Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Khúc Mùa Thu - Danielle Steel

Thần tượng của hàng triệu độc giả nữ Danielle Steel rất “được lòng" phái đẹp toàn thế giới bởi những câu chuyện đầy tinh tế của bà khi viết về họ với sự thấu hiểu và đầy lòng trắc ẩn. Danielle Steel là một trong những nữ nhà văn thành công nhất và được xếp thứ tư trong danh sách 10 tác giả kiếm tiền giỏi nhất thế giới trong năm 2009-2010 của tạp chí Forbes với hàng trăm triệu USD. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York, sống thời thơ ấu ở Pháp, nơi bà bắt đầu viết thơ và truyện ngắn khi mới lên 9 tuổi. Đến nay, bà đã là tác giả của hơn 113 đầu sách với hơn 800 triệu cuốn được xuất bản, được dịch ra 28 thứ tiếng khác nhau ở tại 47 quốc gia và đã có 22 tác phẩm được chuyển thể thành phim. Là tác giả của đầu sách góp mặt trong danh sách bán chạy nhất của tờ New York Times trong 390 tuần liên tiếp, tài năng của Danielle Steel đã được công nhận Kỷ lục Guinness vào năm 2008. Ngoài viết tiểu thuyết, Steel còn là tác giả của 10 tập truyện tranh Max and Martha dành cho thiếu nhi và cũng là tác giả của Freddie - 4 cuốn sách về những tình huống khác nhau xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Danielle còn cho ra đời cuốn His Bright Light kể về cuộc sống cùng cái chết của chính con trai bà (Nicholas Trainna) và một tập thơ mang tên Love: Poems. Những tác phẩm của nữ nhà văn này luôn nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của hàng triệu độc giả, đặc biệt là những độc giả nữ xem bà như thần tượng và háo hức chờ đợi từng cuốn tiểu thuyết của bà. Là một phụ nữ tài sắc, nhạy cảm, một cây bút nhiệt tâm, giàu cảm xúc nhưng Daniel Steel lại gặp phải một cuộc đời “đầy giông bão”. Trải qua 5 lần kết hôn và làm mẹ của 9 đứa con, thấy được hết những mặt tốt xấu của cuộc sống hôn nhân và gia đình dường như khiến nhà văn thấu hiểu và mang nhiều lòng trắc ẩn hơn đối với cuộc đời của những người phụ nữ. Từ hình ảnh nhân vật Solange xinh đẹp buồn phiền vì hạnh phúc gia đình tan vỡ trong cuốn Những cánh hoa lạc loài (Kaleidoscope) đến hình ảnh một người phụ nữ mạnh mẽ, nghị lực dám vươn lên và chiến thắng nghịch cảnh để tồn tại như nhân vật Annabelle Worthington trong cuốn Người phụ nữ tốt bụng (A Good Woman); hay những suy nghĩ của nhân vật Jessie về tình yêu và niềm hạnh phúc vĩnh cửu trong cuốn Bây giờ và mãi mãi (Now And Forever) đến những nỗi đau xen lẫn vị ngọt của thứ tình yêu chân chính mà nhân vật India phải nếm trải trong cuộc hành trình tìm lại ước mơ và khát vọng sống của chính mình trong cuốn tiểu thuyết Nỗi đắng cay ngọt ngào (Bittersweet),… đều thể hiện ngòi bút tinh tế của Daniel Steel. Danielle Steel viết nhiều về phụ nữ. Bà viết về niềm vui hay nỗi đau, khát vọng hay tuyệt vọng, tất cả đều mãnh liệt và ám ảnh. Những người phụ nữ trong trang sách của bà thường ở trong tình huống éo le của cuộc sống, nhưng họ đều mạnh mẽ vươn lên và chiến thắng số phận. Nói về người phụ nữ lý tưởng, nữ nhà văn quan niệm rằng: “Cuộc sống là một trò chơi mở, mọi thứ đều có thể xảy ra. Đừng bao giờ chắc chắn điều gì đó về bạn hay bất kỳ ai khác. Hiểu và tin điều quý giá đối với trái tim bạn và nỗ lực để bảo vệ nó. Hạnh phúc không phải là vĩnh viễn. Có thể có những thời điểm khó khăn, nhưng đừng bao giờ để bạn bị những khó khăn của cuộc đời cuốn trôi đi.” *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Phòng triển lãm hội họa Suvery ở Paris được thiết lập trong một tòa nhà rất ấn tượng, một Hotel Particulier lịch sự của thế kỷ 18 tại khu Fauourg St. Honoré. Chỉ những nhà sưu tầm danh tiếng mới được mời đến đây. Họ đi qua bộ cửa bằng đồng khổng lồ để vào sân trong. Ngay trước sân là phòng triển lãm chính, phía bên trái là phòng làm việc của Simon de Suvery, chủ nhân của ngôi nhà. Và cánh nhà bên trái là phần con gái ông ta phụ thêm vào buổi triển lãm, ở đây trưng bày các sản phẩm đương đại. Phía sau nhà là một khu vườn đẹp rộng lớn có đầy những tác phẩm điêu khắc, chủ yếu là của Rodin. Simon de Suvery ở đây đã hơn 40 năm. Bố ông, cụ Antoine, là một trong những nhà suy tầm hội họa danh tiếng nhất châu Âu, và Simon là nhà nghiên cứu hội họa thời Phục hưng về các kiệt tác của nước Hà Lan trước khi ông khai trương phòng triển lãm này. Bây giờ ông được các viện bảo tàng khắp châu Âu hỏi ý kiến, được các nhà sư tầm tư nhân kính nể, và được hết thảy những người biết ông ngưỡng mộ, mặc dù họ thường sợ ông. Simon de Suvery có vóc dáng oai vệ, thân hình lực lưỡng, nét mặt nghiêm nghị, cặp mắt đen nhìn thấu tâm can người khác, Simon lấy vợ muộn, vì trong thời thanh niên ông mãi miết lo gầy dựng sự nghiệp, không có thời giờ dành cho những chuyện yêu đương. Đến năm 40 ông mới lấy con gái một nhà sưu tầm hội họa danh tiếng. Cuộc hôn nhân của ông thật hạnh phúc. Marjorie de Suvery vợ ông không bao giờ tham gia trực tiếp vào công việc của phòng triển lãm, phòng này được thiết lập trước khi Simon cưới bà. Bà rất say mê phòng triển lãm, ngưỡng mộ việc trưng bày của ông. Bà yêu ông tha thiết, quan tâm sâu sắc đến bất cứ điều gì ông làm. Marjorie là hoạ sĩ, nhưng bà cảm thấy không yên tâm khi đem triển lãm tác phẩm của mình. Bà vẽ phong cảnh và chân dung rất đẹp, nhưng thường là để tặng bạn bè. Thực ra, Simon thấy tranh bà đẹp nhưng không gây ấn tượng mạnh cho ông. Ông rát gắt gao trong việc đưa tác phẩm nào ra trưng bày. Ý chí của ông rất sắc đá, tinh thần cứng rắn như kim cương, hoàn toàn đặt vấn đề nghệ thuật lên trên hết, dù vậy dưới bộ mặt sắc đá ấy, luôn luôn ẩn giấu một tấm lòng vàng. Hay là Marjorie đã nói thế. Mặc dù không phải mọi người đều tin lời bà. Ông rất tốt với nhân viên, thành thật với khách hàng, và theo đuổi đến cùng bất cứ cái gì mà ông thấy cần có cho phòng triển lãm. Nhiều lúc ông bỏ ra nhiều năm trời để có được một bức tranh hay một tác phẩm điêu khắc có giá trị, nhưng ông không bao giờ ngồi chờ cho đến khi tác phẩm ấy đến tay mình. Ông đã theo đuổi vợ ông như thế cho đến khi ông cưới được bà. Và khi cưới bà, ông xem bà như báu vật – chỉ dành riêng cho ông. Chỉ khi nào ông cảm thấy cần giới thiệu bà với ai, ông mới đưa bà ra, nhất là để làm vui lòng khách hàng ... Mời các bạn đón đọc Tình Khúc Mùa Thu của tác giả Danielle Steel.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đi Tìm Alaska - John Green
Cuộc đời Miles Halter từng là một nỗi chán chường tột cùng, cho đến khi gặp Alaska Young. Xinh đẹp thông minh và rõ rang là quá bốc đỏng. Alaska đã kéo Miles vào thế giới mạo hiểm của cô và vô tình đánh cắp trái tim cậu. Đối với Miles, mọi thứ không bao giờ có thể quay lại như xưa. *** “Nếu nhân loại là mưa, tôi sẽ là một cơn mưa bụi còn cô ấy là một trận bão tố” Một chuyện tình hài hước nhưng sâu cay giữa anh cđi tìm.jpghàng Miles Halter và cô nàng nóng bỏng Alaska Young trong tác phẩm Đi tìm Alaska sẽ đưa bạn đi đến đủ các cung bậc cảm xúc của tình yêu, những góc nhìn khác của tuổi trẻ. Miles Halter – một anh chàng khá đỗi bình thường, nhưng lại có sở thích ghi nhớ lời trăn trối của những danh nhân. Cuộc đời cậu là những chuỗi ngày buồn tẻ, chán chường đến tột cùng khi suốt ngày quanh đi quẩn lại những công việc của gia đình cho đến khi cậu gặp được Alaska Young – một cô nàng xinh đẹp, thông minh, phóng khoáng và cũng có một chút bất cần. Cuộc đời Miles bắt đầu thay đổi khi Alaska kéo cậu vào cuộc mạo hiểm của chính cô, để rồi cậu bị đánh cắp trái tim lúc nào không hay. Những trò những trò mạo hiểm cùng lũ bạn, những trò nghịch phá trả đủa những đứa thù ghét chung của cả nhóm khiến mối quan hệ giữa Miles và Alaska khăng khít hơn. Nhưng cũng vì thế Miles đã nhận ra ở Alaska một điều rằng – vẻ bề ngoài thực không đúng với bản chất của cô. Bên ngoài vui vẻ là thế, bốc đồng là thế nhưng bên trong Alaska là một sự day dứt, đau đớn tột cùng khi nhớ về sự ra đi của người mẹ thương mến lúc còn bé. Khi ấy cô gần như bị tê liệt vì hoảng sợ khi thấy cảnh mẹ bị đột quỵ, cô đứng như trời trồng không biết phải làm gì tiếp theo, không nghĩ đến việc phải gọi 119. Nỗi đau này luôn khiến cô nghĩ rằng mình chính là nguyên nhân dẫn đến cái chết của mẹ. Miles được biết rằng đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa khi Alaska luôn luôn nhận mọi lỗi lầm từ những cái sai vặt vãnh hay thậm chí là cả những vi phạm nội quy của trường, mà đáng ra những đứa khác phải chịu. Chính vì vậy trong bài luận cuối khóa, Alaska đã viết về chủ đề “làm thế nào để thoát khỏi mê hồn trận”, cô muốn mình thoát khỏi những đau đớn cứ day dứt từng ngày mà cô đang tự buộc mình phải gánh lấy. Có lẽ cách thoát khỏi mê hồn trận không phải là giả vờ nó không tồn tại, không phải là dựng lên một thế giới nhỏ bé, vừa đủ cho mình chìm trong khóc khuất của mê cung vô tận và nghĩ rằng mình không phải đang lạc đường mà là đang ở nhà với cha mẹ mà chính là phải đối diện với thực tại, biết nhìn ra mình đang ở đâu trong thế giới vô định này. Đối diện với sự thật với lỗi lầm mình đang mắc phải chính là điều Alaska nên tìm thấy, nhưng không, với cô cách thoát ra khỏi mê hồn trận của bản thân đó chính là “nhanh và thẳng”. “Nhanh và thẳng” có lẽ là cách kết thúc cuộc đời mà Alaska đã chọn. Một cái chết nhanh chóng, không báo trước. Những điều Miles nhận ra về bản chất thật sự của Alaska có lẽ đã không thực sự đúng lúc. Chỉ khi cô ấy chết đi rồi Miles mới nhận ra, và tất cả thật sự đã quá muộn. “Tôi sẽ không bao giờ biết rõ về Alaska để hiểu được suy nghĩ của cô ấy trong phút cuối đời, không bao giờ biết có phải cô ấy đã cố tình bỏ chúng tôi lại hay không khiến tôi ngừng quan tâm, và tôi sẽ luôn yêu Alaska Young, cô hàng xóm mục ruỗng với trái tim mục ruỗng trong mình”. Với bạn – cách để thoát khỏi mê hồn trận là gì? Có lẽ chính là chấp nhận tha thứ, cho đi những lỗi lầm mà chúng ta từng mắc phải. Học cách tha thứ cho bản thân chính là học cách đứng dậy đi tiếp từ chính những sai lầm ấy, chứ không phải lấy chính những lỗi sai đã phạm mà đay nghiến bản thân từng ngày. Điều đó chỉ làm chúng ta đau khổ thêm, và đến một lúc nào đó chúng ta không chịu được sự đốn mạt của chính mình thì đó cũng chính là lúc chúng ta chọn cách tìm về với thế giới bên kia để tự giải thoát cho con người mình với ý nghĩ chết là hết. Cuộc tình giữa Miles và Alaska không thực sự đi đến cuối cùng nhưng nó thực sự đẹp. Chính sự bao dung, thấu hiểu những đau đớn, những dằn vặt mà Alaska đã gánh chịu cũng đủ chứng minh rằng cậu ấy yêu Alaska đến nhường nào. Các cậu có hi vọng mình sẽ có một chuyện tình đẹp hay không? Nếu có, chắc có lẽ chúng ta cũng phải học cách thấu hiểu nửa kia như anh chàng Miles này nhỉ. Yêu nhau không cần phải là hình mẫu lý tưởng mà người kia muốn, mà yêu nhau chính là sự thông cảm, thấu hiểu đấy mem ạ. Tớ hi vọng các cậu sẽ có một câu chuyện đẹp về tình yêu của mình, không cần giàu sang vật chất mà vẫn yêu chất ngất nha. Kimnganvo Mời các bạn đón đọc Đi Tìm Alaska của tác giả John Green.
Ai Đã Ăn Hết Những Cây Sing-A Ngày Ấy? - Park Wan-suh
“Chỉ ngày mai thôi là mình lại được trèo qua đồi, lội qua cánh đồng và băng qua con suối. Mình sẽ được hít thở thỏa thích thứ không khí hòa trộn từ mùi hương của cỏ cây, hoa rừng và phân xanh”. Đó là một trong những đoạn miêu tả những hoài vọng ấu thơ tươi đẹp nhất của tác giả trong cuốn “Ai đã ăn hết những cây sing-a ngày ấy ?”.  Không ồn ào, hào nhoáng như điện ảnh hay âm nhạc, văn chương Hàn Quốc, đặc biệt là dòng văn chương đương đại đến với độc giả Việt Nam khá e dè. Sau vài cuốn nổi bật gần đây, như: “Chơi Quiz - show”, “Hãy chăm sóc mẹ”, “Người ăn chay”… thì “Ai đã ăn hết những cây sing-a ngày ấy” là một món lạ, vừa mang hơi hướng tự truyện, vừa phảng phất nét lãng mạn hư cấu của văn chương. Câu chuyện được dẫn dắt bởi một cô bé lớn lên trong gia đình nhiều thế hệ tại thôn Parkjeok - nơi chôn giấu tất cả những gì tươi tắn, đẹp đẽ nhất của thời thơ ấu. Những trò chơi con trẻ, bè bạn, lối xóm… rồi cây và hoa, những đêm trăng hay những con đường mòn nhập nhoạng tối, những ngày rộn ràng lễ, tết… ở thôn Parkjeok trong ký ức của cô bé đẹp đến nao lòng, đến nỗi, việc cùng bạn bè lối xóm… đi nhà xí cũng trở thành trò chơi tuyệt vời khó quên. Mọi việc chỉ thay đổi khi người mẹ quyết định phải cho con cái học hành ở thủ đô Seoul - và rồi cũng rất nhanh chóng, câu chuyện chuyển sang một bối cảnh khác - nơi mà tất cả những gì thuộc về thôn Pakjeok tươi đẹp chỉ còn là hoài niệm. Hai anh em cùng mẹ liên tục chuyển nhà, chịu đựng cuộc sống khốn khó của người nhập cư, những ngày người mẹ phải nhận may đồ cho kỹ nữ - một việc được cho là nhục nhã thời kỳ đó - để kiếm tiền nuôi hai anh em ăn học… rồi thời tao loạn, đến họ tên cũng phải đổi sang tiếng Nhật, học ở trường Nhật, chữ Nhật, đọc sách “thánh hiền” của Nhật… Điều đặc biệt còn ở chỗ, câu chuyện của nhân vật của gia đình cũng chính là thân phận của cả đất nước Hàn Quốc trong suốt cả một chặng đường dài lịch sử, từ giai đoạn hòa bình yên ấm cho đến khi phải đi hết thời tao loạn này đến thời tao loạn khác. Từ thời kỳ đô hộ của Nhật Bản, cho đến những năm tháng diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai miền Nam - Bắc trên bán đảo Triều Tiên. Và như lời người dịch - câu chuyện không phải được đọc bằng từ, bằng chữ, mà là bằng cảm xúc, những cảm xúc xuyên suốt năm tháng, qua lăng kính của tác giả, khi còn là một cô bé con đến lúc trưởng thành, chứng kiến hết những bi kịch gia đình, bi kịch của đất nước và dân tộc. *** Park Wan-Suh (1931-2011) sinh ra tại huyện Gaepung, thuộc tỉnh Gyeonggi-do. Tốt nghiệp trường trung học nữ Sookmyung, từng nhập học tại khoa Văn trường Đại học Seoul năm 1950, song bà lại không thế tiếp tục sự nghiệp học hành, bởi đó cũng chính là thời gian cuộc chiến tranh hai miền Nam - Bắc Hàn bùng nổ. Đạt giải thưởng của tạp chí "Phụ nữ Đông Á" ở độ tuổi 40, với tiểu thuyết "Cây trụi lá", Park Wan-suh chính thức đăng đàn. Kế từ đó cho đến tận những năm của tuổi 80, bà vẫn chứng tỏ được độ sung sức và dẻo dai của một cây bút tài năng với nhiều tác phẩm có giá trị. Thế giới tác phẩm của Park Wan-suh thường tập trung vào các chủ đề lớn như bi kịch chiến tranh, cuộc sống của tầng lớp bình dân, vấn đề phụ nữ v.v...; song, mỗi tác phẩm lại biểu lộ một cách nhìn đầy cá tính rất đặc biệt và chứa đựng những cảm xúc chân thực đầy tính nhân văn, nên có thể nói thế giới tác phẩm của bà luôn thể hiện một cách đầy đủ và sâu sắc về cuộc sống xung quanh. Các giải thưởng mà nữ tác giả đã nhận được: Giải thưởng tác giả văn học Hàn Quốc (1980) Giải thưởng văn học Lee Sang (1981) Giải thưởng văn học Đại Hàn Dân Quốc (1990) Giải thưởng văn học Di San (1990) Giải đặc biệt của Hội văn hóa Trung ương (1993) Giải'thưởng văn học hiện đại (1993) Giải thưởng văn học Kim Dong-in (1994) Giải thưởng văn học Daesan    (1997) Giải thưởng văn học Manhe    (1999) Giải thưởng văn học Hwang Sun-won (2001) Các tác phẩm đã xuất bản: Tiểu thuyết: "Cây trụi lá", "Buổi chiêu liêu xiêu", "Mùa khát", "Năm hạn hán của đô thị", "Cái bóng của sự tham vọng", "Kiêu căng và mộng tưởng", "Người phụ nữ đứng đó", "Em vẫn còn đang mơ chăng?", "Không thể quên", "Ai đã ăn hết những cây Sing-a ngày ấy?", "Ngọn núi đó có thực ở đó chăng?", "Câu đùa đã lâu", v.v... Tập truyện ngắn: "Dạy cho biết xấu hố", "Mùa hè phản bội", "Cái cọc của mẹ", "Đi tìm bông hoa", "Bức hình minh họa của ngày tàn", "Hãy nói cho một lời", "Em quá cô đơn" v.v... Tùy bút: "Sự tán dương dành cho kẻ sau cùng", "Bản hợp xướng cho một người hát", "Phong cảnh chỉ có hai người nam nữ", "Niềm hy vọng được sống", "Sao tôi chỉ thấy bực với những điều nhỏ nhặt?", "Làm người lớn, làm con người", v.v... Mời các bạn đón đọc Ai Đã Ăn Hết Những Cây Sing-A Ngày Ấy? của tác giả Park Wan-suh.
Cô Gái Trong Cabin Số 10
“Agatha Christie gặp Cô gái trên tà Đáng sợ và bất an, đây là một cuốn sách khiến bạn phải hồi hộp” - Fabulous Magazine   Laura “Lo” Blacklock, từng là một nhà báo trẻ tuổi đầy tham vọng, nhưng giờ đã ngoài ba mươi, đầu óc phần nào rệu rã bởi thói nát rượu, mắc kẹt trong một công việc tầm thường tại một tạp chí du lịch. Cô may mắn được đi trên Aurora, một chiếc du thuyền hạng siêu sang, và cô những tưởng đấy sẽ là một cơ hội có một không hai giúp cô đổi đời và thăng tiến sự nghiệp nhờ việc được gặp gỡ những người có địa vị chót vót trong xã hội. Nhưng rốt cục thứ cô nhìn thấy lại là một phụ nữ bị ném xuống biển trong đêm tối. Và tất cả mọi người trên thuyền đều khẳng định rằng cô hoang tưởng, bởi người phụ nữ đó không hề tồn tại. Độc giả trinh thám sẽ nhận ra lối viết trinh thám của Ruth Ware chịu ảnh hưởng rất lớn từ Agatha Christie: những không gian kín chật chội và cô lập, nhân vật nữ bị cuốn vào một vụ án mạng bí ẩn, những tình tiết mô tả tâm lý hoảng loạn và sợ hãi một cách xuất sắc. Cô gái trong cabin số 10 chính là một tác phẩm nhuần nhuyễn đủ sức khơi dậy và khéo léo duy trì nỗi hồi hộp của người đọc qua hàng trăm trang sách. TÁC GIẢ: Ruth Ware (1977) bắt đầu sự nghiệp văn chương khá muộn. Trước khi trở thành nhà văn toàn thời gian, cô đã từng làm các công việc bồi bàn, bán sách và quảng cáo. Bắt đầu bằng các tác phẩm dành cho thiếu niên, nhưng cô chỉ thực sự thành công khi chuyển sang thể loại trinh thám ly kỳ, giật gân. Những tác phẩm trinh thám của Ruth Ware như Rừng sâu tăm tối và Cô gái trong cabin số 10 nhanh chóng trở thành Bestseller và nhận được sự yêu mến của độc giả. *** Ruth Ware/ Anh Thư dịch Sau 3 ngày nghiền ngẫm thì mình cũng lên được bờ cùng với Laura “Lo” Blacklock, nhân vật chính của chúng ta. Mình sẽ tập trung vào điểm mạnh và điểm yếu của cuốn sách và sẽ không spoil để tránh là các bạn mất hứng +Điểm mạnh: Trong cuốn sách này, Ruth Ware đưa người đọc ra ngoài biển khơi trên một chiếc du thuyền hạng sang, có thể nói đây là trinh thám trong phòng kín khi xuyên suốt từ đầu câu chuyện nhân vật chính luôn luôn ở trong tình trạng 1 mình trong 1 căn phòng nhỏ hẹp với tâm lý bất ổn đến đáng sợ,và 1 vụ án mạng đầy uẩn khúc và khó khăn hơn khi không một ai tin lời cô nói. Tình tiết xây dựng chặt chẽ, tâm lý nội tâm được miêu tả khá rõ nên đôi chỗ mình phải đặt bản thân mình vào đó mới cảm nhận được dù đôi chỗ hơi dài dòng. Các nhân vật xuất hiện hợp lý, và mỗi lần xuất hiện đều liên quan chặt chẽ đến mạch truyện Nhân vật chính được xây dựng tốt, trong hoàn cảnh nguy hiểm nhưng luôn luôn đặt niềm tin vào bản thân, quyết đoán và mạnh mẽ đến giây phút cuối cùng +Điểm trừ: Như đã nói ở trên thì càng về cuối thì lời kể bị dài dòng, tác giả lạm dụng miêu tả cảm xúc quá đến mức cảm thấy hơi oải khi đọc tiếp Có 1 2 chỗ sai chính tả :< (có lẽ là lỗi đánh máy) Mình mong chờ 1 sự bùng nổ về cuối nhưng có chút gì đó hơi hụt hẫng, plot twist tạm ổn chứ ko đến nỗi xuất sắc P/s: Sau hôm nay, chắc chắn 1 điều mình sẽ bước sang Rừng Sâu Tăm Tối khi đã đọc các reviews từ goodread của tác phẩm. Còn về Cô Gái Trong Cabin Số 10, rất thích hợp cho fan trinh thám, đặc biệt là các bạn theo ngành tâm lý học, và với thời tiết nóng nực và tình hình dịch căng thẳng như hiện nay thì cuốn sách này sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo nha các bạn Sr vì mình ko giỏi chụp choẹt lắm Hoang *** Trong giấc mơ, cô gái ấy đang bồng bềnh sâu, sâu mãi bên dưới những con sóng ầm ầm và tiếng rít của đám mòng biển, trong làn nước lạnh giá không ánh mặt trời của Bắc Hải. Tôi mơ thấy đôi mắt biết cười trắng dã và húp lên vì nước muối, thấy làn da trắng nhợt nhăn nheo, quần áo bị đá lởm chởm làm cho rách nát và đang tan dần thành từng mảnh vụn. Chỉ có mái tóc đen dài là còn lại, bồng bềnh trong nước như lá tảo biển đen, mắc vào vỏ trai vỏ sò và lưới đánh cá, bị sóng cuốn lên bờ biển thành nùi tựa dây thừng xác xơ; nằm rũ rượi ở nơi đó, tiếng ầm ầm của sóng xô bờ dội vào bãi sỏi lấp kín tai tôi. Tôi tỉnh dậy khiếp đảm ghê gớm. Mất một lúc tôi mới nhớ ra mình đang ở đâu, và phải một lúc lâu hơn mới nhận ra tiếng ầm ầm trong tai không phải là từ giấc mơ, mà là của hiện thực. Căn phòng tối om, với cùng một thứ sương mù ẩm ướt tôi cảm thấy trong mơ, và khi ngồi dậy, tôi nhận ra một luồng gió mát thổi lên má. Nghe như tiếng động phát ra từ phòng tắm. Tôi trèo xuống giường, hơi run rẩy. Cánh cửa đóng, nhưng khi bước tới chỗ nó, tôi nghe thấy tiếng rền vang lớn hơn, cùng tiếng tim tôi dập mạnh dần. Dồn hết can đảm vào hai bàn tay, tôi đẩy mở cánh cửa. Tiếng vòi sen lấp đầy căn phòng nhỏ khi tôi lần sờ tìm công tắc. Ánh sáng tràn khắp nhà tắm - và đó là lúc tôi nhìn thấy nó. Được viết ngang tấm gương phủ kín hơi nước, với những con chữ cao đến mười hai phân, là dòng chữ “ĐỪNG XÍA VÀO”. *** Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra có gì đó không ổn là khi tỉnh dậy trong bóng tối và nhận ra con mèo đang vỗ nhẹ vào mặt mình. Chắc là tôi đã quên đóng cửa nhà bếp tối qua. Thôi thì cũng đáng cái tội say xỉn về nhà. “Ra chỗ khác đi,” tôi rên rẩm. Delilah kêu meo meo và dụi đầu phản đối. Tôi cố vùi mặt vào gối nhưng nó cứ cạ vào tai tôi, thế là cuối cùng tôi trở mình và nhẫn tâm đẩy nó ra khỏi giường. Nó rơi thịch xuống sàn với một tiếng “méo” đầy bực bội, còn tôi thì kéo chăn lông vịt quá đầu. Nhưng ngay cả khi trùm kín chăn tôi vẫn có thể nghe thấy nó cào vào chân cửa khiến cửa kêu lạch cạch. Cửa đóng. Tôi ngồi dậy, tim đột nhiên đập thình thịch, còn Delilah nhảy lên giường với một tiếng ư ử hân hoan. Tôi siết nó vào ngực, không cho nó ngọ nguậy nữa, rồi lắng tai nghe. Hẳn là tôi đã quên đóng cửa nhà bếp, mà cũng có thể tôi chỉ đẩy cửa thôi chứ chưa đóng hẳn vào. Nhưng cửa phòng ngủ của tôi lại mở hướng ra ngoài - căn hộ của tôi thiết kế quái gở vậy đấy. Con mèo không thể tự đóng cửa khi ở trong phòng. Chắc chắn một ai đóđã đóng cửa. Tôi ngồi bất động, áp cơ thể ấm áp hổn hển của Delilah vào ngực mình và cố lắng tai nghe. Không có gì hết. Và rồi, với một cảm giác nhẹ nhõm, tôi nhận ra - hẳn là nó đã trốn dưới gầm giường rồi tôi đóng cửa phòng và vô tình nhốt nó lại khi về nhà. Dù không nhớ là mình đã đóng cửa, nhưng hẳn tôi đã vô thức làm vậy sau khi vào phòng. Phải thú thật là những gì xảy ra từ lúc ở ga Tube đều khá mờ nhạt trong ký ức tôi. Cơn đau đầu mon men xuất hiện trên đường về nhà, và giờ khi cơn hoảng loạn lui dần, tôi lại cảm thấy cơn đau ấy dâng lên dần dưới gáy. Tôi thực sự cần bỏ thói nhậu nhẹt giữa tuần thôi. Hồi đôi mươi thì chuyện đó chẳng vấn đề gì, nhưng giờ những cơn váng vất không còn chóng dứt như trước nữa. Delilah bắt đầu uốn éo bứt rứt, nghiến móng lên cẳng tay tôi, và tôi thả nó ra khi với tay lấy váy ngủ mặc lên người. Rồi tôi bế con mèo lên và sẵn sàng lẳng nó ra bếp. Khi tôi mở cửa phòng ngủ, có một người đàn ông đang đứng đó. Hỏi hắn ta trông thế nào cũng chẳng để làm gì, bởi tin tôi đi, tôi đã nói đi nói lại chuyện đó chừng hai mươi lăm lần với cảnh sát rồi. “Thậm chí quanh cổ tay hắn không hở ra tí da nào à?” - họ tra hỏi. Không, không, không và không. Hắn ta mặc áo nỉ có mũ, một cái khăn rằn quấn quanh mũi và miệng, phần còn lại đều chìm trong bóng tối. Ngoại trừ đôi tay. Hắn đeo găng tay cao su. Chính điều này khiến tôi sợ phát khiếp. Đôi găng đó nói, tao biết mình đang làm gì. Chúng nói, tao đã chuẩn bị trước khi đến đây. Chúng nói, có thể tao cần nhiều thứ hơn là tiền của mày. Chúng tôi đứng đó chừng một giây dài lê thê, mặt đối mặt, đôi mắt lóe sáng của hắn dán chặt vào mắt tôi. Hàng nghìn ý nghĩ rần rật trong tâm trí tôi: Điện thoại của tôi ở chỗ quái nào rồi? Tại sao tối qua tôi lại uống nhiều vậy? Nếu tỉnh táo thì hẳn tôi đã nghe tiếng hắn đột nhập. Ôi Chúa ơi, ước gì Judah ở đây. Và trên hết - đôi găng tay đó. Ôi Chúa ơi, đôi găng tay đó. Chúng trông thật chuyên nghiệp. Thật lạnh lùng. Tôi không nói. Tôi không nhúc nhích. Tôi chỉ đứng đó, chiếc váy ngủ rũ xuống và người run bần bật. Delilah vặn mình thoát khỏi đôi tay mềm oặt của tôi và chạy vọt qua hành lang để vào bếp. Làm ơn, tôi nghĩ. Làm ơn đừng hại tôi. Lạy Chúa, điện thoại của tôi đâu rồi? Rồi tôi thấy thứ gì đó trên tay gã đàn ông. Cái túi xách của tôi - cái túi xách Burberry mới của tôi, mặc dù giờ thì quan trọng gì nhãn hiệu nữa. Tôi chỉ còn nghĩ được một thứ duy nhất về cái túi xách đó. Điện thoại của tôi đang ở bên trong. Đôi mắt hắn nhíu lại theo một lối khiến tôi nghĩ có thể nào hắn đang cười bên dưới lớp khản quấn, và tôi cảm thấy máu trong người rút hết khỏi đầu và những ngón tay rồi dồn cả về trung tâm thân thể, sẵn sàng cho những gì sắp xảy đến, dù là chiến đấu hay bỏ chạy. Hắn ta tiến lên một bước. “Đừng...” tôi nói. Tôi muốn lời đó nghe như một mệnh lệnh, nhưng nó vang lên như một lời van xin, giọng tôi nhỏ, lí nhí và run rẩy thảm hại vì sợ hãi, “Đ...” Tôi còn chẳng nói hết được từ ấy. Hắn sập cánh cửa phòng ngủ đánh sầm, khiến nó đập vào má tôi. Suốt một lúc lâu tôi đứng đờ ra đấy, tay ôm mặt, hoảng loạn và đau đớn đến không nói lên lời. Những ngón tay lạnh buốt, nhưng có gì đó ấm và hơi ướt trên mặt tôi, và mất một lúc tôi mới nhận ra đấy là máu: đường gờ trên cửa đã cắt vào má tôi. Tôi muốn quay trở lại giường, vùi đầu dưới gối rồi khóc thật lâu. Nhưng một giọng nhỏ ngớ ngẩn trong đầu tôi cứ nói, Hắn vẫn ở ngoài đó. Nếu hắn quay lại thì sao? Nếu hắn quay lại tìm mày thì sao? Có tiếng động từ hành lang bên ngoài, có gì đó rơi xuống, và tôi cảm thấy một cơn sợ hãi đáng lẽ phải khiến tôi kích động nhưng thay vào đó lại làm tôi tê liệt. Đừng quay lại. Đừng quay lại. Tôi nhận ra mình đang nín thở, thế là tôi bắt mình thở ra một hơi dài và rùng mình, rồi tôi chầm chậm giơ tay về phía nắm cửa. Một tiếng động nữa vang lên ngoài hành lang - tiếng kính vỡ - khiến tôi xông tới chộp lấy nắm cửa rồi gồng mình, những ngón chân trần nhấn mạnh xuống sàn nhà cũ lỗ chỗ khe hở, sẵn sàng giữ chặt cửa càng lâu càng tốt. Tôi cúi xuống, khom mình, đầu gối chạm ngực, cố bịt những tiếng thổn thức bằng váy ngủ, lắng tai nghe tiếng hắn lục soát căn hộ, đồng thời cầu Chúa là Delilah đã chạy ra vườn, xa khỏi tầm với của hiểm nguy. Cuối cùng, sau một lúc lâu thật lâu, tôi nghe thấy tiếng cửa trước mở ra và đóng lại. Tôi ngồi đó, gục vào đầu gối khóc, không thể tin nổi hắn đã thực sự bỏ đi. Rằng hắn sẽ không quay lại để hại tôi. Đôi tay tôi tê dại và cứng đờ đau đớn, nhưng vẫn không dám bỏ tay nắm cửa ra. Tôi lại mường tượng thấy hai cánh tay lực lưỡng đeo găng tay cao su trắng. Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Hẳn là tôi sẽ ngồi đó hết đêm mà không dám nhúc nhích. Nhưng tôi nghe tiếng Delilah ở bên ngoài, kêu meo meo và cào vào mặt bên kia cánh cửa. “Delilah,” tôi kêu lên, giọng khàn khàn. Giọng nói run rẩy đến mức tôi cũng không nhận ra nữa. “Ôi, Delilah.” Qua cánh cửa, tôi nghe thấy nó rên rừ rừ, cái tiếng khò khè cò cử quen thuộc, và như thể một bùa phép yểm lên tôi đã bị phá bỏ. Tôi để những ngón tay bị chuột rút cứng đờ buông nắm cửa ra, đau đớn nắm duỗi chúng cho hết cơn co rút, rồi đứng dậy, cố gắng giữ vững đôi chân đang run lên bần bật, rồi vặn tay nắm. Nó xoay. Mà thực ra nó xoay quá dễ dàng, nhẹ tênh trong tay tôi, và then cửa không nhúc nhích lấy một phân. Hắn ta đã tháo khóa từ phía bên kia. Mẹ kiếp. Mẹ kiếp, mẹ kiếp, mẹ kiếp. Tôi bị nhốt rồi. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Trong Cabin Số 10 của tác giả Ruth Ware & Anh Thư (dịch).
Người Da Đen Của Piốt Đại Đế - Alexander Pushkin
A. X. Puskin bắt đầu viết tác phẩm Người Da Đen Của Piốt Đại Đế này ngày 31 tháng Bảy năm 1827, dự định sẽ dựng nên một tác phẩm lớn. Ông thực hiện công việc suốt những năm 1827 –1828, nhưng sau năm 1828 chúng ta không tìm thấy dấu hiệu gì chứng tỏ tác giả còn tiếp tục công việc đó nữa. Cơ sở cốt truyện Puskin lấy từ tiểu sử của một trong các ông tổ đằng mẹ của mình Abram Pêtơrôvích Ganiban (trong truyện là Ibraghim), dòng dõi ởAbixinia (nay là Êtiôpia), từ nhỏ đã ở với Piốt I, được Piốt nhận làm con nuôi và cử đi Pari để học thành kỹ sư quân sự. Người ta không biết rõ lai lịch chính xác của anh Ả Rập và các hoàn cảnh đẩy anh đến với Piốt I. Trong bản tiểu sử viết tay bằng tiếng Đức của Ganiban còn giữ trong lưu trữ gia đình, sự thực lịch sử không phải bao giờ cũng được giữ đúng và nhiều sự việc trong cuộc đời ông mang tính chất rõ ràng là truyền thuyết. Tuy nhiên nhiều điều trong cuộc đời của Ibraghim miêu tả trong truyện thực ra là do Puskin sáng tác ra (chẳng hạn câu chuyện tình duyên với bá tước phu nhân). Tác phẩm này không hoàn thành và mới được Puskin công bố một phần: trích đoạn chương bốn in trong tùng thư "Những bông hoa phượng bắc” năm 1829 và trích đoạn chương ba in trong “Báo văn học” vào năm 1930, số 13. Cả hai trích đoạn chung tên "Hai chương trích tiểu thuyết lịch sử” được đưa vào tập "Các truyện do Alếchxanđrơ Puskin xuất bản" (1834). Tất cả sáu chương tiểu thuyết mà Puskin đã viết xong hoàn toàn (trừ chương bảy, vừa mới bắt đầu), lần đầu tiên xuất hiện sau khi Puskin qua đời trong tạp chí “Người đương thời", (t. VI, 1837) dưới nhan đề “Người da đen của Piốt Đại đế” do ban biên tập đặt ra. Các đề từ Puskin chuẩn bị cho tiểu thuyết này còn chưa phân bố cho các chương (trừ đề từ cho chương VI), sau này các nhà biên tập đã áng chừng mà sắp xếp. 1 Đề từ cho toàn bộ tiểu thuyết, trích từ truyện dài bằng thơ "Ala" của nhà thơ Nga Nhikôlai Iadưkốp (1803-1846). – 8. 2 Đề từ cho chương I trích ở bài thơ bông đùa “Chuyến du lịch của N.N. đến Pari và Luân Đôn” (1803) của nhà thơ Nga Ivan Ivanôvích Đmitơriép (1760-1837). – 8 3 Ibraghim – Abram Pêtơrôvích Ganiban tằng tổ phụ về đằng mẹ của nhà thơ (1697/98 – 1781). Con trai một công tước xứ Abixinia, được đưa từ Cônxtantinôpôn về Pêterburg. Cônxtantinôpôn là nơi Ibraghim bị giữ làm con tin trong cuộc chiến tranh với quân Thổ. Nhận thấy chú bé có những khả năng xuất chúng, Piốt I đã đích thân dạy chú học tiếng Nga và toán học. Năm 1717 Ibraghim đi du học ở nước ngoài 5 năm. Trước khi Piốt I chết (1725) Ibraghim phục vụ trong trung đoàn Prêôbragienxki, phụ trách phòng đồ án và thiết kế của nhà vua, dạy cho thanh thiếu niên quý tộc học toán và kỹ thuật. *** Aleksandre Sergeyevich Pushkin (tiếng Nga: Алекса́ндр Серге́евич Пу́шкин; 1799 - 1837) là đại thi hào, nhà văn, nhà viết kịch nước Nga. Ông đã có những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại. Ông mất khi mới 37 tuổi nhưng đã để lại nhiều kiệt tác như "Evegny Onegin", "Người con gái viên đại úy", "Con đầm bích", "Boris Godunov"... Ông được coi là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn va tả thực nước Nga thế kỷ 19. Alêchxandrơ Tvarđôpxki viết về ông như sau: " Qua đời vào giữa lúc sức sống và sức sáng tạo đang độ phát triển dồi dào nhất, Puskin, đối với học trò và những người kế tục sau ông – những bậc kiệt xuất của nền văn học Nga vĩ đại do ông đặt nền móng, kể cả chính Lép Tônxtôi, – đối với tất cả, dù họ có sống lâu hơn ông bao nhiêu năm tháng đi nữa, ông vẫn mãi mãi là người anh cả thông minh nhất...  Di sản của Puskin khó mà khảo cứu hết được – đó không phải là một đỉnh núi đơn độc, dù rất hùng vĩ, mà là cả một dãy núi oai nghiêm, với những đỉnh, những nhánh trùng trùng điệp điệp. " Mời các bạn đón đọc Người Da Đen Của Piốt Đại Đế của tác giả Alexander Pushkin.