh hẹ. Ông ăn uống trong bữa tiệc chiêu đãi sau hội thảo như trong chốn không người, đúng hơn, như một anh mõ trong xó bếp bần hàn của mình. Và đặc biệt là việc ông "tè bậy" vào chân nhóm tượng đài công nông binh - một công trình văn hoá - đều đều ngày hai lần, và bao giờ cũng khoan khoái, thoả mãn! Nhà văn hoá tiểu tiện vào công trình văn hoá, sự tương phản giữa cái "nó phải là" và cái "nó thực sự là" chính là một tình huống kiểu mẫu để bộc lộ cái hài. Chỉ có điều, cái "nó thực sự là" ở ông giáo sư Một, nhà văn hoá lớn, đã vượt ngưỡng phản văn hoá. Khai thác triệt để sự vượt ngưỡng này qua các hành vi ăn uống, tiêu hoá - vốn liên quan đến phần dưới cơ thể, phần được coi là thô, nặng, đục, uế tạp - của nhân vật, tác giả đã cho ta một hình ảnh đầy chất nghịch dị! (Hãy nhớ lại những nhân vật tương tự trong Gargantua và Pantagruel của Rabelais). 3. Còn có thể nói về chất nghịch dị - và từ đó gây cười - ở một số nhân vật khác trong Mười lẻ một đêm. Tựu trung, nó được hình thành từ việc tác giả chú ý nhặt ra một (hoặc một vài) thói tật và sự lập dị, bơm phồng lên, tô đậm vào, biến nó thành một tồn tại bất bình thường trong đời sống bình thường, một sự lộ liễu quá mức hình dung sẵn có về đối tượng. Và chính từ những nhân vật nghịch dị này mà tác giả đưa chúng ta vào những phạm vi hoạt động xã hội cũng đầy tính nghịch dị. Với họa sĩ Chuối Hột, chúng ta đặt chân tới hội họa đương đại, nơi mà nghệ thuật sắp đặt (installation) và nghệ thuật trình diễn (performance) đang rùm beng khua chiêng gõ mõ. Nó là cái gì thế? Xem nhé: "Bày mấy cái chậu nhựa trên vỉa hè. Treo lủng lẳng trên mỗi chậu một cái nón. Rồi cầm vòi nước tưới lên nón cho mưa rơi xuống chậu. Thế là hoàn chỉnh một tác phẩm. Ngũ Hổ cởi hết mở hết, đóng độc cái khối ngồi thế kiết già trong công viên. Bảo một thằng Tây đối tác đi qua từng vị cởi mở, lấy gậy gõ lên từng cái đầu trọc. Gõ một cái thì cái đầu trọc lại kêu cốc một cái kêu boong một cái. Thế là được một sô". Khoan hẵng bàn về chuyện đó là nghệ thuật hay không nghệ thuật. Điều chắc chắn là những hoạt động này không trở thành mục đích của chính nó. Như Họa sĩ Chuối Hột giảng giải, thì: "Sắp đặt và diễn là để thu hút. Người ta thấy là lạ ngô ngố ghê ghê kinh kinh, người ta xúm lại xem. Cái ú ớ khờ khạo vớ vẩn lại làm cho người ta thinh thích nhơ nhớ. Tên tuổi ta được lưu vào bộ nhớ của công chúng. Từ đó công chúng đếu đâu cũng để ý tìm tên tuổi ta. Từ đó công chúng mới xem tranh ta mua tranh ta. Đến đó mới là mục đích". Với nhân vật người đàn ông và chuyến đi dọc theo đất nước của anh, chúng ta tham dự hội Lim, nơi có "anh hai đi giày tây, chị hai đi giày khủng bố"; chúng ta lên vùng cao vào chợ văn hoá Bắc Hà, nơi mà những sơn nữ người Mông, người Dao đã biết sỗ sàng đòi tiền khách du lịch mỗi khi khách định chụp ảnh; chúng ta tới Đà Lạt, thành phố ngàn hoa với thác Cam Ly ngày một ít nước, còn rác rưởi thì vứt như thể đó là bãi tập trung rác cho cả khu vực! Theo chân Người đàn ông đưa con sang nước ngoài du học, chúng ta biết đến cảnh những du học sinh con các ông to bà lớn tụ bạ với nhau để chơi đêm, tán chuyện, đánh bài đánh bạc, hút hít chích choác, và "thực hành tiếng Việt đến mức điêu luyện" trên xứ sở của Anh ngữ! Với hai ông giáo sư khả kính Khoả và Xí, tác giả đưa chúng ta vào lãnh địa của khoa học xã hội nhân văn đương đại, nơi mà khá nhiều giáo sư đầu ngành "mãi mãi dừng lại ở trình độ cử nhân bổ túc công nông. Có thêm cái lanh cái ma cái xảo của cá tính. Có thêm kiến thức tham khảo khoa học xã hội Đông Âu đến những năm 1980". Tóm lại, đó là những ngụy khoa học gia với đầy những cố tật: uyên bác rởm, tham quyền cố vị, lừa bịp người đời và cũng tự huyễn hoặc chính mình (nhưng điều nguy hiểm là họ lại được một bộ phận đông đảo trong xã hội coi như là những giá trị!). Theo con đường "một bước lên bà" của nhân vật Người đàn bà, người đọc được khám phá một phần những "bí sử" cười ra nước mắt ở chốn quan trường. Nhiều, và nhiều những kẻ giống như nhân vật ông Víp (chồng của người đàn bà), loại chính khách xuất thân từ những phong trào "cờ đèn kèn trống" cơ sở, năng lực yếu, chuyên môn kém, nhưng lại được đặt vào những vị trí công tác trọng yếu, và bản thân họ cũng rất biết kiếm lợi từ đó. Quan ông thì thế, quan bà cũng không kém. Hội các phu nhân vụ trưởng, phu nhân thứ trưởng, phu nhân bộ trưởng được nói đến trong Mười lẻ một đêm quả đúng là một êkíp mua quan bán tước, mua đất kiếm lời đại tài và đầy gian ngoan. Tuy vậy, cái nét thô lậu "nhà quê" trong căn tính các mệnh phụ thì vẫn không sao gột rửa được. Chi tiết bà vợ một ông to "tắt mắt" lấy trộm cái đĩa sứ trong bữa tiệc do sứ quán nước ngoài chiêu đãi đã cho thấy điều này. Đó là một tiếng cười, tiếng cười lột tả đến đáy của sự thực: con vịt xấu xí không bao giờ có thể trở thành con thiên nga xinh đẹp! Đến đây thì đã có thể nhận xét đôi điều về những tình huống nghịch dị trong Mười lẻ một đêm. Được tạo ra bởi những nhân vật nghịch dị - tôi muốn nói là những nhân vật mang trong mình một vài nét tính cách lập dị, thậm chí là quái đản, nó phô lộ ra giữa chợ đời một cách hồn nhiên và hoàn toàn không nghĩ rằng mình lập dị, quái đản - những tình huống nghịch dị này tạo ra ấn tượng mạnh về một đời sống mất chuẩn: những chân giá trị và ngụy giá trị xâm thực, chồng chéo, che phủ lẫn nhau, người ta không có cách nào phân biệt được và vì thế luôn phải mò mẫm giữa các vách tường của ảo tưởng. Bằng tiếng cười, tác giả của Mười lẻ một đêm đã phanh phui những cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc sống, và mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở đây, bây giờ, tất cả đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật tự tương đối, sẽ phải mất không ít thời gian và nỗ lực! 4. Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của nhà văn Hồ Anh Thái, như đã nói, bắt đầu bằng việc "Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm". Đó là hai người nửa bạn nửa tình nhân mới gặp lại nhau sau hơn mười năm xa cách, và họ muốn trao thân cho nhau, lần đầu tiên. Họ mượn căn hộ của một người bạn - hoạ sĩ Chuối Hột - để gặp gỡ, và đã bị nhốt ở đó bởi sự đãng trí ma lanh của ông bạn trời đánh. Chỉ một tình huống trớ trêu ấy mà cả một không gian xã hội rộng lớn đã mở ra, mở ra theo những trải nghiệm quá khứ của ba nhân vật tham gia tấn trò: Hoạ sĩ Chuối Hột, Người đàn ông và Người đàn bà. Tiếp đó là hàng loạt nhân vật khác. Tất cả các câu chuyện đều được kể lại từ ngôi thứ ba số ít; và luôn luôn giọng phát ngôn này bị đan cài, bị đánh lẫn vào giọng của chính các nhân vật đang được nói tới, nó tạo nên một kiểu giọng tưng tửng, giỡn cợt, giễu nhại rất đặc trưng cho văn xuôi Hồ Anh Thái giai đoạn gần đây 3. Tính trào lộng suồng sã hết mức ở các sự kiện, các chi tiết được kể lại trong truyện khiến cho tôi, dù không muốn, cũng buộc phải nhớ tới một luận điểm cốt tử trong lý luận về tiểu thuyết của nhà bác học Nga Mikhail Bakhtine 4 rằng tiểu thuyết tiếp xúc với thế giới ở cái ngày hôm nay không hoàn kết; và rằng chính bằng thái độ trào lộng suồng sã hết mức ấy mà người viết mới có thể xoá bỏ mọi khoảng cách, "nắn gân bắt mạch" đối tượng một cách đầy tự tin và nói về nó một cách chính xác! Dẫu sao đi chăng nữa, chỉ riêng việc khiến cho độc giả có thể cười khi đọc Mười lẻ một đêm - trong bối cảnh một tình hình văn học quá ư đạo mạo nghiêm túc - đã là một thành công của nhà văn Hồ Anh Thái. Và để kết thúc bài viết này, xin lặp lại một câu của Milan Kundera trong tập Những di chúc bị phản bội: "Tim tôi đau thắt, khi nghĩ đến ngày Panurge 5  không còn gây cười". (Nguồn: Người Đại biểu Nhân dân, số ra ngày 25/4/2006) Mời các bạn đón đọc Mười Lẻ Một Đêm của tác giả Hoàng Anh Thái.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Phóng Đãng Bất Trị - Suzanne Enoch
Tác phẩm thuộc series tiểu thuyết ăn khách của Suzanne Enoch, Scandalous bride, tác giả nổi tiếng dòng văn học lãng mạn Mỹ, mới phát hành tại Việt Nam. Một năm trước, quý cô Camille Pryce bỏ rơi vị hôn phu cao ngạo - Hầu tước Felton - ngay nơi bệ thờ bởi những lý do chính đáng. Cô từ bỏ cả địa vị danh giá để tới làm việc ở sòng bạc dành cho các quý ông.   Trong nỗ lực muốn ngăn chặn những lời bàn tán và cười nhạo sau lưng, Felton đã đề nghị người em họ - Keating Blackwood - thuyết phục Camille quay về kết hôn với mình để đổi lại món tiền thưởng lớn.   Phóng đãng, điển trai và từng trải, Keating Blackwood là người đàn ông hoàn hảo để tán tỉnh Camille. Nhưng ngay giây phút gặp cô, anh đã muốn giành lấy cô cho riêng mình. Và Camille đã khiến tay cờ bạc vô độ này phải từ bỏ mọi cá cược với Fenton để quyết tâm trở thành người chồng thực sự của cô vào đúng ngày cô quay về kết hôn với Felton lần thứ hai.​ *** Bộ sách Scandalous bride, gồm có: #0.5 – The Wicked One # 1 – A Beginer’s Guide to Rakes - Đánh Cược Với Tình Yêu # 2 – Taming an Imposible Rogue - Kẻ Phóng Đãng Bất Trị # 3 – Rules to Catch a Devilish Duke # 4 – The Handbook to Handling His Lordship *** Keating Blackwood bừng tỉnh bởi tiếng súng ác liệt. Có người đang ở trong phòng anh. Một kẻ không mời. Vẫn nhắm mắt, anh động đậy để có thể trượt tay xuống dưới gối và túm lấy con dao nằm ở đó.   “Cậu biết bây giờ là giữa ngày rồi chứ, phải không?”   Duỗi thẳng ngón tay, Keating mở mắt và ngồi dậy. Căn phòng gần như chìm trong bóng tối, anh chỉ có thể nhìn thấy một dáng người tối tăm bước đến tấm rèm dày, tối màu gần nhất. “Đợi đã. Đừng…”   Ánh sáng chói lòa ùa vào phòng. Mặt trời gần như chiếu thẳng vào đầu anh và yên vị ở đó với những tia sáng rung rinh.   “Chết tiệt, Fenton,” anh gầm lên, nhắm chặt mắt lại. “Anh làm cái quái gì ở đây thế?”   “Tìm cậu. Ta cần sự giúp đỡ của cậu.”   “Thế thì khép cái rèm chết tiệt kia lại và ngồi trong phòng khách chờ tôi đến gặp anh đi.”   “Được thôi. Nhân tiện, cậu có con mắt đen đáng yêu thật đấy.”   “Anh phải nhìn thấy anh bạn còn lại.” Tiếng vải kêu sột soạt và căn phòng bên kia mi mắt anh lại chìm vào bóng tối. Khi anh mở mắt ra, những chấm đỏ chói lóa vẫn bay lơ lửng trong tầm nhìn, nhưng ít nhất lúc này, anh không cảm thấy muốn nôn mửa nữa. “Và bảo Barnes mang cho anh một bình trà thật lớn,” Keating nói thêm, day tay vào thái dương.   “Ta không muốn uống trà.”   “Tôi muốn. Đi đi.”   Khi còn lại một mình trong phòng, Keating moi một cái áo sơ mi cùng chiếc quần ra khỏi tủ quần áo và mặc vào. Giày của anh để ở gần cửa, nhưng anh phớt lờ chúng, cũng như chiếc áo khoác và gi lê Pidgeon đã đặt sẵn ở đó cho anh, vào lúc nào đó trong ngày hôm qua. Liếc ra cửa đầy ngờ vực, anh nhặt chiếc cà vạt mới là lên và buộc chặt nó quanh đầu. Nếu may mắn, nó sẽ giữ được bộ não anh nằm nguyên trong hộp sọ. Chúa tôi, anh cần phải thôi uống vodka Nga, hoặc bất kể thứ gì anh đã nốc ừng ực đêm qua.   “Cậu định làm cướp biển đấy à?” Fenton hỏi khi Keating mò đến phòng khách nhờ sự giúp đỡ hào phóng của bức tường hai bên hành lang. “Ít nhất cậu cũng đi dép trong nhà vào chứ.”   “Tôi chẳng có cái nào.” Keating vật vờ bước lại gần cửa sổ và kéo rèm lại, rồi đến ngồi đối diện với anh họ mình. “Nghe có vẻ nực cười, tại sao anh lại cần tôi giúp? Và nói nhanh lên được không? Tôi có thể bất tỉnh bất cứ lúc nào.”   “Tại sao ta lại cần sự giúp đỡ của cậu?”  Stephen Pollard, hầu tước của Fenton nhắc lại, nhìn anh trừng trừng. “Ta biết cậu đang lẩn tránh Luân Đôn, nhưng chắc chắn cậu đã đọc báo chứ.”   “Tôi đang trốn Luân Đôn. Vì cái quái gì mà tôi lại muốn đọc về nó chứ?” Khay trà được mang đến và không cần phải bảo, Barnes rót một tách, thả vào năm viên đường, rồi đưa nó cho anh. “Cảm ơn,” anh nói với người quản gia, rồi từ từ uống một ngụm thật lớn.   “Sao lại phải phiền phức với trà thế?” Fenton hỏi, ngồi xuống rót cho mình một tách và ra bộ rõ ràng rằng mình chỉ cho thêm một chút đường.   Phớt lờ câu hỏi, Keating cẩn thận nhấp từng ngụm từ tách trà quá nóng và quá ngọt của mình. “Tôi tưởng anh không muốn uống trà.”   Anh họ anh nhìn xuống tách trà trong tay, rồi nhăn nhó bỏ nó xuống. “Ta không muốn. Ta đang cố gắng làm rõ một điều, chắc là vậy. Về đường.”   “Phải, tôi thấy rồi. Tôi chắc chắn bị tổn thương bởi cú đánh đó đấy.”   “Sau khi đã say quắc cần câu, ta nghĩ rằng trà ngọt có tác dụng với cậu vào buổi sáng… hãy giữa ngày.” ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Phóng Đãng Bất Trị của tác giả Suzanne Enoch.
Thế giới của Sophie - Jostein Gaarder
Jostein Gaarder tốt nghiệp Đại học Oslo chuyên ngành ngôn ngữ, thần học và lịch sử tư tưởng, ông từng dạy triết học ở trường phổ thông nhiều năm. Trong sự nghiệp viết lách của mình, Jostein Gaarder cho ra đời gần 20 cuốn sách, tất cả đều đậm tính kỳ ảo, triết luận và Thế giới của Sophie cũng không ngoại lệ. Thế giới của Sophie vừa là một tiểu thuyết vừa là một hướng dẫn căn bản về triết học phương Tây. Cuốn sách chứa đựng những thông tin về lịch sử văn hóa và lịch sử triết học thông qua các câu chuyện của 2 nhân vật Sophie và Hilde. Nhưng phần lớn nội dung tác phẩm là những đoạn đối thoại giữa nhân vật chính Sophie và một người đàn ông bí ẩn có tên Alberto Knox. Cầm trên tay cuốn sách Thế giới của Sophie, chắc chắn các phụ huynh cũng phải hoa mắt khi lướt qua mục lục: Socrates, Platon, Descartes, Kant, Chủ nghĩa lãng mạn, Thế kỷ khai sáng, Vụ nổ lớn, thời Trung cổ… đều có chung suy nghĩ liệu trẻ có thể tiếp thu được một lượng kiến thức khổng lồ, khô khan như vậy? ***  Sophie Amundsen từ trường về. Cô đi cùng đường với Joanna. Họ trò chuyện về người máy. Theo Joanna, bộ óc của con người giống như một cái máy tính cao cấp. Sophie không rõ có đồng ý được không. Chắc chắn một con người phải hơn là một cái máy chứ?    Khi đến siêu thị, mỗi người rẽ về phía nhà của mình. Sophie sống ở cuối một khu nhà ngoại ô, đường đến trường xa gấp đôi Joanna. Nhà cô như ở tận cùng của thế giới, vì sau khu vườn đã là cửa rừng.    Cô rẽ vào đường Cỏ Ba Lá. Cuối đường có một chỗ ngoặt gấp - “khúc ngoặt của Thuyền trưởng”. Hầu như chẳng có ai đến đây trừ thứ bảy và chủ nhật.    Bấy giờ là đầu tháng Năm. Trong các khu vườn, hoa thuỷ tiên mọc xen với cây ăn quả. Những cây phong đã được phủ một màu lá xanh dịu.    Thật kỳ diệu khi mọi vật bừng nở vào thời kỳ này trong năm! Cái gì đã làm cho cỏ cây xanh tốt ùa ra từ lòng đất chết, ngay khi trời vừa ấm lên và tuyết tan hết?    Khi Sophie mở cánh cửa vườn, cô ngó vào hộp thư. Ở đó thường có cả đống quảng cáo và một vài phong bì khổ lớn gửi cho mẹ cô. Thỉnh thoảng cũng có một vài lá thư từ ngân hàng gửi cho bố cô, nhưng phải nói ngay rằng, ông không như các ông bố bình thường khác. Bố Sophie là thuyền trưởng của một tàu chở dầu lớn và ông vắng nhà gần như quanh năm. Khi có được vài tuần ở nhà, ông sẽ đi lại loẹt xoẹt quanh nhà và làm mọi thứ trở nên xinh đẹp và ấm cúng. Nhưng khi ở ngoài biển, ông lại có vẻ rất xa cách    Chỉ có mỗi một bức thư trong hộp thư, và nó được gửi cho Sophie. Chiếc phong bì trắng ghi “Sophie Amundsen, số 3 đường Cò Ba Lá”. Chỉ có vậy, không có tên người gửi, cũng chẳng có cả tem.    Sophie vội vàng khép cổng và mở phong bì. Bên trong chỉ có một mảnh giấy nhỏ với dòng chữ: Bạn là ai?    Không có gì khác, chỉ có ba chữ viết tay với một dấu chấm hỏi to tướng.    Cô nhìn lại chiếc phong bì. Rõ ràng bức thư được gửi cho cô. Ai đã thả nó vào hộp thư?    Sophie chạy nhanh vào ngôi nhà màu đỏ. Như thường lệ, chú mèo Sherekan đã kịp chui ra khỏi bụi cây, nhảy lên bậc thềm và lách vào nhà trước khi cô đóng cửa.    Mỗi lần bực bội, mẹ Sophie thường gọi ngôi nhà họ đang ở là một cái chuồng thú. Sophie khá hạnh phúc về bộ sưu tập động vật của mình. Đầu tiên, cô có ba con cá vàng Lưng Vàng, Mũ Đỏ, và Cờ Đen. Tiếp theo là hai con vẹt Smitt và Smule, rùa Govinda, và cuối cùng là con mèo vàng Sherekan. Chúng đều được tặng cho cô để bù đắp cho chuyện mẹ cô luôn đi làm về muộn còn bố cô thì luôn vắng nhà, lái tàu khắp thế giới.    Sophie liệng cặp xuống sàn và cho mèo ăn. Sau đó, cô ngồi xuống chiếc ghế nhà bếp với lá thư bí ẩn trên tay.    Bạn là ai?    Làm sao biết được? Tất nhiên, cô là Sophie Amundsen, nhưng đấy là ai? Cô chưa nghĩ ra.    Nếu thực ra cô được đặt một cái tên khác, Anne Knutsen chẳng hạn, liệu cô có thành người khác không? ... Mời các bạn đón đọc Thế giới của Sophie của tác giả Jostein Gaarder.
Như Không Hề Có - Bret Easton Ellis
Trở về Los Angeles để nghỉ lễ Giáng Sinh, Clay một lần nữa bước vào một thế giới nơi ai ai cũng lái xe hạng sang, ăn ở nhà hàng thượng hạng, đắm chìm trong tình dục và ma túy, nơi tiền như chiếm hết chỗ của hy vọng và yêu thương. Cậu cố nối lại tình cảm với bạn gái, Blair, và với Julian, người bạn thân từ trung học. Nhưng rồi những nỗ lực đầy tính người ấy đều như bị nuốt chửng trong nỗi tuyệt vọng thăm thẳm lớn hơn hết thảy, ngay giữa vòng xoáy của những bữa tiệc vô mục đích triền miên, những quán rượu tồi tàn, câu lạc bộ rock ngầm và phía bên kia nhớp nhúa của bóng tối thành Los Angeles. Không nhiều tình tiết thắt nút, mở nút, Như không hề có là cuốn sách về một trải nghiệm nhiều hơn là một chuyện kể ly kỳ. Đừng đọc nó nếu bạn định kiếm tìm sự dễ chịu hay ngọt ngào. Đừng đọc nó nếu bạn đang cần chút gì nhẹ nhàng và hài hước. Hãy đọc nó khi bạn đang ở giữa tuổi thiếu niên đầy bất ổn, hay bỗng hoài nhớ về những ngày tháng hoang mang đã qua. Hoặc là, đơn giản hơn, khi muốn kiếm tìm một Bắt trẻ đồng xanh ở gần hơn với thời hiện tại. *** Bret Easton Ellis sinh ngày 7 tháng Ba năm 1964 ở Los Angeles, bang California, Hoa Kỳ. Với sáu tiểu thuyết và một tập truyện ngắn, Ellis đã trở thành một trong những cái tên ăn khách nhất, có sức hút nhất của văn học đương đại. Năm 1985 ông xuất bản tác phẩm đầu tay Như không hề có (Less than zero). Năm 1987, xuất bản tiếp cuốn tiểu thuyết thứ hai - The rules of attraction… Các tác phẩm: Như không hề có (Less than zero), American psycho, The rules of attraction, Glamorama, The informers và Lunar park của Bret Easton Ellis đều đã được chuyển thể thành phim và gặt hái được nhiều thành công lớn. *** Thiên hạ sợ phải nhập làn trên xa lộ ở Los Angeles. Đó là điều đầu tiên tôi được nghe khi trở về thành phố. Blair đón tôi tại LAX 1 và thì thầm câu này khi lái xe chạy lên đoạn dốc nhập vào đường chính. Cô bảo: "Thiên hạ sợ phải nhập làn trên xa lộ ở Los Angeles." Dù câu nói vốn chẳng đáng bận tâm, nó vẫn đeo đẳng tâm trí tôi suốt một thời gian dài đến khó chịu. Dường như không điều gì khác còn đáng kể nữa. Từ chuyện tôi mười tám và giờ đã là tháng Mười hai, chuyến bay lại khá xóc và đôi tình nhân đến từ Santa Barbara ngơi đối diện tôi trên khoang hạng nhất thì đã ngà ngà say. Từ mảng bùn bắn lên ống quần jeans của tôi hồi sớm tại một phi trường ở New Hampshire, khiến tôi thấy vừa lạnh vừa lùng nhùng sao đó. Từ vết ố trên tay áo sơ mi ẩm ướt và nhàu nhĩ tôi đang mặc, chiếc áo mới sáng nay còn mới tinh, sạch sẽ. Từ chỗ rách trên cổ chiếc áo khoác ca rô xám của tôi, chiếc áo có chút gì đậm hơi hướng miền Đông hơn trước, đặc biệt là bên chiếc quần jeans bó và cái áo phông xanh nhạt của Blair. Tất thảy như vô nghĩa bên cạnh mỗi một câu nói ấy. Dường như vụ dân tình sợ nhập làn xa lộ nghe lọt tai hơn chuyện "Em dám chắc Muriel bị biếng ăn tâm lý" hay tiếng cô ca sĩ trên đài gào thét về sóng điện từ. Dường như với tôi, chẳng còn gì đáng kể ngoài mười hai từ ấy. Từ những cơn gió ấm như đang đẩy chiếc xe trôi xuống con đường nhựa vắng tanh cho đến mùi cần sa đã nhạt vẫn phảng phất trong xe Blair. Tất cả những gì đọng lại đó là cái thằng tôi trở về nhà trong một tháng, gặp một người tôi không thấy mặt đã bốn tháng và thiên hạ sợ phải nhập làn trên xa lộ. Blair lái xe rời xa lộ và gặp đèn đỏ. Một cơn gió dữ dội làm chiếc xe rung lên trong thoáng chốc, rồi Blair mỉm cười nói gì đó về chuyện có lẽ phải nâng mui xe cao hơn và chuyển sang kênh phát thanh khác. Trên đường về, Blair phải dừng xe vì có năm công nhân đang khênh những xác cọ bị gió giật đổ, nhét lá cây cùng những mẩu vỏ cây chết lên một xe tải lớn màu đỏ, Blair lại mỉm cười. Cô dừng xe trước nhà tôi, cổng nhà để ngỏ, rồi tôi ra khỏi xe, ngạc nhiên khi nhận thấy tiết trời khô nóng đến độ nào. Tôi đứng đó một lúc khá lâu, Blair cười toe toét hỏi, "Sao thế?" sau khi đã phụ tôi nhấc các va li ra khỏi khoang hành lý, tôi liền nói, "Không" và Blair bảo, "Trông anh nhợt nhạt quá," thế là tôi nhún vai, rồi chúng tôi chào tạm biệt và cô lên xe lái đi. Không có ai ở nhà. Điều hòa đang chạy và căn nhà tỏa ra mùi gỗ thông. Trên bàn bếp có mẩu giấy nhắn cho biết mẹ và các em gái đang đi sắm sửa cho Giáng sinh. Từ chỗ đứng, tôi trông thấy con chó đang nằm ngủ cạnh bể bơi, thở phì phì, bộ lông gợn sóng trước gió. Tôi bước lên lầu, đi ngang qua cô phục vụ mới, cô này mỉm cười và có vẻ như đã biết tôi là ai, rồi tôi đi qua phòng các em, hai phòng trông vẫn giống hệt nhau, chỉ những mẫu báo cắt ra từ GQ 2 dán trên tường là khác, rồi tôi vào phòng mình, nhận thấy không có gì thay đổi. Tường vẫn màu trắng, các đĩa hát vẫn nằm đúng vị trí, ti vi chưa hề bị dịch chuyển, cửa chớp vẫn để mở đúng như khi tôi rời đi. Có vẻ như mẹ và ả phục vụ mới, hoặc ả phục vụ cũ, đã dọn sạch tủ tường khi tôi vắng nhà. Trên chồng truyện tranh chất ở bàn có mẩu giấy nhắn, "Vẫn cần đống truyện này hả con?" ngoài ra còn có tin nhắn cho biết Julian đã gọi và một tấm thiệp với dòng chữ "Mẹ kiếp Giáng sinh." Tôi mở thiệp ra, trong đó viết "Nào ta cùng đú với Giáng sinh," lời mời dự tiệc Giáng sinh của Blair. Tôi bỏ thiệp xuống, nhận thấy không khí trong phòng đã bắt đầu lạnh thực sự. Tôi tháo giày, lên giường nằm, sờ trán xem mình có sốt không. Tôi nghĩ là có. Rồi vẫn đặt tay trên trán, tôi ngước lên săm soi tấm áp phích lồng kính treo trên bức tường phía đầu giường, nhưng cả nó cũng vẫn y như cũ. Đó là áp phích quảng cáo cho một đĩa hát cũ của Elvis Costello. Elvis nhìn qua tôi, nhếch môi cười mỉa mai, mắt đăm đăm hướng ra ngoài cửa sổ. Từ "Trust" 3 lơ lửng trên đầu ông, cặp kính râm bên xanh bên đỏ của ông bị kéo xệch xuống dưới sống mũi để ta có thể thấy đôi mắt ông, chúng hơi lệch tâm. Nhưng đôi mắt ấy không nhìn tôi. Chúng chỉ nhìn bất cứ ai đứng bên cửa sổ, mà tôi thì chẳng còn hơi sức đâu mà nhổm dậy đứng bên cửa sổ. ... Mời các bạn đón đọc Như Không Hề Có của tác giả Bret Easton Ellis.
Công Chúa - D. H. Lawrence
"Công chúa" là tác phẩm chứa đựng đầy đủ những tư tưởng sáng tạo của D.H.Lawrence, một câu chuyện vừa kỳ quái vừa đẹp mê hồn. D.H. Lawrence là một tác giả luôn gây nên những sửng sốt. Là một người luôn có ham muốn tột cùng về việc khám phá thế giới nhân bản của loài người, ông đã kiến tạo nên những tác phẩm chấn động thời đại, với những tư tưởng bạo liệt, đam mê, nhưng cũng đầy dịu dàng, trắc ẩn và đẹp đến mê hồn về bản năng, khao khát, tình yêu và dục tính của con người. Một người con gái chịu ảnh hưởng nặng nề của người cha cuồng tín tin mình là một người cao quý, thuần khiết, thượng đẳng. Cô sống trong một thế giới thần tiên, luôn hành xử nhã nhặn, thanh khiết, tin rằng cô hoàn toàn khác biệt so với những người khác. Thế giới của cô chỉ luôn tồn tại mơ mộng, cùng với người cha thân thiết, tận tụy. Thế giới ấy là một thế giới không vương chút bụi trần, và cô mãi là một cô công chúa trinh nguyên. Tuy nhiên, cho sau khi cha cô qua đời, cô bắt đầu đặt những câu hỏi về thế giới. Đến lúc cô nghĩ rằng mình muốn kết hôn, để hôn nhân là cây cầu nối cô với đời sống, như những người bình thường khác. Trong cuộc tìm kiếm bản thể của mình, công chúa đã thất bại. Sự thất bại của nàng, khiến cho mối xung đột trong câu chuyện vẫn tồn tại một cách bất lực. *** Tinh hoa văn học của nhân loại nào cũng cần được khám phá và tái khám phá. Mỗi tác phẩm lớn là một xứ sở kỳ diệu và mỗi lần ta tìm đến là thực hiện một cuộc phiêu lưu hoan lạc. Dịch thuật, giới thiệu và biên khảo về những tác phẩm tinh hoa sẽ mở ra các lối cổng dẫn vào những cảnh tượng văn chương khác nhau, qua những không gian và thời gian vừa hiện thực vừa kỳ ảo. Khát vọng hiểu biết và vui thú trong đời là bản tính của con người ở mọi nơi và mọi thời. Các tác phẩm văn chương thật sự vĩ đại đều mang lại hai điều đó: vui thú và hiểu biết. Nhưng hiểu biết là niềm vui hiếm khi tự đến một cách dễ dãi. Cần đón đợi và hồi đáp.> Mọi tác phẩm tinh hoa cần được đón đợi và hồi đáp trong niềm hân hoan có tên là “ĐỌC”. ĐỌC. Cầm sách lên và đọc. Trong sách có bạn hiền, có người đẹp, có mọi thứ. Do vậy, chúng tôi chủ trương TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC, xem đó như cửa ngõ của hiểu biết và niềm vui. CÓ NĂM CỬA: - Kiệt Tác: Mỗi Kiệt tác sẽ được dịch trọn vẹn và giới thiệu cả tác giả lẫn tác phẩm trong phối cảnh văn hóa những đặc điểm thiết yếu. - Tuyển: Tuyển chọn những tác phẩm ngắn của một tác giả, một nền văn học hay một chủ đề mang tính điển mẫu (thuộc vòng đời hay vòng mùa) - Kiến Thức: Những kiến thức mà người đọc hiện đại cần có: trào lưu văn học, các nền văn học, thể loại... được trình bày gọn nhẹ, dễ tiếp nhận. - Nghiên Cứu: Các công trình chuyên sâu về một vấn đề văn học, một tác giả thiên tài, lý luận phê bình... - Mới: Về các hiện tượng văn học mới xuất hiện của nước ngoài đang gây chú ý hoặc đoạt các giải thưởng lớn... Mong ước chúng tôi là TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC sẽ tiến bước bền vững và được đón nhận thân tình. Tủ sách được biên soạn và dịch thuật từ những nhà giáo, dịch giả và nhà nghiên cứu có uy tín và tâm huyết với văn chương. Nhật Chiêu Mời các bạn đón đọc Công Chúa của tác giả D. H. Lawrence.