Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

TỪ THỨC GẶP TIÊN

Ngày xưa, vào đời Trần, niên hiệu Quang Thái (1388-1398) có chàng thư sinh ở đất Hóa Châu tên   Từ Thức , giữ chức huyện Tiên Du, thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

Ngày xưa, vào đời Trần, niên hiệu Quang Thái (1388-1398) có chàng thư sinh ở đất Hóa Châu tên

 

Từ Thức

, giữ chức huyện Tiên Du, thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

Cạnh huyện đường có ngôi chùa danh tiếng, trước sân chùa có một gốc mẫu đơn quý lạ. Hàng năm đến kỳ nở hoa, người ta mở hội tưng bừng, trai gái các nơi tấp nập kéo nhau đến dự hội thưởng hoa.

Năm Bính Tỵ, vào khoảng tháng hai, người ta thấy có một cô gái tuyệt sắc trạc lối mười lăm, mười sáu tuổi đến dự hội. Nàng ít tô điểm phấn son song làn da mặt hết sức mịn màng, tươi thắm.

Để ngắm hoa được gần hơn, nàng vin một cành hoa xuống, không ngờ mẫu đơn dòn gãy dưới tay. Người giữ hoa trông thấy liền bắt nàng trói vào gốc cây. Đến xế chiều cũng không thấy có ai đến chuộc cứu nàng. Từ Thức nhân đi qua, nghe câu chuyện, động lòng thương người đẹp, bèn cởi áo cừu đang mặc đưa cho nhà chùa để bồi thường. Cô gái được thả ra ngập ngừng cảm ơn Từ Thức  rồi đi về một phía mất hút.

Từ Thức

Từ đó Từ Thức càng được dân tình mến trọng là một vị quan hiền đức. Nhưng Từ Thức  vốn thích bầu rượu, túi thơ, cây đàn hơn là chồng giấy tờ ở công đường, mải mê theo cảnh đẹp trời mây mà bỏ bê cả việc quan. Cấp trên gởi tờ khiển trách, bảo rằng ông cụ thân sinh trước kia là một vị quan đại thần, lẽ nào chàng không nối được nghiệp nhà mà giữ nổi chức tri huyện? Từ Thức thở than: “Lẽ nào chỉ vì một vài đấu thóc mà ta đành dìm thân trong chốn lợi danh! Sao bằng với một chiếc thuyền con, ta thoát khỏi vòng cương tỏa. Nước biếc non xanh sẽ không bao giờ phụ ta”!

Từ Thức

Rồi chàng trả ấn từ quan, lui về vùng núi non ở huyện Tống Sơn. Mang theo bầu rượu, cây đàn, chàng đi du ngoạn khắp mọi chốn danh lam thắng cảnh. Gặp nơi đẹp đẽ chàng dừng chân uống rượu, làm thơ. Vết chân, câu thơ của chàng ghi dấu ở nhiều nơi, núi Chích Trợ, động Lục Vân, nguồn sông Lễ, bờ Kênh Nga.

Một hôm, chàng tới cửa Thần Phù, trông ra ngoài biển thấy một lớp mây năm sắc kết thành đóa hoa sen. Chàng ngồi thuyền đến nơi, gặp nhiều núi non kỳ dị. Từ Thức  lo ngại bảo người chèo thuyền: “Ta đã đi khắp miền đông nam, biết rõ cả vùng này, nhưng chưa bao giờ nghe nói đến những núi non kỳ tú kia. Có lẽ đây là non Tiên đưa đến, hay núi Thần dời lại, không thì làm sao ta chẳng hề thấy bao giờ”?

Từ Thức

Rồi sai buộc thuyền, lên bờ. Đi được vài bước thấy sừng sững trước mặt một sườn đá cao nghìn trượng, Từ Thức thở ra: “Không có cánh làm sao mà vượt qua được”? Rồi chàng lấy bút viết lên thành đá một bài thơ.

Đang lúc mải mê ngắm cảnh, chàng bỗng thấy sườn đá mở ra một cửa hang động rộng chừng một trượng. Chàng vén áo lần vào. Vừa đi được vài bước thì cửa hang tự khép lại, chàng chìm trong bóng tối không còn biết đâu lối ra. Chàng liều chết sờ theo lớp rêu trên đá mà đi, theo một lối quanh co, được một quãng thì đường hầm dần dần mở rộng. Ra khỏi bóng tối, mắt chàng chói ngợp vì ánh sáng rực rỡ, sửng sốt vì mây muôn màu sắc bao phủ các đền đài giát bằng châu ngọc giữa cảnh vườn đầy hoa quý lạ, hương thơm khác thường.

Từ Thức còn đang ngây ngất, tưởng mình đang mơ, thì bỗng vẳng có tiếng cười trong trẻo ở sau lưng, chàng ngoảnh lại thấy hai cô gái áo xanh đang khúc khích bảo nhau:

“Kìa, chú rể mới nhà ta đã đến”!

Rồi hai nàng bỏ đi. Một lát sau trở ra bảo: “Phu nhân chúng tôi cho mời chàng vào”. Từ Thức theo. Đi qua một quãng sân, hai bên tường thêu dệt gấm hoa, đến một lớp cửa son, chàng thấy treo ở trên lầu cao hai bức hoành phi chữ vàng: “Quỳnh Hư chi điện và Giao Quang chi các”.

Trong cung điện, một bà tiên mặc áo trắng đang ngồi trên giường thất bảo. Bà tiên mời Từ Thức  ngồi lên ghế bên cạnh rồi bảo:

Từ Thức

“Chàng vốn say mê cảnh lạ, bấy lâu đã thỏa chí bình sinh ngao du đó đây, chàng có biết nơi này là đâu không”?

Từ Thức đáp:

“Tôi là một thư sinh sống ẩn dật ở huyện Tống Sơn, ngao du với một chiếc thuyền con ở giữa trời biển. Tôi không được biết là chốn này có lầu hồng, điện biếc. Lòng tôi đây còn nhiễm đầy trần tục, không hiểu biết được đây là chốn nào, xin phu nhân vui lòng dạy cho kẻ thư sinh được thấu rõ”.

Bà tiên nói:

“Phải, chàng làm sao mà biết được chốn này. Đây là hang thứ sáu trong ba mươi sáu động Phù Lai. Nơi này biển bao bọc chung quanh, lơ lửng không chạm đất, cũng như núi La Phù theo chiều gió mưa mà tan hợp, như núi Bồng Lai mọc trên ngọn sóng. Ta đây là Ngụy phu nhân, tiên chủ núi Nam Nhạc. Vì thấy chàng có đức nên mới cho mời đến”!

Nói rồi bà tiên đưa mắt ra lệnh cho các tiên nữ đứng hầu. Một nàng áo xanh đưa từ trong ra một tiên nữ trẻ tuổi. Từ Thức liếc nhìn thì nhận ra người đã làm gẫy cành mẫu đơn trong Hội Thưởng Hoa. Bà tiên trỏ thiếu nữ mà nói với Từ Thức:

“Em nó là con gái ta, tên gọi Giáng Hương. Ngày trước nó gặp nạn trong Hội Thưởng Hoa, được chàng cứu thoát. Lòng em nó vẫn không quên. Ta muốn cho nó kết duyên với chàng để đền ơn đó”.

Rồi bà tiên ra lệnh cử hành hôn lễ ngay đêm hôm ấy, dưới ánh đèn mỡ phụng, trên chiếu thêu rồng. Hôm sau, chư tiên ở khắp nơi đến mừng đôi tân nhân. Kẻ mặc lụa từ phương bắc cỡi rồng xanh đến, kẻ mặc tơ từ phương nam cỡi ly vàng đến, kẻ ngồi xe ngọc, kẻ đi xe mây… Các tiên tụ họp trên gác điện Giao Quang rèm ngọc, sáo vàng.

Khi Kim Tiên đến, tất cả chư tiên đều xuống điện rước lên ngồi ở trên ngai pha lê bày chính giữa. Chư tiên vừa ngồi xuống, tiếng nhạc trời văng vẳng trỗi lên. Đủ các thứ rượu quý đượm hương ngào ngạt rót dâng ra.

Tiên nương mặc áo lụa nói:

“Chúng ta dạo chơi trong vùng này đã gần tám mươi ngàn năm, biển phía nam đã ba lần biến đổi. Giờ đây chú rể không sợ thay đổi đời sống, từ xa đến đây để lấy vợ. Tôi nghĩ là chú rể sẽ không hối tiếc đời cũ và sẽ không còn nói là trên đời này không có Tiên”!

Kim Đồng, Ngọc Nữ sắp thành nhiều hàng dài bắt đầu múa. Ngụy phu nhân chủ động đứng ra mời tiệc. Giáng Hương rót rượu đưa đến tay chư tiên.

Nàng tiên trẻ tuổi mặc tơ cười nói:

“Cô dâu chúng ta hôm nay thịt da như mỡ đọng, không còn gầy như trước nữa. Người ta thường nói là con gái thượng giới không có chồng. Tôi không còn có thể tin như vậy nữa”!

Ngụy phu nhân nói:

“Tôi nghe nói người ta có thể gặp Tiên song khó mà tìm đến. Những cuộc gặp gỡ hiếm có, nhiệm mầu, thời nào cũng thấy: tỉ như vết tích đền Bạc Hậu, núi Cao Đường, dấu chân ở Lạc Phố, đồi ngọc Giang Phi, nàng Lộc Ngọc lấy Tiên Sử, Vân Tiêu gặp Thái Loan, Lan Hương và Trương Thạc. Nếu ta chế giễu cuộc hôn nhân này, thì những việc trước kia cũng hóa ra đáng cười lắm ru!”.

Tất cả chư tiên đều cười, trừ ra nàng tiên áo lụa nói bằng một giọng kém vui:

“Cô dâu trẻ chúng ta đã thành thân tốt đẹp rồi. Nhưng khi tin kẻ tiên kết hôn với người tục xuống đến trần, trên Thiên Đình sẽ không khỏi có kẻ mỉa mai chúng ta. Chư tiên thượng giới phải gánh chịu lấy thành quả này. Tôi e rằng chúng ta không tránh khỏi tiếng tăm đó”!

Kim Tiên liền nói:

“Tôi ở Thiên Đình, chưa bao giờ đặt chân xuống ở bể trần, thế mà có kẻ xấu miệng đã nói rằng thiên tiên dâng rượu cho vua Chu, chim xanh đem tin đến cho vua Hán. Chính chúng tôi cũng phải chịu lấy những lời lẽ phạm thượng của người đời. Thế làm sao chư tiên tránh khỏi được lời vu khống kia? Tân lang đang ở đây, chúng ta không nên tranh luận với nhau điều ấy để làm buồn lòng chàng làm gì”.

Chư tiên lại cười lên vui vẻ. Đến khi mặt trời ngả về tây, các tiên mới chia tay ra về. Còn lại một mình, Từ Thức cười bảo Giáng Hương:

“Ở thượng giới, tình yêu cũng đưa đến việc lứa đôi. Cho nên Chức Nữ mới lấy Ngưu Lang, Thượng Nguyên theo Phong Trác ở dưới trần, Tăng Nhu viết ra thiên Chu Tần, Quần Ngọc làm bài thơ Hoàng Lãng. Hoàn cảnh tuy mỗi nơi có khác, song tình yêu ở đâu cũng giống nhau. Từ ngàn đời nay, bao giờ cũng thế. Bây giờ tất cả chư tiên đi rồi, sao không khí chung quanh đôi ta lại lạnh lẽo, buồn bã thế này. Có phải vì tình yêu không phát sinh ra ở lòng em, hay là em cố cầm giữ lại?”

Giáng Hương buồn rầu đáp:

“Các chị đều đã đắc đạo, có tên ở Hoàng Điện, thường lui tới Hồng Môn, sống ở chốn thanh khiết, vui chơi trong cõi cực tịnh, lòng không vương vấn dục tình. Còn em đây chưa sạch khỏi thất tình. Dấu vết còn ở nơi Thúy Điện, vấn vương duyên nợ trần ai. Thân em tuy ở điện ngọc nhưng lòng em còn dính bụi trần. Đừng đem em mà so sánh với các chư tiên khác!”

Từ Thức  nói:

Từ Thức

“Nếu thế thì em cũng không xa cách anh lắm”!

Cả hai đều phá lên cười.

Ngày tháng kế tiếp nhau trong khoái lạc thần tiên.

Một sáng, Từ Thức thấy hoa sen nở, hồ ngọc đã thay đổi màu xanh, thấm thoát thế mà đã qua một năm rồi.

Những đêm gió thổi lạnh lùng, những sáng sương sa nặng hạt, những tối trăng rọi qua song, có khi Từ Thức  không làm sao nhắm được mắt. Một nỗi buồn tràn ngập tâm hồn, thức tỉnh chàng dậy.

Từ Thức

Một hôm, trông ra xa thấy một con thuyền, chàng trỏ tay bảo Giáng Hương:

“Anh từ miền xa xôi kia tới đây, chân trời mờ mịt, sóng biển muôn trùng, không biết rõ nhà anh ở nơi nào!”

Một lát chàng lại nói:

“Khi đi, anh còn có mẹ, bạn bè ở dưới kia. Lòng trần chưa rũ sạch, anh muốn nhìn lại quê hương. Em hãy hiểu cho lòng anh, để cho anh trở về thăm nhà ít lâu. Không biết em nghĩ sao?”

Giáng Hương buồn bã không thốt nên lời. Từ Thức  nói tiếp:

Từ Thức

“Để cho anh đi dăm hôm, một tháng gặp lại các bạn, xếp đặt công việc nhà, rồi anh sẽ trở lại sống bên em mãi mãi cho đến già ở chốn Bạch Vân”.

Giáng Hương khóc nói:

“Em không muốn lấy tình vợ chồng để ngăn anh đừng trở lại quê nhà. Em chỉ sợ rằng đời sống thế gian quá nhỏ hẹp, ánh sáng mặt trời quá vắn vỏi, anh sẽ không còn tìm thấy sân vườn xưa trong cảnh cũ nữa đâu!”

Nàng báo tin cho mẹ hay, Ngụy phu nhân thở dài bảo:

“Ta không ngờ con người ấy lại còn vương vấn tục lụy đến thế!”

Rồi cho sắm sửa một chiếc xe mây để đưa Từ Thức  đi. Giáng Hương trao cho chồng một phong thư viết trên giấy lụa, dặn dò:

Từ Thức

“Sau này khi xem đến bức thư, anh hãy nhớ đến em”!

Rồi hai người gạt nước mắt chia tay. Trong nháy mắt Từ Thức đã đặt chân xuống mặt đất.

Nhưng tất cả đều đã hoàn toàn đổi thay. Nhà cửa, người làng không còn là những người quen cũ nữa. Chỉ có các tảng đá bên bờ suối vẫn phủ rêu xanh như xưa.

Hỏi đến những người già cả trong làng xem có biết người tên Từ Thức  không, mọi người đều nói:

Từ Thức

“Hồi chúng tôi còn bé, có nghe nói là ông cố ba đời chúng tôi mang tên đó. Ông ấy đi lạc vào núi đã tám chục năm nay. Từ đó đến nay chúng tôi đã trải qua ba đời vua”.

Từ Thức cảm thấy lòng buồn thấm thía, muốn trở lại thượng giới, song chiếc xe mây đã biến thành chim loan bay mất về trời. Chàng mở phong thư ra đọc: “Trong mây kết duyên loan phụng, mối tình đôi ta đã dứt! Làm sao tìm lại non Tiên trên biển cả? Chúng ta khó gặp được nhau lần nữa”, mới biết là Giáng Hương đã gởi chàng những lời vĩnh biệt.

Sau đó, Từ Thức  khoác áo lông, đội nón nhẹ, một mình đi vào núi Hoành Sơn, không thấy trở về nữa.

Từ Thức

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Mật Mã Do Thái
Mật Mã Do Thái Bạn có biết rằng Người Do Thái chỉ chiếm ít hơn 1 % dân số thế giới, nhưng 176 người đạt giải Nobel lại là người Do Thái. 25 phần trăm các tổ chức nhận giải thưởng Nobel Hòa bình thì đều do người Do Thái thành lập hoặc đồng sáng lập. Trong khi ở Mỹ có khoảng 67 phần trăm học sinh tốt nghiêp cấp ba vào được đại học, thì người Do Thái lại có đến 80% học sinh vào được đại học trong đó có 23% vào được trường Ivy League – một trường đại học danh giá của Mỹ Các nghiên cứu đã cho thấy rằng người Do Thái gốc Đức và Bắc Âu rất thông minh với chỉ số IQ từ 117 đến 125, cao hơn 12-15 so với nhóm không phải Do Thái. Nhóm hiệu quả kinh tế người Mỹ gốc Ít-sa-en được xem là nhóm mà “có khả năng nhiều hơn 7 lần các nhóm khác về tập trung cao nhất những nguồn thu nhập cao hơn và có tỉ lệ thấp nhất sự phụ thuộc vào sự giúp đỡ của xã hội”. Có nhiều người xác định hiên tượng phi thường này do yếu tố thiên tài, còn một số khác thì cho rằng đó là do yếu tố thành công bí mật ẩn chứa trong văn hóa Do Thái đã thúc đẩy họ thành công đến như vậy. Theo khía cạnh tâm linh, mục sư Mô-sê người Do Thái cổ đại đã cho chúng ta kinh Torah và cho chúng ta những lời tiên tri Do Thái đã được viết trong Kinh thánh Cựu Ước. Mật Mã Do Thái – Perry Stone Theo lịch sử, người Do Thái vừa là người thành công nhất và cũng là người bị ngược đãi nhiều nhất trong tất cả các nhóm dân tộc trên trái đât. Ngày nay, sự tài năng và chuyên môn kinh doanh của họ đã đưa họ đến những vị trí cao nhất trong cộng đồng kinh doanh toàn cầu. Đó là những luật sư đứng đầu, những bác sĩ tài năng và những nhà lãnh đạo thành công. Đã có rất nhiều cuốn sách viết về sự thịnh vượng của người Do Thái và lý do người Do Thái thành công, những lại rất ít cuôn sách viết về ý nghĩa của Kinh Torah và giao ước cội nguồn cho tất cả những lời chúc phúc của Do Thái. Mục đích của cuốn Mật mã Do Thái này là để tìm ra những bí mật nhằm khám phá và giải mã bộ kinh Torah, giao ước Áp ra ham và lời mặc khải thiêng liêng trong Cựu ước đã tạo nên cách sống và suy nghĩa của người Do Thái, làm cho dân Do Thái trở thành người không thể gục ngã và một dân tộc được chúc phúc. Talmud Tinh Hoa Trí Tuệ Do Thái Phương Pháp Giáo Dục Con Của Người Do Thái Bí Quyết Kinh Doanh Của Người Do Thái Những người Do Thái chính thống đều hiểu hết những lề luật của Thiên Chúa, còn người Ki-tô giáo thì hiểu được hồng ân của Thiên Chúa. Cả người Do Thái và Ki-tô giáo đều nhận thức và biết được sách và Kinh Thánh giao ước của Đấng Cứu Thế. Những vị giáo trưởng có một nguồn tri thức đáng ngạc nhiên về tiên tri và kinh Torah và người Ki-tô giáo gọi đó là Cựu Ước còn người Do Thái gọi đó là sách thánh Do Thái Tanakh. “Mật mã Do Thái” sẽ hé lộ cái nhìn mới mẻ và sự soi sáng giúp khai sáng cho các tín hữu không phải Do Thái hiểu được những mặc khải thiêng liêng mà Chúa đã ban cho dân Do Thái.
Giận - Thích Nhất Hạnh
Giận là một cuốn sách hay của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, nó mở ra cho ta những khả năng kỳ diệu, nhưng lại rất dễ thực hành để ta tự mình từng bướ thoát khỏi cơn giận và sống đẹp với xã hội quanh mình. Giận được xuất bản tại Hoa Kỳ ngày 10.9.2001, trước biến cố 11.9.2001 có một ngày. Vì thế Giận đã trở thành quyển sách bán chạy nhất Hoa Kỳ – 50.000 bản mỗi tuần – trong vòng 9 tháng liên tiếp. Tại Hàn Quốc, quyển sách này đã bán được 1 triệu bản trong vòng 11 tháng. Rất nhiều độc giả nhờ đọc sách này mà đã điều phục được tâm mình, sử dụng ái ngữ lắng nghe để hoà giải với người thân, đem lại hạnh phúc trong gia đình và trong cộng đồng của họ. Về Tác giả Thích Nhất Hạnh Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1926) là một thiền sư, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, và người vận động cho hòa bình người Việt Nam.Ông sinh ra ở Thừa Thiên-Huế, miền Trung Việt Nam, xuất gia theo Thiền tông vào năm 16 tuổi, trở thành một nhà sư vào năm 1949. Ông là người đưa ra khái niệm “Phật giáo dấn thân” (engaged Buddhism) trong cuốn sách Vietnam: Lotus in a Sea of Fire. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết hơn 100 cuốn sách, trong số đó hơn 40 cuốn bằng tiếng Anh. Ông là người vận động cho phong trào hòa bình, với các giải pháp không bạo lực cho các mâu thuẫn. Một số tác phẩm của ông: Con sư tử vàng của thầy Pháp Tạng – Nẻo về của ý – Am mây ngủ – Văn Lang dị sử – Đường xưa mây trắng – Truyện Kiều văn xuôi – Thả một bè lau – Bông hồng cài áo – Đạo Phật ngày nay – Nói với tuổi hai mươi – Trái tim của Bụt… Nội dung cuốn sách Giận – Thích Nhất Hạnh Những cảm xúc luôn xuất phát từ những câu chuyện quanh cuộc sống của con người và có những cảm xúc chỉ sau khi nó được bộc phát ra con người ta mới thấy hối hận. Việc để điều chỉnh cơn nóng giận là rất khó với nhiều người. Mời bạn đọc cùng khám phá những bài học vô cùng giá trị giúp bạn điều chỉnh cảm xúc của bản thân qua cuốn sách “Giận” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Biến rác thành hoa “Tôi ý thức là đang có rác trong tôi. Tôi sẽ chuyển rác ấy thành phân xanh để vun bón cho yêu thương được phục hồi” Những điều tiêu cực là một phần trong cuộc sống và khi đã tin tưởng vào pháp môn tu tập thì cách khôn ngoan nhất chính là đối diện với những điều tiêu cực ấy, biến chúng thành những năng lượng cho bạn. Bước đầu của học cách kiềm chế cơn giận chính là ôm ấp và nhận diện. Ôm ấp cơn giận bằng chánh niệm “Chánh niệm không bao giờ đánh phá sân hận hay tuyệt vọng. Chánh niệm chỉ có đó để nhận diện. Chánh niệm về một cái gì chính là nhận diện sự có mặt của cái đó trong hiện tại. “Thở vào, tôi biết sân hận phát khởi trong tôi; thở ra, tôi mỉm cười với sân hận của tôi.” Nếu dùng tâm từ bi để chăm sóc mình, bạn ôm ấp cơn giận bằng chánh niệm thì mọi thứ sẽ được tỉnh thức, bạn hiểu được nguyên nhân của sân hận, bạn dùng cách tu tập, thiền và chánh niệm để chuyển hóa chứ không phải né tránh hay át lấy cơn giận bằng cách đánh phá hay đấu tranh tư tưởng một cách khó chịu …Cơn giận cũng chỉ là một cảm xúc tại khoảnh khắc hiện tại và nó sẽ qua đi nếu bạn học cách tu tập đúng nghĩa để những cảm xúc tiêu cực này không làm hại đến tâm của bạn và mọi người xung quanh. Chăm sóc em bé sân hận Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, cơn giận cũng cần được chúng ta chăm sóc và ôm ấp cho đến khi chúng ta hiểu rõ nguồn gốc của sự vận hành của tâm sân hận trong ta. Nếu không tu tập, tâm trí chúng ta sẽ không được tự do, tương tụ như mọi thói quen, “chăm sóc em bé sân hận” cũng là quá trình bạn quan tâm đến cảm xúc của chính mình. Tu tập không phải là gò bó bản thân vào khuôn khổ để chịu đựng những quy tắc khó nhằn hay gây khó chịu cho chính mình mà tu tập là để tâm hồn được an nhiên, để kiềm chế được những cảm xúc tiêu cực. Như thầy Thích Thánh Tuệ đã từng nói: “Tu không phải là ngày mai, ngày kia sẽ hạnh phúc mà tu lúc nào là hạnh phúc lúc đó”. Đọc sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, bản thân mình đã mở rộng được tâm hồn để lĩnh hội được những kiến thức rất hay mà thầy đã chuyển tải trên những trang sách, không hề gò bó, khó hiểu. Đọc từng trang sách, bản thân mình hiểu rằng, để tâm an nhiên và không sân hận chính mình phải học cách tu tập trước. “Tuệ giác này giúp ta bớt khổ rất nhiều. Nhưng người kia thì vì không biết tu tập nên vẫn còn ở trong địa ngục. Nhờ có chăm sóc cơn giận, ta ý thức rằng người kia còn đang đau khổ và ta bắt đầu để tâm đến người ấy” Với mình đọc những cuốn sách mang tư tưởng Phật Giáo của thầy Nhất Hạnh giúp mình ngộ ra rất nhiều điều bổ ích và khi gấp những trang sách cuối cùng của “Giận” cũng là lúc mình tự tu tập theo những phương thức được chia sẻ trong sách.
Hành Trình Về Phương Đông
Hành Trình Về Phương Đông Hành Trình Về Phương Đông – Dr. Blair T. Spalding Hành Trình Về Phương Đông mở ra một chân trời mới về Đông Tây gặp nhau, để khoa học Minh triết hội ngộ, để Hiện đại Cổ xưa giao duyên, để Đất Trời là một. “Hành Trình Về Phương Đông” kể về những trải nghiệm của một đoàn khoa học gồm các chuyên gia hàng đầu của Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh được cử sang Ấn Độ nghiên cứu về huyền học và những khả năng siêu nhiên của con người. Suốt hai năm trời rong ruổi khắp các đền chùa Ấn Độ, chúng kiến nhiều pháp luật, nhiều cảnh mê tín dị đoan, thậm chí lừa đảo…của nhiều pháp sư, đạo sĩ…họ được tiếp xúc với những vị thế, họ được chứng kiến, trải nghiệm, hiểu biết sâu sắc về các khoa học cổ xưa và bí truyền của văn hóa Ấn Độ như Yoga, thiền định, thuật chiêm duyên, nghiệp báo, luật nhân quả, cõi sống và cõi chết…. Đúng lúc một cuộc đối thoại cởi mở và chân thành đang sắp diễn ra với các đạo sĩ bậc thầy, thì đoàn nhận được tối hậu thu từ chính quyền Anh Quốc là phải ngừng ngay việc nghiên cứu, tức khắc hồi hương và bị buộc phải im lặng, không được phát ngôn về bất cứ điều gì mà họ đã chứng nghiệm. Xem thêm: Lời Ngỏ Từ Cõi Tâm Linh Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu Mật Mã Maya Sau cùng ba nhà khoa học trong đoàn đã chấp nhận bỏ lại tất cả sau lưng, ở lại Ấn Độ tiếp tục nghiên cứu và cuối cùng trở thành tu sĩ. Trong số đó có giáo sư Salding- tác giả hồi ký đặc biệt này.
Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu
Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu – Ernst Muldashev Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu là cuốn sách mang tính cách mạng của Munđasep về vũ trụ – sự sống – loài người. Cuộc sống tâm linh được sử dụng như thước đo cho sự tiến hóa của loài người. Con ngườii xuất hiện nhờ sự cô đặc của các dòng sóng mang thông tin, có năng lượng tâm linh. Nhiều triệu năm trước, trên trái đất tồn tại bốn nền văn minh trước khi nền văn minh thứ năm của chúng ta phát triển lan tỏa ra khắp thế giới. Từ những đôi mắt được vẽ ở Tây Tạng và Nepal, nhờ công nghệ, ông dựng lại hình ảnh của người có cặp mắt đó – một con người khác thường với chúng ta, những người Limuri khổng lồ ép xác, có năng lượng tâm linh vô tận – mà ở Tây Tạng và Nepal, Ấn Độ Kính cẩn gọi là “Ngài”. Qua cuộc thám hiểm ở Hymalaya, Ấn Độ, Nepal và sự tiếp xúc với những người nắm được nhiều bí mật của các hang động, tác giả đưa ra giả thuyết về quỹ gen nhân loại bắt nguồn từ nền văn minh Lemuri vô cùng phát triển từ xa xưa. Nền văn minh này bị huỷ diệt do sự đụng độ của một hành tinh khác vào trái đất làm lệch trục trái đất và gây nên đại hồng thuỷ. Xem thêm: Hành Trình Về Phương Đông Một Linh Hồn Nhiều Thể Xác Lịch Sử Vạn Vật Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu kêu gọi con người hãy làm việc để tích luỹ tri thức, sống yêu thương, đồng cảm lẫn nhau, trừng phạt tội ác, quên mình cho lý tưởng nhân bản. Chừng nào chúng ta chiến thắng cái ác thì nhân loại mới có cơ may được Thế giới kia cho phép tiếp xúc với Trí tuệ Tối thượng. Đến khi ấy khoa học và công nghệ của nhân loại mới có khả năng đạt tới đỉnh cao như nền văn minh Limuri.