Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nhật Ký Bí Mật của Tiểu Thư Miranda - Julia Quinn

Tiểu thuyết lãng mạn lịch sử xuất sắc nhất - RITA Awards 2007 Hôm nay mình đã yêu. Ở tuổi lên mười, tiểu thư Miranda Cheever không cho thấy bất cứ dấu hiệu nào của một Sắc đẹp Lộng lẫy. Cô bé đã học được cách chấp nhận những kỳ vọng của xã hội đối với mình… cho đến một buổi chiều, khi Nigel Bevelstoke - chàng Tử tước Turner đẹp trai, phong nhã – nghiêm trang hôn tay cô bé và hứa rằng: một ngày kia em sẽ trở thành chính mình, em sẽ thật xinh đẹp và thông minh. Ngày hôm ấy, Miranda đã biết mình sẽ yêu Turner mãi mãi. Mười năm sau, tất cả đều thay đổi, trừ tình yêu của Miranda dành cho Turner. Đi qua một cuộc hôn nhân đau khổ, Turner giờ trở thành một người đàn ông không còn niềm tin, cô độc và cay nghiệt. Còn Miranda, cô vừa tròn hai mươi, xinh đẹp theo cách của riêng mình, ngọt ngào vừa đủ, điềm tĩnh vừa đủ và mạnh mẽ vừa đủ. Đủ để không cho phép tình yêu kéo dài mười năm dành cho Turner một lần nữa trôi qua tầm tay… *** Ở tuổi lên mười, tiểu thư Miranda Cheever không hề bộc lộ dấu hiệu nào hứa hẹn một Sắc Đẹp Lộng Lẫy. Mái tóc nâu thảm hại đồng màu với đôi mắt; đôi chân dài khác thường từ chối bất cứ chuyển động nào có thể coi là duyên dáng dù mơ hồ nhất. Lúc nào mẹ cô bé cũng thấy cô nhảy loi choi khắp nhà. Thật không may cho Miranda, cái xã hội nơi cô bé sinh ra lại rất coi trọng vẻ bề ngoài của nữ giới. Và dù chỉ mới mười tuổi nhưng cô bé đã hiểu rằng về mặt này mình bị coi là thua kém so với hầu hết các bạn nữ khác trong vùng. Trẻ con thường có cách khám phá ra những điều như vậy, thường là từ những đứa trẻ khác. Chẳng hạn như sự cố không mấy vui vẻ xảy ra tại bữa tiệc sinh nhật lần thứ mười một của tiểu thư Olivia và công tử Winston Bevelstoke, cặp sinh đôi của vợ chồng ngài Bá tước xứ Rudland. Nhà Miranda khá gần Haverbreaks, điền sản của tổ tiên dòng họ Rudland gần Ambleside, quận Lake, Cumberland, và cô bé thường học bài cùng Olivia và Winston khi bọn trẻ về đây ở. Chúng trở thành bộ ba không thể tách rời và hiếm khi chơi với những đứa trẻ khác trong vùng, vì hầu hết đều sống cách đó khoảng một giờ đi ngựa. Khoảng chục lần mỗi năm, đặc biệt là những dịp sinh nhật, con cái tất cả các gia đình quý tộc và thượng lưu trong vùng lại tụ họp với nhau. Vì lý do này mà nữ Bá tước Rudland phải thốt ra một tiếng rền rĩ chẳng hề ra dáng quý bà; mười tám thằng nhóc tai quái đang hào hứng tha bùn đất khắp phòng khách nhà bà sau khi bữa tiệc của cặp sinh đôi tổ chức trong khu vườn bị trận mưa phá hỏng. “Má cậu dính bùn kìa, Livvy,” Miranda vừa nói vừa đưa tay lên lau vết bùn. Olivia thở hắt ra vẻ mệt mỏi đầy kịch tính. “Thế thì tốt hơn hết là mình nên vào phòng rửa mặt. Mình không muốn mẹ trông thấy mình thế này. Mẹ ghét bẩn, còn mình thì ghét phải nghe mẹ kêu ca bà ghét bẩn đến thế nào.” “Mình không hiểu bà lấy đâu ra thời gian để phàn nàn về vết bùn nhỏ trên mặt cậu trong khi cả tấm thảm của bà giờ toàn bùn đất thế kia cơ chứ.” Miranda liếc William Evans, thằng bé vừa mới hô “XUNG PHONGGGGGG” rồi phóng người lên trường kỷ. Cô bé phải bặm môi lại để khỏi cười. “Và cả đồ đạc nữa.” “Cũng thế cả thôi, tốt nhất là mình nên làm gì đó.” Nói rồi cô bé lẻn ra khỏi phòng, bỏ lại Miranda ở gần lối ra vào. Miranda quan sát cuộc bạo loạn chừng một vài phút rồi khá bằng lòng chấp nhận cái vị trí người-quan-sát thường lệ của mình, cho tới khi qua khóe mắt, cô bé thấy có ai đó đang đi tới. “Bạn tặng quà sinh nhật gì cho Olivia vậy Miranda?” Miranda quay sang thì thấy Fiona Bennet đang đứng trước mặt mình, xinh xắn trong chiếc váy yếm trắng kèm khăn quàng màu hồng. “Một cuốn sách,” cô bé đáp. “Olivia thích đọc sách. Còn bạn mang gì tới?” Fiona giơ ra một chiếc hộp có họa tiết vui mắt được thắt dây nơ màu bạc. “Một bộ sưu tập các dải ruy băng. Bằng lụa và xa tanh, thậm chí là bằng nhung nữa. Bạn có muốn xem không?” “Ôi, nhưng tớ không muốn làm hỏng lớp giấy gói đâu.” Fiona nhún vai. “Bạn chỉ cần tháo sợi dây buộc cho cẩn thận là được. Tớ vẫn làm thế với quà Giáng sinh mà.” Nói rồi cô bé kéo sợi nơ buộc và nâng cái nắp hộp lên. Miranda nín thở. Ít nhất có tới một tá ruy băng nằm trên lớp lót bằng nhung đen của chiếc hộp, mỗi sợi được thắt nơ bướm cực kỳ trang nhã. “Đẹp quá Fiona. Mình có thể xem một cái không?” Fiona nheo mắt. “Tay tớ không có tẹo bùn nào đâu. Thấy không?” Miranda giơ hai bàn tay lên để cô bạn kiểm tra. “Ừ, được rồi.” Miranda thò tay vào chọn một chiếc ruy băng màu tím. Chất xa tanh trơn mượt khủng khiếp và mềm mại trôi trong bàn tay cô bé. Cô bé đặt cái nơ bướm điệu đà ướm thử lên mái tóc mình. “Bạn nghĩ sao?” Fiona đảo tròn mắt. “Không phải màu tím, Miranda ạ. Ai cũng biết chúng dành cho tóc vàng cơ. Màu này thường bìm trên nền nâu. Bạn hiển nhiên không thể đeo nó rồi.” Miranda đưa trả dải ruy băng cho cô bạn. “Vậy màu nào thì hợp với tóc nâu? Xanh lá à? Mẹ mình có mái tóc màu nâu và mình đã thấy mẹ buộc những dải ruy băng màu xanh lá.” “Xanh lá cây có thể chấp nhận được, tớ nghĩ thế. Nhưng trên mái tóc vàng thì sẽ đẹp hơn. Mọi thứ đều đẹp hơn trên nền tóc vàng.” Miranda cảm thấy một thoáng phẫn nộ dâng lên trong lòng. “Vậy thì tớ không hiểu bạn sẽ làm gì hả, Fiona, bởi vì tóc bạn cũng nâu như tóc tớ mà.” Fiona giật lùi lại, nổi cáu. “Không phải!” “Đúng thế mà!” “Không phải!” Miranda nhoài người tới trước, hai mắt nheo lại vẻ đe dọa. “Bạn nên soi gương khi về nhà, Fiona ạ, bởi vì tóc bạn không phải màu vàng.” Fiona đặt dải ruy băng tím trở lại hộp và sập nắp đánh cạch một cái. “Vậy à, nó đã từng là màu vàng, còn tóc cậu chẳng bao giờ có màu đó cả. Và ngoài ra, tóc tôi có màu nâu nhạt, mà mọi người đều biết là nó đẹp hơn màu nâu sẫm. Sẫm như tóc bạn ấy.” “Tóc nâu sẫm chẳng có gì là sai trái cả!” Miranda đáp trả. Nhưng cô bé cũng biết rằng đa số người Anh đều không đồng tình với ý kiến của mình. “Và,” Fiona đắc thắng bổ sung, “bạn có đôi môi bự như con sên!” Bàn tay Miranda vụt đưa lên che miệng. Cô bé biết mình không đẹp; cô bé biết mình thậm chí còn không được coi là xinh xắn nữa cơ. Nhưng từ trước đến giờ cô bé chưa bao giờ thấy đôi môi của mình có gì không ổn cả. Cô bé ngước nhìn nhỏ bạn đang mỉm cười tự mãn. “Còn bạn thì có tàn nhang!” Cô la lên. Fiona giật lùi lại như vừa bị một cái tát. “Tàn nhang sẽ biến mất dần. Các nốt trên mặt tôi sẽ biến đi hết trước khi tôi bước sang tuổi mười tám. Tối nào mẹ tôi chẳng dặm nước chanh vắt lên.” Cô nàng cười khẩy vẻ khinh miệt. “Nhưng bạn thì vô phương cứu chữa, Miranda ạ. Bạn xấu xí.” “Bạn ấy không xấu!” Cả hai cô bé cùng quay sang nhìn Olivia - vừa mới từ phòng rửa mặt quay trở lại. “Ồ, Olivia,” Fiona nói. “Mình biết bạn kết thân với Miranda bởi vì cô ta sống gần nhà và cùng học bài với bạn, nhưng bạn phải thừa nhận là cô ta không xinh. Mẹ mình nói cô ta sẽ chẳng bao giờ lấy chồng được.” Đôi mắt xanh của Olivia lóe lên ánh nguy hiểm. Cô con gái độc nhất của Bá tước Rudland không bao giờ tha thứ một lỗi lầm nào, và Miranda lại là người bạn thân nhất của cô bé. “Miranda sẽ lấy được người chồng tốt hơn bạn đấy, Fiona Bennet ạ! Ba bạn ấy là một Tòng nam tước trong khi ba bạn chỉ là thường dân.” “Là con gái Tòng nam tước cũng chẳng có gì khác biệt cả trừ phi cô ta có nhan sắc hoặc có tiền,” Fiona ngân nga nhắc lại những lời mà cô bé hiển nhiên đã được nghe lúc ở nhà. “Mà cả hai thứ ấy Miranda đều chẳng có.” “Im đi, bạn là đồ bò già ngu ngốc!” Olivia giậm chân quát. “Đây là tiệc sinh nhật của tôi, nếu bạn không thể cư xử tử tế thì bạn có thể về!” Fiona nuốt giận. Cô bé biết tốt hơn là không nên làm cho Olivia - con gái của những người có đẳng cấp xã hội cao nhất vùng - xa lánh mình. “Mình xin lỗi, Olivia,” cô bé lẩm bẩm nói. “Đừng xin lỗi tôi. Xin lỗi Miranda ấy.” “Tôi xin lỗi, Miranda.” Miranda vẫn im lặng cho tới khi Olivia phải đá cô bé một cái. “Tôi chấp nhận lời xin lỗi của bạn,”miễn cưỡng nói. Fiona gật đầu rồi chạy biến. “Mình không thể tin được cậu lại gọi cậu ta là con bò già ngu ngốc,” Miranda nói. “Bạn cần phải học cách tự bảo vệ mình, Miranda ạ.” “Trước khi cậu tham gia vào, mình vẫn đang tự bảo vệ rất tuyệt đấy chứ, Livvy. Mình chỉ không muốn tự bảo vệ một cách quá ầm ĩ thôi.” Olivia thở dài. “Mẹ bảo mình không có chút xíu khả năng kiềm chế hay lương tri gì cả.” “Đúng là vậy,” Miranda tán thành. “Miranda!” “Đó là sự thật, cậu đúng là như thế mà. Nhưng dù thế nào mình vẫn yêu cậu.” “Mình cũng yêu cậu, Miranda. Và đừng để tâm đến Fiona già ngớ ngẩn. Khi nào lớn cậu có thể cưới Winston và rồi chúng mình sẽ thật sự là chị em.” Miranda liếc ngang qua phòng nhìn Winston vẻ hoài nghi. Cậu đang giật tóc một cô bé con. “Mình không biết nữa,” cô bé e dè nói. “Mình không chắc là mình muốn lấy Winston đâu.” “Vớ vẩn. Như thế thật hoàn hảo. Mà nhìn xem, anh ấy mới làm đổ rượu pân ra váy của Fiona kìa.” Miranda cười toe toét. “Đi với mình nào,” Olivia nói, cầm tay cô bạn. “Mình muốn mở quà. Mình hứa là sẽ reo to nhất khi nhận quà của cậu.” Hai cô bé trở lại phòng khách, rồi Olivia và Winston mở quà. Tạ ơn Chúa (theo ý kiến của Phu nhân Rudland), hoàn tất việc mở quà vào đúng bốn giờ, thời điểm những đứa trẻ phải về nhà. Đứa nào cũng được đích thân phụ huynh đến đón, ai cũng xem chuyện được mời tới nhà Haverbreaks là một niềm vinh dự, và không vị phụ huynh nào lại muốn bỏ lỡ cơ hội làm thân với ông bà Bá tước. Ngoại trừ bố mẹ của Miranda, đúng thế. Đến năm giờ, cô bé vẫn còn ở phòng khách nhà Bevelstoke, cùng Olivia xem xét các chiến lợi phẩm. “Ta không biết có chuyện gì với bố mẹ cháu thế, Miranda,” Phu nhân Rudland nói. “Ôi, cháu biết đấy ạ,” Miranda hào hứng đáp. “Mẹ cháu đã đến Scotland thăm bà ngoại, và cháu dám chắc là ba cháu đã quên béng cháu rồi. Ba cháu vẫn thường thế khi ông mải làm việc với một bản thảo nào đó. Ông dịch từ tiếng Hy Lạp.” “Ta biết,” Phu nhân Rudland mỉm cười. “Hy Lạp cổ đại.” “Ta biết,” Phu nhân Rudland thở dài. Đây không phải lần đầu tiên ngài Rupert Cheever quên mất cô con gái của mình. “Chà, phải tìm cách đưa cháu về nhà thôi.” “Con sẽ đi với bạn ấy,” Olivia đề xuất. “Con và Winston cần phải cất đồ chơi mới và viết thiệp cảm ơn. Nếu không làm việc đó tối nay, con sẽ không nhớ được ai đã tặng con thứ gì.” “Nhưng mẹ không thể để một người hầu đưa Miranda về nhà được. Bạn ấy sẽ không có ai để trò chuyện cả.” “Tớ có thể nói chuyện với người hầu mà,” Miranda nói. “Tớ vẫn thường xuyên nói chuyện với bọn họ ở nhà.” “Không phải với người hầu nhà tớ,” Olivia thì thầm. “Bọn họ cứng nhắc và câm như hến, lại còn thường nhìn tớ vẻ không bằng lòng nữa chứ.” “Hầu như lúc nào con cũng đáng bị nhìn với vẻ không hài cả,” Phu nhân Rudland ngắt ngang, âu yếm vỗ đầu cô con gái. “Ta tìm ra giải pháp cho cháu rồi đây, Miranda. Tại sao chúng ta không nhờ Nigel đưa cháu về nhà nhỉ?” “Nigel ư!” Olivia kêu lên. “Miranda, cậu thật là chú vịt may mắn.” Miranda nhướn mày. Cô bé chưa bao giờ gặp anh trai lớn của Olivia. “Được thôi,” cô bé từ tốn nói. “Tớ mừng vì cuối cùng cũng được gặp anh ấy. Cậu vẫn luôn miệng kể về anh ấy mà, phải không Olivia.” Phu nhân Rudland ra lệnh cho một cô hầu gái đi tìm Nigel. “Cháu chưa bao giờ gặp Nigel sao Miranda? Kỳ lạ thật. À, ta cho là vì nó thường chỉ về nhà vào dịp Giáng sinh, mà Giáng sinh thì cháu lại hay đi Scotland. Ta đã phải dọa sẽ từ mặt nó để bắt nó về nhà vào ngày sinh nhật của hai đứa sinh đôi đấy. Nó không dự bữa tiệc vì sợ một trong mấy bà mẹ kia sẽ cố gắng gả một đứa trẻ mười tuổi cho nó.” “Nigel mười chín rồi, anh ấy là một đám rất sáng giá đấy,” Olivia thản nhiên nói. “Anh ấy là một Tử tước. Và cực kỳ đẹp trai. Trông anh ấy giống mình.” “Olivia!” bà Rudland nhắc nhở vẻ không hài lòng. “Thì đúng thế mà mẹ. Nếu là con trai thì con sẽ rất đẹp trai cho xem.” “Là con gái thì cậu cũng xinh xắn thế còn gì, Livvy,” Miranda thành thực nói, nhìn những lọn tóc vàng của cô bạn với vẻ hơi ghen tị. “Cậu cũng vậy. Này, cậu chọn một dải ruy băng của con bò Fiona đi. Dù gì mình cũng không cần toàn bộ chỗ ruy băng này.” Miranda mỉm cười trước lời nói dối của cô bạn. Olivia là người bạn tốt như thế đấy. Cô bé nhìn xuống hộp ruy băng và ngoan cố chọn sợi xa tanh màu tím. “Cảm ơn cậu, Livvy. Thứ Hai mình sẽ buộc nó đến trường.” “Mẹ gọi con ạ?” Nghe giọng nói trầm ấm, Miranda quay mặt về lối cửa ra vào và gần như há hốc vì kinh ngạc. Đang đứng ở đó là một sinh vật lộng lẫy tuyệt vời nhất mà cô bé từng trông thấy. Olivia đã nói rằng Nigel mười chín tuổi, nhưng Miranda ngay lập tức nhận thấy anh đã ra dáng đàn ông lắm rồi. Đôi vai rộng cân đối trông như vẽ, thân hình thanh thoát nhưng rắn chắc. Tóc anh đậm màu hơn tóc Olivia nhưng vẫn có ánh vàng kim, bằng chứng cho thấy anh thường xuyên ở ngoài trời. Nhưng phần đẹp nhất của anh, Miranda lập tức nghĩ ra, chính là đôi mắt. Nó sáng ngời, màu xanh lam rạng rỡ, giống đôi mắt của Olivia. Chúng cũng lấp lánh ánh tinh nghịch, láu lỉnh. Miranda mỉm cười. Mẹ cô bé vẫn thường bảo rằng có thể nhìn vào đôi mắt của một người mà nói về người đó, mà anh trai của Olivia thì có đôi mắt tuyệt đẹp. “Nigel, con hộ tống Miranda về nhà được không?” bà Rudland hỏi. “Ba của cô bé dường như bị cầm chân ở đâu đó mất rồi.” Miranda tự hỏi tại sao Nigel lại nhăn mặt khi nghe mẹ gọi tên mình. “Chắc chắn rồi, thưa mẹ. Olivia, em đã có một bữa tiệc vui vẻ chứ hả?” “Đập phá tanh bành.” “Winston đâu rồi?” Olivia nhún vai. “Anh ấy đi chơi với thanh kiếm Billy Evans tặng rồi.” “Anh hy vọng không phải là đồ thật.” “Chúa phù hộ chúng ta nếu nó là đồ thật,” bà Rudland xen vào. “Được rồi, Miranda, chúng ta sẽ đưa cháu về. Ta tin là áo choàng của cháu đang ở phòng bên.” Bà biến mất qua khung cửa và xuất hiện trở lại vài giây sau với chiếc áo choàng bền chắc màu nâu của Miranda. “Chúng ta lên đường chứ, Miranda?” Sinh vật đến từ thiên đường ấy đưa tay ra cho cô bé. Miranda khoác áo rồi đặt bàn tay mình vào tay anh. Thiên đường! “Mình sẽ gặp cậu vào thứ Hai nhé!” Olivia gọi với theo. “Và đừng lo lắng về những gì Fiona nói. Cậu ta chỉ là con bò già ngớ ngẩn thôi.” “Olivia!” “Thì đúng thế mà mẹ. Con không muốn bạn ấy quay lại đây nữa.” Miranda mỉm cười khi để anh trai Olivia dẫn xuống tiền sảnh, giọng của Olivia và bà Rudland nhỏ dần, nhỏ dần. “Cảm ơn anh rất nhiều vì đã đồng ý đưa em về nhà, Nigel,” cô bé khẽ nói. Anh lại nhăn mặt. “Em... em xin lỗi,” cô bé vội nói. “Đáng lẽ em nên nói ‘thưa ngài’, đúng không? Chỉ tại Olivia và Winston thường nhắc đến anh bằng tên riêng nên em...” Cô bé khổ sở nhìn xuống sàn nhà. Chỉ mới hai phút được đi cạnh anh mà cô bé đã mắc sai lầm ngớ ngẩn rồi. Anh dừng lại và cúi xuống để cô bé có thể nhìn thấy mặt mình. “Đừng lo lắng về cái từ ‘thưa ngài’ ấy, Miranda. Anh sẽ nói cho em một bí mật nhé.” Đôi mắt Miranda tròn xoe, cô bé quên cả thở. “Anh ghét tên thánh của mình.” “Đó không hẳn là một bí mật, Nig... ý em là, thưa ngài, mà mặc kệ anh muốn được gọi là gì cũng được. Cứ khi nào mẹ anh gọi anh bằng cái tên đó là anh lại nhăn mặt.” Nigel mỉm cười với Miranda. Có điều gì đó khiến trái tim anh nhói lên khi Nigel nhìn thấy cô gái bé nhỏ với nét mặt quá ư nghiêm nghị này chơi với đứa em gái ương bướng không thể khuất phục của anh. Cô bé là một sinh vật nhỏ nhắn trong cái vẻ ngoài thật buồn cười, nhưng đôi mắt nâu to tròn rất có hồn của cô lại ánh lên vẻ gì đó khá đáng yêu. “Thế anh được gọi là gì ạ?” Miranda hỏi. Anh mỉm cười với cô bé, không hề kiểu cách. “Turner.”[1] [1] Có nghĩa là Thợ tiện. Mất một lúc anh tưởng cô bé sẽ không nói gì. Miranda chỉ đứng đó, hoàn toàn bất động, chỉ có đôi mắt vẫn long lanh. Và rồi, như thể cuối cùng đã tìm ra kết luận, cô bé nói, “Cái tên hay thật. Hơi kỳ lạ một chút, nhưng em thích.” “Hay hơn Nigel nhiều, em không nghĩ thế à?” Miranda gật đầu. “Anh đã chọn nó à? Em vẫn nghĩ rằng người ta nên tự chọn tên cho mình. Em cũng biết hầu hết người ta sẽ chọn một cái tên nào đó khác với tên mình được đặt.” “Và em sẽ chọn tên gì?” “Em không chắc nữa, nhưng không phải là Miranda. Thứ gì đó mộc mạc hơn, em nghĩ thế. Người ta kỳ vọng một điều gì đó khác khi nghe đến cái tên Miranda và hầu như thường thất vọng khi họ gặp em.” “Vô lý,” Turner mạnh mẽ phản đối. “Em là một Miranda hoàn hảo.” Cô bé cười rạng rỡ. “Cảm ơn anh, Turner. Em có thể gọi anh như thế không?” “Dĩ nhiên rồi. Và anh e là không phải anh chọn cái tên này. Nó chỉ là một tước hiệu lịch thiệp. Tử tước Turner. Từ hồi tới Eton đến giờ anh vẫn dùng cái tên ấy thay cho Nigel.” “Ồ. Nó hợp với anh, em nghĩ thế.” “Cảm ơn em,” anh trang trọng đáp lại, hoàn toàn bị đứa trẻ nghiêm nghị này mê hoặc. “Giờ thì, đưa tay em cho anh lần nữa nào, chúng ta sẽ lên đường.” “Cái gì thế?” “Cái này ạ? Ồ, ruy băng ấy mà. Fiona Bennet tặng khoảng hai chục chiếc cho Olivia, và Olivia nói em có thể giữ mộtchiếc.” Mắt Turner hơi nheo lại rất khẽ khi anh nhớ lại Olivia đã nói gì lúc tạm biệt Miranda. Đừng lo lắng về những gì Fiona nói. Anh kéo dải ruy băng ra khỏi tay cô bé. “Anh nghĩ chỗ của ruy băng là ở trên mái tóc chứ nhỉ.” “Ờ, nhưng nó không hợp với váy của em,” Miranda yếu ớt phản đối. Lúc này anh đã buộc nó thật chặt lên đỉnh đầu của cô bé rồi. “Nó trông thế nào ạ?” cô bé thì thầm. “Tuyệt vời.” “Thật ạ?” Cô tròn xoe mắt vẻ hoài nghi. “Thật mà. Anh luôn nghĩ rằng ruy băng màu tím trông đặc biệt xinh xắn trên mái tóc nâu.” Miranda thấy mình phải lòng Tuner ngay tức khắc. Cảm xúc quá mãnh liệt đến nỗi cô bé quên cả cảm ơn lời khen của anh. “Chúng ta khởi hành chứ?” anh nói. Cô gật đầu, không tin tưởng chính giọng nói của mình nữa. Họ rời ngôi nhà đến tàu ngựa. “Anh nghĩ chúng mình có thể cưỡi ngựa,” Turner nói. “Một ngày quá đẹp để ngồi trong xe.” Miranda lại gật đầu. Thời tiết ấm áp khác thường đối với tháng Ba. “Em có thể lấy chú ngựa con của Olivia. Anh chắc chắn là con bé không thấy phiền đâu.” “Livvy không có ngựa con,” cuối cùng thì Miranda cũng tìm lại được giọng nói của mình. “Bây giờ cậu ấy có một con ngựa cái hẳn hoi. Em cũng có một con ở nhà. Bọn em không phải là trẻ con.” Turner nén cười. “Ừ, anh có thể thấy là bọn em không còn nhỏ nữa. Anh mới ngớ ngẩn làm sao chứ. Anh chẳng suy nghĩ gì cả.” Vài phút sau, yên ngựa đã thắng xong, và họ bắt đầu chặng đường mười lăm phút đi ngựa đến nhà Cheever. Miranda vẫn im lặng khoảng một phút đầu, quá hạnh phúc đến nỗi không muốn làm hỏng khoảnh khắc này bằng những lời nói. “Ở bữa tiệc em có vui không?” rốt cuộc Turner lên tiếng. “Ồ, vâng. Phần lớn thời gian rất vui ạ.” “Phần lớn thời gian thôi à?” Anh thấy Miranda nhăn mặt. Rõ ràng cô bé không định nói quá nhiều. “À,” cô bé chậm rãi đáp, cắn môi rồi lại nhả ra, “một cô gái đã nói những lời không tốt với em.” “Ồ?” Anh biết tốt hơn là không nên tò mò thái quá. Và quả nhiên anh đã đúng, bởi vì khi Miranda nói chuyện, cô bé gợi anh nhớ đến em gái mình - đang ngước nhìn anh chăm chú với ánh mắt thẳng thắn trong khi từ ngữ thì ào ào mạnh mẽ. “Đó là Fiona Bennet,” cô bé nói với vẻ cực kỳ chán ghét, “Olivia gọi cô ta là con bò già ngu ngốc, và em phải nói là em không thấy hối tiếc khi cậu ấy làm vậy.” Turner vẫn giữ thái độ trang nghiêm thích hợp. “Anh cũng không thấy tiếc vì con bé đã làm vậy, nếu Fiona đã nói những lời tàn nhẫn với em.” “Em biết mình không xinh đẹp,” Miranda bùng nổ. “Nhưng thật là thô lỗ bất lịch sự khi nói vậy, ấy là chưa kể còn ám chỉ thẳng thừng color="black">Turner nhìn Miranda một lúc lâu, không chắc mình phải an ủi cô gái bé nhỏ này như thế nào. Miranda không xinh đẹp, đó là sự thật, và nếu anh cố bảo rằng cô bé xinh xắn thì cô bé sẽ không tin anh. Nhưng cô bé không xấu xí. Chỉ... hơi vụng về. Tuy nhiên anh đã được giải thoát khỏi tình huống khó khăn này, không phải nói bất cứ điều gì nhờ câu bình luận tiếp theo của Miranda. “Đó là vì mái tóc màu nâu này, em nghĩ thế.” Anh nhướn mày. “Nó chẳng đúng mốt gì cả,” Miranda giải thích. “Và cả đôi mắt nâu nữa. Em cũng quá gầy và mặt em quá dài, em quá xanh xao nữa.” “Chà, những cái đó đều đúng cả,” Turner nói. Miranda quay sang đối diện với anh, đôi mắt cô bé mở to, nhòa lệ và gương mặt đượm vẻ buồn rầu. “Hiển nhiên em có mái tóc và đôi mắt màu nâu. Không có gì phải bàn cãi ở điểm đó cả.” Anh nghiêng đầu vờ săm soi nghiên cứu cô bé thật toàn diện. “Em khá gầy, và mặt em đúng là hơi dài một tí. Và em rõ ràng là trông xanh tái.” Môi Miranda run run, và Turner không thể trêu chọc cô bé thêm nữa. “Nhưng mà,” anh mỉm cười, “anh lại thích phụ nữ có tóc và mắt màu nâu hơn.” “Không phải thế!” “Đúng thế đấy. Lúc nào anh cũng thích như vậy. Anh cũng thích họ gầy và xanh xao nữa.” Miranda nhìn anh vẻ hoài nghi. “Thế còn mặt dài thì sao?” “À, anh phải công nhận anh chưa bao giờ nghĩ ngợi nhiều về vấn đề ấy, nhưng anh chắc chắn là không thấy phiền lòng với một khuôn mặt dài.">“Fiona Bennet nói em có đôi môi bự,” cô bé vẫn bướng bỉnh nói. Turner hơi mỉm cười đáp lại. Cô bé thở dài thườn thượt. “Trước đây em thậm chí chưa bao giờ nhận thấy là mình có đôi môi bự.” “Không quá bự đâu.” Cô bé ném cho anh ánh nhìn cảnh giác. “Anh đang nói thế để làm em thấy dễ chịu hơn thôi.” “Quả là anh muốn em cảm thấy khá hơn thật, nhưng đó không phải là do anh nói thế. Và lần tới Fiona Bennet mà nói em có đôi môi bự thì hãy bảo với nó là nó sai rồi. Em có đôi môi đầy đặn.” “Có gì khác nhau đâu?” Cô bé nhìn anh nôn nóng, đôi mắt tối sẫm hết sức nghiêm nghị. Turner hít vào một hơi. “Chà chà,” anh nói tránh. “Môi bự thì không hấp dẫn. Nhưng môi đầy đặn thì có đấy.” “Ồ.” Điều đó có vẻ làm cô bé hài lòng. “Môi Fiona mỏng dính.” “Môi đầy đặn thì tốt hơn nhiều, nhiều so với môi mỏng,” Turner nói dứt khoát. Anh khá thích cô gái bé nhỏ vui nhộn này và muốn cô bé vui hơn. “Tại sao?” Turner thầm cầu xin các vị thần của nghi thức xã giao và tính đúng đắn chừng mực tha lỗi trước khi trả lời: “Đôi môi đầy đặn thì hôn sẽ tuyệt hơn.” “Ồ.” Miranda đỏ mặt, và rồi cô bé mỉm cười. “Hay quá.” Turner cảm thấy hài lòng với bản thân một cách ngớ ngẩn. “Em có biết anh nghĩ gì không, tiểu thư Miranda Cheever? “Dạ?” “Anh nghĩ em chỉ cần trở thành chính mình thôi.”[2] Vừa nói ra điều đó, anh lập tức cảm thấy hối tiếc. Chắc chắn cô bé sẽ hỏi ý anh là gì, và anh chẳng biết phải trả lời cô ra sao nữa. [2] Nguyên văn là “I think you just need to grow into yourself” và Miranda hiểu lầm ý của anh nói cô bé cần phải lớn hơn để cơ thể cân đối với đôi chân quá dài của mình. Nhưng cô bé lớn trước tuổi này chỉ nghiêng nghiêng đầu suy nghĩ về tuyên bố của anh. “Em mong là anh đúng,” cuối cùng cô nói. “Hãy nhìn chân em mà xem.” Một tiếng ho kín đáo lấp liếm nụ cười nén vội trong họng Turner. “Ý em là gì?” “Thế đấy, chân quá dài. Mẹ em thường nói rằng chân dài đến nách vậy.” “Có vẻ như chân em bắt đầu từ phần hông của em đấy chứ.” Miranda cười rúc rích. “Em đang nói ẩn dụ mà.” Turner nháy mắt. Cô bé mười tuổi này quả là thích lý sự. “Ý em là,” cô tiếp tục, “đôi chân của em có kích thước không cân đối so với phần còn lại của cơ thể. Em nghĩ đó là lý do em không thể học khiêu vũ được. Em cứ giẫm vào ngón chân của Olivia hoài.” “Giẫm lên ngón chân của Olivia?” “Chúng em tập khiêu vũ cùng nhau,” Miranda mau lẹ giải thích. “Em nghĩ nếu các bộ phận trên cơ thể em ăn khớp với đôi chân thì em sẽ không quá lóng ngóng vụng về. Vì vậy em cho là anh đúng đấy. Em đúng là phải lớn hơn để cho vừa với chính mình.”[3] [3] Nguyên văn là “I do have to grow into myself.” “Tuyệt vời,” Turner nói, vui mừng nhận ra chẳng hiểu xoay xở thế nào mà anh đã nói trúng điều cần nói. “À, có vẻ như chúng ta đến nơi rồi.” Miranda ngước nhìn ngôi nhà đá xám xịt của mình. Nó tọa lạc ngay trên một trong những dòng suối ăn thông với các hồ trong vùng, và dòng suối này chảy qua cây cầu nhỏ bằng đá cuội dẫn đến cửa trước của ngôi nhà. “Cảm ơn anh rất nhiều vì đã đưa em về, Turner. Em hứa sẽ không bao giờ gọi anh là Nigel.” “Em cũng hứa là sẽ véo Olivia nếu nó gọi anh là Nigel chứ?” Miranda khẽ bật ra tiếng cười khúc khích và bụm tay che miệng. Cô bé gật đầu. Turner xuống ngựa rồi quay sang giúp cô bé xuống. “Em có biết anh nghĩ em nên làm gì không hả Miranda?” anh đột nhiên hỏi. “Gì ạ?” “Anh nghĩ em nên viết nhật ký.” Cô bé chớp mắt ngạc nhiên. “Tại sao? Ai muốn đọc nó chứ?” “Không ai cả. Em giữ riêng nó cho mình thôi. Và có thể một ngày nào đó sau khi em qua đời, con cháu của em sẽ muốn đọc nó để biết được hồi còn trẻ em sống như thế nào.” Cô nghiêng nghiêng đầu. “Ngộ nhỡ em không có con cháu thì sao?” Turner bất giác đưa tay vò tóc cô bé. “Em hỏi nhiều quá đấy, mèo con ạ.” “Nhưng nhỡ em không có con cháu thì sao?” Chúa ơi, cô bé thật cứng đầu. “Có lẽ em sẽ nổi tiếng.” Anh thở dài. “Và bọn trẻ học ở trường sẽ muốn được biết về em.” Miranda ném cho anh ánh mắt hoài nghi. “Ôi, thôi được rồi, em muốn biết tại sao anh thật sự nghĩ em nên viết nhật ký không?” Cô bé gật đầu. “Bởi vì một ngày nào đấy em sẽ lớn lên và trở thành chính mình, em sẽ xinh đẹp và thông minh. Rồi em có thể đọc lại nhật ký và nhận ra những đứa con gái như Fiona Bennet mới ngốc nghếch làm sao. Và em sẽ cười khi nhớ lại rằng mẹ em đã nói chân em dài tới tận nách. Và có thể em sẽ dành cho anh một nụ cười tủm tỉm khi nhớ lại buổi trò chuyện tuyệt vời giữa chúng ta hôm nay.” Miranda ngước nhìn anh, nghĩ rằng anh chắc hẳn phải là một trong những vị thần Hy Lạp mà ba vẫn thường đọc cho mình nghe. “Anh biết em nghĩ gì không?” cô bé thì thầm. “Em nghĩ Olivia rất may mắn vì có anh là anh trai.” “Anh nghĩ nó rất may mắn vì có em là bạn.” Môi Miranda run run. “Em sẽ dành cho anh một nụ cười rạng rỡ, Turner ạ,” cô bé thì thầm. Anh cúi xuống ân cần hôn lên mu bàn tay của cô bé đúng như anh hẳn sẽ làm với một tiểu thư xinh đẹp nhất London. “Hãy chờ xem nhé, mèo con.” Anh mỉm cười và gật đầu chào trước khi lên ngựa, dắt con ngựa cái của Olivia đi đằng sau. Miranda dõi theo cho tới khi anh biến mất ở đường chân trời, rồi cô bé cứ nhìn đăm đăm thế thêm mười phút tuyệt vời nữa. Khuya hôm đó Miranda thơ thẩn đi vào phòng làm việc của ba. Ông đang cắm cúi vào một văn bản, quên bẵng cây nến sáp đang nhỏ giọt trên bàn làm việc. “Ba, đã bao nhiêu lần con phải nhắc ba để ý đến mấy cây nến rồi ạ?” Cô bé thở dài đặt cây nến vào giá cắm. “Gì cơ? Ồ, con yêu.” “Và ba cần nhiều hơn một cây nến. Ở đây tối quá không thể đọc được.” “Thế à? Ba không để ý.” Ông chớp mắt và rồi nheo lại. “Không phải đã quá giờ đi ngủ của con rồi à?” “Vú nói đêm nay con có thể thức thêm ba mươi phút nữa.” “Vú nói vậy à? Ờ ờ, miễn là bà ấy đồng ý.” Ông lại cắm cúi trở lại bản thảo, tỏ ý không muốn nói chuyện nữa. “Ba à.” Ông thở dài. “Gì nữa thế, Miranda?” “Ba có quyển sổ thừa nào không? Giống như những cuốn ba dùng khi đang dịch ấy, nhưng là trước khi ba chép ra bản nháp cuối cùng cơ?” “Chắc là có đấy.” Ông mở ngăn kéo dưới cùng của bàn làm việc ra lục tìm trong đó. “Đây rồi. Nhưng con muốn làm gì với nó thế? Đây là một cuốn sổ rất tốt, con biết đấy, và không rẻ đâu.” “Con sẽ viết nhật ký.” “Bây giờ ư? À, thế thì ba cho là cuốn sổ này xứng đáng đấy.” Ông đưa cuốn sổ cho Miranda. Cô bé cười rạng rỡ trước lời tán dương của ba. “Cảm ơn ba. Con sẽ cho ba biết khi nào hết chỗ viết và cần một cuốn khác.” “Được rồi. Chúc ngủ ngon, con yêu.” Ông quay trở lại với đống giấy tờ của mình. Miranda ôm cuốn sổ vào ngực chạy lên lầu về phòng ngủ. Cô bé lấy ra một lọ mực và cây bút lông rồi mở cuốn sổ ra. Ở trang đầu tiên, cô bé ghi ngày tháng, và rồi, sau một hồi cân nhắc, cô viết một dòng duy nhất. Dường như đó là tất cả những gì cần viết. 2 THÁNG BA 1810 Hôm nay mình đã yêu. Nigel Bevelstoke, vốn được tất cả những kẻ muốn lấy lòng anh biết đến nhiều hơn với cái tên Turner, biết rất nhiều thứ. Anh biết đọc tiếng Latin và tiếng Hy Lạp. Anh biết tán tỉnh phụ nữ bằng tiếng Pháp và tiếng Ý. Anh biết vừa cưỡi ngựa vừa nhắm bắn một mục tiêu di động, và biết chính xác phải uống bao nhiêu ly thì không đánh mất phẩm giá địa vị của mình. Anh biết tung một nắm đấm hoặc một đường gươm với phong thái bậc thầy, và cũng có thể làm cả hai việc đó trong khi vẫn ngâm nga Shakespeare hay Donne đầy duyên dáng. Tóm lại, anh biết mọi thứ mà một quý ông nên biết, và theo những thông tin thu được thì anh xuất sắc trong mọi lĩnh vực. Người ta nhìn ngắm anh. Người ta tôn kính anh. Nhưng không có gì - không một giây nào trong cuộc đời xuất chúng và vinh quang của anh - giúp anh chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với thời khắc này. Và chưa bao giờ anh cảm thấy sức nặng của những ánh mắt soi xét dè chừng nhiều như lúc này, khi anh bước tới trước và ném nắm đất lên quan tài của vợ mình. Tôi rất lấy làm tiếc, người ta cứ nói đi nói lại mãi. Tôi rất lấy làm tiếc. Chúng tôi rất lấy làm tiếc. Và trong lúc đó, Turner không thể ngăn được cái ý nghĩ rằng không biết có phải đang cười anh không, bởi vì tất cả những gì anh có thể nghĩ đến là... Tôi không thấy tiếc. À, Leticia. Anh cảm ơn cô ta rất nhiều về điều đó. Hãy xem nên bắt đầu từ đâu thì hợp lý? Danh tiếng của anh bị tổn hại, dĩ nhiên rồi. Chỉ quỷ sứ mới biết có bao nhiêu người tường tận rằng anh là kẻ bị cắm sừng. Một lần, hai lần, ba lần,... Thế rồi đến bản tính trong sáng của anh cũng mất. Giờ đây, thật khó lòng hồi tưởng lại, nhưng anh đã từng không hề nghi ngờ bất cứ ai. Anh đã từng tuyệt đối tin vào những gì tốt đẹp nhất của con người - rằng nếu anh đối xử với người khác bằng danh dự và sự kính trọng thì họ sẽ làm như vậy với anh. Và cuối cùng, linh hồn anh cũng mất. Bởi vì trong khi anh bước lùi lại, chắp hai tay cứng nhắc phía sau lắng nghe vị linh mục chuyển thân xác Leticia vào lòng đất, anh không thể trốn chạy cái thực tế là anh đã ao ước điều này xảy ra. Anh muốn thoát khỏi cô ta. Anh đã và sẽ không than khóc cho cô ta. “Thật đáng tiếc,” ai đó phía sau anh thì thào nói. Quai hàm Turner giần giật. Không có gì đáng tiếc ở đây. Nó là một trò hề. Và bây giờ anh sẽ dùng một năm sắp tới để tang cho một người phụ nữ đến với anh mà lại mang thai đứa con của kẻ khác. Cô ta làm anh mê mẩn, bỡn cợt anh cho tới khi anh không thể nghĩ đến điều gì khác ngoài việc chiếm cho được cô ta. Cô ta nói rằng cô ta yêu anh, và cô ta mỉm cười với vẻ ngây thơ dịu dàng đầy vui sướng khi anh tuyên thệ lòng tận tâm và cam kết bằng cả linh hồn mình. Cô ta đã từng là giấc mơ ngọt ngào của anh. Và rồi cô ta trở thành ác mng của anh. Cô ta mất đứa bé đó, đứa trẻ đã dẫn đến cuộc hôn nhân của họ. Bố nó là một vị Bá tước người Ý nào đó, ít nhất là cô ta nói thế. Gã đã có vợ, hoặc không phù hợp, hoặc có lẽ cả hai. Turner đã sẵn sàng tha thứ cho cô ta, ai cũng phạm sai lầm, và cả anh cũng vậy còn gì, chẳng phải anh muốn dụ dỗ cô ta trước đêm tân hôn đó sao? Nhưng Leticia không muốn tình yêu của gã. Anh không biết cô ta muốn cái quái quỷ gì nữa - quyền lực, có lẽ thế, cơn say thỏa mãn khi hãy còn người đàn ông khác đổ nhào xuống vì bùa mê của cô ta. Turner tự hỏi liệu cô ta có cảm thấy thế khi gã chết không. Hay có lẽ nó chỉ là một sự giải thoát. Tính đến khi Turner và cô ta cưới nhau, cô ta đã mang thai được ba tháng. Cô ta không có nhiều thời gian rảnh. Và giờ thì cô ta đây. Hay đúng hơn là, cô ta kia. Turner không biết chính xác dùng từ nào là thích đáng hơn cả cho cái thân xác không còn sự sống trong lòng đất ấy. Mà từ nào cũng được. Anh chỉ thấy tiếc rằng cô ta sẽ chia sẻ sự vĩnh hằng trong mảnh đất của anh, yên nghỉ giữa những người nhà Bevelstoke mãi mãi. Bia đá của cô ta sẽ mang tên anh, và rồi một trăm năm nữa người nào đó sẽ nhìn vào dòng chữ khắc trên tấm đá granit kia mà nghĩ cô ta chắc hẳn là một phu nhân đáng kính, và tự hỏi bi kịch gì đã khiến cô ta ra đi khi còn quá trẻ như vậy. Turner ngước nhìn vị linh mục. Ông ta trẻ nhất trong các đồng đạo, mới đến giáo xứ, và theo anh biết thì vị linh mục này vẫn còn niềm tin rằng có thể biến thế gian này thành một nơi tốt đẹp hơn. “Tro tàn trở về với tro tàn,” linh mục vừa nói vừa nhìn lên người đàn ông giờ đã trở thành góa vợ. À phải, Turner chua chát nghĩ, đó là mình. “Cát bụi trở về với cát bụi.” Phía sau anh, có ai đó sụt sịt. Và vị linh mục, với đôi mắt xanh sáng ngời ánh lên niềm cảm thông được đặt hoàn toàn không đúng chỗ, tiếp tục nói... “Trong niềm hy vọng chắc chắn và vững vàng vào sự hồi sinh...” Chúa nhân từ. “... tới cuộc sống vĩnh hằng.” Vị linh mục nhìn Turner và thực sự nao núng. Turner thắc mắc không rõ chính xác thì ông ta nhìn thấy gì trên gương mặt anh. Chẳng có gì tốt đẹp, điều đó hẳn quá rõ ràng rồi. Ai nấy đồng thanh “Amen!”, và rồi buổi lễ kết thúc. Mọi người nhìn vị linh mục, rồi nhìn Turner, sau đó lại nhìn vị linh mục siết chặt hai bàn tay của Turner mà nói: “Mọi người sẽ nhớ cô ấy.” “Tôi,” Turner nén lại, “thì không.” Mình không thể tin anh ấy lại nói thế. Miranda nhìn xuống những dòng cô đã viết. Cô đang ở trang thứ bốn mươi hai của cuốn nhật ký thứ mười ba, nhưng đây là lần đầu tiên - lần đầu tiên kể từ sau cái ngày định mệnh chín năm về trước - cô không biết viết gì cả. Ngay cả trong những tháng ngày xám xịt ảm đạm (mà chúng thường xuyên xuất hiện), cô cũng xoay xở để viết được một đoạn dài. Tháng Năm năm cô mười bốn tuổi... Thức dậy. Mặc quần áo. Ăn sáng: bánh mì nướng, trứng, thịt lợn muối. Đọc Lý trí và Tình cảm; được sáng tác bởi một tiểu thư vô danh. Giấu Lý trí và Tình cảm. Ăn tối: thịt gà, bánh mì, pho mát. Chia động từ tiếng Pháp. Viết thư cho bà ngoại. Ăn khuya: bò bít tết, xúp, bánh pudding. Đọc tiếp Lý trí và Tình cảm, nhận diện về tác giả vẫn chưa biết. Lui về nghỉ ngơi. Ngủ. Mơ về anh. Còn đây là những điều cô ghi vào ngày 12 tháng Mười một cùng năm đó... Thức dậy. Ăn sáng: Trứng, bánh mì nướng, giăm bông. Thực hiện một cuộc biểu dương vĩ đại đọc bi kịch Hy Lạp. Không có kết quả. Dành nhiều thời gian nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ. Ăn trưa: cá, bánh mì, đậu Hà Lan. Chia động từ Latin. Viết thư cho bà ngoại. Ăn khuya: bánh mì nướng, khoai tây, bánh pudding. Mang bi kịch đến bàn (sách, không phải sự kiện). Ba không. Lui về nghỉ ngơi. Ngủ. Mơ về anh. Nhưng bây giờ - khi một sự kiện trọng đại đã thực sự xảy ra (điều chưa bao giờ xảy ra) thì cô lại chẳng có gì để viết ngoại trừ... Mình không thể tin anh ấy lại nói thế. “Than ôi, Miranda,” cô lầm bầm, nhìn mực khô đi trên đầu cây viết lông, “mày sẽ không nổi danh được với tư cách là một người viết nhật ký đâu.” “Cậu vừa nói g&igrav

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Lá Thư Ngày Thứ Tư
Sau cái chết bất ngờ của vợ chồng Jack và Laurel, các con của họ đã tìm được những lá thư mà Jack từng viết cho Laurel vào mỗi ngày thứ Tư hàng tuần trong suốt những năm dài họ chung sống. Đó là những bài thơ dễ thương Jack dành riêng cho vợ, là lời xin lỗi chân thành của Jack về tính khí nóng nảy của mình, là tình cảm không thể thành lời đối với những đứa con, là những buồn vui trong cuộc sống thường ngày... Những lá thư thấm đẫm tình yêu thương ấy đã giúp họ vượt qua sóng gió trong cuộc sống, khiến tình yêu của họ được thắt chặt và bền vững đến tận ngày cả hai cùng nhắm mắt lìa đời. Chính những lá thư vừa hóm hỉnh vừa sâu sắc ấy đã giúp con trai họ là Malcolm lần ra được bí mật lớn nhất của đời mình, đồng thời chúng còn là cầu nối để anh tìm lại tình yêu đích thực với Rain. Những lá thư ngày thứ Tư khắc họa nên một câu chuyện đời thường dễ thương và gần gũi, qua đó Jason F. Wright đã gửi gắm những thông điệp chân thành về tình yêu thương gia đình, về nét đẹp của những điều giản dị trong cuộc sống và về giá trị của lòng vị tha. Khép lại câu chuyện, độc giả sẽ bắt đầu muốn viết “Những lá thư ngày Thứ Tư” của riêng mình bởi những giá trị thiêng liêng mà quyển sách mang lại. *** NHỮNG LÁ THƯ NGÀY THỨ TƯ: "NƠI HỒI SINH TÌNH YÊU SAU CÁI CHẾT…" Jason Wright là tác giả của tiểu thuyết Christmas Jars bán chạy nhất nước Mỹ. Tiểu thuyết: Những lá thư ngày thứ tư ẩn chứa thông điệp về lòng vị tha, tình yêu thương, kể cả khi họ không còn trên thế gian này nữa. Trong cuộc sống, điều gì tạo nên mật ngọt nuôi dưỡng tình yêu và cuộc hôn nhân của những đôi vợ chồng đã bước sang tuổi xế chiều? Tình yêu và sự mãnh liệt của tình yêu có thể hồi sinh sau cái chết? Thông điệp: “Những lá thư ngày thứ tư kể về một câu chuyện ấm nồng, nhân văn như thế. Jack và Laurel là cặp vợ chồng hạnh phúc trong suốt nhiều năm trời. Mỗi ngày sống bên nhau Jack đều viết cho vợ những bức thư tràn đầy tình yêu thương, sự lãng mạn, ngọt ngào. Những bức thư viết tay ấy không được gửi đi cho đến khi cả hai người đột ngột qua đời. Tình yêu làm cho con người luôn cảm giác về sự bất tận của khoảng cách. Rồi một ngày thật hi hữu, Laurel lên cơn đau tim và đột tử. Jack trong nỗi đau mất vợ, nỗi đau của căn bệnh ung thư giai đoạn cuối, cũng vô tình mất trong ngày định mệnh ấy. Nhưng điều kì lạ, Jack và Laurel mất đi, vẫn đầy ắp tình thương yêu của của họ hiện hữu trong cuộc sống của những đứa con khi bất chợt tìm thấy những lá thư họ viết cho nhau. Những bức thư lúc ấy không chỉ là thông điệp về tình yêu mà còn là bài học sâu sắc, vô giá cho họ phải biết trân trọng từng giá trị bé nhỏ của cuộc sống khi còn được bên nhau, còn được yêu thương trên thế gian này. Và tình yêu khác mất đi, một tình yêu sau này sẽ hồi sinh và sẽ gìn giữ những giá trị quý giá đó. Bức thư “Mùa thứ 5” có thể nói lên tình yêu rút ruột mà Jack dành cho vợ yêu quý của mình: 24 tháng Mười Hai, 1958 Mùa Thứ Năm Gửi vợ của anh, Lauren nhân dịp Giáng sinh lần thứ mười chúng ta ở bên nhau, 1958 Mỗi mùa xuân mang đến cuộc sống mới, năng lượng và cây cối sinh sôi. Mùa hạ mang đến ánh nắng, sự ấm áp, dễ chịu, và dài lâu. Mùa thu mang đến bức tranh sơn dầu với màu sắc tinh tế chuyển biến nhẹ nhàng Mùa đông mang đến sức mạnh thủy chung, vẻ đẹp của màu trắng tinh khiết. Và mang em đến với anh. Em là tất cả những gì Thiên nhiên ban tặng, là một ơn lành, một món quà từ Thượng đế. Em là mùa thứ năm. Bức thư “Mùa thứ 5” có thể nói lên tình yêu rút ruột mà Jack dành cho vợ yêu quý của mình: 24 tháng Mười Hai, 1958 Mùa Thứ Năm Gửi vợ của anh, Lauren nhân dịp Giáng sinh lần thứ mười chúng ta ở bên nhau, 1958 Mỗi mùa xuân mang đến cuộc sống mới, năng lượng và cây cối sinh sôi. Mùa hạ mang đến ánh nắng, sự ấm áp, dễ chịu, và dài lâu. Mùa thu mang đến bức tranh sơn dầu với màu sắc tinh tế chuyển biến nhẹ nhàng Mùa đông mang đến sức mạnh thủy chung, vẻ đẹp của màu trắng tinh khiết. Và mang em đến với anh. Em là tất cả những gì Thiên nhiên ban tặng, là một ơn lành, một món quà từ Thượng đế. Em là mùa thứ năm. Những bức thư viết tay thấm đẫm yêu thương ấy được đặt vào câu chuyện như một điểm nhấn tạo nên những giá trị nhân văn cho câu chuyện cảm động trên. Nội dung cuốn tiểu thuyết được mô tả trong một khung cảnh đẹp đẽ, thơ mộng của vùng thung lũng Shenandoah, bang Virginia khi nhà văn Jason đang tìm cảm xúc để viết tiểu thuyết Những Lá thư ngày Thứ Tư.  *** Nhận xét “Jason là một tài năng thiên phú trong việc sáng tác ra những tiểu thuyết hấp dẫn. Dĩ nhiên tôi sẽ viết thư cho người vợ 44 tuổi của tôi vào mỗi ngày Thứ Tư” ––Kieth Merrill, đạo diễn điện ảnh đạt giải OSCAR “Một câu chuyện đáng yêu: đầy tính khích lệ, trong sáng, khôi hài, lôi cuốn cùng một kết thúc có hậu làm thỏa mãn độc giả.” ––Nhà xuất bản Weekly “Đó là một câu chuyện tình yêu lãng mạn với những giá trị tuyệt vời. Qua câu chuyện của họ, chúng ta sẽ thấy phép màu vẫn tồn tại!” –– Glenn Beck, phát thanh viên của chuyên mục trò truyện trên radio và đài CNN *** Lời cảm ơn   Xin được gửi lời cảm ơn đến những người luôn toàn tâm vì công việc: Kodi, Beverly, Sandi Lou, Sterling, Ann, Jeff, Terilynne, John, Adrienne, Lauren, Jon, Wilma, Stephanie, Amanda, Marshall, Katy, Emma, Ethan và Bailey. Cũng xin cảm ơn Monica, Kerri, Caren, Kalley, Nancy, Taylor, Ramona, Jeanette, Laurel, Matt, Christa, Laura, Janeal, Randa, Nicole, Cammy, Amanda, Cindy và Kathi. Thêm một lời cảm ơn đặc biệt đến Allyson Condie vì đã kiên nhẫn xem những trang bản thảo chưa hoàn chỉnh của tôi. Xin được chân thành cảm ơn sự giúp đỡ hết lòng của các anh chị em tại Nhà xuất bản Shadow Mountain, điển hình là Chris Schoebinger vì đã có một tầm nhìn chiến lược; Lisa Mangum vì phần biên tập tinh tế; Sheryl Dickert Smith vì kiểu thiết kế trang bìa đầy sáng tạo; Gail Halladay vì một khả năng tiếp thị đáng kinh ngạc; Tonya Facemyer vì tài năng đánh máy lão luyện; Angie Godfrey vì đã giữ cho tâm trí tôi luôn gắn bó với công việc và cuối cùng là Sheri Dew vì đã chấp nhận rủi ro đề xuất việc xuất bản. Cảm ơn người quản lý của tôi, Laurie Liss, vì những điều cô đã chia sẻ và tình bạn đáng quý mà cô dành cho tôi. Xin được dành lòng biết ơn vô hạn đến gia đình Schwartz và Faulkner vì đã cho tôi mượn nhà trong những ngày cuối tuần khi tôi cần sự yên tĩnh để sáng tác. Cảm ơn những con người tuyệt vời của Woodstock, bang Virginia, vì đã nhiệt tình hỗ trợ tôi trong công tác nghiên cứu và vì đã nồng nhiệt chào đón gia đình tôi gia nhập vào cộng đồng của họ. Xin gửi lời cảm ơn đầy yêu thương đến những đứa con của cha là Oakli, Jadi, Kason và Koleson vì đã chịu hy sinh “những ngày vui vẻ của cha và con” khi cha đang vật lộn để hoàn thành quyển tiểu thuyết này. Hẹn gặp các con ở Công viên W.O. Riley. Cảm ơn người vợ yêu dấu và tận tụy của anh, Kodi, vì đã luôn ở bên anh, kiên nhẫn đọc những bản thảo chưa hoàn chỉnh của anh, thay anh nhận phần lớn trách nhiệm nuôi dạy con cái, và vì hình ảnh em luôn nhắc nhớ trong anh để xây dựng nên nhân vật Laurel Cooper một cách chân thực nhất. Mời các bạn đón đọc Những Lá Thư Ngày Thứ Tư của tác giả Jason F. Wright.
Tìm Bình Yên Giữa Vạn Biến: Oola
Có bao giờ bạn cảm thấy chán nản, mệt mỏi vì mất cân bằng giữa công việc và niềm hạnh phúc riêng cho bản thân? Có bao giờ bạn tự hỏi mỗi giờ hằng ngày mình dành ra thực sự mang lại giá trị hay ý nghĩa nào cho cuộc sống? Cuốn sách “Oola – Tìm bình yên giữa vạn biến” đã định nghĩa lại thế nào là một cuộc sống tuyệt vời mà bất cứ ai trong chúng ta cũng khao khát và tìm cách đạt được nó. Đó là cuộc sống cân bằng, mãn nguyện về sức khỏe (fitness), tài chính (finance), gia đình (family), công việc (field), đức tin (faith), bạn bè (friends) và niềm vui (fun). Không phải là những lời khuyên sáo rỗng, “Oola Tìm bình yên giữa vạn biến” chứa đựng những mẩu truyện nhỏ khiến bạn có thể ngạc nhiên “à ra thế” và cùng một loạt những lời khuyên thực tế mà bạn có thể chuyển hóa ngay thành hành động hoặc thói quen. Trong cuốn sách này, bạn sẽ học được ba bước đơn giản để cân bằng và phát triển cuộc sống, khám khá những gì ngăn cản bạn đến “cuộc sống trong mơ” và cách đến được đó nhanh hơn cũng như tại sao, dù bạn thành công hay thất bại bạn luôn xứng đáng với một cuộc sống tốt hơn… và rất nhiều điều thú vị, hữu ích khác. Cuốn sách “Oola – Tìm bình yên giữa vạn biến” đã nhận được một loạt khen ngợi từ các giả giả hàng đầu, vận động viên chuyên nghiệp, những nhà lãnh đạo uy tín. 100,000 bản in lần đầu của cuốn sách “Oola – Tìm bình yên giữa vạn biến” đã được hai tác giả Troy Amdahl và Dave Braun tự xuất bản và bán hết mà không cần đến bất kỳ NXB nào; 25,000 bản in tái bản cũng được bán hết trong vòng 1 tháng ngay sau đó. Nếu bạn muốn có được một cuộc sống hạnh phúc, ý nghĩa và vẫn đạt được những thành công trong sự nghiệp, “Oola – Tìm bình yên giữa vạn biến” là lựa chọn không thể bỏ qua. *** [Review Sách] "Tìm Bình Yên Giữa Vạn Biến": Hành Trình Đi Tìm Hạnh Phúc Dù bạn là tỷ phú trong lâu đài lộng lẫy hay một người bình phàm với trời đất tự nhiên thì phải chăng, mục đích cuối cùng của chúng ta trên cõi đời này chỉ là tìm kiếm một cuộc đời bình yên và hạnh phúc? Chúng ta luôn mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, để khi nhắm mắt yên nghỉ có thể mãn nguyện với mấy chục năm sống không uổng phí. Tuy nhiên, hạnh phúc là gì, khổ đau là gì chúng ta không thể phân biệt rạch ròi. Bình yên vì thế cũng lạc lối giữa những hình sắc trần ai mà ta không thể nắm giữ. Mỗi chúng ta sẽ có những cách khác nhau, những ngọn hải đăng riêng biệt để soi tỏ mây mù tìm đường đến ánh sáng của an vui. Và tôi tin cuộc sống Oola chính là thứ bạn đang kiếm tìm, phương pháp Oola chính là một ngọn hải đăng dành cho những ai vẫn còn mơ hồ. Cuốn sách “Tìm bình yên giữa vạn biến” sẽ giúp bạn nắm rõ trong lòng bàn tay mọi thứ về Oola. Ai cũng muốn tạo dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn, và Oola chính là phương pháp. Oola là một nguồn cảm hứng đầy thú vị! -Mark Victor Hansen, đồng tác giả của loạt sách Chicken Soup for the Soul Bằng những câu chuyện hấp dẫn và trải nghiệm cá nhân của mình, hai tác giả Dave Braun và Troy Amdahl sẽ hướng dẫn bạn cách đạt được cuộc sống mà bạn hằng mong muốn – cuộc sống Oola của riêng bạn. Tất nhiên đây không phải một cuốn sách kĩ năng với những lời chỉ dẫn vô cảm mà thực sự khá lôi cuốn khi có nhận định cho rằng: Quyển sách này có giá trị giải trí đến 70%, giá trị giáo dục 30%, và giá trị làm thay đổi cuộc sống là 100%. Nếu bạn muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, một cuộc sống Oola, hãy đọc quyển sách này. -Brant Boyer, cầu thủ kiêm huấn luyện viên bóng đá chuyên nghiệp Điều tôi thấy khá thú vị ở cuốn sách này chính là việc tác giả đề cao vị thế của người đọc khi lấy họ làm trung tâm và có sự tương tác. Hai tác giả đã đề cao giấc mơ của mỗi người, biến mình thành người bạn đồng hành trên mỗi chặng đường. Chúng tôi rất biết ơn khi được đồng hành cùng bạn trong chuyến phiêu lưu này. Bạn giỏi giang hơn bạn nghĩ, và phía trước là những ước mơ đang đợi bạn biến thành hiện thực. Bất kể ước mơ của bạn là gì, chúng tôi rất vinh dự được mang ước mơ đó theo cùng trên chiếc xe buýt của chúng tôi. Bây giờ hãy lật sang trang và bắt đầu hành trình Oola! Cuốn sách gồm 5 phần chính với những đề mục rõ ràng giúp người đọc dễ hiểu nhất về hành trình đang đi. Phần 1. Giới thiệu về Oola. Chắc chắn bạn sẽ thắc mắc rất nhiều về từ “Oola” vì nó hoàn toàn lạ tai. Tuy nhiên, chúng ta dễ dàng liên tưởng nó giống một từ cảm thán đầy thích thú giống “Bingo” chẳng hạn. Tuy nhiên, đây là một cụm từ có rất nhiều ý nghĩa. o’la /danh từ, tính từ/ 1 a: bắt nguồn từ cách diễn đạt oh-la-la! trong tiếng Pháp b: một trạng thái tuyệt vời c: một cuộc sống cân bằng và phát triển ở các mặt then chốt như sức khỏe, tài chính, sự nghiệp, các mối quan hệ và hạnh phúc về tinh thần cũng như thể chất d: một đích đến (ví dụ, tìm đến Oola) 2 a: mô tả những hành động, hiểu biết và mục tiêu dẫn đến cuộc sống cân bằng (ví dụ: Điều đó thật Oola) 3 a: kế hoạch nền tảng để đạt được sự cân bằng trong một thế giới chông chênh. Định nghĩa của Oola có vẻ khá dài nhưng nếu để ý, chúng ta thấy trọng tâm dồn lại vào “sự cân bằng”. Không thừa không thiếu, vuông vắn trọn vẹn mới chính là cuộc sống Oola, chính là hạnh phúc. Nhiều người trong số chúng ta đã nghĩ rằng một cuộc sống xa hoa vương giả mới thực sự là chân ái. Tuy nhiên, hạnh phúc đôi khi thực giản đơn nằm trong sự “muốn ít biết đủ” trong thâm tâm mỗi người. Lẽ tất nhiên, khi cuộc sống thiếu thốn quá mức về vật chất thì tâm hồn cũng khó được thanh thản. Tựu chung lại, chúng ta nhất định phải tìm được sự cân bằng trong thế giới hỗn loạn. Tôi hình dung ra cảnh tượng những viên đá xếp chồng lên nhau một cách an nhiên giữa nước chảy gió thổi khi nhắc về Oola. Phải chăng cuộc sống của chúng ta chính là học nghệ thuật xếp đá? Tài chính, sức khỏe, tình yêu là những viên đá nhỏ to khác nhau, và công việc của chúng ta là sắp xếp cho chúng cân bằng giữa những chông chênh cuộc đời. Bởi vậy mới nói, sống cũng chính là một loại nghệ thuật. Với cuộc sống Oola, có lẽ sống là nghệ thuật của sự cân bằng. Khi bắt đầu đọc cuốn sách, tôi đã tò mò xem chừng ý tưởng thú vị này đến từ đâu. Thật kì lạ vì nó không phải từ những nhà tâm lí học, những nhà nhân học hay bất cứ ngành nghề nào có nhiệm vụ nghiên cứu về cuộc sống con người cả. Dave Braun và Troy Amdahl là hai gã trai trẻ với sứ mệnh và đam mê của riêng họ. Đâu đó trên bìa quyển sách này, bạn sẽ thấy chiếc xe buýt Volkswagen đời 1970 của chúng tôi. Có thể bạn sẽ nghĩ, “Ừ, hay đấy, nhưng sao lại là xe buýt, và hình vẽ trên xe có ý nghĩa gì?”. Mặc dù trông như vết sơn văng tung tóe, nhưng bạn hãy nhìn những hình vẽ đó kỹ hơn. Đó chính là những tấm nhãn dán viết tay đại diện cho những ước mơ và cảm hứng cá nhân của hàng chục nghìn người chúng tôi đã gặp khi du lịch khắp nước Mỹ. Mục tiêu của chúng tôi là thay đổi thế giới bằng một từ (Oola), qua từng chiếc nhãn dán. Họ đã nỗ lực thay đổi thế giới tốt đẹp hơn, giúp con người bớt căng thẳng hơn và giải phóng những tiềm năng cũng như ước mơ nguyên sơ nhất của họ. Cuốn sách này đã ghi lại dấu mốc của hành trình cải tạo thế giới, san sẻ hạnh phúc tới hàng triệu người. Phần 2. 7 chữ F của Oola. Mỗi chữ F sẽ đại diện cho một lĩnh vực then chốt trong cuộc sống: Fitness (sức khỏe), Finance (tài chính), Family (gia đình), Field (sự nghiệp), Faith (niềm tin), Friends (bạn bè) và Fun (niềm vui). Mỗi chương đều bắt đầu với một câu danh ngôn truyền cảm hứng và những khái niệm cơ bản nhất. Tác giả chỉ đơn giản như đang kể chuyện và kiếm tìm những dẫn chứng trong cuộc sống thường nhật để chỉ ra cuộc sống Oola là như thế nào. Ví dụ với hai từ “sức khỏe”: Ngày nay, từ này có vẻ được dùng theo hai cách. Định nghĩa thứ nhất xoay quanh việc sức khỏe có ảnh hưởng như thế nào đến mọi việc bạn làm. Định nghĩa này tập trung vào cảm giác tốt đẹp, dáng vẻ ưa nhìn, khỏe mạnh và hiệu suất làm việc cao. Nó cũng hướng vào cách bạn vận động và những gì bạn đưa vào cơ thể. Đây là vóc dáng vừa đẹp để mặc chiếc quần jean bó sát, tôi cảm thấy mình gợi cảm… Đây chính là Sức khỏe Oola! Tiếp sau định nghĩa là phần “Người tìm Oola” nói về duyên cớ khiến tác giả tìm đến lĩnh vực này và “Người thầy Oola” chỉ việc tác giả tìm được phương pháp tháo bỏ mọi khúc mắc. Cuối cùng là những bí quyết tác giả tập hợp lại cho bạn đọc. Điều đặc biệt là những câu chuyện truyền cảm hứng có thật của họ, những câu chuyện mà tác giả gặp trong cuộc sống, trong hành trình của chuyến xe buýt Volkswagen đời 1970 huyền thoại. Không giống với những lý thuyết khó hiểu, hành trình Oola hoàn toàn được xây dựng bởi trải nghiệm và câu chuyện của chính bản thân tác giả. Dường như điều đó đã làm cuốn sách trở nên có sức sống. Phần 3. Chướng ngại Oola. Qua những gì chúng ta đã thấy và cảm nhận thì trên cuộc đời này không có con đường nào trải đầy hoa hồng cả. Với con đường đến cuộc sống Oola cũng vậy. Những chướng ngại vẫn luôn tiềm ẩn: nỗi sợ, cảm giác tội lỗi, cơn giận tự hủy hoại bản thân, sự lười biếng, lòng đố kỵ, sự tập trung. Bạn có thể nhận thấy rằng những chướng ngại của cuộc sống Oola không đến từ thế giới ngoại cảnh mà bên trong chính con người chúng ta. Như bạn đã biết, trong mỗi chúng ta đều có sự tranh đấu của thiện và ác, trắng và đen. Những vật cản của cuộc sống đôi khi không đáng sợ bằng cuộc chiến chính tà trong con người. Cuốn sách sẽ phân tách phần này một cách rõ ràng để người đọc có thể thẳng thắn đối diện với chướng ngại của tâm hồn. Cơn giận có thể là một “ổ gà” trên đường, hoặc nó có thể là một vật cản. Hãy cẩn thận đừng để hệ lụy của cơn giận mà bạn đeo mang trở thành bức tường bê tông ngăn bạn đến với Cuộc sống Oola của mình. Tôi nghĩ rằng một khi chúng ta có thể thấu hiểu bản thân, đương nhiên bao gồm cả những phần xấu xa lẫn tốt đẹp thì dễ dàng có được thành công hơn. Người tài giỏi trước khi hiểu biết về thế giới thì chắc chắn phải hiểu được mình. Phần 4. Chất xúc tác Oola. Chất xúc tác chính là động lực giúp bạn đi nhanh hơn trên con đường Oola. Nó đối lập với chướng ngại Oola, là những phần tốt đẹp chúng ta cần phát huy: lòng biết ơn, tình yêu thương, kỷ luật, sự chính trực, sự khiêm nhường và sự khôn ngoan. Chúng ta có thể lấy ví dụ khi tác giả nói về lòng yêu thương. Con người chúng ta rất thích nói về tình yêu. Trên thực tế, tình yêu đã trở thành tiêu đề của hàng trăm ca khúc được yêu thích nhất. Tình yêu cũng là yếu tố then chốt trong số tất cả các Chất xúc tác Oola. Chúng ta thích nói, viết và hát về tình yêu vì nó quá mạnh mẽ. Việc cho đi và nhận lại tình yêu, sẽ mang đến đam mê, và đam mê chính là nhiên liệu thích hợp nhất cho chuyến xe buýt đến với Oola. Như vậy, chất xúc tác Oola còn là nhân tố có thể đẩy lùi những chướng ngại. Khi yêu thương đủ lớn, những sợ hãi có thể biến mất. Chúng ta không cách nào diệt hết cỏ dại chỉ bằng nhổ cỏ mà không trồng thay vào đó một thứ khác như những cây hoa chẳng hạn. Con người cũng vậy, khi nuôi dưỡng những điều thiện lương thì ắt những điều tăm tối sẽ bị đẩy lùi. Phần 5. Ba bước đến với cuộc sống Oola. Bước đầu tiên được tác giả đặt tên là Bánh xe Oola. Thực chất đây chỉ là một hình ảnh biểu tượng được chia nhỏ hơn thành các phần là trục bánh xe, căm xe và van bánh xe. Ví dụ như phần trục bánh xe là một phần trọng yếu đại diện cho cuộc sống của mỗi người, là mỏ neo của chúng ta. Cuối phần này tác giả có những bài tập cụ thể để chúng ta có thể xác định được vị trí của bản thân. Phần thứ hai mang tên Kế hoạch Oola. Giống như bất kỳ con đường nào khác, sau khi có mục tiêu thì cần một bản kế hoạch cụ thể để thực hiện nó. Nếu phần một để định vị bạn đang ở đâu thì phần hai chính là xác định rõ nơi bạn muốn đến. Mục tiêu là những cột mốc, những bước nhỏ mà bạn cần thực hiện trên con đường đạt được ước mơ. Mục tiêu là những bước hành động, được lên kế hoạch rồi đạt được. Chúng là những bước nhỏ mà bạn phải đi theo, ngày này qua ngày khác, để đến với cuộc sống ước mơ của mình. Và bước cuối cùng được tác giả gọi là Con đường Oola. Nếu như chỉ có kế hoạch mà không hành động thì ước mơ của bạn cũng chỉ nằm mãi trên những trang giấy mà không bao giờ trở thành hiện thực. Một danh sách việc cần làm đơn giản cho phép bạn được quyết định một ngày của mình diễn ra như thế nào, thay vì để mọi việc xảy đến một cách thiếu chủ động. Những bước đi có mục đích rõ ràng, dù là những bước rất nhỏ, cũng rất cần thiết đối với Cuộc sống Oola. Tờ giấy viết thư hay một trang web dễ thương đối với tôi không quan trọng. Tất cả những gì tôi hy vọng đó là bạn hãy thực hiện bước đầu tiên trên Con đường Oola của mình. Khi khép lại cuốn sách thì cũng chính là lúc hành trình Oola của bạn được mở ra. Tôi không nghĩ tác giả muốn chúng ta đọc cuốn sách này chỉ để giải trí bâng quơ. Họ khát khao ở người đọc sự thay đổi, mong muốn được chuyển biến những điều tốt đẹp đến cuộc sống của mỗi cá nhân. Bởi vì điều đó thực sự là đam mê, là mục tiêu của họ. Hy vọng cuốn sách ít nhiều giúp được mỗi người đến gần hơn với hạnh phúc và an vui của cuộc đời. Review chi tiết bởi: Mai Trang – Bookademy Mời các bạn đón đọc Tìm Bình Yên Giữa Vạn Biến: Oola của tác giả Troy Amdahl & Dave Braun.
Nếu Còn Có Ngày Mai
Được đông đảo fans trinh thám đánh giá là một trong những tác phẩm cuốn hút nhất của Sidney Sheldon, tiểu thuyết Nếu còn có ngày mai không chỉ lôi cuốn trong cách Sidney tạo dựng cốt truyện gay cấn mà hơn cả là cách ông xây dựng hết sức thành công sự phát triển cá tính, tâm lý của hàng loạt nhân vật. Lòng tin và sự công bằng vốn có tồn tại trong cuộc đời? Có thể nói, thế giới trong tiểu thuyết Nếu còn có ngày mai của Sidney Sheldon là một thế giới của lừa lọc. Một thế giới nghiệt ngã bóp nghẹt tâm hồn con người, khiến sự tin tưởng và tình yêu như chẳng còn vị trí tồn tại. Tưởng chừng nơi đấy con người sống với nhau bằng những điều dối trá, vì thế mà lòng tin hoặc sự công bằng bỗng trở thành những thứ xa xỉ, một giấc mơ xa vời hay một thứ ảo vọng của những ai chưa trải qua khắc nghiệt cuộc đời. Một thế giới như thế, một cuộc đời như vậy, thực sẵn sàng để nhấn chìm mọi điều tốt đẹp nguyên bản, ban sơ nhất. Mà Tracy Whitney chính là minh chứng rõ nét nhất cho việc số phận đã xoay vần và biến đổi con người ra sao. Tracy Whitney, một cô gái trẻ, tuổi ngoài 20, xinh đẹp, thông minh. Nhưng bởi cuộc sống cô dường như quá êm đềm, tương lai cô đã quá rộng mở với một gia đình hạnh phúc, một tình yêu trọn vẹn, cùng viễn cảnh về một đám cưới sẽ diễn ra trong tương lai nên Tracy ngây thơ, đơn thuần vô cùng trong cách cô đánh giá, nhìn nhận cuộc sống và con người. Chính vì thế, khi biến cố liên tiếp xảy đến cuộc đời cô gái: Công ty gia đình phá sản, mẹ cô tự vẫn vì bị lừa đảo, Tracy đã đánh giá mọi chuyện hết sức đơn giản cũng như quá đỗi tin vào chính mình cùng “tính thiện” nơi con người. Cô tự đưa bản thân vào hang cọp, cũng không có bất cứ một sự phòng vệ nào trước bất cứ ai tỏ ra thông cảm với hoàn cảnh của cô, đồng thời Tracy còn vô cùng chậm chạp trong việc thích ứng với hoàn cảnh. Do vậy, không thể phủ nhận một điều, khoảng 100 trang đầu tiên của Nếu còn có ngày mai, tình tiết truyện trôi qua không chỉ chậm mà còn tạo một sự ức chế không nhỏ với độc giả. Ngoài vì Tracy cứ mãi ngây thơ, dẫu đã trưởng thành hơn qua sóng gió thì vẫn mang ám ảnh của một thời ngây dại còn bởi tác giả như gieo vào lòng độc giả một nỗi hồ nghi, về tính thiện của con người, về hai chữ công lý giữa cuộc đời. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, dẫu thế nào thì sự phát triển tâm lý của Tracy Whitney vẫn cực kỳ hợp lý và cũng thể hiện bút lực khá cao tay của Sidney Sheldon trong cách ông xây dựng cá tính con người. Vì là người ngoài cuộc nên độc giả dễ dàng dùng lăng kính của người thứ ba để phán xét nhân vật trên trang sách. Song hãy thử đặt bản thân vào vị trí của Tracy và tự hỏi, nếu ở hoàn cảnh như thế, ta có đù bình tĩnh, sáng suốt để suy xét mọi trường hợp không? Việc Tracy cứ mãi thơ dại, bám víu vào hết sợi dây này đến sợi dây cứu mạng khác, hết hi vọng này tới hi vọng kia là tâm lý bình thường của con người khi đi vào bước đường cùng; cho tới lúc, cô gái bé nhỏ đầy kiêu hãnh đủ chín chắn nhận ra, để sinh tồn giữa cuộc đời khắc nghiệt thì không thể dựa vào ai khác, cũng chẳng thể tin tưởng ai hoàn toàn ngoài tin vào chính bản thân mình. Và trong thế giới của Nếu còn có ngày mai, đâu chỉ Tracy là con người duy nhất sự tin tưởng bị chà đạp. Chính mẹ cô, vì lòng tin đặt sai vị trí mà dẫn đến cái chết bi thương. Hay một kẻ lừa đảo thuần thục như Jeff Stevens mà rồi cũng từng đặt tình yêu vào nhầm người. Thậm chí sau này, khi Tracy chính thức trưởng thành và trở thành một chuyên gia lừa đảo, thì cái cô đánh vào chính là nhục dục, lòng tham, sự thiếu tin tưởng con người dành cho nhau,… Ngỡ rằng cả thế giới ở Nếu còn có ngày mai, ai cũng là Joe Romano, ai cũng là tên luật sự Perry Pope, ai cũng giống tên bội bạc Charles… Sidney Sheldon như đã bóc trần cách người ta sống với nhau bằng lừa lọc và tồn tại bằng sự dối trá. Cuộc đời là chuyến phiêu lưu và dạng Robinhood thời hiện đại. Nếu đủ kiên nhẫn trải qua khoảng 100 trang đầu để thấy được sự trưởng thành của Tracy cả về nhận thức lẫn hành động thì càng về sau, Nếu còn có ngày mai lại càng thêm cuốn hút trong cách Sidney Sheldon tạo dựng lên cuộc đời Tracy như một cuộc phiêu lưu lớn; để ta thực sự nhận ra, cô gái nhỏ đó đã trưởng thành thật rồi. Đó là cách Tracy phiêu lưu trong nhà ngục để sinh tồn trước những mánh khỏe của những nữ phạm nhân sẵn sàng xâu xé cô khi có cơ hội; cách cô tìm hướng đi cho bản thân để thoát khỏi ngục tù. Đó là cách cô gái ngây thơ ngày nào, trả thù từng kẻ đã hãm hại cô bằng cách cho chúng tự xâu xé lẫn nhau. Và đó là cách Tracy, từ vẫy vùng tìm lối đi để tái hòa nhập cộng đồng khi là một người đã có tiền án đến là một chuyên gia lừa đảo khiến cho cả Interpool cũng phải vào cuộc. Một Tracy sợ hãi, rụt rè, nhút nhát, yếu đuối đã hoàn toàn được thay thế bằng một cô gái tự tin, thông minh và đầy sáng tạo. Cuộc sống ngày xưa đã thực sự lùi xa, để giờ đây, Tracy chỉ sống trong thực tại, sống với cuộc phiêu lưu đầy kích thích của riêng cô. “Nếu còn có ngày mai”, mong ước từng là của Tracy quá khứ, có lẽ cũng là lời thầm nhủ của cô hiện tại. Nhưng tâm thế của hai con người ấy đã khác nhau. Trước kia, Tracy sống hôm nay mà không biết tới ngày mai bởi cuộc đời cô không do cô quyết định. Nhưng hôm nay, vận mệnh cô là do cô định đoạt, nên nếu còn có ngày mai, cô vẫn sẽ tiếp tục sống và tiếp tục sống với niềm nhiệt huyết của bàn thân. Nếu coi cả cuốn tiểu thuyết là một màn kịch lừa đảo lớn thì cuộc phiêu lưu của Tracy chính là các lớp, hồi của vở kịch đó. Có trưởng thành, có vấp ngã, có căng thằng, mệt mỏi, nhưng đến cuối cùng, chiến thắng vẫn mìm cười với ai nỗ lực và hiểu rõ quy tắc, luật chơi như Tracy. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn giản là trần thuật lại mánh khóe lừa đảo dựa trên những chuyến phiêu lưu gay cấn nghẹt thở thì Nếu còn có ngày mai đã không cuốn hút độc giả và được đánh giá là tác phẩm thành công nhất của Sidney Sheldon. Mà vượt qua tất cả, Sidney đã tạo dựng thành công hình tượng một Robinhood thời hiện đại, đặc biệt hình tượng đấy lại gắn với một người phụ nữ xinh đẹp, thông minh, tự cường. Tracy khiến cả Interpol vào cuộc, biến toàn bộ cảnh sát hình sự tại các nước thành trò hề. Nhưng cô có nguyên tắc hoạt động của cô: Chỉ cướp của người giàu, chỉ cướp của những kẻ làm giàu phi pháp, chỉ lấy của những kẻ giàu có coi rẻ nhân phẩm của những người xung quanh… Vì thế mà các phi vụ của Tracy không chỉ kích thích hơn mà còn gây dựng lên trong lòng độc giả một Tracy, như nữ anh hùng dân gian tồn tại thời hiện đại. Tracy và Jeff, hai con người ở cùng một thế giới, đã từng là đối thủ nhưng chính họ cũng lại là những con người có trái tim thấu hiểu và đồng cảm với nhau hơn bất cứ ai. Trải qua đủ đau thương, nếm trải đủ lọc lừa của xã hội, không ai hiểu sự thối nát của lòng người nhiều hơn hai người đó; cũng không ai hiểu mặt trái của sự giàu sang, bóng tối trong trái tim con người hơn hai người họ; đồng thời cũng chẳng ai rõ, kẻ giàu đã làm giàu trên xương máu người nghèo như thế nào hơn chàng trai, cô gái ấy. Vì thế chăng, xét về lý, hành động lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của cả hai là hành động đáng bị lên án, đáng phải nhận hình phạt thích đáng của tòa án thế giới. Song xét về tình, thì hành động ấy lại cũng là chính nghĩa: một dạng chính nghĩa dân gian nhằm trừng phạt những kẻ mà hệ thống luật pháp, kẽ hở pháp luật đã chẳng thể trừng trị được. Cho nên, để nhận định rạch ròi hình tượng như những Robinhood thời hiện đại của Tracy hay Jeff là đúng hay sai, là bất nhân hay chính đạo thì có lẽ, thật khó để phân định rạch ròi. Chỉ biết rằng, hai con người đó đã sống trọn từng phút, từng giây của thì hiện tại với cùng suy nghĩ “nếu còn có ngày mai”. Nếu còn có ngày mai – Tiểu thuyết cuốn hút nhưng ngập tràn lỗ hổng. Không thể phủ nhận với Nếu còn có ngày mai, Sidney Sheldon đã thực sự cao tay trong việc khắc họa lên một Tracy Whitney dần dần trưởng thành qua từng giai đoạn hay tái hiện từng bước tiến nhỏ trong mối quan hệ giữa Tracy với Jeff. Khác hoàn toàn với nhiều tiểu thuyết khác của ông: nhân vật có thể yêu nhau ở đoạn văn thứ nhất, tới đoạn văn thứ ba cả hai đã làm đám cưới? Vì thế chuyện tình giữa Tracy với Jeff dễ tạo cho độc giả sự đồng điệu cũng như thấy rằng đó là một câu chuyện tình yêu chân thật. Cũng không thể phủ nhận, Nếu còn có ngày mai là một tác phẩm hấp dẫn trong cách Sidney Sheldon xây dựng cốt truyện, tạo dựng thắt mở tình tiết đầy gay cấn. Sự đan xen giữa quá khứ với hiện tại trong câu chuyện của từng cá nhân hay mỗi phi vụ nhân vật lại có một cách thức khác nhau để đạt được mục đích cuối cùng; tất cả tạo lên sự phức hợp nhằm duy trì độ căng cho toàn bộ cuốn sách. Tuy nhiên, dẫu là sáng tác được đông đảo độc giả yêu thích thì Nếu còn có ngày mai vẫn là một tác phẩm với ngập tràn lỗ hổng. Cách Tracy được trả tự do quá dễ dàng, cách cô quá đỗi thuận lợi trong việc trả thù mà những kẻ thù của cô lại có thể dễ dàng mắc bẫy không mảy may nghi ngờ một bên thứ ba nhúng tay, cách cô biến toàn bộ hệ thống cảnh sát thành trò hề hay thành những kẻ lố bịch kiêu căng ngu ngốc… Toàn bộ yếu tố đó, nếu độc giả đủ sáng suốt, tình táo để không bị cuốn theo mạch truyện do Sidney Sheldon dẫn dắt thì đều không khó để nhận thấy. Nhưng dù thế nào, Nếu còn có ngày mai vẫn là một cuốn sách mang đậm chất Sidney Sheldon trong cách kể, cách tả, đặc biệt là cách ông tạo dựng cấu trúc cốt truyện như những miếng ghép hình lộn xộn rồi tới cuối cùng, tất cả đều quy về một mối để tạo lên bức tranh tổng thể hoàn chỉnh. Chẳng vậy mà United Press International đã nhận định về Nếu còn có ngày mai cùng tracy Whitney: “Một nhân vật hấp dẫn nhất và một cốt truyện giàu trí tưởng tượng nhất.” *** Tôi vừa mới kết thúc những dòng chữ cuối cùng của tác phẩm “Nếu còn có ngày mai”, một tiểu thuyết Mỹ của nhà văn Sidney Sheldon. Đọc xong, máu review trong tôi lại trỗi dậy. Một người anh – bạn của chị gái đã khuyên tôi nên đọc tác phẩm này. Và thú thực tôi bắt đầu với nó chỉ vì tò mò và tính hiếu thắng của mình. Nếu tóm gọn một câu nói về tác phẩm này, thì tôi nghĩ tôi sẽ chọn từ “Lôi cuốn”. Những câu chuyện của nữ nhân vật chính – Tracy trong tác phẩm khiến tôi không thể rời mắt. Hơn 1000 trang sách, thoạt đầu tiên tôi thấy hơi nản vì quá dài, đã có lúc đọc mờ cả mắt vậy mà tôi vẫn muốn đọc tiếp. Ở bài review lần này, tôi chỉ muốn nói về cảm xúc của mình đối với tác phẩm. Bạn muốn biết cụ thể diễn biến như thế nào, hãy tự mình trải nghiệm nhé. Có một sự thật là bắt đầu đọc những chương đầu tiên, tôi cảm giác tác phẩm không dành cho tôi. Nó có quá nhiều éo le, quá nhiều bi kịch trong xã hội mà đối với cuộc sống của một con người bình thường như tôi thì không thể nào tưởng tượng ra được. Xã hội mà Tracy trải qua được sắp đặt theo ý thích của một người, người đó chính là kẻ đổi trắng thay đen, đã gây ra cái chết cho mẹ cô. Cũng chính con người đó, đã khiến cô phải vào tù với mức án mười lăm năm tù giam về tội ăn cắp và mưu sát. Tuy câu truyện này không còn xa lạ gì trên màn ảnh, nhưng cách miêu tả của tác giả khiến tôi cảm thấy nó chân thực và đầy nghiệt ngã. Tôi nhớ đến câu nói mà người anh giới thiệu sách đã nói với tôi: Nghe tên những cuốn sách tôi thích biết chắc rằng tôi trẻ hơn anh rất nhiều. Tôi đoán bởi vì những cuốn sách tôi đọc hầu như đều có nội dung nhẹ nhàng, vui vẻ. Tôi tự hỏi có phải tôi quá non nớt trước những nghịch lý của cuộc đời? Có phải còn có những góc khác của xã hội mà tôi chưa bao giờ biết tới? Tôi theo con chữ, vừa sợ hãi, vừa tò mò khám phá. Phải nói rằng, bằng ngần tuổi này, cũng đã đọc qua rất nhiều truyện ngôn tình, nhưng chưa tác phẩm nào tôi cảm thấy ngượng ngùng và ái ngại trước những cảnh miêu tả về sự quyến rũ của cơ thể. Có lúc tôi không muốn tiếp tục đọc nữa. Nhưng tôi lại nghĩ, một người con trai giới thiệu với tôi về tác phẩm này, chắc hẳn nó không quá thô tục. Và hơn nữa, bản tính hiếu thắng trong tôi không muốn bỏ giở giữa chừng khi đã nhận lời sẽ đọc cuốn sách. Cảnh nhà tù nữ là một trong những cảnh ám ảnh tôi nhất trong toàn bộ câu truyện. Tôi có thể vừa đọc vừa tưởng tượng ra cảnh tượng tăm tối đấy. Tôi cảm thấy như mình đang đứng sau những trận ẩu đả của bọn tù nhân, chứng kiến những cuộc làm tình phi giới tính, những tiếng kêu thét trong đêm tối… Tất cả đều chân thực. Tác giả đã không giấu giếm mà phơi bày toàn bộ một mặt trái của xã hội. Chưa bao giờ tôi được biết đến cuộc sống mà để dành được địa vị trong thế giới không có đàn ông, những con sói cái đầu đàn phải mang trong mình trọng trách của một con đực, hành xử như những con đực thực thụ. Bọn quản tù cũng chẳng có gì tốt đẹp: đánh đập tù nhân, nhận hối lộ, bảo kê, ban đêm lẻn vào phòng giam làm tình với nữ tù. Một xã hội mà đâu đâu cũng bắt gặp người ta chửi thề đĩ loãn, chó đẻ, chó cái… Tôi thấy sợ hãi cái xã hội ấy. Như tôi đã nói, những cảnh này không thiếu trong các tác phẩm khác, hoặc trong phim ảnh. Nhưng chắc hẳn nó chưa đủ sâu sắc và chân thực như những gì tác giả miêu tả. Nó khiến tôi bị ám ảnh và không muốn đọc tiếp nữa. Càng tột cùng hơn khi Tracy được phóng thích ra ngoài, cái bản án từng ăn cắp và ám sát luôn khiến cô bị xua đuổi. Dù cô chỉ muốn làm một người bình thường, với công việc hết sức bình thường, nhưng tất cả đều là không thể. Xã hội ghẻ lạnh cô, người ta không tin tưởng một người có tiền án mười lăm năm tù như cô, đáng buồn hơn đó không phải là lỗi do cô gây ra. Không một lời văn nào của tôi đủ để tôi bày tỏ lòng mến mộ thành công của việc miêu tả đoạn văn đó. Tôi sẽ cảm ơn tác giả rất nhiều nếu như ông cho kết thúc câu truyện ở đấy. Ông để cho nhân vật của tôi dù chịu nhiều tủi hờn nhưng vẫn thanh thanh cao cao sống tiếp với đời. Khi đọc đoạn miêu tả nội tâm Tracy khi đứng trước vụ trộm đầu tiên, tôi đã thầm cầu mong Sidney Sheldon đừng để nhân vật của tôi trở thành một kẻ trộm, trở nên thay đổi trước đồng tiền. À không, phải là rất nhiều tiền. Tracy đã hy vọng trộm xong vụ đầu tiên ấy, cô sẽ được sống một cuộc sống thanh bình và lương thiện. Nhưng đời đâu dễ dàng như thế. Tôi trở nên ghét cô gái của tôi. Và lại có ý định dừng đọc tác phẩm. Tôi chỉ muốn giữ lại hình ảnh đẹp của một Tracy thông minh, kiên cường, phải chịu nhiều uất ức. Một Tracy dù bị cả xã hội quay lưng nhưng vẫn thanh cao và nghị lực sống tiếp. Nhưng cô ấy đã bị cám dỗ và trở thành một tên siêu trộm. Và chính diễn biến tâm lý ấy khiến tôi nghĩ đến thế giới thực. Con người có thể giữ được đạo đức của mình trước đồng tiền, nhưng rất nhiều tiền thì sao? Đứng trước rất nhiều tiền, liệu rằng người ta có bỏ qua cái nguyên tắc sống mà bấy lâu nay người ta “không bao giờ” vi phạm hay không? Nếu đặt bản thân mình vào tình huống đó, tôi cũng sợ bản thân không đủ bản lĩnh chiến thắng cám dỗ. Ý của tôi ở đây là rất nhiều tiền ( nhiều hơn những gì mà chúng ta có thể tưởng tượng mình có thể có). Và vậy là tôi lại tiếp tục cuộc hành trình chứng kiến việc trở thành một siêu trộm đẳng cấp của Tracy. Tracy là một người phụ nữ không những xinh đẹp mà còn rất thông minh. Tuy nhiên, điều đó lại khiến tôi thấy đám cảnh sát quốc tế trở nên vô dụng và khờ khạo. Có một số vụ trộm, tôi đoán trước được cách thức mà Tracy vận dụng. Ví dụ như vụ chơi cờ với hai kỳ thủ, vụ đánh lừa tiền giả, và vụ trộm kim cương cuối cùng. Mặc dù vậy, tôi vẫn hồi hộp theo dõi diễn biến của từng câu chuyện. Quả thật là những kế hoạch hết sức táo bạo và thông minh, khiến cho người đọc cảm thấy bất ngờ và đầy phấn kích. Tracy không còn là một cô gái yếu ớt, mỏng manh như trước nữa. Tâm lý của tôi cũng không còn sợ hãi tác phẩm như xưa. Có một điều vớt vát cảm xúc của tôi, những vụ trộm xảy ra đều nhằm vào những kẻ giàu có, hống hách. Vụ trộm không khiến cuộc sống của ai trở nên khổ sở hay rơi vào vực thẳm. Và dường như, cô luôn muốn đặt mình vào trong những hoàn cảnh thử thách cao, càng khó khăn cô càng kích động. Tracy luôn muốn vượt quá giới hạn của bản thân. Tôi thích tính cách ấy. Mỗi một vụ trộm, Tracy lại biến hóa khôn lường, hóa thân thành những nhân vật khác nhau, khi là một nữ tước kiêu sa, khi thì trở thành một góa phụ trẻ, một phụ nữ mang bầu có chồng làm nghề đào vàng ở Châu Phi… Tôi biết việc này có thể xảy ra, nhưng tôi cảm thấy không thỏa mãn với ngờ vực của mình đối với cảnh sát quốc tế. Vì sao họ có thể khờ khạo đến vậy? Vì sao họ có trong tay tất cả hình ảnh của những nhân vật Tracy hóa thân vào mà vẫn có thể kết luận đó là một băng đảng gồm nhiều phụ nữ? Nực cười thật! Giọng nói có thể giả, khuôn mặt có thể trát những lớp phấn dày cộp, nhưng làn da, dáng người thì không thể nào mà thay đổi được. Bỏ qua những tiểu tiết nhỏ nhặt có thể làm hỏng mạch cảm xúc của tác phẩm. Tôi vẫn cảm thấy “Nếu còn có ngày mai” là một tiểu thuyết đáng để đọc trong đời. Và theo cảm nhận của tôi, tác phẩm phản ánh chính xác xã hội, nội tâm của con người. Một Tracy thông minh, giàu có vẫn không thể nào ngừng mơ ước về một bờ vai nương tựa. Đó là ước mơ của tất cả mọi cô gái. Cô khát khao được yêu thương, được sống như một người phụ nữ bình thường. Có nhiều người tiếc nuối với kết thúc mở của câu truyện. Riêng tôi, tôi cảm thấy may mắn. Tôi không muốn nhân vật của mình phải chịu thêm một thử thách nào nữa. Tôi không muốn Tracy vừa mới tìm được tình yêu, niềm tin vào cuộc sống lại phải đối mặt với nguy hiểm. Tôi không muốn cô ấy phải nghĩ đến cảnh nhà tù rùng rợn một lần nào nữa. Nếu có thể, hãy để cô ấy sống cuộc sống bình yên, tôn trọng luật pháp và bên người mà cô ấy thương yêu. Hãy để họ trở lại là những công dân chân chính. Mặc dù việc họ trộm cũng chỉ để thử thách bản thân và quyên góp cho những hoàn cảnh éo le, tôi vẫn không muốn có thêm bất kỳ nỗi đau nào nữa. Đánh giá điểm 8/10 Mời các bạn đón đọc Nếu Còn Có Ngày Mai của tác giả Sidney Sheldon.
Kẻ Nhu Nhược
Để trưởng thành, người ta phải nỗ lực vứt bỏ tính nhu nhược của bản thân. Quá trình đó thường lấy đi không ít mồ hôi và nước mắt, thậm chí cả xương máu. Câu chuyện có tính chất truyền kỳ về Mã Đán-con trai duy nhất của lão chủ ba cửa hàng buôn gạo Mã Cạo Đầu, bản tính nhát gan; trung hậu nhưng cam chịu, nhẫn nhục; bị người xa kẻ gần gắn cho cái biệt danh là “thằng nhu nhược”. Sống trong cái vòng lẩn quẩn của hai quan niệm “nhu nhược thì sống lâu” và “kẻ không sợ chết mới có thể sống”, Mã Đán rất muốn thay đổi hình ảnh, muốn cải tạo cái tính cách nhu nhược của mình, không ngừng “luyện gan”, kết quả là mắc lừa tên ác bá trong thị trấn là Hồng Xung, phải đem ba cửa hàng gạo tổ tiên truyền lại bồi thường cho lão, chỉ một thời gian ngắn đã khuynh gia bại sản. Mã Đán bị ép phải lấy Khang Khu, một cô gái xinh đẹp nhưng mắc phải căn bệnh ăn nhiều. Để lo cho Khang Khu đủ ăn, Mã Đán phải vắt cạn sức lực, chịu đựng sự kỳ thị, sự coi thường của bà con trong thị trấn… *** Giới thiệu tác giả: Tác giả Chu Sơn Pha: Sinh năm 1973 tại thành phố Bắc Lưu tỉnh Quảng Tây, ủy viên Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Trung Quốc, Phó chủ tịch Hội Nhà văn Quảng Tây. Sáng tác thơ, tiểu thuyết, truyện dài kỳ đăng trên các tạp chí văn học nổi tiếng Trung Quốc như Hoa Thành, Thu hoạch, Đương đại, Văn học Thượng Hải, Chung sơn, Thiên nhai, Tiểu thuyết nguyệt báo… Nhiều tác phẩm của ông được tuyển chọn vào nhiều bộ tuyển tập, được dịch sang nhiều thứ tiếng như Nga, Mỹ, Đức, Ý, Nhật…, được cải biên thành kịch bản điện ảnh, Các tác phẩm tiêu biểu: Kẻ nhu nhược, Chia thế giới thành hai nửa, Ngân hàng Trung Quốc, Tinh thần tôi mang bệnh rồi, Bài học linh hồn, Hai con ngựa ăn no… Các giải thưởng: Tác phẩm Kẻ nhu nhược từng đoạt giải Thượng Hải văn học lần thứ chín, giải thưởng Văn học Quảng Tây… hiện được một công ty điện ảnh tại Bắc Kinh chuyển thể thành kịch bản điện ảnh. *** "Kẻ nhu nhược" của Chu Sơn Pha được giới phê bình Trung Quốc đánh giá là đã xây dựng nên một hình tượng “thằng nhu nhược” điển hình trong lịch sử văn học của nước này. Tác phẩm lấy bối cảnh một thị trấn mang tên Thượng Tân nhỏ bé, tính chỗ rộng nhất chạy từ cực đông sang cực tây cũng chỉ ba cây số, nơi những con người tứ xứ đổ về làm ăn buôn bán. Ở đó, con người giao lưu với nhau bằng những đồng tiền trong khi các lực lượng đang chống lại nhau, điển hình là Lý Tông Nhân và Trần Quýnh Minh. Hành trình luyện gan của “kẻ nhu nhược” Nhân vật chính trong chuyện là Mã Đán, con trai của Mã Cạo Đầu - một ông chủ của ba cửa hàng gạo giàu có giữa thị trấn. Mã Đán được người trong trấn đánh giá là kẻ sinh ra để chạy. Mở đầu câu chuyện là hành trình chạy đua giữa Mã Đán và con chó của Hồng Xung - nhân vật khét tiếng ở trấn Thượng Tân là hung hãn, ai ai cũng phải sợ. Mã Đán chạy rất khỏe. Tự tin với điều ấy nên anh đã quyết định “thử sức” với con chó. Anh trêu để nó đuổi theo mình. Cho đến cuối cùng, Mã Đán chỉ khát nước vì bị gió lùa khô cổ, còn con chó thì lăn ra chết vì bị kiệt sức. Mâu thuẫn giữa nhà họ Mã với Hồng Xung bắt đầu. Người đàn bà Hồng Xung cướp về, Khang Khu, lại là người con gái Mã Đán thích. Nghe những lời khích bác, cùng ý nghĩ muốn thay đổi hình ảnh của bản thân, không cam chịu để ai đó khinh rẻ mình, anh đã quyết định “luyện gan” bằng cách đi gây sự với mọi người. Người ta bảo, muốn làm kẻ mạnh thì phải đi đánh bại những kẻ yếu hơn mình. Mã Đán nghe theo rồi đi tuyên chiến với một kẻ ăn mày. Nhưng kẻ ăn mày lại bảo, ít nhất phải đánh được kẻ mạnh như Hồng Xung, và thế là Mã Đán lại tìm đến Hồng Xung giữa lúc hắn đang ngủ với Khang Khu. Mã Đán đẩy gia đình vào bế tắc, khi cả ba cửa hàng gạo nhà họ Mã đều bị mất vì Khang Khu mắc bệnh ăn quá nhiều. Hơn thế, anh còn bị nhà gái hủy hôn vì sự nhu nhược của mình. Việc một kẻ ăn nhiều, lại từng ăn ở với Hồng Xung, bị bố mẹ đuổi ra khỏi nhà về ở với một kẻ nhu nhược là Mã Đán đã trở thành trò cười cho bàn dân thiên hạ. Hai người được coi là vô dụng nhất trong trấn sẽ làm gì khi chẳng có gì trong tay, phải sống cảnh nghèo khó? Cha của Mã Đán là Mã Đạo Đầu sẽ phải làm thế nào để mưu sinh? Có thể nói, Mã Đán là kẻ sống một đời loanh quanh, bởi những nhận xét của kẻ khác mà không cần biết đâu là đúng, đâu là sai. Cuối cùng, câu hỏi “kẻ nhu nhược thì sống lâu” hay “kẻ không sợ chết mới có thể sống”, câu nào mới đúng, câu nào mới đáng theo? Hay câu của lão Phùng “đôi khi nhu nhược lại là cái phúc” đúng? Cuốn sách như một cuộc đong đếm giữa bài toán về nhân cách của một con người và câu chuyện đấu tranh sinh tồn. Sau những câu chuyện hài hước, giá trị đích thực trong cuộc sống là gì? Có lẽ, Mã Đán sẽ mãi quanh quẩn trong hành trình “luyện gan” của mình nếu quân đội của Lý Tông Nhân và Trần Quýnh Minh không tràn vào thị trấn. Mã Đán nhanh chóng quên đi những câu hỏi ngốc nghếch mà người ta cứ nhét vào đầu mình. Anh bận bịu với những nhiệm vụ mới giữa nơi chiến trường phức tạp và hiểm nguy cùng nỗi lo lắng cho người vợ Khang Khu ở nhà. Trong khi ấy, những con người khôn ngoan, lọc lõi lộ dần bản chất. Người ta nhìn thấy cái lợi trước mắt rồi sinh lòng tham lam. Con người đã biết lợi dụng lòng tham vô độ để ép buộc nhau làm những điều bất chính. Trong đêm khuya, Hồng Xung gửi mật thư yêu cầu Mã Đán giết Lý Tông Nhân. Chính điều ấy đã khiến cuộc sống của gia đình Mã Đán càng thêm luẩn quẩn. Dõi theo câu chuyện của nhân vật Mã Đán, để đến cuối cùng, người ta mới nhận ra rằng, nhu nhược hay bản lĩnh vốn không quan trọng. Gan to hay gan bé càng không phải là mục tiêu sống. Sống lâu hay đoản mệnh cũng không phải đích đến. Quan trọng hơn cả là sự có mặt của mỗi người trong cuộc sống này có ý nghĩa gì? Thực chất, giá trị của cuộc sống không nằm ở vỏ bề ngoài mà nằm ở cốt cách của bản thân, những tri kiến có được. Hóa ra, nhu nhược không phải là một căn bệnh quá kinh khủng, nguy hiểm và đáng sợ. Mà đáng sợ và nguy hiểm hơn hẳn chính là căn bệnh vô cảm, bệnh “a dua”. Hóa ra, nghèo cũng không có gì quá đáng sợ mà đáng sợ hơn cả là lòng người, một xã hội lãnh đạm vô tình. Sự hiền lành thật thà, tấm chân tình sẽ là liều thuốc bổ hữu hiệu để cảm hoá con người, để biến thù thành bạn. Trước những vấp ngã, chỉ cần có lòng tin và bước tiếp sẽ giúp con người vực dậy khỏi mọi đau thương. Với giọng văn thâm trầm pha chút trào phúng cùng cách cài cắm những chi tiết đắt giá, tài năng xây dựng hình tượng nhân vật, nhà văn Chu Sơn Pha đã thêm vào dòng chảy văn học Trung Quốc đương đại những thân phận nhỏ bé khác, đáng thương trước những biến động lịch sử. *** Bữa nay trời nắng như đổ lửa, mặt đất bị nung cháy khiến cho người và súc vật đều không dám đặt chân lên. Mùa xuân vẫn chưa qua hẳn, theo lệ thường thì thời tiết không thể trái khoáy đến như vậy. Bình thường thì con chó đen gầy nhom của Hồng Xung cũng không hung dữ đến như thế, nhưng bữa nay đột nhiên nó phát điên. Khi Mã Đán vác bao gạo đưa đến lò làm tương của nhà họ Phương, vừa đặt bao gạo xuống đất thì con chó vừa đen vừa gầy vừa xấu không thể tả ấy rống lên ông ổng, vừa rống vừa phóng tới, chỉ cần chớp mắt nữa là đôi chân trước và cái mồm của nó sẽ dính chặt lên ngực của cậu ta mà thôi. Không kịp hiểu chuyện đang diễn ra, Mã Đán quay người bỏ chạy. Con chó ngoác cái mồm rộng hoác với hàm răng nhọn hoắt, trắng nhởn đuổi theo sát sau lưng. Từ lò rèn Phạm Đại, Mã Đán chạy thẳng về phía đông hướng theo con phố ven sông, vượt qua nhà may nhà họ Mao, tiệm bán xoong nồi La Ký, cửa hàng tơ họ Chu, xưởng sản xuất thuốc lá Hoa Thịnh, cửa hàng đồ mây tre Bác Bạch, quán rượu nhà họ Tô, cửa hiệu vàng bạc trang sức Kiềm Điền, đại lý gạo Phong Dụ, Áo Đông Hội quán rồi rạp hát Phụng Tiên… Những người trông thấy Mã Đán chạy trối chết không những không tìm cách cản trở con chó đang truy sát cậu ta mà ngược lại, còn cực kỳ hưng phấn reo hò như muốn tìm cách cổ vũ cho con chó đen đuổi theo nhanh hơn. Ở thị trấn Thượng Tân này, ngoài những dịp lễ hội hàng năm và chuyện ba năm trước có một cô gái trẻ không rõ lai lịch, lần đầu tiên trần truồng xuất hiện trên đường phố trong một thời gian ngắn ra thì không khí hưng phấn như thế này hầu như chưa bao có. Mã Đán và con chó trong một khoảng thời gian rất ngắn đã điểm hỏa cho bầu không khí nóng bức này khiến cho bốn phương tám hướng đột nhiên huyên náo hẳn lên. Người đi đường trong chớp mắt đã dạt sang hai bên, tạo ra một lối chạy rất thông thoáng cho Mã Đán và con chó. Mã Đán bị con chó đuổi sát nên cũng chẳng còn có thời gian và hơi sức đâu mà lên tiếng chào hỏi họ. Tất cả mọi người đều kinh ngạc và ái ngại khi thấy Mã Đán đã cởi phăng đôi giày và chạy chân trần trên nền đường nóng như bốc lửa như thế. - Mã Đán! Bàn chân của mày đã bị nướng chín rồi, thơm phưng phức. Nó đã biến thành chân giò hun khói rồi! - Mã Đán! Thôi thì cho con chó đớp một miếng đi! Ngoài việc được ăn phân ra, cả đời nó chưa bao giờ được ăn thịt! Mã Đán không chịu khuất phục trước con chó, lột chiếc áo bị mồ hôi thấm ướt đẫm ném về phía con chó. Ban đầu con chó hơi giật mình nên đứng lặng một lát, ngửi ngửi hít hít rồi nhanh chóng nhận ra Mã Đán đang dùng kế “ve sầu thoát xác” nên tỏ ra hung hăng hơn, hùng hổ xốc tới. Áo đã được cởi ra nên cơ thể Mã Đán hình như cũng nhẹ hơn, chạy cũng có vẻ nhanh hơn. Những người ngoài cuộc càng tỏ ra hưng phấn như đang xem một trận thi đấu mà thực lực đôi bên là kẻ tám lạng người nửa cân. Họ đều nghe thấy rõ ràng tiếng thở phì phò rất có nhịp điệu, rất có tiết tấu của Mã Đán lẫn con chó. Cũng có ai đó cảm thấy lo cho Mã Đán nên lên tiếng: - Mã Đán! Mày đứng lại đi! Mày đứng lại thì con chó cũng sẽ đứng lại thôi. Nó vốn là một con chó hiền lành, không hề bị điên, chẳng qua là nó không chịu thua mày đấy thôi. Chỉ cần mày chịu thua là nó sẽ bỏ cuộc! Lời khuyến cáo đầy thiện ý này vừa dứt thì ngay lập tức có một tiếng nói phản bác: - Tại sao ông lại bảo Mã Đán nhận thua? Có lẽ nào ông lại muốn Mã Đán nhận chó làm cha và quỳ xuống gọi một tiếng “bố” sao? - Nếu có thể làm cho con chó không cắn mình thì gọi nó một tiếng “bố” có mất gì đâu? - Người có lời khuyên đầy thiện ý lúc nãy lại lên tiếng. - Thế thì… này Mã Đán! Mày cứ thử gọi nó một tiếng “bố” xem sao? Nhưng Mã Đán không muốn nhận thua. Cậu ta tự tin là mình vẫn có thể chạy được cả ngày, thậm chí cứ chạy như thế này và không bao giờ dừng lại. Cậu ta cũng không hề tin tưởng những lời khuyên bảo của những người này, bởi căn bản là họ không hề biết suy cho cùng là cậu ta có thể chạy được bao lâu. Khi Khang Khu từ dưới bến thuyền rảo bước lên bờ thì cũng chính là lúc Mã Đán vừa phóng vù vượt qua nơi ấy. Đứng từ dưới bậc tam cấp nhìn lên, Khang Khu vừa cảm thấy hiếu kỳ, vừa cảm thấy nghi hoặc vì có một gã đàn ông ăn không ngồi rồi đến độ thi chạy với một con chó. Cô ta than thở đầy vẻ tiếc nuối: - Tiết kiệm bớt sức lực đi! Một bước chạy thì cần phải hao phí bao nhiêu là miếng cơm đấy! Để xem nhà anh phải hao phí bao nhiêu là cơm gạo nào? Thị trấn Thượng Tân không lớn, tính chỗ rộng nhất chạy từ phía cực Tây sang cực Đông cũng chỉ ba cây số, đến xưởng nhuộm của họ Hà là điểm tận cùng, tức là không còn đường để chạy nữa. Cuối xưởng nhuộm họ Hà là một khóm cây khuynh diệp cao ngất, Mã Đán chạy một vòng theo khóm cây rồi chạy ngược trở lại, con chó cũng chạy quanh khóm cây một vòng rồi chạy ngược lại, đuổi theo. Khi Mã Đán chạy vượt qua cửa hàng gạo Mã Nhất của nhà mình lần thứ hai thì bố cậu ta - Mã Cạo Đầu - tên thật của lão trong thị trấn không mấy người biết, chỉ biết tổ tiên họ Mã cho đến thế hệ của lão chuyên làm nghề cạo đầu nên người ta quen gọi lão là Mã Cạo Đầu, gọi riết thành quen - đang ngồi trước cửa hàng xem cậu ta chạy đua cùng con chó, điệu bộ chẳng có gì là lo lắng, tay vẫn phe phẩy chiếc quạt như không có chuyện gì xảy ra, hình như kẻ đang bị con chó truy đuổi kia không phải là con ông ta mà chỉ là một người không hề quen biết. Có ai đó nhắc nhở Mã Cạo Đầu bằng một giọng đầy thiện ý: - Con trai ông đang bị con chó bắt nạt kìa! - Tôi lại không nghĩ là chó đang bắt nạt người mà cảm thấy ngược lại, người đang bắt nạt chó! - Mã Cạo Đầu nói. Mã Cạo Đầu không nên nói ra câu này, ngay cả Mã Đán cũng không hiểu vì sao bố mình lại nói được một lời hả hê trước tai họa của người khác như thế và câu nói này chắc chắn sẽ gây ra nhiều phiền phức. - Ai đó có thể cho tôi một ngụm nước được không? - Mã Đán hy vọng có ai đó sẽ đưa cho cậu ta một cốc nước, nhưng ngay lập tức cậu ta nhận ra rằng, chỉ cần mình đứng lại thở vài hơi là con chó đã có thời gian ngoạm cái mồm của nó vào bắp chân của mình rồi - Nếu không thì… mọi người hãy cho con chó một bát nước cũng được. Mồm nó cũng phì ra đầy khói rồi kìa! Mã Đán nghĩ trong bụng, nếu con chó muốn uống nước, ắt nó phải dừng lại; mà một khi nó đã dừng lại để uống nước thì cậu ta cũng có thể dừng lại để uống nước, hai bên đều được hưởng lợi, đều rất công bằng. Nếu đây là một cuộc đua đúng nghĩa thì không ai có quyền nghi ngờ tính công khai và sòng phẳng của nó. May mắn thay, bên vệ đường có một chiếc thùng nhựa rách, Mã Đán nhìn thấy rõ ràng bên trong có nước, ngay cả con chó cũng nhận ra điều này, nhưng nó không thèm dừng lại. Điều này khiến Mã Đán nổi xung, chửi: - Rõ ràng là mày muốn cả hai chúng ta đều bị dồn đến bước đường cùng rồi đây! Nhưng rồi ngay sau đó, một ý nghĩa thoáng qua trong đầu Mã Đán: Trong một buổi chiều oi bức và nặng nề thế này, mình và con chó đã mang lại cho thị trấn Thượng Tân này một niềm hoan lạc, một chút huyên náo, thế thì ngay cả mình và con chó cho dù có mệt hơn đi chăng nữa cũng chả bõ! Như thế, những gì đã diễn ra có khác nào một tiết mục biểu diễn mà mình và nó đã hợp tác diễn y như thật! Khi những bước chạy của Mã Đán vượt qua bến thuyền lần thứ hai, suýt chút nữa thì cậu ta đã đâm sầm vào bụng Khang Khu. Cơn điên tiết vừa mới nổi lên nhưng đột nhiên Khang Khu nhận ra rằng, đây là vùng đất lạ nên dằn lại, có điều chỉ dằn được tay chân, còn miệng thì không thể dằn được nên gào lên từ phía sau lưng Mã Đán: - Anh gì kia! Anh ăn no quá nên rửng mỡ chứ gì? Có phải nhà anh mở cửa hàng bán gạo không? Mã Đán vốn không thể quan sát những người hai bên đường, chỉ lo chạy nên không chú ý gì đến Khang Khu, có điều cậu ta đã ngửi thấy mùi nước hoa trên người cô ta. Đàn bà ở thị trấn Thượng Tân không bao giờ xịt nước hoa lên người, chỉ có những cô gái điếm ở thị trấn Liên Hoa vì cho rằng cơ thể mình bốc mùi hôi nên mới dùng nước hoa xịt để lấn át mùi hôi. Ngửi thấy mùi nước hoa, đột nhiên Mã Đán không còn thấy khát nước nữa, ngược lại, cậu ta cảm thấy toàn thân tràn trề sinh lực, dường như sức mạnh vừa mới cạn kiệt đã được khôi phục trở lại trong cơ thể mình. Nhờ đó mà cậu ta chạy càng nhanh hơn, dần dần khoảng cách giữa cậu ta và con chó mỗi lúc một xa. Có điều Mã Đán không muốn khoảng cách ấy quá xa, quá xa thì con chó sẽ nhận ra là không thể đuổi kịp mà bỏ cuộc, và như thế thì sẽ mất vui, cuộc đua cũng kết thúc và mọi người ở Thượng Tân này không thể biết được rằng, cuối cùng thì cậu ta cũng có biệt tài là chạy. Chính từ suy nghĩ ấy, Mã Đán cố ý giảm tốc độ và ngay lập tức, con chó đã đuổi theo gần kịp. Giống như con chó, mùi nước hoa trên cơ thể Khang Khu cũng đang đuổi theo Mã Đán, mỗi lần cậu ta hít thở thật sâu là đã cảm nhận được, hình như cái mùi vị ấy đã an cư lạc nghiệp ngay trước lỗ mũi cậu ta rồi. Con chó nhà Hồng Xung đã đuổi Mã Đán chạy hết ba vòng quanh thị trấn, tất cả mọi người đều thán phục khả năng chạy của cậu ta. Nhưng khi Mã Đán và con chó chạy đến vòng thứ tư thì mọi người đã phát hiện ra rằng, ưu thế đang nghiêng hẳn về phía Mã Đán, khả năng thất bại của con chó đã bắt đầu biểu lộ ra rất rõ. Nhưng nó lại là một con chó khá kiên cường, không cắn được đối thủ một miếng thì không buông xuôi, không đang tâm chấp nhận thua cuộc. Lão Mao, ông chủ của cửa hàng bán vải họ Mao, một lão già có cặp mắt rất tinh tường có thể thấy được cả sợi tơ trời mùa thu trong không khí - là người đầu tiên phát hiện ra con chó lúc này đã sức cùng lực kiệt. Lão nói với Mã Đán: - Con chó sắp chết rồi, mày còn ung dung chạy nữa hay sao? Đến lúc này mọi người mới đồng loạt nhận ra sức lực con chó đã cạn, chiếc lưỡi đang thè ra của nó dài đến độ như muốn rơi ra khỏi mồm và rớt xuống đất. Họ tung hô, động viên Mã Đán: - Mày gắng sức chạy một vòng nữa, nó sẽ cúi đầu trước mặt mày mà nhận thua thôi, từ nay về sau nó không dám đuổi theo mày để cắn nữa đâu. Mã Đán cảm thấy họ nói có lý, quay người về phía sau nhìn vào con chó bắt chước tiếng chó, sủa lên mấy tiếng. Bước chạy của con chó vốn đã lảo đảo, chậm chạp, thậm chí đã có dấu hiệu của sự chịu thua, nhưng khi nghe thấy tiếng sủa khiêu khích của Mã Đán thì ý chí tranh đấu của nó lại trỗi dậy, dùng chút sức lực cuối cùng phóng lên, đuổi theo. Khi Mã Đán chạy qua cửa hàng gạo nhà mình thì có ai đó nói to, con chó đã chết rồi. Mã Đán quay đầu nhìn lại, quả nhiên con chó đã đổ gục xuống đất cách cậu ta không đầy một mét. Dáng vẻ của một con chó chết trông thật khó coi, miệng sùi đầy bọt trắng, lại còn thêm cái lưỡi thè ra dài ngoằng, thân thể bốc lên mùi khét lẹt đặc trưng của loài chó, đôi mắt trợn tròn trắng dã. Không chờ cái xác thối rữa mà vô số ruồi nhặng đã bắt đầu bay vù vù chung quanh. - Nếu kẻ nằm gục chết kia mà là tôi thì cũng sẽ có vô số ruồi nhặng được mời đến - Với tư thế của kẻ chiến thắng, Mã Đán đứng trước cửa của cửa hàng gạo Mã Nhất uống nước, dáng vẻ đắc ý nói với những người chung quanh - Nhưng trên thế giới này không có bất kỳ con chó nào có thể làm cho Mã Đán tôi mệt mà chết! Mọi người đều cười rộ lên. Rõ ràng là họ đang cười nhạo Mã Đán và cậu ta không hiểu tại sao họ lại cười nhạo một kẻ chiến thắng. Mã Đán giơ bàn chân phồng rộp lên cho mọi người xem nhưng hình như không có ai cảm thấy hứng thú với nó nên chẳng có lời tán thưởng nào. Ai cũng cảm thấy đó là do cậu ta tự tìm lấy đau đớn và phiền toái. Mã Cạo Đầu đi từ trong cửa hàng ra, lười biếng phẩy chiếc quạt xua ruồi nhặng bám trên xác con chó và đột nhiên ý thức được rằng, vấn đề đã trở nên nghiêm trọng. - Đây là con chó nhà lão Hồng đúng không? - Mã Cạo Đầu hỏi những người chung quanh. Tất cả mọi người đều đồng thanh đưa ra câu trả lời: - Đúng, là chó nhà Hồng Xung! Hình như Mã Cạo Đầu bị cái gì đó đột nhiên đánh mạnh vào đầu, tỉnh táo lại và bắt đầu run, hoảng loạn chạy vào trong mang ra một chậu nước lạnh hắt lên xác con chó, không ngừng lay đầu, sờ nắn mũi, thậm chí còn nằm phục xuống đất dùng miệng của mình ấp lên miệng con chó làm hô hấp nhân tạo để làm cho nó sống lại. Có điều, con chó đã chết, không thể nào sống lại được. Với vẻ mặt đầy thất vọng, Mã Cạo Đầu bảo Mã Đán giúp một tay khiêng xác con chó đặt vào chỗ mát dưới hiên nhà, dùng một vuông vải màu loại một đắp lên trên, chỉ có bốn cái chân thẳng đuột thò ra ngoài. Mã Đán không bằng lòng với việc làm của Mã Cạo Đầu, nói: - Tuy cái mặt chó chết của nó trông rất khó coi, nhưng nó không phải là người trong họ nhà ta, bố đắp điếm cho nó làm quái gì? Tấm vải ấy rất quý, khi mẹ tôi chết, bố cũng không đành lòng dùng nó để đắp cho mẹ tôi kia mà! Mã Cạo Đầu nhìn Mã Đán một cách giận dữ khiến cậu ta câm bặt. Mã Cạo Đầu còn ra hiệu bảo những người hiếu kỳ giải tán. Có điều, họ không chịu giải tán, bởi Hồng Xung đã xuất hiện! Hồng Xung có cơ thể cao lớn, khỏe không thua gì một con trâu, lại còn rất giỏi quyền cước, diện mạo vô cùng nanh ác, tính tình lại cực kỳ hung hãn. Không còn nghi ngờ gì nữa, hắn chính là người nổi tiếng nhất về sự hung ác ở thị trấn Thượng Tân này, ngay cả bọn thổ phỉ ở vùng Cảo Sơn cũng phải nhún nhường đôi ba phần. Năm trước, hắn đã từng chặt đứt lìa chân của ba người đàn ông ở vùng khác đến Thượng Tân gây sự, sau đó lại tiếp tục chém đứt một cánh tay của một trong số ba người nọ rồi ném cho chó ăn. Từ đó trở về sau không còn có bất cứ người nào từ địa phương khác dám đến Thượng Tân quấy rối nữa. Năm ngoái, vào một đêm tối trời, mười ba gã thổ phỉ Cảo Sơn đã từng tụ tập ở cửa phía nam, lẩn quẩn đến cả đêm nhưng cuối cùng chả có tay nào dám bước vào trong thị trấn, gần sáng thì men theo đường cũ mà về núi, chỉ để lại những vết chân ngựa loạn xị trên cỏ. Bọn chúng biết, Hồng Xung vẫn còn ở trong thị trấn. Tất cả mọi người đều tỏ vẻ sợ hãi trước gương mặt vô cùng khó coi của Hồng Xung, ngay cả hơi thở cũng không dám thở mạnh vì sợ rằng, chỉ cần phát xuất ra một âm thanh không cần thiết lúc này sẽ kích động cơn thịnh nộ và nắm đấm của hắn. Mã Đán trốn sau lưng Mã Cạo Đầu, cảm thấy lá gan của mình không ngừng teo lại, một luồng nước chua chua từ bụng xộc lên cuống họng nhưng đã được cậu ta cắn răng nuốt xuống. Hồng Xung cầm mép tấm vải kéo qua một bên, nhìn thấy xác con chó. - Thời thái bình thịnh trị mà giữa ban ngày ban mặt thế này lại dám ức nam hiếp nữ, giết người phóng hỏa thế này sao? Nghe thấy giọng nói bi phẫn lẫn căm hờn đầy chất chính khí của Hồng Xung, Mã Cạo Đầu ý thức được rằng, lần này lão sẽ bị Hồng Xung tống tiền. Mời các bạn đón đọc Kẻ Nhu Nhược của tác giả Chu Sơn Pha & Nguyễn Trần (dịch).