Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trang

Trang, một bé gái mồ côi người Trung Hoa được một gia đình người Do Thái mua về để bầu bạn học hành với David, cậu con trai của chủ nhà. Tình yêu trong sáng đã nảy sinh và phát triển cùng với tuổi ấu thơ và thời hoa niên của họ. Do trở ngại bởi tôn giáo, bởi đẳng cấp và thành kiến dân tộc, mối tình giữa Trang và David trở thành vô vọng. Nàng bèn tìm mọi cách để bảo vệ tình yêu ban đầu của mình, quyết đấu tranh để được sống chung dưới một mái nhà với chàng, dù chỉ với tư cách là một tì nữ. *** Sau khi được trao tặng giải thưởng Nobel năm 1938, tên tuổi nữ văn hào Mỹ Pearl S. Buck đã trở nên quen thuộc và thân thiết với bạn đọc trên khắp thế giới. Pearl S. Buck (1892 – 1973) là một nhà nhân văn lớn. Bà sống và gắn bó với đất nước Trung Hoa nói riêng và phương Đông nói chung gần như suốt cuộc đời. Với trí tuệ sắc sảo và trái tim nhạy cảm, bà đã miêu tả xã hội Trung Quốc ở nhiều thời đại và bình diện khác nhau qua các tiểu thuyết nổi tiếng, trong đó có Bà Vua – hay còn gọi là Người cung nữ (Imperial Woman) và Trang (Peony)… Nhân vật chính trong tiểu thuyết không phải là một bà hoàng đầy quyền uy và tham vọng như Từ Hi Thái hậu; cũng không phải là một tiểu thư khuê các, diễm kiều chốn Hoàng cung mà chỉ là một nữ tì Trung Hoa trong gia đình thương gia Do Thái giàu có. Tình yêu trong sáng giữa Trang và Đavít (con trai ông chủ) nảy sinh và phát triển cùng với tuổi thơ ấu và hoa niên của họ. Song mộng mơ của tuổi trẻ đã vấp phải những trở lực vô hình mà vô cùng nghiệt ngã của tôn giáo, đẳng cấp và thành kiến dân tộc. Bao đau đớn, dằt vặt đã vò xé cõi lòng người thiếu nữ tài sắc vẹn toàn. Nàng tìm mọi cách để bảo vệ tình yêu ban đầu và duy nhất của mình. Nàng luôn phải đối phó với những hoàn cảnh éo le, ngang trái, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để được sống chung với chàng dưới một mái nhà - dù chỉ với tư cách là một nữ tì. Suốt đời, Trang âm thầm hy sinh cho quyền lợi của mọi người. Còn nàng, nàng đã tìm cho mình một nơi ẩn thân yên tĩnh, thâm nghiêm: nhà chùa, để gìn giữ trọn vẹn những kỷ niệm sâu sắc về mối tình đầu thiêng liêng - kho báu vô giá của nàng. Mối tình âm thầm mà thiết tha, cháy bỏng và thanh khiết tuyệt vời giữa Trang và Đavít là bài học bổ ích cho mỗi chúng ta. Qua mỗi trang viết, tác giả dẫn dắt người đọc đi sâu vào thế giới phong phú, đa dạng đầy hương vị ngọt ngào cùng cay đắng của tình yêu. Tác giả khiến chúng ta rung động thực sự trước tâm hồn cao quí của Trang. Qua nhân vật này, bà khẳng định chắc chắn rằng: nhân cách con người không phải do địa vị xã hội và tiền tài quyết định. Với những cống hiến to lớn trong lãnh vực văn chương, Pearl S. Buck đã góp phần giúp nhân loại ngày càng hiểu và xích lại gần nhau trong tinh thần Hòa Bình và Nhân Bản. Thành phố Hồ Chí Minh, Xuân Kỷ Tỵ Giáo sư Lê Trí Viễn *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng. Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** Như vậy, ông Era đã chết. Người ta chôn cất ông bên cạnh mộ phần thân phụ ông và bên dưới là nơi mà thân xác bà Era đã hòa lẫn cùng đất cát Trung Hoa. Đavít xúc động nghĩ đến điều đó khi chàng đứng trên miệng huyệt cha chàng. Chàng nghĩ đến mẹ chàng, một người đàn bà có cá tính đặc biệt, đã tạo nhiều ảnh hưởng trong đời chàng và đến nay những ảnh hưởng ấy vẫn còn tồn tại. Cuộc chiến đấu mà bà theo đuổi suốt đời để tách rời chính mình và gia đình mình sống riêng rẽ như những người Do Thái chân chính, bây giờ đã chấm dứt. Sự chết đã thắng bà. Chiều nay trên đồi, không khí mát dịu, Đavít không thể dửng dưng với đoàn người đông đảo đã đưa cha chàng ra đến mộ phần. Đavít thầm tiếc không có mặt mẹ chàng để bà nhìn thấy lòng tốt của đám bạn hữu cha chàng, họ đi đưa đông đến nỗi đám tang chẳng khác nào đám tang của một vị thượng quan người Trung Hoa; thật không có chút gì có vẻ là Do Thái cả. Chỉ có một mình Đavít là còn giữ nguyên trong lòng những ý niệm về nguồn gốc, dòng giống. Lần đầu tiên trong đời chàng, Đavít hiểu tại sao mẹ chàng đã ao ước đến cuồng nhiệt được trở về cố quốc và được chôn cất ở đấy. Chắc chắn bà đã biết rõ, như bà đã biết rõ nhiều điều mà không nói ra, rằng nếu bà chết ở đây, tro bụi của thân xác bà sẽ trộn lẫn cùng đất cát của xứ ngoại quốc này. Năm thành phố chồng chất lên nhau dưới lòng đất nơi Đavít đang đứng. Nhiều thế hệ kế tiếp, đã xây dựng các thành phố ấy, cái này chồng lên cái kia; tại miền đất cổ xưa này, người ta không thể đào quá sâu mà không gặp các người xưa đã chết. Cha mẹ chàng hẳn đã bị buộc chặt vào mảnh đất này cùng với các người khác, và không bao giờ họ còn có thể thuộc về một dân tộc riêng biệt. Tiếng tụng niệm ê a của các sư sãi đã làm cho Đavít đau nhói trong lòng. Quả thật Đavít muốn từ chối khi vị sư già chùa Kim Phật đến nghiêng mình trước vong linh người chết; chàng đã hết lòng giải thích rằng Phật giáo không phải là tôn giáo của cha chàng. Với tất cả sự nhã nhặn, chàng cố nói cho sư cụ hiểu rằng, không nên tụng kinh Phật trước mộ huyệt của cha chàng. Mời các bạn đón đọc Trang của tác giả Pearl S. Buck.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cậu Ấm Ngây Thơ - Natsume Soseki
Natsume Soseki (1867 - 1916) là nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận văn học và chuyên gia văn học Anh. Ông sinh ngày 9-2-1867 trong một gia đình Danh chú (“Nanushi"- một loại cường hào địa phương thời phong kiến) tại Tokyo. Tên chính thức của ông là Natsume Kinnosuke (Na-chư-mê Kin-nô-su-ke). Bút danh Soseki chữ Hán là “sấu thạch” có nghĩa là súc miệng bằng đá, lấy từ điền tích “sấu thạch trầm lim” của Trung Quốc, mang ý nghĩa là kiên cường, cứng rắn. Bút danh này có từ sau năm 1889, khi ông gặp Masaoka Shiki, người bạn thân thiết nhất, có ảnh hưởng quyết định đến con người và văn học của Soseki. (Masaoka Shiki (1867 - 1902) là nhà thơ nổi tiếng của Nhật Bản). Ngay sau khi ra đời, Soseki đã bị cho đi làm con nuôi một gia đình thương gia nghèo nên không được nuôi nấng, chăm sóc đầy đủ. Thấy thế, gia đình cha mẹ đẻ đưa ông về, rồi lại cho làm con nuôi một gia đình khác. Cho đến năm 21 tuổi, Soseki mới trở lại nhập tịch gia đình Natsume. Thời kỳ học tiểu học, ông phải chuyển hết trường nọ đến trường kia. Năm 12 tuổi Soseki vào học trường trung học công lập tỉnh Tokyo. Ông bỏ dở năm thứ 2 trung kọc để theo học Hán học trường tư thục. Ở đây, ông đã học được nhiều văn thơ Đường, Tống, Hán thư, sử thư và văn hóa cổ điển Trung Quốc, có ảnh hưởng lớn đến văn học của ông sau này về văn phong, về tư tưởng, giá trị thẩm mỹ v.v... Năm 1883, Soseki lại bỏ Hán học, theo học trường tiếng Anh tư thục để chuẩn bị vào trường dự bị đại học. Năm 1884, Soseki vào trường dự bị đại học. Trong thời gian học dự bị, ông đã từng bị bệnh, không thể đi dự thi, đã từng đi dạy cho các trường tư thục để trang trải học phí. Năm 1890, Soseki vào học trường Đại học đế quốc Tokyo (tiền thân của Đại học Tokyo ngày nay), là trường quốc lập mới mở trước đó không lâu. Ổng bắt đầu sáng tác thơ từ thời sinh viên. Năm 1893, Soseki tốt nghiệp khoa văn trường đại học Tokyo. Ông được bổ nhiệm làm giáo viên tiếng Anh trường cao đẳng sư phạm Tokyo. Ngay sau đó ông bị bệnh lao phổi và bệnh suy nhược thần kinh nặng. Để chạy trốn khỏi Tokyo nhằm dưỡng bệnh, năm 1895, ông thôi dạy ở trường cao đẳng, chuyển đến trường trung học Matsuyama, tỉnh Ehime, quê hương của Shiki. Chính trường trung học này là bối cảnh và đề tài để mười năm sau ông viết tác phẩm “Cậu ấm ngây thơ” (Bốt chang) vào năm 1906. Từ 1896, Soseki được bổ nhiệm làm giáo viên tiếng Anh trường cao đẳng số 5 ở tỉnh Kumamoto. Năm 1900, Soseki được Bộ Giáo dục Nhật Bản cứ đi nghiên cứu văn học Anh 2 năm ở Luân Đôn. Năm 1903, về nước ông được bổ nhiệm dạy tại trường cao đẳng số I, đồng thời dạy văn học Anh tại trường đại học Tokyo. Việc dạy lý luận văn học Anh ở Đại học Tokyo gặp trục trặc làm cho bệnh suy nhược thần kinh và tình trạng tinh thần của Soseki trở nên trầm trọng. Theo lời khuyên của Takahama Kyosi, chú bút tạp chí "Chim Tứ Quý”, Soseki sáng tác tiểu thuyết để thư giãn tinh thần. Truyện “Tôi là cơn mèo” ra đời, lập tức được hoan nghênh nồng nhiệt và bệnh tình của ông cũng thuyên giảm. Từ đó, Soseki có ý định đi theo nghề viết văn. Ổng viết tiếp “Tháp Luân Đôn” rồi “Cậu ấm ngây thơ”, tất cả đều là những kiệt tác, xác lập chỗ đứng chắc chắn của ông trên văn đàn. Tháng 2-1907, được báo Asihi mời, ông bỏ hẳn nghề giáo viên, vào làm ờ báo Asihi, chuyên viết tiểu thuyết và sáng tác văn học cho đến khi qua đời vào ngày 9-12-1916. Cuộc đời 49 năm với 10 năm viết văn chuyên nghiệp, Natsume Soseki đã để lại nhiều kiệt tác, trong đó có các tác phẩm tiêu biểu là: Cuộc nổi loạn ngoạn mục Ngày 210 Nỗi Lòng “Tôi là con mèo", 1907 “Tháp Luân Đôn”, 1904 “Cậu ấm ngây thơ”, 1906 ‘Hoa thuốc phiện’’, 1907 “Gối Đầu Lên Cỏ”, 1907 “Chàng trai Sanshiro", 1908 ‘Tù đó", 1909 “Cái cổng", 1910 “Người đi đường", 1912 -1913 “Cỏ ven đường", 1915 “Sáng tối", 1916 Ngoài ra, ông còn để lại nhiều tác phẩm lý luận văn học và thơ. Natsume Soseki là một nhà văn, nhà thơ, nhà trí thức đa dạng, có thiên tài đặc biệt. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông có nhiều nét độc đáo mà Kenzaburo Oe đã gọi là “một hiện tượng lạ lùng hiếm có của văn học Nhật Bản”. Ông có khả năng sáng tác phong phú, đa dạng. Cùng một lúc ông viết nhiều tác phẩm khác nhau về đề tài, về văn phong, về bối cảnh, về không gian và thời gian: từ xã hội châu Âu thời trung cổ cho đến một trường học ở nông thôn Nhật Bản đương thời; từ câu văn cầu kỳ điêu luyện đầy tu từ cho đến những câu văn nói rõ ràng, đơn giản. Từ nội dung đả kích châm biếm chua cay đến tình yêu tuổi trẻ đầy thơ mộng, trữ tình... Là nhà thơ, ông nắm bắt được những động tĩnh kỳ diệu của tình cảm con người trước thiên nhiên, trong cuộc sống hàng ngày. Thơ ông vượt lên trên lĩnh vực vẽ tranh bằng thơ, nó đạt tới trình độ là những bức khắc họa hiện thực cuộc sống. Là nhà tiểu thuyết, ông đã xây dựng thành công một hình thức tiểu thuyết tâm lý, mượn hình thức của văn học phương Tây để viết bằng tiếng Nhật. Tiểu thuyết của ông miêu tả tỉ mỉ mọi tâm lý, tính cách, giá trị quan, cách suy nghĩ cúa từng cá nhân trong cuộc sống đời thường. Qua những vấn đề nội tại sâu sắc, về lý luận, về sự cắn rứt lương tâm v.v... ông đề cập đến cái chung là cách sống của con người, tư tưởng của thời đại. Văn phong của ông giản dị, khúc chiết, hư cấu chặt chẽ nên có sức lôi cuốn rộng rãi. Ông đã đạt tới đỉnh cao nhất của nghệ thuật tiểu thuyết tâm lý Nhật Bản mà từ sau ông chưa có ai đuổi kịp. Natsume Soseki là một văn mới tiêu biểu của văn học Nhật Bản. Ông là người có vai trò chù chốt trong nền văn học cận và hiện đại Nhật Bản, là nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất trong toàn bộ thời kỳ tiến hành công cuộc hiện đại hóa của Nhật. Nhiều đệ tử và học trò của ông đã trở thành các nhà trí thức, nhà văn, nhà chính trị nổi tiếng của Nhật Bản. Ông là nhà văn của đại chúng. Tác phẩm của ông được mọi tầng lớp, mọi thế hệ độc giả yêu thích. Ông nổi tiếng từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên. Cùng thời với ông, trong khi tác phẩm của các nhà văn khác chỉ xuất bản hàng trăm số thì tác phẩm của ông luôn xuất bản hàng vạn số. Tác phẩm của ông còn được đọc nhiều hơn qua suốt thời đại Chiêu Hòa (1925 - 1989) và cho đến nay, ông vẫn là một trong những tác gia có nhiều độc giả nhất. Năm 1984, đánh dấu mốc lịch sử 100 năm công cuộc hiện đại hóa Nhật Bản, chính phủ Nhật Bản đa chọn 3 nhà trí thức tiêu biểu, có ảnh hướng lớn đối với xã hội để in ảnh trên giấy bạc. Một trong ba người đó là Natsume Soseki. (Bạc giấy của Nhật Bản lúc đó có 3 loại là: tờ mệnh giá 1.000 yên, tờ 5.000 yên và tờ 10.000 yên). Ảnh Natsume Soseki được in trên tờ mệnh giá 1.000 yên. Cùng với "Cậu ấm ngây thơ” (“Bốt chang”), tên tuổi và hình ảnh Natsume Soseki rất gần gũi, thân thuộc với người dân Nhật Bản. *** Về tác phẩm “CẬU ẤM NGÂY THƠ": Tên tác phẩm này trong nguyên bản tiếng Nhật là “Bốt chang" (Botchan). “Bốt chang” là một từ dùng để chỉ một người nam giới có một địa vị tương đối hoặc là con nhà giàu sang quyền quý, có danh giá nhất định trong xã hội. Nghĩa này tương ứng với “cậu ấm”, “công tử’’ trong tiếng Việt. Người Nhật thường dùng từ “bốt chang” để gọi con trai của người khác, với ý nghĩa tôn trọng, đề cao, hơi có ý lấy lòng đối phương, kiểu như trong tiếng Việt chúng ta gọi “cậu nhà”, “quý tử" v.v... “Bốt chang” còn được dùng để gọi một cách chế giễu những người con trai được nuôi dưỡng trong môi trường nhung lụa, được nuông chiều, nên ít hiểu biết cuộc đời, ngây thơ, khờ khạo trước thực tế cuộc sống v.v... Natsume Soseki lấy “Bốt chang” làm nhan dề và nhân vật chính cho cuốn tiểu thuyết (truyện vừa) vui vẻ, hài hước, này. (Trong bản dịch, từ này được dịch là "cậu nhỏ” hay “cậu”, là đại tử nhân xưng mà nhân vật bà Ki-yô vẫn gọi nhân vật chính - nhân vật “tôi”). Tác phẩm đăng lần đầu tiên trên tạp chí Hototogisu (Chim tứ quý) năm 1906. Theo nhà phê bình văn học Eto Jun thì Natsume Soseki viết tác phẩm này vào khoảng tháng 3- 1906, chỉ trong khoảng trên dưới hai tuần lễ. Bản thảo của ông rất ít vết tẩy xóa, càng về sau chữ càng viết to, chứng tỏ ông viết rất hào hứng theo cảm hứng tự phát. Bối cảnh của truyện lấy nguyên mẫu từ trường trung học Matsuyama, nơi ông đã dạy học một năm (năm 1895 - 1896). Một số địa điểm và sự vật trong truyện cũng lấy nguyên mẫu từ trong thực tế. Có những tên người, sự vật, sự kiện được giữ nguyên, có địa điểm, địa danh thì được đặt tên khác. Từ sau khi tác phẩm ra đời, nhiều cái trong thực tế đã được gọi tên theo truyện. Ví dụ: ‘Tàu hỏa Bốt chang”, “Nước nóng Bốt chang”, “Bánh trôi Bốt chang”, “Đảo Turner" v.v... Nhà tắm nước nóng Dogo ở thành phố Matsuyama tỉnh Ehime mà trong truyện gọi là “suối nước nóng Sumita” hiện nay là một di tích xếp hạng di sản quốc gia của Nhật Bản và được gọi là “Suối nước nóng Bốt chang". Có thể nói “Bốt chang" đã đi vào cuộc sống gần gũi thân quen với người Nhật Bản như một nét tự nhiên. Trong cuộc sống hàng ngày, ngoài đồng tiền có in ảnh tác giả, thỉnh thoảng người ta vẫn được nghe nhắc đến “Bốt chang" và Natsume Soseki mỗi khi có những sự kiện đặc biệt xảy ra về thời cuộc, thời tiết, khí hậu.... Vì sao Natsume Soseki và “Bốt chang” lại thân thuộc với người Nhật như vậy? Có lẽ để hiểu được tất cả điều này, cần phải biết nhiều hơn nữa về văn hóa, lịch sử, về tâm lý, tính cách của người Nhật Bản chăng? Bởi vì Nhật Bản là đất nước của thơ Haiku, của một dân tộc thích tranh biếm họa và man-ga. Truyện “”Bốt chang“” không chỉ có nội dung vui vẻ, hài hước, mới mẻ, sảng khoái. Có lẽ nó còn ẩn chứa cái gì như là ước mơ, tinh thần thời đại, và có thể cả tâm tư, tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm?. Ngoài ra, nó không chỉ lôi cuốn các thế hệ độc giả Nhật Bản bằng nội dung, cốt truyện, mà cái chính là bởi văn phong tuyệt vời, một giọng điệu tươi vui, giòn giã, mang đậm phong cách ngôn ngữ đời thường của người dân Eđô. Đó là sức hấp dẫn đặc biệt của một thiên tài duy nhất trong tiếng Nhật hiện đại. Với bản dịch tiếng Việt “Cậu ấm ngây thơ”, người dịch hy vọng đem lại cho bạn đọc Việt Nam những khoảnh khắc thư giãn khi theo dõi bước đi, suy nghĩ và hành động dại khờ nhưng đầy trong sáng, lành mạnh của “Bốt chang”. Và nếu đọc xong "Bốt chang”, các bạn hiểu thêm một chút nào về văn học, văn hóa và con người Nhật Bản thì đó là mong ước và niềm vui của người dịch. Osaka tháng 2 năm 2006 Người dịch Bùi Thị Loan Mời các bạn đón đọc Cậu Ấm Ngây Thơ của tác giả Natsume Soseki,
Bản Giao Hưởng Pháp - Iréne Némirovsky
Nước Pháp những năm 1940. Sau một mùa hè tản cư rối loạn, đầy kinh hãi và cả đớn hèn, người dân bắt đầu bước vào thời kỳ buộc phải chung sống cùng quân Đức. Nghịch lý thay, giai đoạn tưởng chừng ngập tràn khiếp sợ này lại diễn ra hết sức êm đềm với những tình cảm con người trìu mến, trong đó có những mối tình thầm lặng, trong sáng, lãng mạn, ngập tràn chất thơ… Bản giao hưởng Pháp được hết thảy giới nhà văn, nghiên cứu,phê bình, giới truyền thông và tất cả những ai từng đọc nó trên toàn thế giớ tôn vinh như một viên ngọc quý của nền văn học. Dù còn dang dở, song kiệt tác này vẫn “kịp” miêu tả thành công cái nền chân thực của một tấn trò đời thời chiến, ở đó, toàn bộ tài năng của tiểu thuyết gia được bộc lộ thông qua nhân vật trong vô số gương mặt thuộc mọi giai tầng khác nhau. Đó chính là lý do giải thich vì sao Irène Némirovsky được coi như một văn sĩ hiếm hoi đã diễn tả đầy sức mạnh và sinh động cuộc sống hậu phương thời chiến ở một tầm vóc sử thi. Và khiến bà trở thành nhà văn quá cố duy nhất cho tới lúc này giành được giải Renaudot - một trong những giải thưởng văn học uy tín nhất của Pháp. … Khi anh trở về, vào giờ ăn xúp, anh thấy ngay lập tức là đã có một sự kiện xảy ra trong khi anh vắng mặt. Cậu bé người làm đi lên thị trấn mua bánh mì; cậu ta mang về bốn cái bánh mì đẹp đẽ vàng ruộm hình vòng treo ở ghi đông xe đạp; đám phụ nữ vây quanh cậu. Nhìn thấy Jean-Marie, một cô gái kêu lên với anh: - Này! Anh Mi chaud, anh hài lòng nhé, bưu điện hoạt động rồi. - Không thể thế được, - Jean-Marie nói, cậu, - cậu có chắc không, cậu bạn? - Chắc. Em thấy bưu điện mở cửa và có những người đọc thư. - Thế thì tớ lên nhà viết vài dòng cho gia đình tớ rồi chạy ra thị trấn bỏ thư đây. Cậu cho tớ muợn xe đạp của cậu được chứ? Đến thị trấn, anh không chỉ bỏ thư ở bưu điện mà còn mua những tờ báo vừa mới tới. Tất cả những cái đó thật là kỳ cục! Anh giống như một kẻ đắm tàu tìm lại được quê hương, nền văn minh, xã hội của những kẻ giống mình. Trên quảng trường nhỏ mọi người đọc những bức thư tới trong chuyến thư buổi tối; đám phụ nữ khóc. Nhiều tù binh gửi tin tức về, nhưng họ cũng cho biết tên các đồng đội đã chết. Như mọi người ở trang trại đã yêu cầu anh, anh bèn hỏi có ai biết anh con trai Benoit ở đâu không. - A! Thế ra anh là anh lĩnh sống ở đấy đó à? - mấy bà nông dân nói, - Chúng tôi thì chẳng biết gì đâu, nhưng bây giờ thư từ đến rồi, chúng ta sẽ biết những người đàn ông của chúng ta ở đâu! Và một trong những người này, một bà già, để đi ra thị trấn, đã đội một chiếc mũ đen nhỏ chóp nhọn, cài một bông hồng trên đỉnh đầu, vừa nói vừa khóc: - Sẽ có những người biết tin khá sớm đấy. Tôi muốn thà đừng nhận được tờ giấy chết tiệt này còn hơn. Thằng con tôi là thuỷ thủ trên chiếc Bretagne đã bị mất tích khi người Anh phóng ngư lôi vào tàu, người ta bảo thế. Thật là khốn khổ! - Bà đừng đau buồn. Mất tích không có nghĩa là chết. Có thể anh ấy bị bắt làm tù binh ở Anh. Nhưng đáp lại tất cả những lời an ủi, bà vừa chậm rãi trả lời vừa lắc đầu và bông hoa giả rung lên theo từng cử động trên chiếc cọng bằng dây đồng. - Không, không, thế là thôi rồi, thằng bé tội nghiệp của tôi! Thật là khốn khổ… Jean-Marie lên đường về làng. Dọc đường anh gặp Cécile và Madeleine đi ngược về phía anh; hai cô hỏi cùng một lúc: - Anh có biết tin gì về anh trai của em không? Anh có biết tin gì về Benoit không? - Không, nhưngđiều đó không có nghĩa gì hết. Các cô có biết là có bao nhiêu thư từ bị chậm trễ không? Bà mẹ thì không nói gì. Bà đưa bàn tay vàng vọt và gầy guộc lên che mắt, nhìn anh, anh lắc đầu ra hiệu là không. Xúp đặt trên bàn, những người đàn ông trở về, tất cả cùng ăn. Sau bữa ăn tối và khi bát đĩa đã được lau khô, gian phòng đã được quét dọn, Madeleine đi hái đậu ngoài vườn. Jean-Marie đi theo cô. Anh nghĩ là chẳng bao lâu nữa anh sẽ rời trang trại và tất cả dưới mắt anh trở nên đẹp hơn, thanh bình hơn… *** - “Sau nhật ký của Anne Frank, có thể coi Bản giao hưởng Pháp của Irène Némirovsky là một sự kiện lớn, độc đáo cả về khía cạnh văn học lẫn lịch sử. Một kiệt tác” – L’Express - “Tuyệt vời! Một tác phẩm ngnag tầm và đạt đến độ tinh tế như những tác phẩm của Marcel Proust, với những diễn biến khôi hài và cảm động sâu sắc” – Time - “Siêu việt, đáng kinh ngạc… có thể coi tác phẩm này của Irène Némirovsky là cuốn tiểu thuyết vĩ đại cuối cùng hư cấu về chủ đề chiến tranh” – The Pittsburgh Post-Gazette. *** Iréne Némirovsky sinh năm 1903 tại Kiev. Sau nhiều năm phiêu bạt ở Phần Lan và Thụy Điển, bà đến Paris. Say mê văn chương, thành thạo bảy ngoại ngữ cùng vốn sống phong phú bà có nhiều tác phẩm được xuất bản và đã trở thành một hiện tượng văn học đặc biệt. Sau đó, bà trở thành nạn  nhân của chính sách bài Do Thái do phát xít Đức tiến hành. Năm 1942, Irène Némirovsky bị đày đến Auschwitz và bị ám sát ở đó. Năm 2004, Denise Epstein, con gái đầu lòng của Irène Némirovsky khi đó ở tuổi bảy mươi tư, mới quyết định cho in Bản giao hưởng Pháp - tác phẩm được mẹ bà dự định viết thành năm phần với số lượng nhân vật đông đảo, với những tình tiết thắt-mở nút bất ngờ xoay quanh mối quan hệ giữa các nhân vật ấy trong thời kỳ Thế Chiến II.   Mời các bạn đón đọc Bản Giao Hưởng Pháp của tác giả Iréne Némirovsky.
Ma Cà Rồng Và Em Tập 1 - Shin Ji-Eun
Ma cà rồng không phải là một đề tài mới của văn chương thế giới những năm gần đây. Thế nhưng “Ma cà rồng và Em”, cuốn sách mới của tác giả Shin Ji-Eun vẫn có một sức thu hút nhất định. Có lẽ vì nữ tác giả trẻ tuổi đã chọn một cách thể hiện câu chuyện gần gũi, dễ hấp dẫn độc giả trẻ. Phiêu lưu, bí hiểm và đậm chất lãng mạn, “Ma cà rồng và Em” với tạo hình hai nhân vật chính, Louis và Seo-Young với nét trẻ trung, cá tính nổi bật là điểm cộng đầu tiên. Tác giả Shin Ji-Eun từng thừa nhận thích phiêu lưu và các chi tiết phi thực tế nhưng trong cách xây dựng nhân vật Seo-Young, nữ tác giả lại chọn cho cô một cách xuất hiện khá giản dị, tự nhiên: một nữ sinh trung học mồ côi nhưng có lối sống vô tư, lạc quan. Riêng với nhân vật Louis, chàng thủ lĩnh ma cà rồng, tác giả người Hàn Quốc trung thành với quan điểm độc – lạ đề ra trong ngòi bút. Đẹp trai, mang cánh rộng và xuất hiện dưới ánh trăng, sự xuất hiện ấn tượng của Louis là sự báo hiệu đầy thông minh để mở ra một loạt tình huống li kỳ của câu chuyện. Để khiến thiên truyện thêm phần cuốn hút, cũng như cái cớ để diễn tiến truyện, tác giả Shin Ji-Eun sáng tạo nên hình ảnh loài hoa “ma cà rồng”. Thêm một khái niệm mới mà có lẽ Shin Ji-Eun là người đầu tiên phát hiện và phát triển với cách miêu tả đầy gợi cảm: “Cánh hoa ấy đỏ hơn máu, hương hoa ma mị tới mức thu hút bất cứ loài ma cà rồng nào. Chỉ cần nếm một chút cánh hoa cũng đủ chữa lành mọi vết thương. Người nào sở hữu bông hoa đó trong tay sẽ có quyền năng chế ngự mọi ma cà rồng”… “Ma cà rồng và em” đã có mặt tại các nhà sách trên toàn quốc. *** Shin Ji-Eun vốn là một sinh viên chuyên ngành kĩ thuật, nhưng Shin Ji-Eun lại tìm thấy sở thích trong viết lách. Cô thích bất cứ thứ gì phiêu lưu và những sự cố phi thực tế. Do đó cô đã chọn ma ca rồng là chủ đề chính trong tác phẩm này. Sau khi giành được sự ủng hộ của nhiều fan trên web, cô quyết định tiếp tục viết. Cô dự định sẽ viết nhiều tác phẩm liên quan đến ma cà rồng. *** "Ma cà rồng và em" là tác phẩm kể về câu chuyện tình lãng mạn, đầy bí hiểm giữa chàng trai thủ lĩnh ma cà rồng và nữ sinh trung học. Ma cà rồng và em là tác phẩm đầu tay của tác giả Shin Ji-Eun. Cô từng là sinh viên chuyên ngành kỹ thuật, nhưng có sở thích viết lách. Shin Ji-Eun thích những thứ phiêu lưu và các sự cố phi thực tế. Do đó, cô chọn ma ca rồng là chủ đề chính trong tác phẩm này. Sau khi giành được sự ủng hộ của nhiều fan trên web, cô quyết định tiếp tục viết nhiều tác phẩm liên quan đến chủ đề này. Ma cà rồng và em kể về câu chuyện tình đặc biệt giữa chàng trai ma cà rồng và nữ sinh trung học. Louis - ma cà rồng đẹp trai và cũng là người đứng đầu trong thế giới đầy sợ hãi. Chàng xuất hiện trở lại trong thế giới loài người để thực hiện nhiệm vụ của mình là trở thành Chúa tể loài này. Để đạt được ngôi vị, Louis phải tìm ra bí mật của hoa ma cà rồng. Seo-Young là nữ sinh trung học bình thường. Cô mồ côi, nhưng luôn sống vui vẻ, lạc quan. Một ngày, cô gặp một ma cà rồng và bị buộc thực hiện thỏa thuận. Cô bị ràng buộc bởi một hợp đồng. Cùng với Louis, cô phải tìm ra bí ẩn của “hoa ma cà rồng”. Được miêu tả rằng: “Cánh hoa ấy đỏ hơn máu, hương hoa ma mị tới mức thu hút bất cứ loài ma cà rồng nào. Chỉ cần nếm một chút cánh hoa cũng đủ chữa lành mọi vết thương. Người nào sở hữu bông hoa đó trong tay sẽ có quyền năng chế ngự mọi ma cà rồng”. Hoa ma cà rồng trở thành bí mật siêu nhiên mà Seo-Young, Louis đều muốn tìm thấy. Trong bối cảnh đó, Seo-Young phát hiện ra một chàng trai đẹp trai với đôi cánh rộng, màu đen trong bóng tối, dưới ánh trăng... Diễn biến kịch tính được miêu tả đầy đủ, chi tiết trong tiểu thuyết Ma cà rồng và em của tác giả Shin Ji-Eun. Mời các bạn đón đọc Ma Cà Rồng Và Em Tập 1 của tác giả Shin Ji-Eun.
Tiền - Thư Tuyệt Mệnh
Đúng như nhan đề, tác phẩm kinh điển ra đời năm 1984 này là câu chuyện về tiền, những kinh khủng mà tiền gây ra, những tai ương mà tiền mang lại. Nhân vật trung tâm là John Self, kẻ đã sống một đời không tiết chế. Qua lại giữa London và New York, hắn thương thảo hợp đồng, tiêu xài vung tay và thực hiện những thương vụ liều lĩnh trong thế giới phim ảnh, đồng thời quơ cào mọi thứ có thể để thỏa mãn cho khẩu vị vô độ của mình: rượu, thuốc lá, thuốc an thần, văn hóa phẩm đồi trụy, thức ăn nhanh cùng vô số thứ tàn hại sức khỏe. Được kể theo lối độc thoại và gần như không có cốt truyện, tác phẩm vẫn chiếm vị thế nổi bật bởi những phẩm chất không dễ gặp: sắc sảo lộng óc, khôi hài cùng cực và lạc quan sâu sắc. Martin Amis từng cho rằng thước đo duy nhất để xác định thành công của một nhà văn là họ có còn được đọc sau 50 năm hay không. Đến nay, 33 năm kể từ lần xuất bản đầu tiên, Tiền - Thư tuyệt mệnh vẫn chia sẻ với độc giả những mối quan ngại đương thời sâu xa. Từ thời điểm ra đời, tác phẩm được xếp vào top 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất kể từ năm 1923. *** Trong tiểu thuyết Tiền, Jonh Self là kẻ kể chuyện, chính xác là lảm nhảm những câu chuyện trời ơi đất hỡi của hắn với đầy đủ những trạng huống hỉ, nộ, ái, ố... đẩy người đọc vào một vòng tròn vòng vèo, xoay quanh cuộc di chuyển của hắn giữa London và New York. Trong Tiền, John Self là kẻ theo đuổi đam mê cá nhân với sự quan tâm thấp hoặc không hề có đối với cộng đồng rộng lớn, kéo mình qua một chu kỳ tích lũy, tiêu dùng và cuối cùng là sự thỏa mãn – mô hình hoàn hảo cho một người đàn ông trưởng thành trong thời buổi hàng hóa. Bản thân John Self là một người đàn ông được nuôi nấng trên nền văn hóa tiêu dùng, với những câu chuyện nhảy từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác một cách vô tội vạ, và anh ta dường như chính là kẻ có cách sống không có hệ tư tưởng nào.   Tiền là một cuốn sách châm biếm bậc thầy ở mọi thời đại, một cuốn sách hài hước tột bậc, thô tục khôn cùng, lấy cảm hứng từ một nghiên cứu tăm tối về sự cám dỗ của đồng tiền, với đầy những tham lam và phá hoại. Amis sở hữu một sự tinh tế thầm kín về ngôn ngữ. Thể hiện sự hâm mộ Nabokov một cách đầy tự tin, Amis chào Nabokov bằng một hệ thống tường thuật sự méo mó vô cùng đồ sộ và tinh xảo được tính toán rành mạch, thể hiện được phong cách làm chủ, đối thoại sắc bén và mạch lạc về ý nghĩa. Một cuốn sách đến hôm nay vẫn mang đậm hơi thở của thời đại, trong sự xoay sở trở mình vì tiền, loanh quanh những mối bận tâm vì tiền, sống chết vì tiền. Một cuốn sách vừa bủa vây, vừa thức tỉnh con người bởi vô vàn những lẫn lộn giữa thật giả xấu tốt. Tiền thành công không chỉ bởi đã tạo nên được một không khí xã hội luôn trong trạng thái thời thượng, mà hơn thế, Tiền còn giúp độc giả được thưởng thức một cuộc giao hoan chữ nghĩa, như một mê cung, để thỏa sức khám phá, để liên tục trải qua những cuộc sung sướng choáng ngợp mà chiêm ngưỡng tài năng của một bậc thầy ngôn ngữ. Nếu bạn yêu thích Nabokov, yêu thích dòng văn chương hậu hiện đại phá bỏ mọi nguyên lý cơ bản về câu chuyện, chấp nhận dấn thân vào một cuộc chơi đầy thách thức của từ ngữ, thì Tiền là cuốn sách không thể bỏ qua.  *** Martin Amis là một tiểu thuyết gia, nhà tiểu luận, người viết hồi ký và nhà biên kịch người Anh. Tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông là Tiền và Cánh đồng Luân Đôn. Ông đã nhận được Giải thưởng Tưởng niệm Đen James Tait cho Trải nghiệm hồi ký của mình và đã được liệt kê cho Giải thưởng Booker hai lần. Nhà văn Martin Amis, giống như Dostoevsky, quan tâm nhiều đến cách các nhân vật của ông nhìn thế giới như thế nào. Trong dòng chảy này, câu chuyện của Self phản ánh niêm tin của chính mình. John Self là cơ hội để tác giả tạo ra một cuộc đối thoại đa cấp với các quan điểm ý thức hệ khác nhau, được thể hiện trong chính độc thoại của nhân vật, hoặc giữa các cuộc đối thoại giữa các nhân vật.   Mời các bạn đón đọc Tiền - Thư Tuyệt Mệnh của tác giả Martin Amis.