Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Erwin

Vụ án Erwin (tựa nguyên bản Schlumpf Erwin Mord, sau đó là Wachtmeister Studer) là tác phẩm trinh thám đầu tiên của Friedrich Glauser. Nó cũng là một cột mốc đầu tiên của thể loại trinh thám hình sự phê phán xã hội. Thương gia Witschi bị bắn chết trong khu rừng ở rìa làng Gerzenstein ở Thụy Sĩ. Ông bị cướp tất cả tiền bạc mang theo người. Vào ngày hôm sau, người trong quán rượu “Bären” nhìn thấy Schlumpf Erwin, một anh chàng đã có tiền án trộm cắp, có rất nhiều tiền mang theo người. Schlumpf bỏ chạy trước khi cảnh sát đến tìm anh ta ở phòng trọ, nhưng rồi lại bị hạ sĩ Studer bắt được và đưa về trại tạm giam. Tại đây, Schlumpf toan treo cổ tự tử nhưng không thành vì Studer đã kịp thời cứu anh ta trong giây phút cuối cùng.   Trực giác cho Studer biết rằng anh chàng Schlumpf này vô tội. Nhưng khi về làng Gerzenstein để điều tra thì càng lúc vụ việc lại càng rối rắm hơn. Schlumpf lại yêu chính cô con gái của nạn nhân bị bắn chết. Người anh của cô và bà vợ của Witschi dường như giấu giếm điều gì đó. Không những thế mà cả ông già Ellenberger, ông chủ lao động của Schlumpf, ông trưởng làng, người thầy giáo làng, tất cả mọi người đều có dính líu như thế nào đó vào vụ việc này. Ai dường như cũng che giấu điều gì đó và đều muốn lái công cuộc điều tra của Studer đi theo một chiều hướng nhất định. Đây là một quyển tiểu thuyết trinh thám khiến cho độc giả phải cùng suy luận, đoán xem ai là thủ phạm. Người đọc bị lôi cuốn theo những dấu vết sai lầm, được mớm cho những chỉ dẫn nào đó, ngạc nhiên vì những bước ngoặc mới trong cuộc điều tra, và thế là lại phải quay lại từ đầu. Căng thẳng, thú vị vâng, buồn cười xuất phát từ công việc điều tra của Studer, chứ không phải từ máu me, bạo lực hay rùng rợn như những tiểu thuyết hình sự hiện đại. Tuy vậy, tác phẩm vẫn có một kết cuộc khó lòng đoán trước, nhưng hợp lý và nhất quán. “Vụ án Erwin” lôi cuốn người đọc cũng từ các tương phản trong nông thôn Thụy Sĩ những năm 30 của thế kỷ trước. Friedrich Glauser đã mang ít nhiều nét hiện thực của xã hội thời đó vào trong quyển tiểu thuyết, mô tả một ngôi làng với những người dân của nó, với nhiều mối quan hệ rối rắm phức tạp, những xung đột ngấm ngầm cũng như những số phận con người mà người ta không muốn hé lộ ra cho người ngoài biết. Không những là một quyển tiểu thuyết trinh thám đầy thú vị và nhiều bất ngờ, đây còn là một bức tranh hài hòa về tập tục và lối sống ở nông thôn Thụy Sĩ. Một quyển tiểu thuyết hình sự hay, với giọng văn miêu tả nổi bật, mang nhiều nét duyên dáng cũng như buồn cười bên cạnh câu hỏi gây đau đầu hầu như suốt cả tác phảm: Ai là thủ phạm? Ngay từ lúc mới ra đời, Vụ án Erwin đã nhận được nhiều lời khen ngợi. Ví dụ như nhật báo “Der Bund” vào ngày 10 tháng 12 năm 1936 đã viết rằng “Quyển tiểu thuyết này nổi bật lên trên mức trung bình của ‘văn học trinh thám’ quen thuộc, và không chỉ đơn giản là một vụ bí ẩn có sức lôi cuốn đến nghẹt thở theo một mô hình gương mẫu. Glauser còn nâng truyện của ông lên đến một mức nghệ thuật, mà người viết nhiều tác phẩm Edgar Wallace sẽ mãi mãi không sánh kịp và cả một Conan Doyle cũng chỉ ngang bằng trong những khoảnh khắc hiếm hoi. Là một bậc thầy trong phân tích, Glauser thêm vào đó còn là một nhà thơ có nhiều tình cảm nồng ấm và có tài quan sát tuyệt vời.” Vụ án Erwin đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và đã được chuyển thể phim ngay từ năm 1939. *** MỘT NGƯỜI  KHÔNG CÒN MUỐN SỐNG NỮA Người cai tù có cái cằm ba ngấn và cái mũi đỏ lầu bầu điều gì đó nghe giống như “lúc nào cũng gấp rút”, – vì Studer lôi ông ta ra khỏi bữa ăn trưa. Nhưng ít ra thì Studer cũng là một hạ sĩ điều tra của Cảnh sát Tiểu bang Bern, vì vậy không thể cứ xua đuổi ông ấy đi như xua tà đuổi ma được. Thế là cai tù Liechti đứng dậy, đổ đầy rượu vang đỏ vào ly uống nước, uống một hơi cạn cả ly, cầm lấy xâu chìa khóa và cùng đi đến chỗ tù nhân Schlumpf, người mà ông hạ sĩ vừa mới bàn giao cách đây chưa tới một giờ đồng hồ. Lối đi… Những lối đi dài tối tăm… Những bức tường thật dày. Lâu đài Thun dường như đã được xây cho sự vĩnh cửu. Cái giá lạnh của mùa đông ở khắp nơi. Thật khó tưởng tượng được, rằng ở ngoài kia đang có một ngày tháng Năm ấm áp ở trên hồ nước, rằng người ta đang đi dạo, thanh thản, rằng có những người khác đang nằm đong đưa trong những chiếc thuyền trên mặt nước, và phơi nắng để có được một làn da nâu. Cửa phòng giam mở ra. Studer dừng lại ở ngưỡng cửa một khoảnh khắc. Hai thanh sắt ngang, hai thanh sắt dọc băng ngang qua cái cửa sổ nằm ở trên cao. Có thể nhìn thấy mái của một ngôi nhà – với những viên gạch ngói đen, cũ kỹ – và bầu trời bay phấp phới ở trên như một mảnh vải xanh sáng chói mắt. Có một người bị treo lủng lẳng ở trên thanh sắt phía dưới! Chiếc thắt lưng da được cột chặt và tạo thành một nút thắt. Một thân thể tối tăm nổi bật trên bức tường được quét vôi trắng. Đôi chân nằm yên trên giường, vặn vẹo một cách khác thường. Và cái khóa thắt lưng sáng óng ánh ở sau gáy người bị treo cổ, vì có một tia nắng mặt trời chiếu vào nó từ ở trên cao. “Trời ơi!”, Studer kêu lên, lao tới trước, nhảy lên giường – người cai tù kinh ngạc trước sự nhanh nhẹn của người đàn ông đã lớn tuổi – ôm chặt lấy thân hình đó bằng cánh tay phải, trong khi bàn tay trái tháo cái nút thắt ra. Studer văng tục, vì bị gãy mất một cái móng tay. Rồi ông bước xuống giường và nhẹ nhàng đặt cái thân thể bất động đó xuống. “Nếu như các anh không quá lạc hậu đến như thế này”, Studer nói, “và ít nhất là gắn lưới trước cửa sổ, thì những việc như thế này đã không xảy ra. – Này! Bây giờ thì hãy chạy đi, Liechti, và gọi bác sĩ lại đây!” “Vâng, vâng”, người cai tù sợ sệt nói và khập khiễng đi ra. Đầu tiên, ông hạ sĩ điều tra tiến hành hô hấp nhân tạo. Việc đó giống như một phản xạ. Một cái gì đó xuất phát từ thời mà ông còn học khóa cấp cứu. Và mãi năm phút sau Studer mới sực nhớ ra, đặt tai lên ngực của con người đang nằm đó và lắng nghe xem tim có còn đập không. Có, nó còn đập. Chậm. Nghe giống như tiếng tích tắc của một cái đồng hồ mà người ta đã quên lên dây cót; Studer tiếp tục bơm với hai cánh tay của người đang nằm. Chạy ngang qua ở dưới cổ, từ tai này qua đến tai kia, là một cái vạch đỏ. “Schlumpf à!”, Studer nói nhỏ. Ông lấy cái khăn tay ra khỏi túi, lau trán mình trước, rồi lau qua gương mặt của anh chàng đó. Một gương mặt còn non nớt, trẻ, có hai nếp nhăn to trên sống mũi. Bướng bỉnh. Và trắng nhợt. Đó chính là Schlumpf Erwin, người mà hôm nay người ta đã bắt giữ trong một cái làng ở vùng Oberaargau. Schlumpf Erwin, bị cáo buộc giết chết Witschi Wendelin, một thương gia và người đi bán dạo ở Gerzenstein. Ngẫu nhiên mà người ta đã đến đúng lúc! Trước đây một giờ đồng hồ, người ta đã giao tên Schlumpf đúng theo quy định cho nhà giam, người cai tù với cái cằm ba ngấn đã ký tên – người ta có thể thong dong lên tàu hỏa trở về Bern và quên đi toàn bộ sự việc. Đó không phải là lần đầu tiên người ta bắt người, cũng sẽ không phải là lần cuối cùng. Tại sao người ta lại linh cảm là phải tới thăm Schlumpf Erwin thêm một lần nữa? Ngẫu nhiên? Có thể… Ngẫu nhiên là gì?… Không thể chối cãi được là người ta đứng đối diện đầy cảm thông với số phận của Schlumpf Erwin. Nói cho đúng hơn, người ta đã yêu mến Schlumpf Erwin… Tại sao?… Trong phòng giam, Studer dùng tay vuốt gáy vài lần. Tại sao? Vì người ta không có con trai? Vì người bị bắt cứ quả quyết là mình vô tội trên suốt cả chuyến đi? Không. Tất cả họ đều vô tội. Nhưng những lời quả quyết của Schlumpf Erwin nghe có vẻ thành thật. Mặc dù… Mặc dù trường hợp này thật ra thì đã rõ hoàn toàn. Người ta tìm thấy thương gia kiêm người bán dạo Wendelin Witschi vào sáng ngày thứ Tư với vết đạn bắn ở phía sau tai phải, nằm sấp, trong một khu rừng ở gần Gerzenstein. Túi của nạn nhân trống rỗng… Vợ của người bị giết quả quyết rằng chồng bà có mang theo trên người ba trăm franc Thụy Sĩ. Thế rồi vào tối thứ Tư, Schlumpf đổi một tờ một trăm franc trong quán trọ “Bären”… Vào sáng ngày thứ Năm, cảnh sát muốn bắt anh ta, nhưng Schlumpf đã chạy trốn. Vì vậy mà ông đại úy cảnh sát đã tới gặp hạ sĩ Studer trong phòng làm việc của ông này vào chiều tối ngày thứ Năm: “Studer này, anh phải đi ra ngoài hít thở không khí trong lành. Sáng sớm ngày mai, anh đi bắt tên Schlumpf Erwin nhé. Sẽ tốt cho sức khỏe của anh thôi. Anh béo lên đấy…” Đúng là như vậy, rất đáng tiếc… Tất nhiên, ở những vụ bắt giữ như thế này thì thường người ta gửi binh nhì đi. Nhưng lần này thì ông hạ sĩ điều tra phải đi… Cũng là ngẫu nhiên?… Số mệnh?… Đủ rồi, người ta vướng vào anh chàng Schlumpf, và người ta đã yêu mến anh chàng này. Một sự thật! Người ta phải chấp nhận sự thật, ngay cả khi chúng chỉ liên quan đến cảm xúc. Tên Schlump! Chắc chắn không phải là một người có giá trị cao! Ở Sở Cảnh sát Tiểu bang, người ta quá quen thuộc với hắn. Một đứa con ngoài giá thú. Chính quyền hầu như phải liên tục làm việc với hắn. Hồ sơ trong Sở An sinh Xã hội chắc chắn phải nặng ít nhất là một ký rưỡi. Lý lịch? Mời bạn đón đọc Vụ Án Erwin của tác giả Friedrich Glauser & Phan Ba (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nghiệt Súc - Lauren Beukes
Trong suốt cuộc đời làm cảnh sát của mình, Thanh tra Gabriella Versado đã từng chứng kiến nhiều hình thức giết người, nhưng chưa lần nào như lần này: xác chết của các nạn nhân một nửa là người, một nửa là thú, đôi khi các bộ phận được cắt ghép ngẫu nhiên không theo trình tự nào. Clayton Bloom là một nghệ sĩ bất đắc chí đã tự tìm cho mình một “đam mê” mới, đó là ghép xác người và xác thú sao cho trông thật nhất có thể. Detroit là cái xác đang phân hủy của Giấc mơ Mỹ. *** Xác chết. Xác chết-xác chết-xác chết, cô lẩm nhẩm trong đầu. Ngôn từ sẽ mất hết ý nghĩa một khi ta cứ lặp đi lặp lại. Xác chết cũng thế, dù là chết kiểu gì chăng nữa. Chết là chết. Chỉ có “tại sao” và “thế nào” là khác nhau thôi. Cứ đánh dấu đi: Dãi nắng dầm mưa chết. Đạn bắn chết. Dao đâm chết. Nện chết bằng hung khí sắc, hung khí cùn hoặc chả cần hung khí gì sất, khi tay không cũng đủ làm nên chuyện. Đùng, đoàng, hự, chát... Thật là một lô một lốc đủ kiểu giết người! Nhưng dù là bạo lực thì cũng có giới hạn chiêu trò của nó. Gabriella ước gì có người nói điều đó cho kẻ bệnh hoạn nào đã gây nên chuyện này. Bởi vì cái xác này thật Vô đối. Đây cũng vô tình là biệt danh của một ả bán hoa mà cô đã cảnh cáo rồi thả cuối tuần trước. Công việc của DPD[2] dạo này chỉ quanh đi quẩn lại có nhiêu đó. Phân phát mấy tờ cảnh cáo cho có trong Thành-phố-bạo-lực-nhất-nước-Mỹ này. Tén tén tén tèn, cô như nghe thấy giọng con gái mình, nhại theo tiếng nhạc phim kinh dị lúc cao trào mà Layla vẫn dùng khi muốn nhấn mạnh điều gì đó. Đủ mọi biệt danh Detroit mang theo bên mình. Nó kéo theo một mớ biểu tượng nặng trịch phía sau như chùm lon thiếc kêu leng keng treo đằng sau cái ô tô phết dòng chữ “Mới Cưới”. Không biết giờ còn ai làm vậy nữa không, cô nghĩ bụng, treo lon thiếc và phết kem cạo râu ấy? Mà có thật là người ta từng làm thế không? Hay đó toàn chuyện bịa đặt, như câu khẩu hiệu kim cương là vĩnh cửu, như ông già tuyết mặc đồ đỏ giống lon Coca, như cảnh bà mẹ và con gái vừa ăn sữa chua không béo vừa tám chuyện. Cô nhận ra những cuộc nói chuyện thú vị nhất với Layla chỉ toàn diễn ra trong đầu cô thôi. ... Mời các bạn đón đọc Nghiệt Súc của tác giả Lauren Beukes.
Cửa Mật - Christine Kerdellant & Éric Meyer
Bọn tin tặc đang âm mưu phát tán một loại virus gây bệnh cho mạng internet toàn cầu. Virus này sản sinh trong ổ cứng một backdoor – cửa mật, giúp chúng kiểm soát và khống chế từ rất xa tất cả các máy tính nối mạng. Các nhà máy hạt nhân, ngân hàng, hãng hàng không, công ty dược phẩm, hệ thống cung cấp nước sạch…, toàn bộ các trung tâm đầu não của thế giới phương Tây đều nằm trong tầm ngắm của chúng. Bọn khủng bố có thể tùy thích đánh bom các công xưởng, đầu độc người dân, chiếm đoạt tài sản cá nhân cũng như sản xuất dược phẩm giả hiệu. Nỗi kinh hoàng lớn của thế kỷ XXI – cuộc mưu hại về tin học – đang lan rộng trên toàn thế giới… Chỉ có một người có thể đóng lại các backdoor mà đích thân ông đã dự kiến trong các phần mềm được sáng tạo theo yêu cầu của CIA: đó là Dan Barrett, người sáng lập Controlware, doanh nhân Mỹ lừng lẫy nhất hành tinh này. Nhưng than ôi, Barett vừa bị bọn khủng bố ám sát. Emma Shannon, người tình cũ của Dan, với sự trợ giúp của một chuyên gia tin học và một nhà văn am hiểu về lịch sử nước Pháp, đã lao vào cuộc tìm kiếm phương thuốc giải độc, tức chiếc chìa khóa tin học duy nhất có thể giúp thế giới thoát khỏi thảm họa này. Nhưng chiếc chìa khóa ấy hiện cất giấu ở đâu? Trong mê cung đường hầm của lâu đài Versailles tráng lệ ở nước Pháp? Hay trong công thức toán học kỳ bí chứng minh sự hiện hữu của Thượng đế? Làm sao ngăn chặn kẻ thù ảo giấu mặt đằng sau CỬA MẬT? *** Trước khi nhấn phím “Enter”[1] Owen Makresh nhíu mày tưởng nhớ đến người anh ruột Karim chết trong vụ World Trade Center[2] sụp đổ dữ dội ngày 11 tháng 9 năm 2001. Sáu năm sau, tính theo từng ngày, đây là giờ phút hắn sắp trở thành người hùng như Karim. Hắn quay người về phía Dmitri và nụ cười của hắn biến thành cái nhếch mép gượng gạo. Cả hai đứa hắn cùng đến thành phố Tallinn ở Estonie ngay sáng nay theo chuyến bay từ Jakarta có quá cảnh ở Moscou. Chúng đi xe bus từ phi trường về trung tâm thủ đô nước Estonie này rồi cuốc bộ đến quán bar nằm ở cuối con đường lát đá tảng trong khu phố trung cổ. Tổ chức đã cung cấp cho chúng những tấm hộ chiếu giả và một thẻ từ dùng để mở hai cánh cửa gỗ của bar Noku. Không phải bất cứ ai cũng có thể vào quán rượu này đâu, chỉ khách quen mới có tấm thẻ ra vào. Noku có nghĩa là “văn hóa trẻ”, lại cũng có nghĩa “con cu” trong tiếng lóng xứ này. — Mày có biết mấy giờ ngày mai tụi nó đến không? - Dimitri hỏi khẽ khi bước qua cửa. — Biết làm quái gì, - Owen đáp trả. - Ở giai đoạn 1 này, tao với mày là khá đông rồi đó. Vào giờ này cái câu lạc bộ tư gần như vắng tanh. Bình thường thôi, chiều thứ ba mà. Vài thanh niên Nga ngồi tựa quầy bar nhấm nháp từng ngụm Saku, một loại bia địa phương. Nhạc rock theo kiểu các nước Baltes[3] lấn át tiếng nói chuyện. Cuối phòng, các hốc tường là nơi đặt nhiều PC[4] mốt mới nhất, màn hình phẳng nhấp nháy trong bóng tối. Tất cả mấy máy tính này đều nối mạng Internet. Từ nơi này người ta có thể kết nối với bất cứ nơi nào trên thế giới, với lưu lượng cung cấp rất cao. Owen nhìn đồng hồ: 17 giờ 43. Hắn ra dấu, chỉ cho Dmitri bước đến hốc tường cuối phòng. Ở hốc bên cạnh, một gã thiếu niên, chắc là người Nga nếu đoán theo những con chữ hiện to trên màn hình, đang tải về những hình ảnh khiêu dâm rồi ghép vào đoạn băng quảng cáo cho cuốn phim sắp tới của George Lucas[5]. Bên cạnh chàng ta là một phụ nữ trẻ đầu cạo trọc, áo veste da, đang thiết kế trang chủ một mạng web. Owen kịp nhìn cái tên hiện ra: American Expresss với ba chữ “S”. Hẳn là một web giả mạo từ trang mạng thật của American Express. Đây là kỹ thuật – thường được gọi là phishing – quá quen thuộc với bọn tin tặc từ tám hay chín năm nay nhưng vẫn luôn tỏ ra hữu hiệu. Chỉ cần tạo ra một web giống hệt cái web chính thức của một công ty lớn, nhưng chỉ khác một chi tiết nhỏ, ví dụ như dư một chữ. Rồi những người khách hàng lơ đãng tưởng mình đang vào trang chủ của ngân hàng quen thuộc của mình thì tự ý đưa ra địa chỉ rồi mật khẩu của mình… ... Mời các bạn đón đọc Cửa Mật của hai tác giả Christine Kerdellant & Éric Meyer.
Luật Giang Hồ - Jeffrey Archer
Câu chuyện xảy ra vào năm 1993. Ðịa điểm là Washington DC. Tổng thống Hoa Kỳ, Clinton thay thế George Bush. Ở London, Margaret Thatcher đã bị mất chức bởi đảng của chính bà. Ở Moscow, Gorbachev bị lật đổ bởi những thế lực mà ông không thể kìm chế. Những đối thủ trong chiến tranh vùng Vịnh, người sống sót duy nhất là Saddam Hussein. Và Saddam đang mưu tính một cuộc trả thù khiến Hoa Kỳ không còn có thể làm gì khác hơn là trả đũa. Với sự thông đồng của một trùm mafia, một tay làm giấy tờ giả giỏi nhất thế giới và một trong những phụ tá đặc biệt của Tổng thống Clinton, Saddam sắp đặt kế hoạch: âm thầm đánh tráo bản gốc Tuyên ngôn Ðộc Lập của Hoa Kỳ tại viện Bảo tàng lịch sử bằng một bản giả và dự định thiêu huỷ bản gốc tại Baghdad vào ngày Quốc khánh Mỹ, 4 tháng 7, với sự chứng kiến của các cơ quan truyền thông quốc tế. Mục đích là hạ nhục dân tộc Hoa Kỳ. Trong lúc âm mưu được tiến hành, chính phủ Hoa Kỳ không hề hay biết. Một nhân vật hoàn toàn không thích hợp vô tình bị lôi cuốn vào tấn kịch này: Scott Bradley, một giáo sư trẻ tuổi của trường Ðại học Luật Yale. được CIA giao một nhiệm vụ đơn giản là khám phá lý do một nữ nhân viên Mossad xinh đẹp được cài vào Ban lợi ích của Iraq trong toà Ðại sứ Jordan ở Paris, và bất ngờ khởi sự lần ra manh mối của âm mưu phi thường này. Một nhân viên Mossad và một giáo sư Yale có thể ngăn chặn được Saddam Hussein trước ngày Ðộc lập hay không? Câu hỏi này xin để Jeffrey Archer trả lời quý bạn đọc. Một điều kỳ thú khác: cho đến nay, trong toàn bộ tác phẩm của Jeffrey Archer bao gồm 11 cuốn tiểu thuyết, 5 tập truyện ngắn, 3 vở kịch và 2 hồi ký về nhà tù, đã có 9 cuốn tiểu thuyết và 3 tập truyện ngắn được xuất bản tại Việt Nam, tất cả đều được nhiệt liệt đón tiếp, nhất là cuốn “Hai Số Phận” đã được xuất bản, và cuốn cuối cùng “Song of Fortune” vừa mới được ấn hành trong năm 2003 và chắc chắn cũng sẽ được ra mắt ở nước ta trong nay mai. Jeffrey Archer sinh năm 1940 và theo học tại trường trung học Wellington ở Sommerset, rồi trường đại học Brasenose ở Oxford. Ông đã bắt đầu sự nghiệp văn chương từ năm 1974 với tác phẩm “Không Hơn Một Xu, Không Kém Một Xu”. Ông đã từng được đắc cử vào Hạ nghị viện Anh năm 1969, từ tháng 9 năm 1985 đến tháng 10 năm 1986 là Phó Chủ tịch đảng Bảo thủ. Ông có gia đình với hai người con. Ngày 30 tháng 01 năm 2004. BỒ GIANG N.N.T. *** Jeffrey Archer (sinh ngày 15/04/1940) là nhà văn người Anh và cũng là một chính trị gia. Ông từng là một thành viên Quốc hội (1969-1974), và Phó Chủ tịch Đảng Bảo thủ (1985-1986). Jeffrey Archer sáng tác cuốn tiều thuyết Hai số phận (có tên gốc tiếng Anh là Kane and Abel) vào năm 1979. Tựa đề “Kane and Abel” dựa theo câu chuyện của anh em Cain và Abel trong Kinh Thánh Cựu Ước. Tác phẩm được xuất bản tại Vương quốc Anh vào năm 1979 và tại Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1980 và cuốn sách đã được phổ biến trên toàn thế giới. Sách đạt danh hiệu sách bán chạy nhất theo danh sách của từ New York Times và năm 1985 nó được đưa lên chương trình truyền hình miniseries của CBS cũng với tên là Kane & Abel. *** Trong lúc chiếc xe cảnh sát dẫn đầu từ từ di chuyển ra khỏi lề đường, giàn đỡ máy quay phim của đạo diễn bắt đầu chạy thụt lùi cùng một tốc độ theo đường ray của nó. Những đám đông đứng sau phía rào cản bắt đầu hoan hô và vẫy tay. Nếu họ đang quay một cuốn phim thực thì đạo diễn đã lên tiếng bảo “Cắt” sau hai mươi giây bởi vì viên sĩ quan phối hợp ngu ngốc vẫn còn đứng giữa đường, tay chống nạnh, rõ ràng anh ta không phải là vai chính trong cuốn phim. Cavalli không để ý tới viên sĩ quan trong lúc y chú tâm vào con đường trước mặt. Y gọi điện thoại cho Andy, mà y biết vẫn còn ngồi trên ghế dài ở đường 7, đọc tờ Washington Post. — Đầu này không có việc gì nhiều, thưa sếp. Chỉ ở dưới cùng một đoạn đường dốc là hơi hoạt động một chút. Mọi việc phía ông suôn sẻ chứ, ông đang trễ đấy? — Vâng, tôi biết. Nhưng chúng tôi sẽ đến chỗ anh trong vòng sáu mươi giây, – Cavalli nói trong lúc viên đạo diễn tới cuối đường ray riêng và đưa một ngón tay cái lên không để ra hiệu cho những chiếc xe hơi giờ đây có thể tăng tốc độ lên bốn mươi cây số giờ. Johnny nhảy ra khỏi giàn đỡ máy và bước chân chậm trở lại đại lộ Pennsylvania để có thể chuẩn bị cho việc quay phim lần hai. Cavalli tắt máy điện thoại và hít vào một hơi thở sâu, trong lúc đoàn xe hộ tống qua đường 9; y chăm chú nhìn đài tưởng niệm FDR[30] được đặt trên một bãi cỏ phía trước lối vào Viện Bảo tàng. Chiếc xe hơi thứ nhất quẹo vào đường 7, chỉ còn lại một nửa khối nhà trước khi họ tới đoạn đường dẫn vào bục lên xuống hàng. Những chiếc mô tô dẫn đầu tăng tốc độ và khi đối diện với Andy đang đứng trên lề đường, chúng quẹo phải và chạy xuống đoạn đường dốc. Phần còn lại của đoàn xe hạ tống tạo thành một hàng dọc, đối diện ngay với cổng giao hàng, trong lúc chiếc thứ ba chạy xuống đoạn dốc tới tận bục giao hàng. ... Mời các bạn đón đọc Luật giang hồ của tác giả Jeffrey Archer.
Ảo Thuật Văn Chương - Alexandra Marinina
Đầu năm 1993, A. Marinina cho nữ thám tử Nastia Kamenskaya xuất hiện trong cuốn Hoàn cảnh đưa đẩy, tiếp đó trong Chơi trên sân lạ và Giấc mơ bị đánh cắp. Từ năm 1995, bà cho in trong tủ sách phổ biến “Mèo đen” của Nhà xuất bản EKSMO hai cuốn Serafim sáu cánh và Kẻ sát nhân miễn cưỡng. Thành công khiến nhà xuất bản này phải chạy đua với các đối thủ, tăng nhuận bút gấp bội để giữ được nhà văn ăn khách cho mình và mở ra cả một tủ sách riêng A. Marinina - nữ chúa truyện trinh thám. Từ đấy, với hàng loạt đầu sách Lò xo cho bẫy chuột, Hôm qua tôi đã chết, Đánh tráo đối tượng, Mặt nạ của người khác, Bộ mặt sáng sủa của thần chết, Ảo giác của tội lỗi, Khi thần thánh bật cười... hành trình điều tra phá án của Nastia Kamenskaya cơ hồ bất tận. Mỗi năm hai cuốn - đó là tốc độ sáng tác mà A. Marinina duy trì được trong nhiều năm, xây dựng nên hình tượng một nữ thám tử hoàn toàn chính diện: cực kỳ thông minh, can đảm và tinh tế. Truyện trinh thám của A. Marinina bắt đầu được đưa lên màn ảnh từ năm 1999. Đến nay đã có 12 quyển sách của bà được dựng thành phim. A. Marinina ký hợp đồng với nhà xuất bản nước ngoài năm 1997, từ đó sách của bà được dịch in bằng 20 thứ tiếng. Ở Việt Nam, các tác phẩm của tác giả được giới thiệu: Ảo thuật văn chương (Vũ Đình Phòng dịch, Nxb Thanh Niên, 2000), Giấc mơ bị đánh cắp (Nguyễn Văn Thảo dịch, Nxb Công An Nhân Dân, 2004)... *** Alexandra Marinina được gọi là Nữ hoàng trinh thám Nga. Ảo thuật văn chương là một trong những lác phẩm hay nhất của bà, mô tả hàng loạt vụ án li kì và bi thảm diễn ra xung quanh một tài năng văn chương bị buộc phải phục vụ cho lòng tham của một chủ xuất bản vô nhân đạo.  Nữ thám tử Nastia Kamenskaya - nhân vật xuyên suốt trong những tác phẩm của A. Marinina - được người Nga yêu mến không thua Hercule Poirot của nữ hoàng truyện trinh thám Anh Agatha Christie. Alexandra Marinina là bút hiệu của Marina Alexieva (cũng như “Kamenskaya” và “Nastia Kamenskaya” là hai thương hiệu đã được tác giả đăng ký độc quyền từ năm 2003). Sinh năm 1957 tại Lvov, sống ở Leningrad đến năm 1971 chuyển về Matxcơva, từ một cô học trò lớp chuyên Anh, Marina tốt nghiệp khoa luật Đại học Quốc gia Lomonosov, trở thành cán bộ nghiên cứu khoa học của Viện Hàn lâm thuộc Bộ Nội vụ Liên Xô. Nghiệp vụ khoa học hình sự giúp bà được bổ nhiệm phó trưởng ban nghiên cứu khoa học của Đại học Luật - Bộ Nội vụ Liên bang Nga. Đang đeo lon trung tá, năm 1998 bà xin giải ngũ để chuyên sáng tác. *** Colia đang say tình yêu, sau một thời gian dài sống cô đơn. Anh cảm thấy vô cùng sung sướng và muốn mọi người xung quanh cũng hạnh phúc như mình. Sau khi biết kết qủa thẩm định các mẫu đất, Colia phấn khởi, ngồi vào xe lao thẳng đến khu biệt thự “Mộng Mơ”. Anh chưa báo tin vui này cho Naxtia, vì biết tối nay chị đi ăn khách sạn với vợ chồng cậu em. Trong biên bản xét nghiệm có ghi rõ, chất đất trong phong bì số “1” (lấy được trên sàn nhà Trercaxov, dưới tấm thảm) có thành phần hoá học rất gần với chất đất trong phong bì số “3” (lấy tại ngôi nhà xây gần đây nhất trong khu biệt thự “Mộng Mơ”).   Lúc này đã hơn chín giờ tối, vậy mà Colia thấy Xoloviov đón tiếp anh với vẻ mừng rỡ, khác hẳn hôm anh đến đây lần trước. Hôm đó ông ta cau có làm anh rất bực. Vẫn như lần trước, Xoloviov khẳng định ban ngày hôm đó ông không nhận thấy có người lạ nào lảng vảng bên ngoài. - Tôi rất ít khi nhìn ra ngoài cửa sổ, - ông ta thú nhận giọng uể oải, khiến Colia thấy rõ ông ta không hào hứng tiếp chuyện mình. Rồi đột nhiên Xoloviov nói. - Tôi muốn nhờ anh một việc, được không ? - Việc gì ? - Theo tôi đoán, chắc anh đã có thẩm vấn cô Naxtia Camenxcaia. - Đúng thế, - Colia dè dặt đáp. - Tôi muốn nhờ anh giúp tôi bắt liên lạc với cô ấy. Tôi có số điện thoại nhà riêng của cô ấy, nhưng tôi gọi bao nhiêu lần mà không thấy ai nhấc máy. Số điện thoại nơi cô ấy làm việc tôi lại không có. Anh có thể cho tôi biết số điện thoại đó được không ? - Theo tôi đoán thì hai vợ chồng cô ta hiện đang đi nghỉ hè, hẳn thế thì mới không có ai nhấc máy trả lời ông. Còn số điện thoại nơi cô ấy làm việc, tôi không thể cho ông được, bởi tôi chưa biết cô ấy có muốn cho ông biết không. Tôi không có quyền can thiệp vào việc riêng của người khác. - Vậy anh giúp tôi, anh chịu khó liên lạc với cô ấy và nhắn hộ là tôi rất cần gặp. - Có chuyện gì vậy  ? - Chuyện riêng tư thôi. Xưa kia tôi rất thân với cô ấy, và lúc này tôi rất cần sự chia sẻ của một người bạn... Sáng hôm sau, mới đầu giờ, Colia đã chạy vào phòng làm việc của Naxtia, giận dữ nói luôn: - Sao cô không cho Xoloviov biết cô đã thay số điện thoại nhà riêng ? - Nhưng tại sao tôi lại phải cho ông ta biết  ? - Vì ông ta mê cô. Gọi cô không biết bao nhiêu lần mà không thấy ai nhấc máy. Lúc đề nghị tôi giúp ông ta bắt liên lạc với cô, tôi thấy mắt ông ta rơm rớm... - Anh tưởng tượng thì có, Colia. Anh phóng đại lên đấy thôi. Và bản thân ông ta cũng phóng đại. Ngồi một mình cô đơn, tưởng tượng ra đủ thứ. - Nhưng cô không cố tình làm cho ông ta mê cô đấy chứ ? - Không ! Hoàn toàn không. - Nhưng dù sao cô cũng gọi điện cho ông ta, kẻo ông ta lại nghĩ không hay về tôi. - Nhưng tối qua anh đến ông ta làm gì  ? - Quên tôi chưa nói với cô: bên chuyên môn họ đã thẩm định xong hai mẫu đất, kết quả mẫu đất chúng ta lấy được trong căn hộ của Trercaxov đúng là từ khu biệt thự “Mộng Mơ”. Không chỉ chất xi măng mà cả chất đất cũng giống hệt nhau. ... Mời các bạn đón đọc Ảo Thuật Văn Chương của tác giả Alexandra Marinina.