Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngợi Ca Sống Chậm

Những ngày này, nền văn hoá của chúng ta dạy rằng nhanh là đúng. Và để nhanh được, chúng ta đã phải trả giá bằng tất cả: công việc, ăn uống, sức khoẻ, các mối quan hệ và đời sống dục tình của chúng ta. Cuốn sách kỳ diệu của Carl Honoré đã thách thức sự tôn thờ tốc độ bằng cách chứng minh: Sống chậm mới là thời thượng. Sống lành mạnh hơn trong một thế giới hiện đại cuồng nộ, tạo lập sự cân bằng nhanh và chậm, điều độ, tự chủ và minh triết. Những điều tra đầy hứng thú của Honoré soi sáng phương thức mới mẻ để sống trọn vẹn đời ta một cách viên mãn, hiệu quả, trong triết lý sâu sa của chậm. " Hãy đọc cuốn sách này mỗi ngày một chương - để thông điệp mang tính đột phá của nó ngấm vào trong bạn, hoàn toàn thay đổi cuộc đời bạn " Bill Mackibben, tác giả của The End of Nature " Cuốn sách này đã phản kháng một cách đầy thuyết phục với lối sống gấp vô tình và đưa ra những gợi ý thật cụ thể, hấp dẫn về những cách thức để kéo dài khoảnh khắc sống " Los Angeles Times " Truyền cảm hứng gấp triệu lần bất kỳ cuốn sách nào về đổi thay lối  sống..." Sunday Express *** Nhà tâm lý học và triết gia người Mỹ William James từng nói: “Cuộc đời có đáng sống không? Tất cả phụ thuộc vào người sống nó.” Bạn có đáp án cho câu hỏi này rồi chứ? Nếu để ý bạn sẽ thấy cuộc sống giống như cầu vồng bảy sắc vậy, nhiều màu sắc rực rỡ nhưng cũng không thiếu những mảng màu u ám. Khi thì bạn muốn giang tay ôm cuộc sống này thật chặt, lúc khác bạn lại muốn vùi nó xuống tận đất sâu. Đôi khi bạn cảm thấy mệt mỏi với những kế hoạch nối tiếp thất bại, nhưng có lúc bạn lại háo hức bắt tay vào những dự định mới mẻ. Đôi khi bạn chỉ muốn chạy trốn khi công việc và cuộc sống chồng chất những phiền phức, nhưng có lúc bạn lại thấy bận rộn đem đến sự tự tin và năng động. Đôi khi bạn chỉ biết ngồi than thân trách phận vì cuộc đời mình sao hẩm hiu đến vậy, nhưng có lúc bạn lại ngạc nhiên với sự cứng rắn và mạnh mẽ của chính mình. Dù cuộc sống có thế nào, bạn vẫn phải lựa chọn một phương thức sống và sống đến tận cùng. Sống chậm lại, rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi sẽ giúp bạn làm điều đó. Cuốn sách không kỳ vọng mang đến cho bạn những cái nhìn mới mẻ về cuộc sống, nó chỉ giúp tâm hồn bạn bớt chông chênh hơn khi sợ hãi và chán ghét cuộc sống mà thôi. Cuốn sách là những bài viết nhỏ, dưới cái nhìn của cô gái trẻ mới bước ra từ cuộc sống sinh viên và chân ướt chân ráo thành nhân viên văn phòng. Những trải nghiệm chưa đủ nhiều và chưa thật sâu sắc nhưng rất gần gũi với các bạn trẻ. Những điều mà tác giả viết ra không giống như những câu chuyện hạt giống tâm hồn bay bổng, nó chân chất như những cuộc “tám” chuyện giữa các bạn trẻ với nhau. Bạn sẽ tìm thấy điểm tựa trước những tình huống như làm sao để thoát khỏi nỗi sợ hãi, làm sao đối diện với sự thay đổi, xác định mục đích sống cho mình như thế nào… Hy vọng cuốn sách sẽ giúp bạn cảm thấy cuộc đời lạc quan và tươi mới hơn. *** Con người sinh ra rồi kết hôn, sống rồi chết, đều ở giữa vòng náo loạn điên cuồng đến mức bạn tưởng như họ sẽ phát điên. WILLIAM DEAN HOWELLS, 1907. Vào một buổi trưa chan hòa ánh nắng hè năm 1985, chuyến du lịch châu Âu thời niên thiếu của tôi tới chặng dừng trên một quảng trường ở ngoại ô Rome. Chuyến xe buýt quay về thành phố đã chậm hai mươi phút và vẫn chưa thấy bóng dáng đâu. Tuy vậy, sự chậm trễ chẳng làm tôi phiền lòng. Thay vì đi đi lại lại trên vỉa hè hoặc gọi điện cho công ty xe buýt để phàn nàn, tôi mở máy nghe Walkman, rồi ngả người trên ghế băng, lắng nghe Simon và Garfunkel hát về nỗi hân hoan được chậm rãi và làm cho thời khắc kéo dài. Từng chi tiết của quang cảnh ấy đã in sâu trong ký ức tôi: hai chú nhóc đá bóng quanh đài phun nước thời Trung cổ; những cành cây lòa xòa quệt trên nóc bức tường bằng đá; một quả phụ già nua xách túi rau về nhà. Mười lăm năm thoắt trôi qua, mọi sự đều đã thay đổi. Khung cảnh giờ chuyển thành sân bay Fiumicino nhộn nhịp của thành Rome và tôi là một phóng viên nước ngoài đang vội vã bắt chuyến bay về nhà ở Luân Đôn. Thay vì thư thái lấy chân đá sỏi cuội trên đường, tôi lao vội qua phòng chờ khởi hành, thầm nguyền rủa những ai cắt ngang đường mà lại đi chậm hơn. Đáng lẽ nghe dân ca từ chiếc Walkman rẻ tiền, tôi lại nói chuyện bằng điện thoại di động với một biên tập viên cách xa hàng ngàn cây số. Bên cửa lên máy bay, tôi nhập vào cuối một hàng người dài dằng dặc, ở đấy chẳng có việc gì để làm ngoại trừ, đúng vậy, việc không làm gì cả. Duy có điều tôi không chịu được cảnh không làm gì cả ấy nữa. Để chờ đợi cho hữu ích, cũng là để bớt sốt ruột, tôi đọc lướt một tờ báo. Chính lúc đó, mắt tôi bắt gặp một bài viết sau này gợi cho tôi cảm hứng viết cuốn sách về sự chậm rãi. Những dòng chữ bắt tôi dừng lại giữa đường ấy là: “Chuyện kể một phút trước giờ đi ngủ.” Giúp các bậc cha mẹ thu xếp ổn thỏa với bọn trẻ mất-thời-giờ, nhiều tác giả đã rút gọn các câu chuyện cổ kinh điển thành những mẩu hoàn chỉnh mất đúng sáu mươi giây. Hãy thử tưởng tượng Hans Christian Andersen mà bắt gặp những mẩu tóm tắt lỗi lạc này thì sẽ ra sao. Phản ứng đầu tiên của tôi là reo lên Eureka! Khoảng thời gian này tôi thường bị kẹt vào một cuộc-chiến-buổi-tối-gay-go với cậu con trai hai tuổi, cháu rất thích những câu chuyện dài đọc bằng giọng trầm bổng êm tai. Tuy vậy, mỗi buổi tối tôi lái cháu sang những chuyện cực ngắn và đọc thật nhanh. Chúng tôi thường cãi cọ. Cháu kêu: “Bố đọc nhanh quá.” Hoặc, trong khi tôi đi ra cửa, “Con muốn chuyện nữa cơ!” Một phần trong con người tôi cảm thấy cực kỳ ích kỷ khi làm qua quít thủ tục trước giờ đi ngủ, nhưng phần kia đơn giản không sao cưỡng nổi mong muốn mau mau chuyển sang các mục còn lại trong thời gian biểu của bản thân – nào là bữa tối, thư điện tử, đọc báo chí, hóa đơn thanh toán, thêm chút ít công việc cơ quan, phần điểm tin quen thuộc trên truyền hình. Làm một cuộc dạo chơi dài dòng, lê thê qua thế giới của Tiến sĩ Seuss[1]không phải là một chọn lựa. Nó quá chậm chạp. Vì vậy, thoạt nhìn, loạt truyện Một-phút-trước-giờ-đi-ngủ nghe ra tuyệt vời đến khó tin là thật. Đọc một mạch sáu hay bảy “truyện”, chỉ mất chưa tới mười phút – còn gì có thể tốt hơn? Tiếp đó, khi tôi bắt đầu tự hỏi liệu Amazon có thể giao cho tôi cả bộ sách ấy chóng đến độ nào, lập tức cảm giác ăn năn xuất hiện dưới dạng một câu hỏi vặn: phải chăng tôi đã hoàn toàn mất trí? Lúc hàng người rồng rắn tiến đến cửa soát vé cuối cùng, tôi cất tờ báo và bắt đầu suy nghĩ. Toàn bộ cuộc sống của tôi té ra là một cuộc tập luyện trong vội vã, trong dồn nén ngày càng nhiều vào từng giờ. Tôi là một kẻ keo cú kè kè chiếc đồng hồ bấm giờ, bị ám ảnh phải tiết kiệm từng khoảnh khắc thời gian, ở chỗ này một phút, ở chỗ kia vài giây. Và tôi không đơn độc. Mọi người quanh tôi – đồng nghiệp, bạn bè, gia đình – đều bị cuốn vào vòng xoáy ấy. Năm 1982, Larry Dossey, một bác sĩ người Mỹ, đã đặt ra thuật ngữ “căn bệnh thời gian” để mô tả một tín điều ám ảnh là “thời gian đang trôi đi, không còn đủ thời gian, và bạn phải nhanh hơn, nhanh hơn nữa mới hòng bắt kịp.” Những ngày này, cả thế giới mắc bệnh thời gian. Tất cả chúng ta đều thuộc cùng một giáo phái tôn sùng tốc độ. Đứng trong hàng người chờ chuyến bay trở về nhà ở Luân Đôn ấy, tôi bắt đầu vật lộn với những câu hỏi nằm ở tâm điểm cuốn sách này: Vì sao chúng ta luôn vội vã như vậy? Đâu là phương thuốc cho căn bệnh thời gian? Liệu có thể, hoặc thậm chí có nên ao ước, chậm lại chăng? Trong những năm đầu của thế kỷ hai mươi mốt này, mọi người mọi vật đều chịu sức ép phải khẩn trương hơn. Cách đây không lâu, Klaus Schwab, người sáng lập đồng thời là Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới, đã giải thích rõ nhu cầu tăng tốc bằng những từ ngữ trần trụi sau đây: “Chúng ta đang chuyển từ thế giới cá lớn nuốt cá bé sang thế giới nhanh nuốt chậm.” Lời cảnh báo ấy vang xa tới tận bên kia thế giới thương mại kiểu Darwin. Trong thời đại bận rộn hối hả này, mọi thứ là cuộc chạy đua với chiếc đồng hồ. Guy Claxton, nhà tâm lý học Anh, cho rằng tăng tốc là bản năng thứ hai của con người: “Chúng ta mới phát triển một tâm lý nội tại là tốc độ, tiết kiệm thời gian và tối đa hóa hiệu quả, tâm lý ấy đang mạnh lên từng ngày.” Nhưng giờ đây, đã đến lúc phải thách thức nỗi ám ảnh của chúng ta rằng làm gì cũng phải nhanh hơn. Tốc độ không phải lúc nào cũng là cách tối ưu. Quá trình tiến hóa tuân theo nguyên lý thích nghi nhất thì tồn tại, chứ không phải là nhanh nhất. Hãy nhớ ai đã thắng trong cuộc đua giữa rùa và thỏ. Trong khi chúng ta hối hả sống, nhồi nhét nhiều hơn cho từng giờ, chúng ta đang tự căng mình đến điểm tới hạn. Tuy vậy, trước khi đi sâu hơn, cũng xin nói rõ một điều: cuốn sách này không phải là lời tuyên chiến chống lại tốc độ. Tốc độ đã giúp tái tạo thế giới chúng ta theo những cách kỳ diệu và tự do. Liệu có ai muốn sống thiếu Internet và đi lại bằng máy bay phản lực? Vấn đề là tình yêu tốc độ của chúng ta, nỗi ám ảnh của chúng ta muốn sản xuất được ngày càng nhiều trong thời gian ngày càng ít đã trở nên thái quá, đã thành cơn nghiện, thành sự sùng bái. Thậm chí khi tốc độ bắt đầu phản pháo, chúng ta vẫn viện tới tín điều phải-gấp-gáp-hơn. Rớt dài trong công việc ư? Hãy đăng ký một kết nối Internet nhanh hơn. Không có thì giờ cho cuốn tiểu thuyết mua dịp Giáng sinh ư? Học cách đọc nhanh hơn. Chế độ ăn kiêng không tác dụng? Thử hút mỡ. Quá bận rộn không kịp nấu ăn? Hãy mua lò vi sóng. Tuy vậy vẫn có một số việc không thể, và không nên, tăng tốc. Chúng cần thì giờ; chúng cần sự chậm rãi. Khi bạn tăng tốc những gì không nên tăng tốc, khi bạn quên cách chậm lại, bạn sẽ phải trả giá. Trường hợp phản tốc độ khởi đầu từ nền kinh tế. Chủ nghĩa tư bản hiện đại sản sinh nền thịnh vượng khác thường, nhưng cái giá phải trả là tàn phá các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhanh quá mức Mẹ Thiên nhiên có thể tái tạo. Hàng ngàn dặm vuông rừng mưa Amazon bị đốn chặt hàng năm, trong khi sự đánh bắt vô độ bằng lưới quét đã đưa giống cá tầm, cá mú Chilê và nhiều loài cá khác vào danh sách nguy cơ tuyệt chủng. Chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh quá mức, ngay cả vì lợi ích của chính nó, khi áp lực phải tới đích đầu tiên chừa lại quá ít thời gian cho khâu kiểm tra chất lượng. Hãy quan sát ngành công nghiệp máy tính. Trong những năm gần đây các nhà sản xuất phần mềm bắt đầu có thói quen hối hả tung ra thị trường các sản phẩm trước khi cho thử nghiệm đầy đủ. Kết quả là một nạn dịch sự cố, lỗi phần mềm rồi trục trặc phần cứng gây thiệt hại cho các công ty mỗi năm hàng tỉ đô la. Tiếp đó là vấn đề chi phí nhân lực trong chủ nghĩa tư bản-tăng tốc. Vào những ngày này, chúng ta tồn tại để phục vụ cho nền kinh tế chứ không phải vì cái gì khác. Nhiều giờ liên miên trong công việc làm chúng ta mất hiệu năng, dễ nhầm lẫn, không vui vẻ và phát ốm. Phòng mạch đông chật những người mắc các chứng do stress gây ra: mất ngủ, đau nửa đầu, cao huyết áp, hen suyễn và rối loạn tiêu hóa. Cung cách lao động hiện nay cũng xói mòn tinh thần lành mạnh của chúng ta. Một hướng dẫn viên đời sống làm việc tại Luân Đôn nói: “Kiệt lực là bệnh ta gặp chủ yếu ở những người ngoài tuổi bốn mươi. Hiện giờ, theo tôi quan sát, cả nam giới lẫn phụ nữ trạc tuổi ba mươi, thậm chí hai mươi tuổi, cũng hoàn toàn kiệt lực.” Cung cách làm việc đúng đắn, vốn dĩ có thể lành mạnh trong điều độ, đang dần dần vuột khỏi tầm tay. Hãy xem xét tình trạng “ngại đi nghỉ” tràn lan, ác cảm với việc có một ngày nghỉ thực thụ. Trong một điều tra ủa Reed trên năm ngàn công nhân Anh, 60% nói họ sẽ không dùng hết phép trong năm 2003. Trung bình, người Mỹ bỏ quên đến một phần năm số thời nghỉ có đài thọ. Thậm chí ốm đau cũng không còn níu được người lao động hiện đại xa rời nhiệm sở; cứ năm người Mỹ thì có một người gượng dậy đi làm trong khi đáng ra nên yên vị trên giường hay đi khám bác sĩ. Để có thể hình dung viễn cảnh đáng sợ về hậu quả mà hành vi này gây ra, hãy đừng nhìn đâu xa hơn nước Nhật, nơi người dân bản xứ có một từ - karoshi – vốn có nghĩa “chết vì lao lực.” Một trong những nạn nhân nổi tiếng nhất của karoshi là Kamei Shuji, một nhân viên môi giới nhiều tham vọng thường đều đặn làm việc chín mươi giờ một tuần trong suốt thời kỳ bùng nổ thị trường chứng khoán Nhật Bản những năm cuối thập kỷ tám mươi. Công ty nơi anh làm việc đã tuyên truyền rùm beng về khả năng chịu đựng siêu phàm của anh trong các bản tin, các cẩm nang đào tạo nghề, biến anh thành chuẩn mực vàng cho tất cả các nhân viên noi theo. Trong một phá bỏ nghi thức, việc hiếm khi xảy ra ở Nhật, người ta yêu cầu Shuji huấn luyện cho các đồn nghiệp lão làng về nghệ thuật bán hàng, điều chồng chất thêm stress lên đôi vai đơn độc của anh. Khi quả bong bóng chứng khoán Nhật Bản nổ tung năm 1989, Shuji thậm chí còn làm việc nhiều giờ hơn để cứu vãn kinh doanh ế ẩm. Năm 1990, anh đột tử do một cơn đau tim. Anh lúc ấy mới hai mươi sáu tuổi. Dầu một số người nêu Shuji ra như câu chuyện cảnh báo, song cung cách làm-việc-chí-chết vẫn ăn sâu bám rễ ở Nhật. Năm 2001, chính phủ báo cáo kỷ lục 143 nạn nhân karoshi. Những người chỉ trích nêu con số người chết hàng năm do lao động quá sức ở Nhật Bản lên tới hàng ngàn. Tuy vậy, từ trước khi có karoshi dự phần, lực lượng lao động đã kiệt quệ lắm rồi. Hội đồng An toàn Quốc gia ước tính stress trong công việc khiến mỗi ngày hàng triệu người Mỹ chểnh mảng công việc, tiêu hao của nền kinh tế mỗi năm trên 150 tỷ đô la. Năm 2003, stress thay cho bệnh đau lưng trở thành nguyên nhân hàng đầu gây ra nạn vắng mặt không lý do chính đáng ở Anh. Lao động quá sức còn nguy hiểm cho sức khỏe xét về nhiều phương diện khác. Nó chừa quá ít thời gian và sức lực cho rèn luyện thân thể, khiến chúng ta thích uống quá nhiều cồn hoặc dùng những đồ ăn tiện lợi. Không phải ngẫu nhiên các nước nhanh nhất thường là béo nhất. Có tới môt phần ba người Mỹ và một phần năm người Anh hiện nay mắc chứng béo phì bệnh lý. Thậm chí Nhật Bản cũng đang có tình trạng tăng cân. Năm 2002, điều tra dinh dưỡng toàn quốc cho thấy một phần ba đàn ông Nhật trên ba mươi tuổi bị béo phì. Để duy trì nhịp độ với thế giới hiện đại, để tăng tốc, nhiều người, ngoài cà phê, còn tìm đến các chất kích thích công hiệu hơn. Côcain vẫn là liều thuốc bổ trợ ưa thích trong giới chuyên nghiệp văn phòng, song amphêtamin, còn có tên gọi khác là “tốc độ”, đang nhanh chóng đuổi kịp. Sử dụng chất kích thích tại công sở Mỹ tăng đột biến 70% kể từ năm 1998. Nhiều nhân viên ủng hộ loại mêthaphêtamin tinh thể, giải phóng mãnh liệt trạng thái hưng phấn và tỉnh táo, kéo dài gần như cả ngày làm việc. Nó cũng tránh cho người sử dụng cảnh ba hoa đáng xấu hổ thường là tác dụng phụ của loại bạch phiến hít. Vấn đề là ở chỗ các dạng ma túy công hiệu thuần tốc độ dễ gây nghiện hơn heroin, kết quả sau một lần hút có thể gây ra suy nhược, kích động và hành vi bạo lực. Một lý do khiến chúng ta cần chất kích thích là vì nhiều người ngủ không đẫy giấc. Làm việc nhiều như thế, lại có ít thời gian như vậy, ngày nay trung bình người Mỹ mỗi đêm ngủ ít hơn một thế kỷ trước chín mươi phút. Nam Âu, mảnh đất thiêng của la dolce vita (cuộc sống nhàn dật), giấc ngủ trưa đã nhường chỗ cho công việc theo giờ hành chính: chỉ có bảy phần trăm người Tây Ban Nha còn chợp mắt sau bữa ăn trưa. Ngủ không đủ có thể tổn hại đến hệ tim mạch, hệ miễn dịch, sinh ra bệnh tiểu đường, bệnh tim, gây khó tiêu, cáu bẳn và trầm cảm. Mỗi đêm ngủ ít hơn sáu tiếng có thể làm suy yếu điều phối của hệ thần kinh vận động, ngôn ngữ, phản xạ và óc xét đoán. Sự mệt nhọc dự phần vào một vài trong số những thảm họa tồi tệ nhất của kỷ nguyên hiện đại: Chernobyl[2], Exxon Valdez[3], Three Mile Island[4], Union Carbide[5] và tàu con thoi Challenger[6]. Buồn ngủ gây ra nhiều vụ đụng xe hơi hơn uống rượu. Trong một cuộc thăm dò dư luận mới đây của Viện Gallup, 11% tài xế Anh thừa nhận từng ngủ gật trên vô lăng. Một nghiên cứu của Ủy ban Quốc gia Mỹ về Rối loạn Giấc ngủ quy tội một nửa tai nạn xe cộ là do mệt nhọc. Gộp tất cả với xu hướng say mê tốc độ, kết quả là thảm cảnh trên đường. Tai nạn xe cộ hiện đứng ở mức 1,3 triệu vụ/năm trên toàn thế giới, hơn gấp đôi so với năm 1990. Mặc dù, ở những nước phát triển, các quy chuẩn an toàn đã giúp giảm bớt con số tử vong, Liên hiệp quốc dự báo rằng đến năm 2020 giao thông đi lại sẽ là nguyên nhân gây tử vong lớn thứ ba trên thế giới. Ngay lúc này, mỗi năm có trên bốn chục ngàn người chết và một triệu sáu người bị thương dọc các tuyến đường bộ châu Âu. Sự nôn nóng của chúng ta khiến ngay cả vui chơi giải trí cũng trở nên nguy hiểm hơn. Mỗi năm, hàng triệu người trên thế giới khốn khổ vì thương tật liên-quan-đến-thể-dục-thể-thao. Đa phần bởi thúc ép cơ thể quá mạnh, quá nhanh, quá sớm. Ngay cả yoga cũng không miễn nhiễm. Một người bạn của tôi mới đây bị sái cổ do luyện yoga trước khi cơ thể của cô sẵn sàng. Nhiều người khác còn gặp phải những tai nạn trầm trọng hơn. Ở Boston, bang Massachusetts, một giáo viên thiếu kiên nhẫn đã làm vỡ xương chậu một nữ sinh khi ép em này vào tư thế xoạc. Một người đàn ông ngoài ba mươi tuổi hiện giờ bị liệt vĩnh viễn một mảng cơ đùi phải sau khi giãn dây thần kinh xúc giác trong buổi luyện yoga tại một phòng tập thời thượng quận Manhattan. Điều không tránh khỏi là một cuộc sống vội vã có thể trở nên hời hợt. Khi vội vàng, chúng ta qua quýt bề ngoài, không thiết lập được mối ràng buộc thực sự với thế giới và những người xung quanh. Như Milan Kundera đã viết trong tiểu thuyết ngắn Chậm rãi (1996) của ông: “Khi mọi việc xảy ra quá nhanh, chẳng ai có thể chắc chắn về bất cứ điều gì, bất cứ điều gì hết, ngay cả về chính bản thân mình.” Tất cả những gì ràng buộc chúng ta lại với nhau và làm cho cuộc sống đáng sống – cộng đồng, gia đình, bè bạn – phát triển trên một nền tảng không bao giờ có đủ: thời gian. Trong một cuộc thăm dò dư uận gần đây của hãng ICM, phân nửa số người Anh trưởng thành than thở thời gian biểu dồn dập làm cho họ mất hết liên lạc với bạn bè. Hãy xem xét tác hại do sống trong làn cao tốc gây ra cho đời sống gia đình. Với ai nấy đi đi về về, những mẩu giấy dán trên cánh tủ lạnh hiện là hình thức thông tin chủ yếu của nhiều gia đình. Theo con số do chính phủ Anh công bố, trung bình các bậc phụ huynh đang làm việc dành thời gian xử lý thư điện tử gấp đôi thời gian chơi cùng con cái. Ở Nhật Bản, các ông bố bà mẹ ngày nay gửi con vào những trung tâm giữ trẻ hai-mươi-bốn-giờ-liền. Khắp thế giới công nghiệp, trẻ em rời trường trở về căn nhà trống trải nơi chẳng có ai lắng nghe những câu chuyện, những tâm tư, thành tích học tập cùng bao nỗi sợ hãi của chúng. Trong một cuộc thăm dò ý kiến thanh thiếu niên Mỹ do tạp chí Newsweek thực hiện năm 2000, 73% nói các bậc cha mẹ dành quá ít thời giờ cho con cái họ. Có lẽ lũ trẻ là khổ sở nhất vì chứng cuồng tăng tốc. Chúng cũng đang lớn lên nhanh hơn bao giờ hết. Nhiều trẻ em ngày nay bận bịu không kém gì cha mẹ, cố gắng sắp xếp sổ ghi nhớ vốn bị nhồi nhét đủ thứ từ phụ đạo sau-giờ-lên-lớp đến những bài học dương cầm và tập bóng đá. Một bức biếm họa mới đây đã nói lên tất cả: hai cháu gái nhỏ đứng ở bến xe buýt của nhà trường, trong tay mỗi cháu có thời gian biểu cá nhân. Cháu này nói với cháu kia: “Được rồi, tớ sẽ lùi môn ba lê lại một giờ, thay lịch tập thể dục, hoãn cả học dương cầm… còn cậu chuyển giờ học viôlông sang thứ Năm và bỏ buổi tập bóng đi… như vậy chúng mình sẽ rảnh từ 3h15’ đến 3h45’ thứ Tư ngày 16 để đi chơi.” Sống như những người trưởng thành đầy đủ năng lực chẳng còn đâu thời giờ cho những thú vui làm nên thời thơ ấu: tán gẫu với bạn bè, chơi đùa không có sự giám sát của người lớn, mơ mộng vẩn vơ. Nó cũng gây hại cho sức khỏe, bởi trẻ em ít có khả năng chống chọi với chứng mất ngủ và stress, là cái giá phải trả cho lối sống hối hả. Các bác sĩ tâm lý chuyên điều trị chứng lo âu ở trẻ vị thành niên nhận thấy ngày nay các phòng chờ chật kín trẻ em mới năm tuổi đã khổ sở vì đau dạ dày, đau đầu, mất ngủ, suy nhược và rối loạn tiêu hóa. Tại nhiều nước công nghiệp, số vụ thanh thiếu niên tự tử gia tăng. Và chẳng có gì là lạ, nếu xét tới gánh nặng nhiều trẻ em phải đương đầu ở trường. Năm 2002, Louise Kitching, một thiếu nữ Anh mười bảy tuổi ở Lincolnshire đã nức nở bỏ chạy khỏi phòng thi. Em học sinh xuất sắc này sắp viết bài thi thứ năm trong ngày, mà chỉ được nghỉ giải lao mười phút giữa giờ. Nếu chúng ta tiếp tục nhịp độ kể trên, nạn sùng bái tốc độ sẽ chỉ càng trở nên tồi tệ. Khi người người lựa chọn sống nhanh, lợi thế của sống nhanh sẽ mất, buộc chúng ta phải sống nhanh hơn nữa. Cuối cùng, còn lại cho chúng ta là một cuộc chạy đua vũ trang trên nền tốc độ, mà chúng ta đều biết cuộc chạy đua vũ trang kiểu ấy rồi sẽ kết thúc ở đâu: trong thế bí tàn nhẫn của Sự Hủy Diệt-Lẫn nhau-Chắc chắn. Nhiều thứ đã bị hủy hoại. Chúng ta đã quên mất csach hân hoan chờ đợi sự việc, cả cái cách tận hưởng giây phút thành tựu. Các nhà hàng cho biết những thực khách vội vã ngày càng thích vừa thanh toán hóa đơn và gọi taxi vừa ăn tráng miệng. Nhiều người hâm mộ rời các sự kiện thể thao thật sớm, chẳng kể đến tỉ số sít sao, chỉ vì muốn tranh thủ giành đường. Tiếp đến là tai họa của tội ôm đồm nhiều việc cùng một lúc. Làm hai việc đồng thời xem ra có vẻ hết sức thông minh, hết sức hiệu quả, hết sức hiện đại. Song thông thường cái đáng nói là cả hai việc đều không được tốt. Giống nhiều người khác, tôi đọc báo trong lúc xem tivi – rốt cuộc thấy mình tiếp thu cả hai kém hẳn. Trong thời đại của no-đủ-thông-tin, dồi-dào-dữ-liệu, lướt-kênh-truyền-hình, chơi-game-máy-tính, chúng ta đã đánh mất nghệ thuật tiêu khiển để chậm lại và ngồi một mình với những suy nghĩ của riêng mình. Sự buồn chán – danh từ tự nó khó lòng tồn tại 150 năm trước – lại là một phát minh hiện đại. Mất hết mọi cảm giác phấn hứng, chúng ta bồn chồn, hoang mang, trông chờ điều gì đó, bất kể điều gì, ngõ hầu tận dụng hết thời gian. Lần cuối cùng bạn thấy ai đó chỉ ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ toa tàu là khi nào vậy? Tất cả mọi người đều quá bận đọc báo, chơi game hình, nghe iPod, làm việc trên máy tính xách tay, càu nhàu vào điện thoại di động. Thay vì suy nghĩ cặn kẽ, hoặc để cho một ý tưởng nung nấu tận đáy lòng, ngày nay bản năng của chúng ta là chộp lấy miếng ngon gần nhất. Trong chiến tranh hiện đại, các phóng viên thực địa và bình luận viên tại trường quay tung ra hàng lô phân tích tức thời những sự kiện vừa mới xảy ra. Thông thường nhận định của họ té ra là nhầm lẫn. Song những ngày này chuyện đó chẳng hề gì: trên mảnh đất của tốc độ, ai phản ứng tức thời sẽ làm vua. Cùng với việc sử dụng vệ tinh và các kênh thông tin hai mươi bốn giờ liên tục, truyền thông đại chúng điện tử bị chi phối bởi nhân dạng mà một nhà xã hội học người Pháp gán cho cái tên “nhà tư duy nhanh nhạy” – người không để lỡ nhịp có thể gọi ra câu trả lời liến thoắng cho bất cứ câu hỏi nào. Về một phương diện nào đó, ngày nay tất cả chúng ta đều là những nhà tư duy nhanh nhạy. Sự nôn nóng của chúng ta không thể nguôi dịu đến mức, như nữ nghệ sĩ-tác gia Carrie Fisher châm biếm, ngay “hài lòng tức thời cũng quá mất thì giờ.” Điều này phần nào lý giải tâm trạng phẫn nộ kinh nghiệm sôi sục ngay bên dưới bề mặt cuộc sống hiện đại. Bất kỳ ai, hoặc bất cứ thứ gì bước vào con đường chúng ta đi, khiến chúng ta chậm lại, ngăn chúng ta đạt được đúng thứ mình cần khi mình muốn, đều trở thành địch thủ. Vì vậy, thụt lùi dù nhỏ nhất, trì hoãn dù chớp nhoáng nhất, một thoáng chậm trễ chẳng đáng kể chút nào, ngày nay cũng có thể gây ra xung nộ vỡ-mạch-mà-chết ở những người lúc khác rất bình thường. Những bằng chứng kiểu giai thoại nhan nhản khắp mọi nơi. Tại Los Angeles, một người đàn ông gây sự đánh nhau ngay tại quầy thu tiền của siêu thị chỉ vì khách hàng đằng trước ông ta gói buộc hàng quá lâu. Một phụ nữ cào xước sơn chiếc ô tô đụng phải bà ta trong bãi đỗ xe ở Luân Đôn. Ủy viên quản trị một công ty lao bổ vào tiếp viên hàng không khi chuyến bay của ông này buộc phải lượn vòng phi trường Heathrow thêm hai mươi phút trước khi hạ cánh. “Tôi muốn hạ cánh ngay bây giờ!” Ông ta quát to, hệt một đứa trẻ hay quấy nhiễu: “Bây giờ, bây giờ, bây giờ!” Một chiếc xe giao hàng dừng bên ngoài nhà hàng xóm của tôi, buộc xe cộ phía sau phải đợi trong khi anh tài xế dỡ một chiếc bàn con. Chỉ trong phút chốc, nữ doanh nhân trạc tứ tuần trong chiếc xe đầu tiên đập ghế thình thình, tay khua khoắng, đầu lắc tới lắc lui. Tiếng rền rĩ khàn khàn từ yết hầu vuột ra cửa xe để ngỏ. Giống một cảnh trong bộ phim Người trừ tà[7]. Cho rằng cô ta lên cơn động kinh, tôi chạy xuống dưới nhà toan giúp đỡ. Nhưng lúc tôi đến vỉa hè, thì hóa ra cô chỉ cáu bẳn vì tắc đường. Cô nhoài người ra ngoài cửa xe, gào lên với không ai cụ thể. “Anh mà không rời cái xe tải chết tiệt ấy di, tôi sẽ giết chết anh.” Người giao hàng nhún vai tỏ vẻ đã quen chứng kiến cảnh ấy, đoạn trượt vào sau vô lăng và lái xe đi. Tôi mở lời định khuyên Cô To Mồm nguôi giận, nhưng lời nói của tôi chìm nghỉm trong tiếng lốp xe của cô ta xiết trên lớp đường nhựa. Đây là đích đến cho nỗi ám ảnh của chúng ta với sự nhanh và tiết kiệm thời gian. Giận dữ đường bộ, cáu kỉnh đường không, tức tối khi mua bán, bực bội trong quan hệ, khó chịu ở văn phòng, tức giận trong kỳ nghỉ và rồ dại trong phòng tập. Nhờ ơn tốc độ, chúng ta sống trong thời đại của sự rồ dại. Sau lần giác ngộ bất ngờ với câu-chuyện-trước-giờ-đi-ngủ tại phi trường thành Rome, tôi quay trở về Luân Đôn với một sứ mệnh: tìm hiểu cái giá của tốc độ và triển vọng chậm lại trong một thế giới bị ám ảnh phải ngày một nhanh hơn. Tất cả chúng ta đều than phiền về các kế hoạch làm việc điên rồ, nhưng liệu đã có ai thực sự làm gì chống lại nó hay chưa? Có, ấy thế mà có. Trong lúc phần còn lại của thế giới tiếp tục rú ga om sòm, một thiểu số đáng kể ngày càng tăng đang lựa chọn không làm gì ở công suất tối đa. Trong mỗi một nỗ lực con người bạn có thể nghĩ tới, từ tình dục, lao động, rèn luyện thân thể đến ăn uống, chữa bệnh, thiết kế đô thị, những nổi loạn này đang làm điều không tưởng – chúng đang dọn chỗ cho sự chậm rãi. Và tin tức tốt lành chính là nhiều việc đang dần giảm tốc. Bất chấp những lời cằn nhằn bất mãn kiểu Cassadran[8] từ giới doanh nhân yêu tốc độ, chậm hơn lại thường có nghĩa tốt hơn – sức khỏe dồi dào hơn, lao động hiệu quả hơn, kinh doanh thành công hơn, cuộc sống gia đình êm đẹp hơn, tập luyện dẻo dai hơn, nấu nướng ngon hơn và tình dục hạnh phúc hơn. Trước đây chúng ta đã từng như vậy. Vào thế kỷ mười chín, dân chúng đã cưỡng lại sức ép tăng tốc theo những cách quen thuộc với chúng ta ngày nay. Các nghiệp đoàn đòi thêm nhiều giờ giải trí. Cư dân thành thị bị stress tìm nơi trú ẩn và phục hồi sức khỏe ở chốn thôn quê. Các họa sĩ và nhà thơ, nhà văn và thợ thủ công tìm kiếm nhiều cách hòng bảo tồn giá trị thẩm mỹ của sự chậm rãi trong thời đại máy móc. Tuy vậy, ngày nay, phản ứng dữ dội với tốc độ đang chuyển sang xu hướng chủ đạo khẩn cấp hơn bao giờ hết. Mệt mỏi tận gốc rễ, trong các nhà bếp, nơi công sở, phòng hòa nhạc, nhà máy, phòng tập thể dục, phòng ngủ, nhà hàng xóm, phòng trưng bày nghệ thuật, bệnh viện, trung tâm giải trí và trường học gần nhà bạn, ngày càng có nhiều người không chịu chấp nhận mệnh lệnh vô lý nhanh hơn luôn luôn là tốt hơn. Và trong nhiều hành động giảm tốc đa dạng của họ ẩn chứa mầm mống của Phong trào Chậm Toàn Cầu. Giờ là lúc phải định nghĩa thuật ngữ của chúng ta. Trong cuốn sách này, Nhanh và Chậm hàm ý rộng hơn nhiều, chứ không chỉ miêu tả sự thay đổi tốc độ đơn thuần. Chúng chính là giản lược về cách sinh tồn, hoặc triết lý sống. Nhanh là bận rộn, kiểm soát, xông xáo, vội vàng, phân tích nhanh nhạy, stress, hời hợt, nôn nóng, tích cực chủ động, số-lượng-trên-chất-lượng. Chậm có nghĩa ngược lại: thư thái, cẩn trọng, tiếp thu, điềm tĩnh, trực giác, không vội vàng, kiên nhẫn, suy nghĩ thấu đáo, chất-lượng-trên-số-lượng. Tức là tạo lập những kết nối thực sự và có ý nghĩa – với con người, văn hóa, công việc, dinh dưỡng và mọi thứ. Nghich lý là ở chỗ Chậm không phải lúc nào cũng có nghĩa là chậm. Như chúng ta sẽ tìm hiểu, thực hiện một nhiệm vụ theo cách Chậm thường mang lại kết quả nhanh hơn. Cũng có thể tiến hành công việc nhanh trong lúc vẫn duy trì một khuôn khổ tư duy chậm. Một thế kỷ sau khi Rudyard Kipling[9]viết hãy giữ lý trí của bạn trong khi hết thảy chung quanh đang loạn trí[10], con người mới học cách giữ điềm tĩnh, cách duy trì nội tâm thư thái, ngay cả khi họ phải vắt chân lên cổ cho kịp thời hạn công việc hoặc đưa bọn trẻ đến trường đúng sít giờ. Một trong những mục đích của cuốn sách này là chỉ ra cách làm sao được như vậy. Bất chấp phát ngôn của một vài người chỉ trích, phong trào Chậm không nhằm tiến hành mọi việc theo tốc độ sên bò. Cũng không phải một nỗ lực bột phát kiểu Luddite[11], hòng kéo toàn thể hành tinh trở về thời kỳ tiền công nghiệp không tưởng nào đó. Trái lại, phong trào tập hợp những người như các bạn và tôi, những người muốn sống tốt hơn trong một thế giới hiện đại, tốc-độ-cao. Chính vì thế, triết lý sống Chậm có thể tóm tắt chỉ trong một từ duy nhất: cân bằng. Hãy nhanh khi đáng để nhanh, chậm khi cần chậm. Hãy cố gắng sống ở cung bậc mà các nhạc sỹ gọi là tempo giusto – nhịp chuẩn. Người đề xướng hàng đầu việc giảm tốc là Carlo Petrini, sáng lập gia người Ý của Phong trào Đồ ăn Chậm, một phong trào quốc tế chuyên tâm cho quan niệm rất văn minh là những thứ ta ăn nên được trồng cấy, chế biến và tiêu thụ ở nhịp độ khoan thai. Tuy bàn ăn là mặt trận chủ yếu, song Đồ ăn Chậm vượt xa một lời bào chữa cho những bữa trưa kéo dài. Tuyên ngôn của nhóm là lời hiệu triệu chung tay chống lại căn bệnh sùng bái tốc độ dưới mọi hình thức: “Thế kỷ của chúng ta, vốn dĩ đã khởi đầu và đang phát triển dưới biển hiệu của văn minh công nghiệp, thoạt tiên phát minh ra máy móc sau lấy máy móc làm chuẩn mực cho đời sống. Chúng ta thành nô lệ của tốc độ và thảy đều chịu thua con vi rút âm ỉ kia: Cuộc sống Gấp gáp, nó phá vỡ thói quen của chúng ta, len vào đời sống riêng tư của nhà chúng ta và buộc chúng ta ăn Đồ ăn Nhanh.” Vào một chiều hè nóng bức ở Bra, thị trấn nhỏ Piedmontese, vốn là đại bản doanh của phong trào Đồ ăn Chậm, tôi gặp Petrini để chuyện phiếm. Đơn thuốc của ông dành cho đời sống là một gợi ý hiện đại rất đáng hoan nghênh. “Nếu lúc nào anh cũng chậm, thì anh là xuẩn – và đó hoàn toàn không phải là mục tiêu chúng tôi nhắm tới,” ông nói với tôi. “Chậm nghĩa là anh làm chủ nhịp sống của mình. Trong từng hoàn cảnh cụ thể, chính anh quyết định phải nhanh đến cỡ nào. Nếu hôm nay, tôi muốn nhanh, thì tôi nhanh; ngày mai tôi muốn chậm, tôi sẽ chậm. Cái mà chúng tôi đang đấu tranh giành giật chính là quyền định đoạt nhịp sống của riêng mình.” Triết lý sống hết sức giản đơn ấy đang góp tiếng nói trong nhiều lĩnh vực. Tại các công sở, hàng triệu người đang cố gắng – và sắp đạt tới – mức cân bằng hợp lý hơn giữa công việc và đời sống. Trong phòng ngủ, người ta khám phá thú vui của tình dục chậm, thông qua Tantra[12] và các dạng khác nhau của giảm tốc làm tình. Quan niệm Chậm hơn là tốt hơn tạo nền móng cho sự bùng nổ các chế độ tập luyện – từ yoga đến Thái Cực quyền – và y học thay thế - từ thảo dược đến liệu pháp vi lượng đồng căn – dùng phương pháp nhẹ nhàng toàn diện tiếp cận cơ thể con người. Khắp mọi nơi, các thành phố sửa sang cảnh quan đô thị để khuyến khích dân chúng giảm lái xe và tăng cường đi bộ. Nhiều trẻ em cũng sửa soạn rời làn cao tốc, vì các bậc cha mẹ bớt dần lịch học cho chúng. Rõ ràng, phong trào Chậm phần nào trùng khớp với cuộc thập tự chinh chống toàn cầu hóa. Những người đề xướng cả hai phong trào đều tin rằng chủ nghĩa tư bản tăng tốc chào mời chiếc vé một chiều tới kiệt lực, cho hành tinh này và nhân loại sống trên đó. Họ cho rằng chúng ta có thể sống tốt hơn nếu chúng ta tiêu dùng, sản xuất và làm việc với một nhịp độ hợp lý hơn. Tuy nhiên, cùng với những người chống toàn cầu hóa ôn hòa, các nhà hoạt động vì sự lắng mình Chậm lại cũng không khăng khăng xóa bỏ sạch trơn chế độ tư bản. Đúng hơn, họ cố tìm cho nó một khuôn mặt nhân bản. Bản thân Petrini cũng nói về “toàn cầu hóa đúng mực.” Dù vậy phong trào Chậm sâu sắc và rộng khắp hơn nhiều cải cách kinh tế đơn thuần. Lấy đích nhắm là vị chúa tốc độ giả hiệu, phong trào dò đến cốt lõi những gì cần có để làm người trong kỷ nguyên của con chip silicon. Tín điều Chậm có thể sinh lợi khi áp dụng theo lối dần dần. Nhưng để có được lợi ích toàn diện từ phong trào Chậm, chúng ta cần phải tiến xa hơn nữa, và triệt để cân nhắc phương pháp tiếp cận mọi vấn đề. Một thế giới Chậm đích thực không gì khác hơn một cuộc cách mạng về lối sống. Phong trào Chậm mới đang hình thành. Nó chưa có tổng hành dinh hoặc trang web, chưa có lãnh tụ duy nhất, chưa có đảng phái chính trị để chuyển tải các thông điệp. Nhiều người quyết định lắng mình mà không hề cảm thấy là bộ phận của một trào lưu văn hóa, chưa nói gì đến một cuộc thập tự chinh toàn cầu. Tuy thế, cái đáng kể là một thiểu số ngày càng tăng đang lựa chọn chậm thay vì tốc độ. Mỗi một hành động giảm tốc chính là tạo thêm cú hích cho phong trào Chậm. Giống quần chúng chống toàn cầu hóa, đám đông chủ trương chậm lại đang rèn những mắt xích, tạo đà và mài giũa triết lý của họ thông qua các hội nghị quốc tế, Internet và truyền thông đại chúng. Các Nhóm Chậm-Nhà-Nghề đang mọc lên khắp mọi nơi. Một số, chẳng hạn Đồ ăn Chậm, tập trung chủ yếu vào một lĩnh vực của đời sống. Các Nhóm khác mở rộng hơn triết lý Chậm. Trong số này có Câu lạc bộ Thư Thả ở Nhật, Quỹ Bây giờ Chậm trụ sở tại Mỹ và Hiệp hội châu Âu về Giảm tốc Thời gian[13]. Phần lớn phát triển của phong trào Chậm khởi phát từ phối kết hợp. Nhóm Đồ ăn Chậm hiện đã cho ra các nhóm con kế tiếp. Dưới ngọn cờ của các Đô thị Chậm, trên sáu chục thành phố Ý đang nỗ lực chuyển mình thành những ốc đảo êm đềm. Thị trấn Bra cũng là quê hương của Tình dục Chậm, một xu hướng nhằm xua đuổi sự hùng hục vội vã ra khỏi phòng ngủ. Tại Mỹ, học thuyết Petrini đã gợi hứng cho một nhà giáo dục hàng đầu phát động phong trào “Giáo dục Chậm ở nhà trường.” Mục đích của tôi trong cuốn sách này là giới thiệu phong trào Chậm tới đông đảo độc giả, giải thích phong trào bênh vực cái gì, hiện tiến triển ra sao, vấp phải những trở ngại nào và vì sao đem lại điều gì đó cho tất cả chúng ta. Tuy nhiên, những động cơ của tôi không hoàn toàn vị nhân sinh. Tôi là người say tốc độ, vì vậy cuốn sách này cũng là một cuộc hành trình hết sức cá nhân. Ở phần cuối hành trình ấy, tôi muốn tìm lại vài cảnh êm đềm cảm nhận được lúc chờ chuyến xe buýt nọ tại thành Rome. Tôi muốn có thể đọc sách cho con trai mà không phải liếc đồng hồ. Giống hầu hết mọi người, tôi muốn tìm ra con đường để sống tốt hơn nhờ vào tạo lập thế cân bằng giữa nhanh và chậm.   Mời các bạn đón đọc Ngợi Ca Sống Chậm của tác giả Carl Honore.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trái Tim Đau Khổ
Thanh tra Archie Sheridan theo dõi Mỹ nhân đoạt mạng - Gretchen Lowell suốt bao năm. Nhưng rồi chính anh lại bị ả bắt cóc, tra tấn một cách tàn nhẫn và dai dẳng. Cho đến khi ả ra tự thú và ngồi tù thì Archie vẫn phải chịu sự tra tấn trong một “nhà tù” khác bởi anh nghiện thuốc giảm đau, luôn bị ám ảnh về Gretchen và không thể quay về cuộc sống trước đây.  Bỗng nhiên xuất hiện hàng loạt vụ án bắt cóc và giết hại bé gái vị thành niên. Thanh tra Archie buộc phải trở lại với công việc, và cùng với Susan Ward - một phóng viên trẻ vào cuộc điều tra... Một cuộc truy đuổi vô cùng gay cấn giữa Archie, Susan, kẻ bắt cóc và Gretchen.  Kẻ sát nhân thực sự là ai? Thanh tra Archie có thoát khỏi “nhà tù” mang tên “Gretchen Lowell” hay không? *** Archie không chắc đó là ả cho đến tận phút giây đó. Một cảm giác ấm áp âm ỉ luồn trong xương sống, tầm nhìn mờ đi, và rồi anh nhận ra Gretchen Lowell chính là kẻ sát nhân. Anh nhận ra mình bị tiêm thuốc mê, nhưng đã quá muộn. Anh dò dẫm lấy khẩu súng, nhưng cánh tay gần như tê dại khiến anh chỉ có thể nhấc nó một cách vụng về khỏi thắt lưng của mình và đưa nó ra như thể đó là một món quà dành cho ả. Ả cầm lấy nó và mỉm cười, hôn nhẹ lên trán anh. Rồi ả thò tay vào áo khoác của anh và lấy ra chiếc điện thoại di động, tắt nó, sau đó nhét vào túi của mình. Bây giờ anh gần như bị tê liệt, ngồi trên chiếc ghế da trong căn phòng của ả. Nhưng tâm trí anh phủ đầy những cảm thức rõ ràng. Ả quỳ xuống bên cạnh anh, cẩn thận như đến gần một đứa trẻ và đặt môi mình thật gần môi anh, giống như hai người đang hôn nhau. Nhịp tim dồn dập như dồn ứ lên cổ họng anh. Anh không thể nén chúng xuống được. Người ả tỏa ra mùi hương như hương hoa cà. “Đến lúc phải đi rồi, anh yêu”, ả thì thầm. Ả đứng dậy và anh thấy mình được nhấc lên từ phía sau, khuỷu tay ả tì dưới nách anh. Một người đàn ông trước mặt, mặt đỏ và to con, nắm lấy chân anh, rồi anh được đưa vào ga-ra và được đặt phía sau chiếc Voyager màu xanh lá - chiếc xe mà Archie và đội đặc nhiệm đã mất nhiều tháng trời để tìm kiếm, ả bò qua người anh để lên xe. Lúc đó, anh nhận ra có người khác trong xe, ả không phải là người đứng sau anh, nhưng anh không có thời gian để suy tính việc này vì ả đang trườn qua người anh, đầu gối ấn vào hai bên eo anh. Anh không thể di chuyển mắt nữa, vì vậy ả thuật lại mọi chuyện đang diễn ra cho anh nghe. “Em sẽ xắn ống tay áo bên phải của anh lên. Em cần chích một mũi.” Rồi ả cầm một ống kim tiêm giơ cho anh xem. Thao tác y khoa chuyên nghiệp, anh nghĩ. Mười tám phần trăm số kẻ sát nhân hàng loạt là y tá. Anh nhím chằm chằm lên nóc xe tải. Kim loại xám. Vẫn còn tỉnh, anh nghĩ. Nhớ mọi thứ, mọi chi tiết, điều đó sẽ rất quan trọng. Nếu như mình còn sống - anh nghĩ. “Em sẽ để anh nghỉ một lát.” Ả cười rồi cúi sát khuôn mặt mỏng nhưng xinh xắn cho anh nhìn rõ, những lọn tóc vàng xòa xuống má anh, dù anh không cảm nhận rõ lắm. “Chúng ta còn nhiều thời gian vui vẻ sau này.” Anh không thể đáp lại, thậm chí không thể chớp mắt. Hơi thở của anh đến cùng với những cơn đau dài và nhẹ. Anh không thể nhìn thấy ả chích mũi kim vào cánh tay mình, nhưng có cảm nhận được nó vì sau đó anh chỉ còn thấy bóng tối. Anh tỉnh dậy thấy mình ngồi trên ghế. Anh vẫn còn lảo đảo và phải mất một lúc mới nhận ra rằng người đàn ông mặt đỏ đang đứng trước mình. Trong khoảnh khắc đó, khoảnh khắc đầu tiên mà Archie nhận thức được, đầu anh như muốn nổ tung. Archie giật mình khi máu của người đàn ông đó bị thổi bay về phía anh, bắn tung tóe vào mặt và ngực anh, một thứ chất lỏng ấm. Anh cố nhúc nhích, nhưng tay và chân đã bị trói chặt vào một cái bàn. Anh cảm thấy có thứ gì đó nóng ấm chảy xuống mặt mình rồi rớt xuống sàn, anh giật mạnh các dây buộc cho đến khi thấy rõ da mình bị trầy ra, nhưng anh không thể nhúc nhích được chúng. Miệng anh bị nhồi kín và bị băng dính dán chặt, khiến nước bọt bị đẩy trở vào cổ họng, càng làm cho anh tắc miệng. Mắt anh bỏng rát. Rồi anh nhìn thấy ả, đứng ngay sau người đàn ông vừa ngã xuống, trên tay là khẩu súng mà ả vừa dùng để xử anh ta. “Ngay bây giờ em chỉ muốn anh biết rằng em quan tâm tới anh như thế nào”, ả thốt ra. “Rằng anh là người duy nhất.” Rồi ả quay người bước đi. Anh chỉ còn lại một mình, để suy nghĩ về những gì vừa xảy ra. Anh nuốt nước bọt một cách khó nhọc, cố trấn an bản thân phải giữ bình tĩnh, để nhìn xung quanh. Chỉ có mình anh và người đàn ông đã chết trên sàn nhà. Gretchen đã rời đi. Không thấy người lái xe. Tim Archie đập dữ dội đến nỗi chỉ có cảm giác duy nhất là sự dồn nén trong các huyết mạch. Thời gian trôi qua. Lúc đầu, anh nghĩ mình đang ở trong một phòng phẫu thuật. Đó là một căn phòng rộng, được ốp bằng những viên gạch gốm trắng giống nhà ga tàu điện ngầm và được đèn huỳnh quang chiếu sáng. Anh quay đầu nhìn bên này, bên kia và thấy một số khay dụng cụ, trông giống như dụng cụ y tế, có một ống thoát nước trên sàn xi măng. Anh cố rướn người một lần nữa tới chỗ các nút buộc và nhận ra mình đang bị trói vào một cái cáng. Có mấy thứ dạng ống thò thụt trên cơ thể anh: một ống thông, một ống kim tiêm tĩnh mạch. Trong phòng không có cửa sổ, chỉ thấy thứ mùi đất phảng phất trong ý niệm của anh. Nấm mốc. Một tầng hầm. Giờ thì anh bắt đầu tư duy bằng giác quan của một cảnh sát. Những người khác đã bị tra tấn vài ngày trước khi bị ả vứt xác. Điều đó có nghĩa là anh sẽ có thời gian. Hai ngày. Có lẽ là ba ngày. Họ có thể tìm thấy anh trong khoảng thời gian đó. Anh đã nói với Henry rằng mình đi đâu, rằng anh có một buổi trao đổi với bác sĩ tâm lý về thi thể mới nhất. Anh đã muốn gặp cô bác sĩ này trước đó, để cô ta cho lời khuyên. Anh đã không chuẩn bị cho việc này. Nhưng họ sẽ kết nối những điều đó với nhau. Henry sẽ kết nối nó. Đó sẽ là nơi cuối cùng có thể lần ra dấu vết của anh. Anh đã gọi điện cho vợ mình trên đường đi. Đó sẽ là điểm liên lạc cuối cùng. Đã bao lâu kể từ khi anh bị bắt? Ả lại xuất hiện. Ở phía bên kia bàn, cái xác vẫn nằm đó, máu lênh láng, sẫm màu, thấm trên sàn nhà màu xám. Anh nhớ lại lần đầu tiên khi ả tự giới thiệu mình là bác sĩ tâm thần - một người đã từ bỏ công việc chuyên môn để viết sách. Ả đọc được các thông tin về đội đặc nhiệm và đã gọi cho anh để xem ả có thể giúp gì không. Đó là địa ngục đối với tất cả thành viên trong đội. Ả đề nghị được tham gia nhiệm vụ. Không phải tư vấn, ả nói. Chỉ là nói chuyện trao đổi. Đội đặc nhiệm đã điều tra vụ án này gần mười năm. Hai mươi ba thi thể ở ba tiểu bang. Đây là một vụ án rất lớn. Ả mời những người quan tâm đến tham dự một buổi thảo luận nhóm. Chỉ nói chuyện. Anh đã rất ngạc nhiên khi thấy nhiều thám tử xuất hiện. Có thể một phần lý do xuất phát từ thực tế là ả rất xinh đẹp. Điều đáng buồn cười là thực tế đó đã phát huy tác dụng. Ả khá tốt và có ích. Ả kéo tấm vải trắng che người anh xuống, để ngực anh lộ ra và anh nhận ra rằng mình đang trần truồng. Chẳng có sự tự ái nào gắn với việc đó cả. Nó chỉ đơn thuần là sự thật. Ả đặt một bàn tay lên xương ức của anh. Anh biết điều này có nghĩa là gì. Anh nhớ những bức ảnh của các vụ án trước, những vết trầy xước và vết bỏng trên người các nạn nhân. Đó là một phần hồ sơ, một trong những ký hiệu của ả. “Anh biết chuyện gì sẽ diễn ra tiếp chứ?” Ả hỏi và biết thừa rằng anh ý thức được điều đó. Anh cần nói chuyện với ả. Để hoãn binh. Anh cố tạo ra những tiếng ồn nhưng chúng bị ngắt quãng qua băng keo; và anh cử động đầu ra hiệu để ả tháo nó ra. Ả chạm ngón tay lên môi anh, lắc đầu. “Chưa đến lúc”, ả thì thầm. Ả hỏi lại lần nữa, giọng gắt hơn một chút. “Anh biết chuyện gì xảy ra tiếp theo chứ?” Anh gật đầu. Ả cười thỏa mãn. “Đó là lý do em chuẩn bị một thứ đặc biệt cho anh, cưng ạ.” Ả đặt khay dụng cụ bên cạnh mình, rồi ả quay sang rút ra thứ gì đó. Một cái đinh. Thú vị đây! Anh nghĩ, cảm thấy ngạc nhiên với khả năng thoát ly cảm xúc của chính mình, để giữ được tỉnh táo. Cho tới nay, những nạn nhân bị ả sát hại đều rất ngẫu nhiên, đàn ông, phụ nữ, già, trẻ nhưng tất cả đều có những tổn thương trên thân thể, mặc dù những tổn thương đó ngày càng ghê gớm hơn và giống nhau một cách đáng kể. Trước đây, ả chưa từng sử dụng đinh. Ả có vẻ hài lòng. “Em luôn nghĩ anh sẽ thích sự đa dạng.” Ả để đầu ngón tay nhảy nhót trên lồng ngực của anh cho đến khi tìm thấy cái xương sườn mà ả muốn. Ả đặt đầu đinh vào lớp da. Anh cảm thấy như xương sườn vỡ vụn và tắc thở một lần nữa. Ngực anh đau nhói. Anh vật vã và cố gắng thở. Mắt anh chảy nước. Ả lau nước mắt trên gò má đỏ ửng và vuốt tóc anh, sau đó tìm một chiếc xương sườn khác và lặp lại hành động. Khi ả ngừng tay, sáu xương sườn của anh như đã vỡ vụn. Chiếc đinh đẫm máu. Ả thả nó xuống khay dụng cụ với một cái nháy mắt vô cảm. Anh không thể cử động được cơ thể dù chỉ một mi-li-mét mà không bị đau buốt, giống như chưa ai từng phải trải qua. Lỗ mũi bị tắc đầy chất nhầy, anh không thể thở bằng miệng, anh phải chịu đựng đau đớn với mỗi nhịp thở, nhưng anh cũng không thể nén cho mình thở nhẹ được, không thể kìm hãm được những lá phổi hoảng loạn đang phát ra âm thanh nghe như tiếng nức nở. Hai ngày có lẽ là quá lạc quan - anh nghĩ. Có thể anh sẽ chết ngay bây giờ. Mời các bạn đón đọc Trái Tim Đau Khổ của tác giả Chelsea Cain & Xuân Nguyên (dịch).
Rừng Sâu Tăm Tối
Trong một khu rừng tăm tối Nora đã không gặp mặt Clare suốt mười năm nay. Không hề, kể từ khi Nora bước ra khỏi cánh cổng trường cấp ba và chưa một lần ngoái đầu lại. có một ngôi nhà tăm tối; Rồi một ngày, cô bất ngờ nhận được lời mời dự tiệc chia tay đời độc thân của Clare. Liệu đây có phải là cơ hội để Nora nói lời từ biệt với quá khứ vẫn luôn hằng ám ảnh mình? Trong ngôi nhà tăm tối ấy có một căn phòng tăm tối; Nhưng một điều vô cùng, vô cùng sai trái sắp sửa xảy ra. Trong căn phòng tăm tối ấy Có một số bí mật không thể giấu mình mãi mãi. *** TÁC GIẢ: Ruth Ware (1977) bắt đầu sự nghiệp văn chương khá muộn. Trước khi trở thành nhà văn toàn thời gian, cô đã từng làm các công việc bồi bàn, bán sách và quảng cáo. Bắt đầu bằng các tác phẩm dành cho thiếu niên, nhưng cô chỉ thực sự thành công khi chuyển sang thể loại trinh thám ly kỳ, giật gân. Những tác phẩm trinh thám của Ruth Ware như Rừng sâu tăm tối và Cô gái trong cabin số 10 nhanh chóng trở thành Bestseller và nhận được sự yêu mến của độc giả. *** Tôi đang chạy. Tôi chạy xuyên qua khu rừng đẫm ánh trăng, quần áo bị cành cây cào rách và chân vướng vào đám dương xỉ diều hâu trĩu tuyết. Những bụi mâm xôi rạch qua tay tôi. Hơi thở bỏng rát trong họng. Đau quá. Chỗ nào cũng đau. Nhưng tôi phải làm điều này. Tôi chạy. Tôi có thể làm được điều này. Lúc nào chạy, tôi cũng thầm niệm trong đầu một câu thần chú. Khoảng thời gian tôi muốn đạt được, hoặc cơn giận dữ tôi nện xuống mặt đường nhựa. Nhưng lần này chỉ một từ, một ý nghĩ nện thình thình bên trong tôi. James. James. James. Tôi phải tới đó. Tôi phải tới được con đường trước khi... Nó đây rồi, con đường nhựa tựa con rắn đen dưới ánh trăng, và tôi có thể nghe thấy tiếng động cơ gầm rú chạy tới gần; những dải ánh sáng trắng chói lòa, những thân cây đen sẫm như những nhát cắt xuyên qua ánh sáng. Đã quá muộn chưa? Ba mươi mét cuối, tôi buộc mình chạy chậm lại, rồi tôi vấp chân ngã nhào qua những thân cây đổ, trống ngực đập thình thình. James. Quá muộn rồi - chiếc xe đã tới quá gần, tôi không ngăn được nữa. Tôi quăng mình lên con đường nhựa, dang rộng hai tay. “Dừng lại!” Đau quá. Chỗ nào cũng đau. Ánh sáng rọi vào mắt, cơn đau ở đầu. Mùi máu tanh xộc lên mũi, hai bàn tay dấp dính máu. “Leonora?” Giọng nói loáng thoáng xuyên qua làn sương mù đau đớn. Tôi cố lắc đầu, miệng chẳng nhếch nổi thành lời. “Leonora, em an toàn rồi, em đang ở phòng cấp cứu. Chúng tôi đang đưa em đi chụp chiếu.” Đó là một người phụ nữ, đang nói oang oang, rành rọt. Giọng nói làm tôi đau đớn. “Có người nào chúng tôi có thể liên hệ được không?” Tôi lại cố lắc đầu. “Đừng cử động đầu,” cô ta nói. “Em bị chấn thương vùng đầu.” “Nora,” tôi thều thào. “Em muốn chúng tôi gọi Nora à? Nora là ai?” “Em... tên em.” “Được rồi Nora. Thả lỏng người nhé. Không đau đâu.” Nhưng nó đau quá. Chỗ nào cũng đau. Đã có chuyện gì vậy? Tôi đã làm gì?   Mời các bạn mượn đọc sách Rừng Sâu Tăm Tối của tác giả Ruth Ware & Mon, Seal (dịch).
Nguồn Gốc Dịch Bệnh: Động Vật, Con Người Và Đại Dịch Toàn Cầu Tiếp Theo
Xuất bản năm 2012, cuốn sách Nguồn gốc dịch bệnh của tác giả David Quammen đến nay vẫn hấp dẫn với những dự cảm và khai phá thú vị được các nhà khoa học ghi chép lại. Theo dõi TGVN trên Nguồn gốc dịch bệnh: Động vật, con người và đại dịch toàn cầu tiếp theo là một kiệt tác thu hút giới truyền thông của tác giả David Quammen, mang đến góc nhìn khoa học về các mầm gây bệnh trên động vật và đôi khi lây truyền cho chính con người. 'Nguồn gốc dịch bệnh': Cuốn tiểu thuyết trinh thám đặc biệt về khoa học Tác phẩm nằm trong Top 10 sách khoa học năm của Booklist, Top 11 cuốn sách của Daily Beast và được New York Times Book Review bình chọn là Cuốn sách đáng chú ý vào năm 2012. (Nguồn: Medinsights) Gương mặt của những kẻ sát nhân khác biệt: Với Nguồn gốc dịch bệnh, David Quammen đã dệt lên một câu chuyện đặc biệt, một tiểu thuyết trinh thám với những kẻ sát nhân rất khác biệt, nhưng cũng rất chân thực. Chúng là virus, vi khuẩn và những sinh vật đơn bào gây bệnh trên động vật, nhưng đôi khi, chúng sẽ thay đổi mục tiêu và nhảy sang loài người. Mỗi chương của cuốn sách là một hành trình theo đuổi một tên tội phạm mới, chịu trách nhiệm bởi một nhóm các thám tử đến từ khắp nơi trên thế giới. Cuốn sách là những ghi chép của David Quammen trong quá trình đồng hành với họ, lần theo các dấu vết để tìm ra thủ phạm. Sau chương đầu tiên về thứ virus khủng khiếp hạ gục cả ngựa và người, virus Ebola nổi lên qua câu chuyện đen tối, với những con khỉ đột chết chồng lên nhau, món thịt từ xác thối trong rừng và ma thuật. Câu chuyện chẳng cần đến những sự thổi phồng thường gặp về Ebola để tạo ra không khí rùng rợn (với nước mắt máu cũng như nội tạng tan chảy) và tác giả cũng không cần phải làm vậy, bởi chính bản thân căn bệnh cũng đã đủ khủng khiếp rồi. Ông quan tâm nhiều hơn đến việc đào sâu tìm hiểm những dịch bệnh này, tìm hiểu những gì chúng ta đã biết về chúng và cách điều đó giúp chúng ta dự phòng những căn bệnh mới xuất hiện trong tương lai, đồng thời hạn chế hậu quả của chúng. Trong mỗi chương, những căn bệnh đều dần trở nên rõ ràng, bắt đầu chỉ từ đôi ba tin đồn, vài cái chết bí ẩn dường như chẳng hề liên quan đến nhau. Quá trình điều tra dần dần bóc gỡ vấn đề, cho đến khi cuối cùng chân tướng của thủ phạm được phơi bày. Trong suốt quá trình đó, chúng ta sẽ được thấy muôn vàn cách mầm bệnh có thể di chuyển từ vật chủ này sang vật chủ khác – qua phân, dịch tiết, chấy nhầy và máu – và khám phá những hành vi nguy hiểm có thể dẫn đến phơi nhiễm: leo cây, uống nhựa chà là, ăn hay đơn thuần là chạm vào động vật đã chết. Tác giả cũng tìm kiếm cả những đồng phạm không cố ý là những loài động vật mang mầm bệnh trước khi truyền cho người: lợn, chim, khỉ, khỉ đột và dơi. Hành trình của những thám tử: Thế nhưng, những người hùng thực sự ở đây là những vị thám tử – những nhà khoa học làm việc không ngừng nghỉ, từ phòng thí nghiệm cho đến nơi thực địa, tìm kiếm lời giải cho những vụ án do những tên sát nhân nhỏ bé gây ra. Không chỉ tài ba trong việc mô tả cách hoạt động của virus, David Quammen còn rất thành công trong việc vẽ lên bức chân dung của những người hùng đó: từ những nhà sinh học phân tử nghiên cứu về SARS “với bản năng của một nhà dịch tễ học cùng sự dũng cảm của một con khỉ mặt đỏ”, cho đến nhà sinh thái học đam mê những món ăn phương Đông kỳ lạ, cho đến chuyên gia bệnh thú y với “thân hình rắn rỏi và nghiêm nghị của một cựu cầu thủ bóng bầu dục đã qua tuổi 40 tuổi”. Có thể thấy trong cuốn sách những chi tiết lịch sử cũng vô cùng thú vị như: các nhà khoa học thế kỷ XIX sử dụng kính hiển vi quang học để tìm kiếm các sinh vật nhỏ bé trong tế bào máu của bệnh nhân sốt rét, trong khi virus vẫn tiếp tục nấp sau tấm màn bí ẩn cho đến khi kính hiển vi điện tử được phát minh vào những năm 1930. Độc giả cũng thấy cả những dấu mốc lịch sử quan trọng như: Tổng thống Hoover cấm nhập khẩu vẹt vào nước Mỹ; sự bùng phát của viêm khớp và phát ban, trước khi được liên hệ với bọ ve hươu, tại thị trấn Lyme tại bang Connecticut; và loạt ca bệnh tưởng chừng vô hại, nhưng thực tế lại chết người, trên hàng loạt bệnh nhân nam tại Mỹ vào những năm 1980. David Quammen đã mang chúng ta đi khắp thế giới, từ những phòng thí nghiệm cho đến nơi thực địa cùng các điều tra viên – bẫy dơi tại Trung Quốc, khỉ tại Bangladesh, thâm nhập sâu vào cánh rừng ở Cameroon. Đến phần cuối cuốn sách, chúng ta sẽ bỏ lại thực tại một chút để bước lên chuyến du hành viễn tưởng đi tìm nguồn gốc của HIV dọc theo sông Congo. Tác giả cũng khẳng định sự xuất hiện của những căn bệnh lây truyền từ động vật, những mầm bệnh tìm đến chúng ta từ những loài sinh vật khác, không phải điều gì mới mẻ, nhưng đang có xu hướng tăng lên. Ông đi tìm lý do ẩn sau hiện tượng đó trong chương cuối cùng của cuốn sách: dân số khổng lồ của loài người, cùng với lượng gia súc vô cùng lớn, sự hủy diệt của môi trường sống tự nhiên, những hệ sinh thái bị phá vỡ – những thứ hoàn toàn có thể biến thành cuộc tranh cãi về sự trả thù của tự nhiên lên loài người. David Quammen là một trong những nhà báo và tác giả ảnh hưởng nhất hiện nay, ba lần được trao tặng giải thưởng Tạp chí quốc gia Hoa Kỳ. Các bài viết của ông được đăng tải trên các tạp chí nổi tiếng như National Geographic, New York Times, Rolling Stone và Harpers. *** “Nguồn gốc dịch bệnh” là cuốn tiểu thuyết trinh thám hấp dẫn, lôi cuốn với những kẻ sát nhân rất khác biệt, nhưng cũng rất chân thực. Chẳng có gì phải bàn cãi khi nói đây là một cuốn sách phi thường. Tác giả cuốn sách David Quammen đã dệt lên một câu chuyện đặc biệt, một tiểu thuyết trinh thám với những kẻ sát nhân rất khác biệt, nhưng cũng rất chân thực. Chúng là virus, vi khuẩn và những sinh vật đơn bào gây bệnh trên động vật; nhưng đôi khi, chúng sẽ thay đổi mục tiêu – và nhảy sang loài người. Mỗi chương của cuốn sách là một hành trình theo đuổi một tên tội phạm mới, chịu trách nhiệm bởi một nhóm các thám tử đến từ khắp nơi trên thế giới; cuốn sách là những ghi chép của Quammen trong quá trình đồng hành với họ, lần theo các dấu vết để tìm ra thủ phạm. Sau chương đầu tiên về thứ virus khủng khiếp hạ gục cả ngựa và người, Ebola virus nổi lên qua câu chuyện đen tối, với những con khỉ đột chết chồng lên nhau trong rừng, món thịt từ xác thối trong rừng và ma thuật. Câu chuyện chẳng cần đến những sự thổi phồng thường gặp về Ebola để tạo ra không khí rùng rợn (với nước mắt máu cũng như nội tạng tan chảy), và Quammen cũng không cần phải làm vậy, bởi chính bản thân căn bệnh cũng đã đủ khủng khiếp rồi. Ông quan tâm nhiều hơn đến việc đào sâu tìm hiểm những dịch bệnh này, tìm hiểu những gì chúng ta đã biết về chúng và cách điều đó giúp chúng ta dự phòng những căn bệnh mới xuất hiện trong tương lai, đồng thời hạn chế hậu quả của chúng. Và cũng chẳng có lời nào về “đây là cơ sở khoa học đằng sau”: các bài học về virus, dịch tễ và di truyền học được đan xen vào câu chuyện một cách rất tài tình. Trong mỗi chương của “Nguồn gốc dịch bệnh”, những căn bệnh đều dần trở nên rõ ràng, bắt đầu chỉ từ đôi ba tin đồn, vài cái chết bí ẩn dường như chẳng hề liên quan đến nhau. Quá trình điều tra dần dần bóc gỡ vấn đề, cho đến khi cuối cùng chân tướng của thủ phạm được phơi bày. Trong suốt quá trình đó, chúng ta sẽ được thấy muôn vàn cách mầm bệnh có thể di chuyển từ vật chủ này sang vật chủ khác – qua phân, dịch tiết, chấy nhầy và máu – và khám phá những hành vi nguy hiểm có thể dẫn đến phơi nhiễm: leo cây, uống nhựa chà là, ăn hay chỉ đơn thuần là chạm vào động vật đã chết… Quammen cũng tìm kiếm cả những đồng phạm không cố ý: những loài động vật mang mầm bệnh trước khi truyền cho người: lợn, chim, khỉ, khỉ đột và dơi. Những người hùng thực sự ở đây là những vị thám tử – những nhà khoa học làm việc không ngừng nghỉ, từ phòng thí nghiệm cho đến nơi thực địa, tìm kiếm lời giải cho những vụ án do những tên sát nhân nhỏ bé gây ra. Không chỉ tài ba trong việc mô tả cách hoạt động của virus, Quammen còn rất thành công trong việc vẽ lên bức chân dung của những người hùng đó: từ những nhà sinh học phân tử nghiên cứu về SARS “với bản năng của một nhà dịch tễ học cùng sự dũng cảm của một con khỉ mặt đỏ”, cho đến nhà sinh thái học đam mê những món ăn phương Đông kỳ lạ, cho đến chuyên gia bệnh thú y với “thân hình rắn rỏi và nghiêm nghị của một cựu cầu thủ bóng bầu dục đã qua tuổi 40 tuổi”. Những chi tiết lịch sử cũng vô cùng thú vị: các nhà khoa học Thế kỷ 19 sử dụng kính hiển vi quang học để tìm kiếm các sinh vật nhỏ bé trong tế bào máu của bệnh nhân sốt rét, trong khi virus vẫn tiếp tục nấp sau tấm màn bí ẩn cho đến khi kính hiển vi điện tử được phát minh vào những năm 1930. Còn cả những dấu mốc lịch sử quan trọng: Tổng thống Hoover cấm nhập khẩu vẹt vào nước Mỹ; sự bùng phát của viêm khớp và phát ban, trước khi được liên hệ với bọ ve hươu, tại thị trấn Lyme tại bang Connecticut; và loạt ca bệnh tưởng chừng vô hại, nhưng thực tế lại chết người, trên hàng loạt bệnh nhân nam tại Mỹ vào những năm 1980. Quammen mang chúng ta theo chuyến đi khắp miền thế giới, từ những phòng thí nghiệm chuẩn mực cho đến nơi thực địa cùng các điều tra viên – bẫy dơi tại Trung Quốc, khỉ tại Bangladesh, thâm nhập sâu vào cánh rừng ở Cameroon để nghe về những nghi thức trưởng thành cần hiến lên tay khỉ. Đến phần cuối cuốn sách, chúng ta sẽ bỏ lại thực tại một chút để bước lên chuyến du hành viễn tưởng đi tìm nguồn gốc của HIV, đan xen cùng hành trình của chính Quammen dọc theo sông Congo. Một trong những đoạn ấn tượng nhất của cuốn sách “Nguồn gốc dịch bệnh” là khi Quammen kể lại sự bùng nổ sâu bướm lều tại thị trấn quê nhà ở tây Montana năm 1993, “như một đại dịch trong Kinh thánh”. Ông viết: “Trong những đêm tháng Sáu, chúng ta có thể đứng dưới tán cây và nghe thấy những âm thanh lách tách như tiếng lửa, là tiếng chất thải của chúng rơi xuống trong tán lá.” Và rồi cũng đột ngột như khi xuất hiện, lũ sâu biến mất. Mãi sau này ông mới biết nguyên nhân sự sụp đổ của quần thể sâu bướm là do một loại virus gây bệnh. Liệu con người, ông tự hỏi, có phải hứng chịu số phận tương tự hay không? Cũng như loài sâu bướm lều, chúng ta quá đông đúc trên hành tinh này, và dân số loài người vẫn ngày một tăng lên. “Chính chúng ta cũng là một loại dịch bệnh”, ông viết, và là đối tượng cho một đại dịch chết người dễ dàng đánh gục cả nền văn minh nhân loại. Sự xuất hiện của những căn bệnh lây truyền từ động vật – những mầm bệnh tìm đến chúng ta từ những loài sinh vật khác – không phải điều gì mới mẻ, nhưng đang có xu hướng tăng lên, và Quammen đi tìm lý do ẩn sau hiện tượng đó trong chương cuối cùng của cuốn sách: dân số khổng lồ của loài người, cùng với lượng gia súc vô cùng lớn, sự hủy diệt của môi trường sống tự nhiên, những hệ sinh thái bị phá vỡ – những thứ hoàn toàn có thể biến thành cuộc tranh cãi về sự trả thù của tự nhiên lên loài người. Nhưng Quammen không phải một nhà hoạt động vì môi trường đầy lãng mạn và lòng trắc ẩn. Ông nhấn mạnh, một cách đầy cẩn trọng, rằng con người chính là một phần của tự nhiên – và đó chính là vấn đề. VỀ TÁC GIẢ David Quammen – Một trong những nhà báo và tác giả ảnh hưởng nhất hiện nay, ba lần được trao tặng giải thưởng Tạp chí Quốc gia Hoa Kỳ. Các bài viết của ông được đăng tải trên các tạp chí nổi tiếng như National Geographic, New York Times, Rolling Stone và Harpers. Cuốn sách “Nguồn gốc dịch bệnh”, được xuất bản năm 2012, mang đến góc nhìn khoa học về các mầm bệnh gây bệnh trên động vật, và đôi khi lây truyền cho chính con người. Bằng kiến thức và trải nghiệm thực tế, những phân tích – cũng như dự đoán – của ông đã thu hút sự quan tâm và chú ý của rất nhiều phương tiện truyền thông trên toàn thế giới. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ SÁCH “Cuốn sách đáng sợ nhất mà bạn sẽ đọc trong năm nay.”  – The Daily Beast “[Một] chuyến đi đầy tham vọng và mang tính bách khoa … Ông. Quammen đã làm một công việc tuyệt vời khi cho thấy lượng kiến ​​thức khoa học là tạm thời, với những ẩn số lớn về các bệnh truyền nhiễm.” – Richard Preston, tác giả của The Hot Zone “David Quammen đã làm được điều đó một lần nữa. Hấp dẫn và đáng sợ, Spillover là một bộ phim kinh dị đời thực với kết cục ảnh hưởng đến tất cả chúng ta.” – Elizabeth Kolbert, tác giả của The Sixth Extinction “Nguồn gốc dịch bệnh” là một kiệt tác báo cáo khoa học đáng sợ và hấp dẫn, giống như một câu chuyện trinh thám. David Quammen đưa chúng ta vào cuộc tìm hiểu về AIDS, Ebola và các căn bệnh khác có chung một điểm chung đáng sợ: chúng đều nhảy từ động vật hoang dã sang người. Giải thích cho xu hướng đang phát triển này, Quammen không chỉ đưa ra lời cảnh báo về những căn bệnh mà chúng ta sẽ phải đối mặt trong tương lai, anh ấy còn khiến chúng ta suy ngẫm về vị trí của chúng ta với tư cách là con người trong hệ sinh thái trái đất. ” – Walter Isaacson, tác giả của Leonardo Da Vinci “David Quammen là một trong những nhà báo khoa học hiếm hoi có sự pha trộn giữa sự khám phá với tài năng tổng hợp và kể chuyện.” – Nathan Wolfe – Nature *** Loại virus được biết đến với cái tên Hendra không phải loại vi sinh vật nguy hiểm mới đầu tiên. Hiển nhiên cũng không phải loại đáng sợ nhất. Thậm chí, so với một số khác, nó còn là thứ yếu. Số lượng tử vong do loài virus này gây ra ngay từ đầu đã rất nhỏ, và vẫn duy trì ở mức thấp như vậy; phạm vi địa lý của virus chỉ thu hẹp ở mức địa phương, và những đợt bùng phát sau đó cũng không đưa căn bệnh lan rộng hơn bao nhiêu. Virus Hendra xuất hiện lần đầu tiên ở gần Brisbane, Úc vào năm 1994 với có hai ca nhiễm bệnh và một trong số đó tử vong. Hay chính xác hơn: hai người mắc bệnh, một trong hai đã tử vong. Những sinh vật khác cũng mắc bệnh và tử vong, bao gồm hơn chục con ngựa, và chúng cũng là một phần của câu chuyện này. Đề tài dịch bệnh trên động vật và dịch bệnh trên người, như chúng ta sắp được tìm hiểu, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như những sợi dây trong một bện thừng. Đợt bùng phát đầu tiên của virus Hendra dường như không mấy đáng sợ hay mang tính thời sự, trừ khi bạn sống ở miền đông nước Úc. Nó không thể sánh với một trận động đất, một cuộc chiến tranh, một vụ xả súng ở trường học hay một cơn sóng thần; nhưng đầy kỳ lạ và ma quái. Dù hiện nay người ta đã biết nhiều hơn về nó, ít nhất là trong giới bệnh lý học, nhưng virus Hendra, dù có bớt ma quái hơn, dường như vẫn rất kỳ lạ. Một nghịch lý hoàn toàn: cận biên, lẻ tẻ, nhưng ở một góc độ lớn hơn lại mang tính đại diện. Chính vì lý do đó, Hendra là dấu mốc quan trọng hướng tới hiểu được sự xuất hiện của những thực thể chết người trên hành tinh này – cũng như sự thật là chúng mang đến cái chết của hơn 30 triệu người kể từ năm 1981. Những câu chuyện đó liên quan tới hiện tượng mang tên Bệnh Lây truyền từ Động vật. Sở dĩ có cái tên như vậy bởi đó là những căn bệnh có khả năng lây truyền sang người. Và chúng có số lượng nhiều hơn bạn nghĩ. AIDS là một căn bệnh như thế. Và cúm là cả một phân nhóm cho những bệnh còn lại. Xem xét tổng thể những căn bệnh này dường như củng cố nhận định từ lâu của Darwin (nhận định đen tối nhất của ông – được nhiều người biết đến và thường xuyên bị cố ý bỏ quên) rằng loài người là một loài động vật, có liên hệ mật thiết với những loài động vật khác: từ nguồn gốc cho đến tiến hóa, khi ốm đau lẫn khi khỏe mạnh. Còn khi xét một cách riêng rẽ, đơn cử trường hợp mơ hồ này ở Úc, đây là lời nhắc nhở vững vàng rằng mọi thứ, bao gồm cả dịch bệnh, đều phải bắt đầu từ đâu đó. 2 Tháng Chín năm 1994, một tai họa khủng khiếp giáng xuống những con ngựa ở vùng ngoại ô phía bắc của Brisbane: những con vật thuần chủng, bóng bẩy và chăm chút, được sinh ra chỉ để chạy đua. Vùng ngoại ô cổ kính với cái tên Hendra, là một khu dân cư lâu đời với các trường đua và những người đam mê đua ngựa; những căn nhà gỗ mà sân sau được cải tạo thành chuồng ngựa; các sạp báo đầy tờ rơi hay những quán café góc đường với cái tên như The Feed Bin (Tạm dịch: Máng ngựa). Con ngựa đầu tiên nhiễm bệnh là một con ngựa cái với lông màu nâu đốm đen tên là Drama Series, đã được cho nghỉ đua vì mang thai, và sắp đẻ. Drama Series bắt đầu biểu hiện những dấu hiệu của vấn đề trong một chuồng ngựa trên đồng cỏ nghèo nàn vài dặm về phía tây nam Hendra, nơi mà những con ngựa được đưa tới để nghỉ ngơi giữa các cuộc đua. Đáng ra Drama Series sẽ ở lại đó cho tới trước lúc sinh nở, nếu nó không bị ốm. Tuy vậy, tình trạng của con ngựa cái không quá xấu – ít nhất là tại thời điểm đó. Nó chỉ có vẻ không được ổn, và người huấn luyện cho rằng nó sẽ khỏe lại. Người huấn luyện tên là Vic Rail: một người đàn ông từng trải với dáng người nhỏ bé, áp đặt nhưng dễ mến, với mái tóc nâu vuốt ngược và nổi tiếng với phương pháp luyện tập cứng rắn trong giới đua ngựa địa phương. “Cứng rắn nhưng dễ mến”, có thể tóm gọn Vickie bằng một câu như vậy. Một số người có thể không ưa gì anh ta, nhưng không ai phủ nhận rằng anh biết rất rõ về những con ngựa. Bạn gái của Rail, Lisa Symons, là người đã đem xe kéo ngựa tới để đón Drama Series. Con ngựa cái miễn cưỡng di chuyển. Chân của nó có vẻ bị mỏi. Quanh vùng môi, mi mắt và hàm có những vết sưng. Trở về khu chuồng nhỏ của Rail ở Hendra, Drama Series đổ mồ hôi đầm đìa và tỏ ra uể oải. Với hi vọng chăm nom ngựa mẹ và cứu lấy con con, anh ép nó ăn cà rốt bào và mật mía nhưng không thành. Sau nỗ lực, Vic Rail đi rửa hai bàn tay và cánh tay, dù sau này khi ngẫm lại, có vẻ như điều đó không đủ. Hôm đó là thứ Tư, ngày 7 tháng Chín năm 1994, Rail gọi cho bác sĩ thú y Peter Reid, một người đàn ông cao lớn, nghiêm túc và chuyên nghiệp, để đến khám cho Drama Series – lúc này đang được nhốt trong ô riêng tại khu chuồng bê tông với sàn phủ cát, gần với những con ngựa khác của Rail. Bác sĩ Reid không tìm thấy dịch quanh mũi hay mắt của nó, hay bất kỳ dấu hiệu nào của sự đau đớn. Tuy vậy, con ngựa chẳng còn giữ được chút nào vẻ vạm vỡ trước đây. “Suy nhược thể chất” là kết luận của ông. Thân nhiệt và nhịp tim của nó đều cao. Reid để ý thấy những vết sưng trên mặt. Khi mở miệng con ngựa ra để kiểm tra lợi, ông thấy những mẩu cà rốt bào mà nó chẳng buồn hoặc chẳng thể nuốt. Sau cùng, ông ta tiêm cho nó thuốc kháng sinh và giảm đau, rồi ra về. Khoảng sau bốn giờ sáng ngày hôm sau, Reid nhận được cuộc gọi thông báo: Drama Series đã ra khỏi chuồng của nó, đổ gục trên sân, và đang hấp hối. Tới khi Reid đến nơi, con ngựa đã chết. Mọi thứ diễn ra nhanh và khủng khiếp. Bị kích động do tình trạng sức khỏe xấu đi, con ngựa lết ra ngoài, ngã xuống một vài lần khiến chân rách toạc đến xương, đứng dậy, rồi đổ gục ở sân trước. Người trông coi chuồng ngựa đã phải đè nó xuống đất. Con ngựa cố gắng vùng vẫy trong tuyệt vọng và va vào một chồng gạch. Lần này để giữ nó nằm xuống, người coi chuồng cần đến cả sự hỗ trợ của Rail. Để giúp Drama Series thở, Rail đã chùi đi chỗ bọt trên mũi của con ngựa – một nỗ lực hoàn toàn vô ích. Reid kiểm tra cái xác và phát hiện một chút bọt vẫn còn sót lại trong lỗ mũi, nhưng không khám nghiệm tử thi bởi Vic Rail không có vẻ hứng thú đến thế, và, cũng không ai đoán trước được tình trạng khẩn cấp sắp xảy để, khi mà mọi chi tiết dù là nhỏ nhất cũng có thể trở nên vô cùng quan trọng. Xác của Drama Series cứ thế được một chiếc xe tải hợp đồng chở tới bãi tập kết của vùng Brisbane. Nguyên nhân gây ra cái chết của con ngựa vẫn chưa được xác định. Liệu có phải nó bị rắn cắn? Hay ăn phải loại cỏ độc nào đó trong cái chuồng bụi bặm, xập xệ đó? Những giả thuyết đó nhanh chóng sụp đổ sau 13 ngày, khi những con ngựa khác trong chuồng nối tiếp nhau bị ốm. Đây không thể là do rắn cắn hay thức ăn độc. Phải là thứ gì đó truyền nhiễm. Những con ngựa còn lại bị sốt, suy hô hấp, mắt đỏ ngầu, co giật, và lờ đờ; một số có bọt máu sùi ra từ lỗ mũi và miệng, số khác lại bị sưng ở mặt. Reid chứng kiến thấy một con ngựa sục miệng điên cuồng vào một xô nước, trong khi một con khác điên cuồng đập đầu vào bức tường bê tông. Mặc cho nỗ lực của Reid và những người khác, chỉ trong vài ngày đã có thêm 12 con ngựa tử vong. Reid sau đó thừa nhận rằng: “tốc độ lây lan giữa những con ngựa thật khó tin,” nhưng tại thời điểm đó, không ai hiểu được vấn đề là gì . Thứ gì đó lây lan qua những con ngựa. Thời điểm tồi tệ nhất, chỉ trong 12 giờ, họ phải chứng kiến bảy con ngựa chết trong đau đớn quằn quại, đến mức một số trường hợp họ phải thực hiện an tử . Bảy con ngựa chỉ trong mười hai giờ – đó là một thảm kịch, ngay cả với một bác sĩ thú y dày dạn kinh nghiệm. Một trong số chúng, con ngựa cái có tên Celestial Charm, đã vùng vẫy và thở hổn hển một cách tuyệt vọng đến lúc tắt thở, khiến Reid không thể tới gần để cho nó mũi tiêm nhân đạo. Con ngựa thiến 5 tuổi mà Rail gửi tới một chuồng ngựa phía bắc phát bệnh ngay khi đến, và người ta cũng phải kết thúc sự sống của nó không lâu sau đó. Một bác sĩ thú y đã khám nghiệm tử thi con ngựa thiến và phát hiện tình trạng xuất huyết trên toàn bộ nội tạng. Chuồng ngựa ở góc đường lân cận chuồng ngựa của Rail ở Hendra, cùng lúc đó, một con ngựa thiến khác cũng đổ bệnh với triệu chứng tương tự, và cũng bị buộc phải cho an tử. Điều gì gây nên tình trạng hỗn loạn này? Làm thế nào nó có thể lây lan từ con ngựa này qua con ngựa khác, hay đồng thời tiếp cận được nhiều ngựa đến thế cùng một lúc? Có khả năng là một tác nhân độc hại nào đó trong nguồn cung thực phẩm. Hay thuốc độc, từ những kẻ thù hằn. Ngoài ra, Reid cũng bắt đầu tự hỏi liệu đây có thể do một loại virus lạ, giống như loại virus gây ra bệnh ngựa châu Phi (AHS), loại bệnh được truyền do ruồi cắn ở vùng Hạ Sahara châu Phi. Virus AHS tác động lên các con la, lừa và ngựa vằn cũng như ngựa nhà, nhưng chưa từng được phát hiện ở Úc, và cũng không lây lan trực tiếp từ ngựa sang ngựa. Hơn nữa, ruồi mang bệnh ở Queensland thông thường không cắn ngựa vào tháng Chín, khi thời tiết mát mẻ. Do đó AHS không phải là câu trả lời hợp lý. Hay nguyên nhân có thể là một loại mầm bệnh lạ? “Tôi chưa từng thấy virus nào gây ra tình trạng như vậy trước đây,” Reid nói. Một người có xu hướng nói giảm nói tránh, ông ta gọi thời điểm đó là “một khoảng thời gian tương đối hoảng loạn.” Reid tiếp tục chữa cho những con ngựa bị bệnh với tất cả các phương tiện cũng như phương pháp ông có, dựa trên chẩn đoán vẫn còn không chắc chắn –kháng sinh, truyền dịch, thuốc chống sốc. Trong khi đó, bản thân Vic Rail cũng bắt đầu đổ bệnh. Người trông coi chuồng ngựa cũng vậy. Thoạt tiên có vẻ họ đều bị cúm – một cơn cúm nặng. Rail tới bệnh viện, nơi tình trạng của ông tiếp tục xấu đi, và qua đời sau một tuần chăm sóc đặc biệt. Nội tạng của ông ngừng hoạt động. Rail cũng không thở được. Khám nghiệm tử thi cho thấy phổi của ông chứa đầy máu, các loại dịch, và (sau khi kiểm tra bằng kính hiển vi điện tử) một loại virus nào đó. Ray Unwin, người coi chuồng, đã về nhà và tự chịu đựng qua cơn sốt, lại sống sót. Peter Reid, dù phải chăm sóc những con ngựa bị bệnh đến mức sùi bọt máu, vẫn khỏe mạnh. Ông và Unwin đã kể cho tôi câu chuyện của mình khi gặp được họ nhiều năm sau đó, sau khi hỏi han xung quanh Hendra và gọi một vài cuộc điện thoại Ở Máng ngựa có người nói rằng: Ray Unwinhả, nhiều khả năng anh ta sẽ ở chỗ của Bob Bradshow. Tôi đi theo chỉ dẫn tới chuồng ngựa của Bradshaw và gặp Unwin ngay ở lối vào với xô cám trong tay. Thời điểm đó, ông ta đã đứng tuổi với mái tóc đuôi ngựa màu đỏ cát với đôi mắt u ám nỗi buồn. Ông hơi ngại khi được từ một người lạ sự chú ý, thứ ông đã nhận đủ từ các bác sĩ, cán bộ y tế công cộng và phóng viên địa phương. Ngay khi ngồi xuống nói chuyện, ông thừa nhận ông không phải là một kẻ hay than vãn, nhưng sức khỏe của ông đã kém đi rõ ràng từ khi chuyện đó xảy ra. Mời các bạn mượn đọc sách Nguồn Gốc Dịch Bệnh - David Quammen.
Du Khách Bất Đắc Dĩ
Macon Leary thường xuyên du hý khắp châu Âu và nước Mỹ để viết sách cẩm nang du lịch. Với nhiều người, đó hẳn là công việc trong mơ. Tuy nhiên tất cả những gì Macon khuyên độc giả của anh lại nhằm mục đích: Làm thế nào để có được cảm giác như ở nhà trong mỗi chuyến đi. Bởi vì anh là một du khách bất đắc dĩ. Trên đường đời cũng vậy. Macon luôn luôn bình lặng đón nhận những đổi thay của cuộc sống, dù đó là niềm vui nho nhỏ hay mất mát lớn lao. Nhịp điệu đều đặn ngày thường đã trở thành sự yên ủi bất tận với anh. Cho đến một ngày kia, trong rạo rực của khu phố nghèo dưới nắng đầu xuân, giữa đống quần áo cũ quăng bừa bộn, nơi gian bếp ấm áp đượm mùi cà phê và bánh nướng của một người phụ nữ đầy sức sống, lần đầu tiên anh đưa ra một quyết định lớn cho cuộc đời của chính mình... Du khách bất đắc dĩ là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà văn Mỹ nổi tiếng Anne Tyler, được trao giải thưởng National Book Critics Circle Award và lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1985. Tác phẩm được dựng phim với diễn xuất của hai ngôi sao William Hurt và Geena Davis. *** Anne Tyler sinh ngày 25 tháng Mười năm 1941 tại Minneapolis, Minnesota. Mười chín tuổi bà tốt nghiệp Đại học Duke, và hoàn thành luận văn tốt nghiệp ngành Nga học tại Đại học Columbia (New York). Bà làm công việc thủ thư và sưu tầm danh mục một thời gian rồi chuyển tới Maryland. Năm 1963, Tyler kết hôn với Taghi Mohammad Modarressi, nhà tâm thần học đồng thời là tiểu thuyết gia người gốc Iran. Họ có hai con gái. Năm 1997, Modarressi qua đời. Tyler vẫn tiếp tục sống tại Baltimore (Maryland), vùng đất đã trở thành bối cảnh cho hầu hết tác phẩm của bà. Sự nghiệp văn học của Anne Tyler có nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên bà là người khiêm tốn, không khoa trương. Bà không tổ chức các chuyến đi tuyên truyền sách, không phỏng vấn trực tiếp mà chỉ trả lời email, cũng không xuất hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông. Cuốn tiểu thuyết thứ chín với nhan đề Dinner at the Homesick Restaurant, tác phẩm bản thân bà hài lòng nhất, đã lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1983. Cuốn tiểu thuyết thứ mười một của bà, Breathing Lessons, đã giành được giảithưởng Pulitzer năm 1989. The Accident Tourist (Du khách bất đắc dĩ) cũng là một cuốn sách hết sức thành công của Anne Tyler, tác phẩm được trao giải thưởng National Book Critics Circle Award và lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1985. Tác phẩm được dựng phim vào năm 1988 với diễn xuất của hai ngôi sao William Hurt và Geena Davis. *** Họ đã nghĩ sẽ ở lại bãi biển một tuần, nhưng chẳng ai cảm thấy hứng thú gì nên quyết định quay về sớm. Macon lái xe. Sarah ngồi ghế bên cạnh anh, đầu tựa vào của xe. Những mảng trời đầy mây lấp ló sau những lọn tóc nâu rối tung của cô. Macon mặc một bộ vest mùa hè chỉn chu, bộ anh vẫn thường mặc mỗi khi đi du lịch - anh luôn cho rằng so với đồ jean thì bộ này phù hợp cho du lịch hơn nhiều. Quần jean thì cứng, đường may thô mà lại có nhiều đinh rivê. Sarah mặc chiếc đầm hở vai bằng vải bông - loại thường mặc khi dạo biển. Trông họ giống như đi nghỉ về từ hai nơi hoàn toàn khác nhau. Sarah có làn da rám nắng, còn Macon thì không. Anh có dáng người cao lớn, đôi mắt màu xám, nước da trắng xanh, tóc hoe vàng được cắt tỉa gọn gàng. Và làn da anh mỏng đến độ rất dễ bắt nắng. Anh hầu như chẳng bao giờ bước chân ra ngoài vào buổi trưa. Xe vừa chạy lên đường cao tốc thì bầu trời chợt tối sầm lại và dăm ba hạt mưa khổng lồ quất lộp bộp vào kính chắn gió. Sarah ngồi bật dậy, “Mong sao trời không mưa.” Macon bảo, “Mưa ít ít thì chả sao.” Sarah trở lại tư thế cũ, nhưng mắt dán vào con đường trước mặt. Ấy là một buổi sáng thứ Năm. Trên đường không có nhiều xe cộ. Họ vượt qua một chiếc xe tải nhỏ không mui, rồi một chiếc xe tải cỡ lớn trên thùng chi chít miếng nhãn dính lòe loẹt nhưng cũng khá bắt mắt. Mưa quất vào kính chắn gió mỗi lúc một dày hơn, dữ dội hơn. Macon bật cần gạt nước. cần gạt nước đưa qua đưa lại với âm thanh đều đều soàn soạt soàn soạt và mưa đã bắt đầu tí tách xuống mui xe. Thi thoảng một cơn gió mạnh ào tới. Mưa ập xuống rạp cả những vạt cỏ úa dài hai bên đường. Mưa xiên thẳng xuống các bến thuyền, những trại gỗ, các cửa hàng nội thất giảm giá, mọi thư trông tối sầm mù mịt như thể mưa đã đến từ lâu lắm rồi. “Thấy đường chứ anh?” Sarah lên tiếng. Macon bảo, “Hẳn rồi, có gì đâu.” Xe họ đang ở ngay sau một xe moóc vói hai bánh sau xé nước mưa trên đường thành những vạt nước hình vòng cung. Macon đánh tay lái sang trái và vượt. Một màn nước dày đặc táp thẳng vào hông phải xe họ, rồi chiếc xe moóc tụt lại phía sau. Sarah bấu chặt một tay vào bảng đồng hồ xe. “Thật không hiểu anh làm thế nào thấy đường mà lái như vậy,” cô nói. “Có lẽ em nên đeo kính của em vào.” “Anh có thể nhìn đường nếu đeo kính của em hả?” “Không phải anh, em ấy,” Macon nói. “Em cứ để ý kính chắn gió thay vì nhìn đường.” Sarah tiếp tục bấu lấy bảng đồng hồ xe. Khuôn mặt cô khoáng đạt và trầm mặc khiến người ta có cảm giác cô đang điềm tĩnh, nhưng nếu nhìn gần một chút có thể thấy nét căng thẳng ánh lên nơi khóe mắt cô. Chiếc xe quây lấy họ như một căn phòng. Hơi thở họ phả ra làm mờ cả các cửa kính. Mới đây điều hòa chạy và đến giờ vẫn còn quanh quất chút hơi lạnh phả ra từ máy, thoáng cái không khí trong xe đã chuyển sang ngột ngạt khó chịu kèm theo mùi ẩm mốc. Xe phóng nhanh qua một đường hầm. Ngay lập tức không còn cảm thấy mưa nữa. Sarah chực thở phào nhẹ nhõm, nhưng cô chưa kịp thở phào thì tiếng mưa đã lại đập liên hồi lên mui xe. Cô ngoái nhìn khắc khoải về phía đường hầm. Macon tiếp tục nhấn ga về phía trước, tay đặt lơi trên vô lăng. “Anh có thấy cậu bé với chiếc mô tô không?” Sarah lên tiếng. Cô phải nói thật to, cố át đi cái âm thanh ầm ĩ dai dẳng ở bên ngoài. “Cậu bé nào?” “Cái cậu dựng xe bên dưới đường hầm ấy.” “Thật khùng điên mới đi mô tô vào lúc thời tiết như thế này,” Macon nói. “Mà chẳng cứ gì hôm nay, thật điên khùng mới đi mô tô. Em cứ hay để ý những thứ vặt vãnh.” “Ta có thể làm vậy mà,” Sarah bảo. “Dừng xe lại đợi mưa tạnh rồi hãy đi anh à.” “Sarah, nếu cảm thấy chúng mình sẽ gặp nguy hiểm dù chỉ một chút thôi, anh đã tấp vào vệ đường lâu rồi.” “Ồ, em không biết là anh đã có ý như thế đấy." Họ chạy ngang qua một cánh đồng, ở đây mưa dường như nặng hạt hơn, từng mảng từng mảng nước lớn ập xuống oằn những thân ngô, ngập cả những rãnh đất. Vô số vạt mưa khổng lồ tiếp tục quất thẳng vào tấm kính chắn gió. Macon chuyển cần gạt sang tốc độ nhanh hơn. Em không biết anh thật sự để ý nhiều đến điều đó,” Sarah bảo. “Phải chứ?” “Để ý?” “Có một ngày em đã nói với anh, em bảo, ‘Macon, Ethan đã bỏ chúng ta mà đi, thế nên có đôi khi em tự hỏi cuộc sống này còn ý nghĩa gì nữa không.’ Anh có nhớ đã trả lời ra sao không?” “À, anh chưa thể nhớ ngay được.” “Anh đã nói, ‘Em yêu, nói thật, dường như với anh chưa bao giờ có nhiều ý nghĩa để bắt đầu.’ Chính xác lời anh nói đấy.” “Ừm...” “Và anh thậm chí cũng không biết điều đó có gì không ổn.” “Không, chắc là anh không biết.” Xe chạy ngang qua một hàng dài ô tô đậu ngay bên đường, cửa kính mờ đục, mưa rơi trên mặt kính trơn bóng nảy lên những đốm nước trắng lóa. Có một chiếc xe hơi nghiêng như thể sắp đổ xuống dòng bùn đục ngầu bị khuấy tung đang chảy trong rãnh. Macon vẫn duy trì vận tốc cũ. “Chẳng bao giờ anh làm cho em cảm thấy được an ủi,” Sarah nói. “Em yêu, anh đang cố làm điều ấy mà.” “Anh chỉ sống theo cách anh từng sống trước đây. Công việc hàng ngày tầm thường, những lề lối, những thói quen nhàm chán, ngày nào cũng thế. Chẳng có chút gì khiến em có cảm giác được an ủi.” Chứ em nghĩ anh không cần được an ủi sao?” Macon hỏi. "Đâu phải một mình em, Sarah. Anh không hiểu sao em cứ cho rằng nỗi mất mát ấy chỉ có riêng em chịu.” “À, đôi lúc em nghĩ thế thật.” Họ im lặng một hồi. Một vũng nước rộng, có vẻ như thế, ở ngay giữa đường dội nước ngược lên gầm khiến xe đảo sang bên phải. Macon ghìm phanh, rồi chạy tiếp. “Cơn mưa này, chẳng hạn,” Sarah nói. “Anh biết nó khiến em hoảng sợ. Đợi một chút thì có hại gì cơ chứ? Lẽ ra anh nên tỏ ra quan tâm đến cảm giác của em. Lẽ ra anh nên nói với em rằng, có anh ở đây, bên cạnh em lúc này, chẳng còn gì phải lo lắng nữa.” Macon chăm chú nhìn qua kính chắn gió, nước mưa chảy thành dòng trên kính khiến nó trông như cẩm thạch. Anh lên tiếng, “Sarah, anh biết cách. Em biết là anh lái đúng lề lối mà.” “Dẹp anh và những cái cách chết tiệt của anh đi!” “Thêm nữa,” anh tiếp, “nếu em không tìm thấy ý nghĩa gì trong cuộc sống, anh chẳng thể hiểu nổi tại sao một cơn mưa lớn lại khiến em căng thẳng.” Sarah ngồi thụp xuống ghế. “Nhìn kìa!” anh nói. “Một cái nhà lưu động đã bị hất tung qua bãi đậu xe moóc kìa.” “Macon, em muốn ly hôn,” Sarah lên tiếng. Macon đạp phanh và liếc nhanh sang cô. Cái gì? Chiếc xe loạng choạng. Anh lại phải hướng mắt về phía trước. “Anh đã nói gì chứ? anh hỏi. “Em nói vậy là có ý gì?” “Chỉ là em không thể sống cùng anh được nữa.” Macon tiếp tục dõi mắt về con đường phía trước, nhưng mũi anh dường như buốt hơn và nhợt hơn, như thể toàn bộ da mặt anh bị kéo căng. Anh hắng giọng, “Em yêu. Nghe này. Một năm qua thật khó khăn. Chúng mình đã phải trải qua một quãng thời gian đầy khó khăn. Ai mất con cũng thấy như vậy; ai cũng nói như thế; ai cũng cho rằng chuyện đó khiến vợ chồng sống trong căng thẳng...” “Em muốn tìm chỗ ở riêng cho em ngay khi mình về đến nhà,” Sarah nói với anh. “Chỗ ở riêng cho em,” Macon lặp lại lời vợ, nhưng giọng anh quá nhẹ, mà mưa ngoài trời đập vào mui xe thì quá ầm ĩ, nên giống như anh chỉ mấp máy môi. “À, được. Nếu em thật sự muốn vậy.” “Anh có thể giữ lại ngôi nhà ấy. Anh không bao giờ thích chuyển đi mà.” Vì một lý do nào đó, đây chính là điều rốt cuộc khiến Sarah thấy sụp đổ. Cô vội quay đi. Macon bật đèn xi nhan bên phải lên. Anh rẽ vào ga Taxeco, đỗ lại bên dưới mái hiên, tắt máy. Anh xoa xoa lòng bàn tay vào hai đầu gối. Sarah dúi mình vào một góc ghế xe. Âm thanh duy nhất còn nghe thấy được là tiếng mưa rơi vỗ lên mái hiên ở phía xa bên trên đầu họ. Mời các bạn mượn đọc sách Du Khách Bất Đắc Dĩ của tác giả Anne Tyler & Dạ Thảo (dịch).