Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nếu Còn Có Ngày Mai

Được đông đảo fans trinh thám đánh giá là một trong những tác phẩm cuốn hút nhất của Sidney Sheldon, tiểu thuyết Nếu còn có ngày mai không chỉ lôi cuốn trong cách Sidney tạo dựng cốt truyện gay cấn mà hơn cả là cách ông xây dựng hết sức thành công sự phát triển cá tính, tâm lý của hàng loạt nhân vật. Lòng tin và sự công bằng vốn có tồn tại trong cuộc đời? Có thể nói, thế giới trong tiểu thuyết Nếu còn có ngày mai của Sidney Sheldon là một thế giới của lừa lọc. Một thế giới nghiệt ngã bóp nghẹt tâm hồn con người, khiến sự tin tưởng và tình yêu như chẳng còn vị trí tồn tại. Tưởng chừng nơi đấy con người sống với nhau bằng những điều dối trá, vì thế mà lòng tin hoặc sự công bằng bỗng trở thành những thứ xa xỉ, một giấc mơ xa vời hay một thứ ảo vọng của những ai chưa trải qua khắc nghiệt cuộc đời. Một thế giới như thế, một cuộc đời như vậy, thực sẵn sàng để nhấn chìm mọi điều tốt đẹp nguyên bản, ban sơ nhất. Mà Tracy Whitney chính là minh chứng rõ nét nhất cho việc số phận đã xoay vần và biến đổi con người ra sao. Tracy Whitney, một cô gái trẻ, tuổi ngoài 20, xinh đẹp, thông minh. Nhưng bởi cuộc sống cô dường như quá êm đềm, tương lai cô đã quá rộng mở với một gia đình hạnh phúc, một tình yêu trọn vẹn, cùng viễn cảnh về một đám cưới sẽ diễn ra trong tương lai nên Tracy ngây thơ, đơn thuần vô cùng trong cách cô đánh giá, nhìn nhận cuộc sống và con người. Chính vì thế, khi biến cố liên tiếp xảy đến cuộc đời cô gái: Công ty gia đình phá sản, mẹ cô tự vẫn vì bị lừa đảo, Tracy đã đánh giá mọi chuyện hết sức đơn giản cũng như quá đỗi tin vào chính mình cùng “tính thiện” nơi con người. Cô tự đưa bản thân vào hang cọp, cũng không có bất cứ một sự phòng vệ nào trước bất cứ ai tỏ ra thông cảm với hoàn cảnh của cô, đồng thời Tracy còn vô cùng chậm chạp trong việc thích ứng với hoàn cảnh. Do vậy, không thể phủ nhận một điều, khoảng 100 trang đầu tiên của Nếu còn có ngày mai, tình tiết truyện trôi qua không chỉ chậm mà còn tạo một sự ức chế không nhỏ với độc giả. Ngoài vì Tracy cứ mãi ngây thơ, dẫu đã trưởng thành hơn qua sóng gió thì vẫn mang ám ảnh của một thời ngây dại còn bởi tác giả như gieo vào lòng độc giả một nỗi hồ nghi, về tính thiện của con người, về hai chữ công lý giữa cuộc đời. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, dẫu thế nào thì sự phát triển tâm lý của Tracy Whitney vẫn cực kỳ hợp lý và cũng thể hiện bút lực khá cao tay của Sidney Sheldon trong cách ông xây dựng cá tính con người. Vì là người ngoài cuộc nên độc giả dễ dàng dùng lăng kính của người thứ ba để phán xét nhân vật trên trang sách. Song hãy thử đặt bản thân vào vị trí của Tracy và tự hỏi, nếu ở hoàn cảnh như thế, ta có đù bình tĩnh, sáng suốt để suy xét mọi trường hợp không? Việc Tracy cứ mãi thơ dại, bám víu vào hết sợi dây này đến sợi dây cứu mạng khác, hết hi vọng này tới hi vọng kia là tâm lý bình thường của con người khi đi vào bước đường cùng; cho tới lúc, cô gái bé nhỏ đầy kiêu hãnh đủ chín chắn nhận ra, để sinh tồn giữa cuộc đời khắc nghiệt thì không thể dựa vào ai khác, cũng chẳng thể tin tưởng ai hoàn toàn ngoài tin vào chính bản thân mình. Và trong thế giới của Nếu còn có ngày mai, đâu chỉ Tracy là con người duy nhất sự tin tưởng bị chà đạp. Chính mẹ cô, vì lòng tin đặt sai vị trí mà dẫn đến cái chết bi thương. Hay một kẻ lừa đảo thuần thục như Jeff Stevens mà rồi cũng từng đặt tình yêu vào nhầm người. Thậm chí sau này, khi Tracy chính thức trưởng thành và trở thành một chuyên gia lừa đảo, thì cái cô đánh vào chính là nhục dục, lòng tham, sự thiếu tin tưởng con người dành cho nhau,… Ngỡ rằng cả thế giới ở Nếu còn có ngày mai, ai cũng là Joe Romano, ai cũng là tên luật sự Perry Pope, ai cũng giống tên bội bạc Charles… Sidney Sheldon như đã bóc trần cách người ta sống với nhau bằng lừa lọc và tồn tại bằng sự dối trá. Cuộc đời là chuyến phiêu lưu và dạng Robinhood thời hiện đại. Nếu đủ kiên nhẫn trải qua khoảng 100 trang đầu để thấy được sự trưởng thành của Tracy cả về nhận thức lẫn hành động thì càng về sau, Nếu còn có ngày mai lại càng thêm cuốn hút trong cách Sidney Sheldon tạo dựng lên cuộc đời Tracy như một cuộc phiêu lưu lớn; để ta thực sự nhận ra, cô gái nhỏ đó đã trưởng thành thật rồi. Đó là cách Tracy phiêu lưu trong nhà ngục để sinh tồn trước những mánh khỏe của những nữ phạm nhân sẵn sàng xâu xé cô khi có cơ hội; cách cô tìm hướng đi cho bản thân để thoát khỏi ngục tù. Đó là cách cô gái ngây thơ ngày nào, trả thù từng kẻ đã hãm hại cô bằng cách cho chúng tự xâu xé lẫn nhau. Và đó là cách Tracy, từ vẫy vùng tìm lối đi để tái hòa nhập cộng đồng khi là một người đã có tiền án đến là một chuyên gia lừa đảo khiến cho cả Interpool cũng phải vào cuộc. Một Tracy sợ hãi, rụt rè, nhút nhát, yếu đuối đã hoàn toàn được thay thế bằng một cô gái tự tin, thông minh và đầy sáng tạo. Cuộc sống ngày xưa đã thực sự lùi xa, để giờ đây, Tracy chỉ sống trong thực tại, sống với cuộc phiêu lưu đầy kích thích của riêng cô. “Nếu còn có ngày mai”, mong ước từng là của Tracy quá khứ, có lẽ cũng là lời thầm nhủ của cô hiện tại. Nhưng tâm thế của hai con người ấy đã khác nhau. Trước kia, Tracy sống hôm nay mà không biết tới ngày mai bởi cuộc đời cô không do cô quyết định. Nhưng hôm nay, vận mệnh cô là do cô định đoạt, nên nếu còn có ngày mai, cô vẫn sẽ tiếp tục sống và tiếp tục sống với niềm nhiệt huyết của bàn thân. Nếu coi cả cuốn tiểu thuyết là một màn kịch lừa đảo lớn thì cuộc phiêu lưu của Tracy chính là các lớp, hồi của vở kịch đó. Có trưởng thành, có vấp ngã, có căng thằng, mệt mỏi, nhưng đến cuối cùng, chiến thắng vẫn mìm cười với ai nỗ lực và hiểu rõ quy tắc, luật chơi như Tracy. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn giản là trần thuật lại mánh khóe lừa đảo dựa trên những chuyến phiêu lưu gay cấn nghẹt thở thì Nếu còn có ngày mai đã không cuốn hút độc giả và được đánh giá là tác phẩm thành công nhất của Sidney Sheldon. Mà vượt qua tất cả, Sidney đã tạo dựng thành công hình tượng một Robinhood thời hiện đại, đặc biệt hình tượng đấy lại gắn với một người phụ nữ xinh đẹp, thông minh, tự cường. Tracy khiến cả Interpol vào cuộc, biến toàn bộ cảnh sát hình sự tại các nước thành trò hề. Nhưng cô có nguyên tắc hoạt động của cô: Chỉ cướp của người giàu, chỉ cướp của những kẻ làm giàu phi pháp, chỉ lấy của những kẻ giàu có coi rẻ nhân phẩm của những người xung quanh… Vì thế mà các phi vụ của Tracy không chỉ kích thích hơn mà còn gây dựng lên trong lòng độc giả một Tracy, như nữ anh hùng dân gian tồn tại thời hiện đại. Tracy và Jeff, hai con người ở cùng một thế giới, đã từng là đối thủ nhưng chính họ cũng lại là những con người có trái tim thấu hiểu và đồng cảm với nhau hơn bất cứ ai. Trải qua đủ đau thương, nếm trải đủ lọc lừa của xã hội, không ai hiểu sự thối nát của lòng người nhiều hơn hai người đó; cũng không ai hiểu mặt trái của sự giàu sang, bóng tối trong trái tim con người hơn hai người họ; đồng thời cũng chẳng ai rõ, kẻ giàu đã làm giàu trên xương máu người nghèo như thế nào hơn chàng trai, cô gái ấy. Vì thế chăng, xét về lý, hành động lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của cả hai là hành động đáng bị lên án, đáng phải nhận hình phạt thích đáng của tòa án thế giới. Song xét về tình, thì hành động ấy lại cũng là chính nghĩa: một dạng chính nghĩa dân gian nhằm trừng phạt những kẻ mà hệ thống luật pháp, kẽ hở pháp luật đã chẳng thể trừng trị được. Cho nên, để nhận định rạch ròi hình tượng như những Robinhood thời hiện đại của Tracy hay Jeff là đúng hay sai, là bất nhân hay chính đạo thì có lẽ, thật khó để phân định rạch ròi. Chỉ biết rằng, hai con người đó đã sống trọn từng phút, từng giây của thì hiện tại với cùng suy nghĩ “nếu còn có ngày mai”. Nếu còn có ngày mai – Tiểu thuyết cuốn hút nhưng ngập tràn lỗ hổng. Không thể phủ nhận với Nếu còn có ngày mai, Sidney Sheldon đã thực sự cao tay trong việc khắc họa lên một Tracy Whitney dần dần trưởng thành qua từng giai đoạn hay tái hiện từng bước tiến nhỏ trong mối quan hệ giữa Tracy với Jeff. Khác hoàn toàn với nhiều tiểu thuyết khác của ông: nhân vật có thể yêu nhau ở đoạn văn thứ nhất, tới đoạn văn thứ ba cả hai đã làm đám cưới? Vì thế chuyện tình giữa Tracy với Jeff dễ tạo cho độc giả sự đồng điệu cũng như thấy rằng đó là một câu chuyện tình yêu chân thật. Cũng không thể phủ nhận, Nếu còn có ngày mai là một tác phẩm hấp dẫn trong cách Sidney Sheldon xây dựng cốt truyện, tạo dựng thắt mở tình tiết đầy gay cấn. Sự đan xen giữa quá khứ với hiện tại trong câu chuyện của từng cá nhân hay mỗi phi vụ nhân vật lại có một cách thức khác nhau để đạt được mục đích cuối cùng; tất cả tạo lên sự phức hợp nhằm duy trì độ căng cho toàn bộ cuốn sách. Tuy nhiên, dẫu là sáng tác được đông đảo độc giả yêu thích thì Nếu còn có ngày mai vẫn là một tác phẩm với ngập tràn lỗ hổng. Cách Tracy được trả tự do quá dễ dàng, cách cô quá đỗi thuận lợi trong việc trả thù mà những kẻ thù của cô lại có thể dễ dàng mắc bẫy không mảy may nghi ngờ một bên thứ ba nhúng tay, cách cô biến toàn bộ hệ thống cảnh sát thành trò hề hay thành những kẻ lố bịch kiêu căng ngu ngốc… Toàn bộ yếu tố đó, nếu độc giả đủ sáng suốt, tình táo để không bị cuốn theo mạch truyện do Sidney Sheldon dẫn dắt thì đều không khó để nhận thấy. Nhưng dù thế nào, Nếu còn có ngày mai vẫn là một cuốn sách mang đậm chất Sidney Sheldon trong cách kể, cách tả, đặc biệt là cách ông tạo dựng cấu trúc cốt truyện như những miếng ghép hình lộn xộn rồi tới cuối cùng, tất cả đều quy về một mối để tạo lên bức tranh tổng thể hoàn chỉnh. Chẳng vậy mà United Press International đã nhận định về Nếu còn có ngày mai cùng tracy Whitney: “Một nhân vật hấp dẫn nhất và một cốt truyện giàu trí tưởng tượng nhất.” *** Tôi vừa mới kết thúc những dòng chữ cuối cùng của tác phẩm “Nếu còn có ngày mai”, một tiểu thuyết Mỹ của nhà văn Sidney Sheldon. Đọc xong, máu review trong tôi lại trỗi dậy. Một người anh – bạn của chị gái đã khuyên tôi nên đọc tác phẩm này. Và thú thực tôi bắt đầu với nó chỉ vì tò mò và tính hiếu thắng của mình. Nếu tóm gọn một câu nói về tác phẩm này, thì tôi nghĩ tôi sẽ chọn từ “Lôi cuốn”. Những câu chuyện của nữ nhân vật chính – Tracy trong tác phẩm khiến tôi không thể rời mắt. Hơn 1000 trang sách, thoạt đầu tiên tôi thấy hơi nản vì quá dài, đã có lúc đọc mờ cả mắt vậy mà tôi vẫn muốn đọc tiếp. Ở bài review lần này, tôi chỉ muốn nói về cảm xúc của mình đối với tác phẩm. Bạn muốn biết cụ thể diễn biến như thế nào, hãy tự mình trải nghiệm nhé. Có một sự thật là bắt đầu đọc những chương đầu tiên, tôi cảm giác tác phẩm không dành cho tôi. Nó có quá nhiều éo le, quá nhiều bi kịch trong xã hội mà đối với cuộc sống của một con người bình thường như tôi thì không thể nào tưởng tượng ra được. Xã hội mà Tracy trải qua được sắp đặt theo ý thích của một người, người đó chính là kẻ đổi trắng thay đen, đã gây ra cái chết cho mẹ cô. Cũng chính con người đó, đã khiến cô phải vào tù với mức án mười lăm năm tù giam về tội ăn cắp và mưu sát. Tuy câu truyện này không còn xa lạ gì trên màn ảnh, nhưng cách miêu tả của tác giả khiến tôi cảm thấy nó chân thực và đầy nghiệt ngã. Tôi nhớ đến câu nói mà người anh giới thiệu sách đã nói với tôi: Nghe tên những cuốn sách tôi thích biết chắc rằng tôi trẻ hơn anh rất nhiều. Tôi đoán bởi vì những cuốn sách tôi đọc hầu như đều có nội dung nhẹ nhàng, vui vẻ. Tôi tự hỏi có phải tôi quá non nớt trước những nghịch lý của cuộc đời? Có phải còn có những góc khác của xã hội mà tôi chưa bao giờ biết tới? Tôi theo con chữ, vừa sợ hãi, vừa tò mò khám phá. Phải nói rằng, bằng ngần tuổi này, cũng đã đọc qua rất nhiều truyện ngôn tình, nhưng chưa tác phẩm nào tôi cảm thấy ngượng ngùng và ái ngại trước những cảnh miêu tả về sự quyến rũ của cơ thể. Có lúc tôi không muốn tiếp tục đọc nữa. Nhưng tôi lại nghĩ, một người con trai giới thiệu với tôi về tác phẩm này, chắc hẳn nó không quá thô tục. Và hơn nữa, bản tính hiếu thắng trong tôi không muốn bỏ giở giữa chừng khi đã nhận lời sẽ đọc cuốn sách. Cảnh nhà tù nữ là một trong những cảnh ám ảnh tôi nhất trong toàn bộ câu truyện. Tôi có thể vừa đọc vừa tưởng tượng ra cảnh tượng tăm tối đấy. Tôi cảm thấy như mình đang đứng sau những trận ẩu đả của bọn tù nhân, chứng kiến những cuộc làm tình phi giới tính, những tiếng kêu thét trong đêm tối… Tất cả đều chân thực. Tác giả đã không giấu giếm mà phơi bày toàn bộ một mặt trái của xã hội. Chưa bao giờ tôi được biết đến cuộc sống mà để dành được địa vị trong thế giới không có đàn ông, những con sói cái đầu đàn phải mang trong mình trọng trách của một con đực, hành xử như những con đực thực thụ. Bọn quản tù cũng chẳng có gì tốt đẹp: đánh đập tù nhân, nhận hối lộ, bảo kê, ban đêm lẻn vào phòng giam làm tình với nữ tù. Một xã hội mà đâu đâu cũng bắt gặp người ta chửi thề đĩ loãn, chó đẻ, chó cái… Tôi thấy sợ hãi cái xã hội ấy. Như tôi đã nói, những cảnh này không thiếu trong các tác phẩm khác, hoặc trong phim ảnh. Nhưng chắc hẳn nó chưa đủ sâu sắc và chân thực như những gì tác giả miêu tả. Nó khiến tôi bị ám ảnh và không muốn đọc tiếp nữa. Càng tột cùng hơn khi Tracy được phóng thích ra ngoài, cái bản án từng ăn cắp và ám sát luôn khiến cô bị xua đuổi. Dù cô chỉ muốn làm một người bình thường, với công việc hết sức bình thường, nhưng tất cả đều là không thể. Xã hội ghẻ lạnh cô, người ta không tin tưởng một người có tiền án mười lăm năm tù như cô, đáng buồn hơn đó không phải là lỗi do cô gây ra. Không một lời văn nào của tôi đủ để tôi bày tỏ lòng mến mộ thành công của việc miêu tả đoạn văn đó. Tôi sẽ cảm ơn tác giả rất nhiều nếu như ông cho kết thúc câu truyện ở đấy. Ông để cho nhân vật của tôi dù chịu nhiều tủi hờn nhưng vẫn thanh thanh cao cao sống tiếp với đời. Khi đọc đoạn miêu tả nội tâm Tracy khi đứng trước vụ trộm đầu tiên, tôi đã thầm cầu mong Sidney Sheldon đừng để nhân vật của tôi trở thành một kẻ trộm, trở nên thay đổi trước đồng tiền. À không, phải là rất nhiều tiền. Tracy đã hy vọng trộm xong vụ đầu tiên ấy, cô sẽ được sống một cuộc sống thanh bình và lương thiện. Nhưng đời đâu dễ dàng như thế. Tôi trở nên ghét cô gái của tôi. Và lại có ý định dừng đọc tác phẩm. Tôi chỉ muốn giữ lại hình ảnh đẹp của một Tracy thông minh, kiên cường, phải chịu nhiều uất ức. Một Tracy dù bị cả xã hội quay lưng nhưng vẫn thanh cao và nghị lực sống tiếp. Nhưng cô ấy đã bị cám dỗ và trở thành một tên siêu trộm. Và chính diễn biến tâm lý ấy khiến tôi nghĩ đến thế giới thực. Con người có thể giữ được đạo đức của mình trước đồng tiền, nhưng rất nhiều tiền thì sao? Đứng trước rất nhiều tiền, liệu rằng người ta có bỏ qua cái nguyên tắc sống mà bấy lâu nay người ta “không bao giờ” vi phạm hay không? Nếu đặt bản thân mình vào tình huống đó, tôi cũng sợ bản thân không đủ bản lĩnh chiến thắng cám dỗ. Ý của tôi ở đây là rất nhiều tiền ( nhiều hơn những gì mà chúng ta có thể tưởng tượng mình có thể có). Và vậy là tôi lại tiếp tục cuộc hành trình chứng kiến việc trở thành một siêu trộm đẳng cấp của Tracy. Tracy là một người phụ nữ không những xinh đẹp mà còn rất thông minh. Tuy nhiên, điều đó lại khiến tôi thấy đám cảnh sát quốc tế trở nên vô dụng và khờ khạo. Có một số vụ trộm, tôi đoán trước được cách thức mà Tracy vận dụng. Ví dụ như vụ chơi cờ với hai kỳ thủ, vụ đánh lừa tiền giả, và vụ trộm kim cương cuối cùng. Mặc dù vậy, tôi vẫn hồi hộp theo dõi diễn biến của từng câu chuyện. Quả thật là những kế hoạch hết sức táo bạo và thông minh, khiến cho người đọc cảm thấy bất ngờ và đầy phấn kích. Tracy không còn là một cô gái yếu ớt, mỏng manh như trước nữa. Tâm lý của tôi cũng không còn sợ hãi tác phẩm như xưa. Có một điều vớt vát cảm xúc của tôi, những vụ trộm xảy ra đều nhằm vào những kẻ giàu có, hống hách. Vụ trộm không khiến cuộc sống của ai trở nên khổ sở hay rơi vào vực thẳm. Và dường như, cô luôn muốn đặt mình vào trong những hoàn cảnh thử thách cao, càng khó khăn cô càng kích động. Tracy luôn muốn vượt quá giới hạn của bản thân. Tôi thích tính cách ấy. Mỗi một vụ trộm, Tracy lại biến hóa khôn lường, hóa thân thành những nhân vật khác nhau, khi là một nữ tước kiêu sa, khi thì trở thành một góa phụ trẻ, một phụ nữ mang bầu có chồng làm nghề đào vàng ở Châu Phi… Tôi biết việc này có thể xảy ra, nhưng tôi cảm thấy không thỏa mãn với ngờ vực của mình đối với cảnh sát quốc tế. Vì sao họ có thể khờ khạo đến vậy? Vì sao họ có trong tay tất cả hình ảnh của những nhân vật Tracy hóa thân vào mà vẫn có thể kết luận đó là một băng đảng gồm nhiều phụ nữ? Nực cười thật! Giọng nói có thể giả, khuôn mặt có thể trát những lớp phấn dày cộp, nhưng làn da, dáng người thì không thể nào mà thay đổi được. Bỏ qua những tiểu tiết nhỏ nhặt có thể làm hỏng mạch cảm xúc của tác phẩm. Tôi vẫn cảm thấy “Nếu còn có ngày mai” là một tiểu thuyết đáng để đọc trong đời. Và theo cảm nhận của tôi, tác phẩm phản ánh chính xác xã hội, nội tâm của con người. Một Tracy thông minh, giàu có vẫn không thể nào ngừng mơ ước về một bờ vai nương tựa. Đó là ước mơ của tất cả mọi cô gái. Cô khát khao được yêu thương, được sống như một người phụ nữ bình thường. Có nhiều người tiếc nuối với kết thúc mở của câu truyện. Riêng tôi, tôi cảm thấy may mắn. Tôi không muốn nhân vật của mình phải chịu thêm một thử thách nào nữa. Tôi không muốn Tracy vừa mới tìm được tình yêu, niềm tin vào cuộc sống lại phải đối mặt với nguy hiểm. Tôi không muốn cô ấy phải nghĩ đến cảnh nhà tù rùng rợn một lần nào nữa. Nếu có thể, hãy để cô ấy sống cuộc sống bình yên, tôn trọng luật pháp và bên người mà cô ấy thương yêu. Hãy để họ trở lại là những công dân chân chính. Mặc dù việc họ trộm cũng chỉ để thử thách bản thân và quyên góp cho những hoàn cảnh éo le, tôi vẫn không muốn có thêm bất kỳ nỗi đau nào nữa. Đánh giá điểm 8/10 Mời các bạn đón đọc Nếu Còn Có Ngày Mai của tác giả Sidney Sheldon.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Range - Hiểu Sâu Biết Rộng Kiểu Gì Cũng Thắng
Trong cuốn sách Hiểu sâu, Biết rộng – Kiểu gì cũng thắng , tác giả David Epstein cung cấp cho bạn đọc các câu chuyện thành công của nhiều nhân vật xuất sắc thế giới, bao trùm rộng khắp các lĩnh vực mà David Epstein đã dày công nghiên cứu, như: công nghệ, thể thao, âm nhạc, hội họa, khoa học… Từ các câu chuyện dẫn chứng ấy, tác giả phân tích kỹ lưỡng, kết hợp việc sử dụng số liệu nghiên cứu… dẫn dắt người đọc phải tư duy sâu sắc về vấn đề: người được đào tạo bài bản từ nhỏ chỉ trong một lĩnh vực chuyên môn hóa hẹp và người có tầm hiểu biết rộng, đa dạng, con đường nào sẽ thành công hơn?             Bằng những phân tích sắc sảo của mình, sách Hiểu sâu, Biết rộng – Kiểu gì cũng thắng của David Epstein giúp chúng ta được mở rộng cách tư duy, với cách nghĩ mới: chuyên môn hóa không có gì sai, ai cũng cần chuyên môn hóa ở một mức độ này hay mức độ khác, vào lúc này hoặc lúc khác. Tuy nhiên, tư duy đa chiều, các thử nghiệm cá nhân, với tầm hiểu biết rộng, sẽ giúp chúng ta khai thác được đa dạng nguồn sức mạnh trí tuệ của bản thân. Hiểu sâu, Biết rộng – Kiểu gì cũng thắng mang tới cho bạn đọc, đặc biệt là những ai liên quan đến việc định hướng, phát triển con người, như: các bậc cha mẹ, giáo viên, quản trị nhân sự, chủ doanh nghiệp, hay các bạn trẻ đang băn khoăn về hướng phát triển của sự nghiệp và cuộc đời… có thêm nhiều góc nhìn mới mẻ, hiện đại, như: - Thực chất, các vấn đề, các lĩnh vực trong thế giới hiện nay đều có liên quan với nhau, dù ít hay nhiều. Vì vậy, ngoài việc tập trung phát triển chuyên môn, con người cần mở rộng, học hỏi các lĩnh vực khác. Đừng tự bó buộc mình vào một lĩnh vực, đừng phát triển kỹ năng tốt nhất của bản thân. NHẬN XÉT CỦA CHUYÊN GIA VÀ TỔ CHỨC UY TÍN “Trong một thế giới ngày càng bị ảnh hưởng về chuyên môn hóa, tác giả khoa học xuất sắc David Epstein đã thuyết phục bạn rằng tương lai có thể thuộc về những người có hiểu biết rộng về nhiều lĩnh vực. Đây là một cuốn sách hấp dẫn và sau khi khép lại trang cuối cùng, bạn sẽ trăn trở về bước đi tiếp theo trong sự nghiệp cũng như cách nuôi dạy con cái.” – Adam Grant, tác giả  sách Give and Take, Originals. “Tôi muốn tặng cuốn sách này cho tất cả những đứa trẻ đang bị bắt học violin nhưng cái chúng thật sự muốn là học đánh trống: cho những lập trình viên đang ấp ủ ước mơ trở thành nhà tâm lý học; cho bất kỳ ai mong muốn con người vươn lên mạnh mẽ trong kỷ nguyên robot. Cuốn HIỂU SÂU, BIẾT RỘNG – Kiểu gì cũng thắng sẽ mang đến cho bạn nhiều niềm hy vọng và kinh ngạc. Đây là cẩm nang sinh tồn ở thế kỷ 21.” – Amanda Ripley, tác giả sách The Smartest Kids in the World. HIỂU SÂU, BIẾT RỘNG – Kiểu gì cũng thắng buộc bạn phải suy nghĩ lại về bản chất của việc học tập, tư duy, tồn tại và xem xét lại những hiểu biết của mình về phương pháp giáo dục và các con đường sự nghiệp tối ưu, về phương pháp và lý do thành công của những người thành đạt nhất trên thế giới. Đây là một trong những cuốn sách xuất sắc và khiến tôi trăn trở nhiều nhất từ trước đến nay.” – Maria Konnikova, tác giả của Mastermind and The Confidence Game. *** Ana Lê Mỹ Nga Giám đốc Quốc gia Tập đoàn ABS Group – Tổ chức Kiểm định ngành Năng lượng và Hàng hải của USA Nhà sáng lập Hermes Management – Cố vấn và đầu tư thiên thần các dự án khởi nghiệp công nghệ cao Tác giả sách: Chat với startup – Từ ý tưởng đến gọi vốn thành công Ngày nay chúng ta không phủ nhận việc bồi dưỡng năng khiếu và đào tạo chuyên sâu từ sớm đối với một số lĩnh vực, và chúng ta thường cho là cần thiết, điều này giúp trẻ được làm quen với một kỹ năng đặc biệt ngay từ khi còn rất nhỏ và trở nên thuần thục khi trưởng thành ở một lĩnh vực nào đó, thậm chí trở thành thiên tài – như trường hợp của gôn thủ số 1 thế giới Tiger Woods đề cập trong cuốn sách này. Nhưng bên cạnh đó, thông qua các phân tích sắc sảo của David Epstein, ông đồng thời cũng hướng người đọc suy ngẫm sâu sắc về con đường thành công theo một mô típ khác – như cách mà tay vợt nổi tiếng Roger Federer hay các nhân vật nổi tiếng khác đã trải qua, như là minh chứng trả lời cho câu hỏi “liệu chỉ tập trung chuyên môn hóa ở một lĩnh vực có thật sự tốt nhất trong hành trình đi tìm thành công?” Trong khi Tiger tham gia vào quá trình “luyện tập có chủ đích”, với nguyên tắc 10.000 giờ nghiêm ngặt ngay từ thuở nhỏ, thì Roger lại được khởi đầu với nhiều lĩnh vực, đón nhận nhiều trải nghiệm trong quá trình phát triển, và cuối cùng anh cũng đã trở thành tay vợt vĩ đại của thế giới. Hay như câu chuyện về danh họa Van Gogh, ông chỉ thực sự bước vào hội họa lúc đã chạm tuổi 27, sau khi trải qua các công việc khác nhau, nhưng rồi ông lại là một trong những họa sĩ lừng danh, ảnh hưởng lớn tới lịch sử nghệ thuật phương Tây với nhiều bức tranh giá trị nhất, có tầm ảnh hưởng trên thế giới cho đến ngày nay. Trải dài suốt cuốn sách là những dẫn chứng về các câu chuyện thành công của nhiều nhân vật xuất sắc ở nhiều lĩnh vực mà David Epstein đã dày công nghiên cứu như: công nghệ, thể thao, âm nhạc, hội họa, khoa học... Thông qua những câu chuyện minh họa ấy, ông lật lại các tình huống, đào sâu phân tích, kết hợp dẫn chứng các số liệu nghiên cứu, từ đó đưa ra các kết luận và gợi ý cho bạn đọc. Phát ngôn của giáo sư Jeannette Wing được David đề cập ở Chương 2, về khái niệm “Tư duy điện toán mở rộng” như là con dao đa năng Thụy Sỹ, một dụng cụ với một lưỡi dao có chức năng chính nhưng đi kèm với các dụng cụ đa năng khác hỗ trợ chúng ta trong mọi nhu cầu khác nhau hàng ngày. Hay nói cách khác, nguyên lý con dao Thụy Sĩ rất hữu dụng trong “tư duy điện toán”, giúp chúng ta vận dụng tính trừu tượng và phân tích khi xử lý một nhiệm vụ hay vấn đề phức tạp trong học tập và làm việc kể cả trong nghiên cứu khoa học. David Epstein cũng đã chia sẻ ở Chương 12 rằng: chuyên môn hóa không có gì sai, ai cũng cần chuyên môn hóa ở một mức độ này hay mức độ khác, vào lúc này hoặc lúc khác. Tuy nhiên, tư duy đa chiều, các thử nghiệm cá nhân, mở rộng tầm hiểu biết ở nhiều lĩnh vực sẽ giúp chúng ta khai thác được đa dạng nguồn sức mạnh trí tuệ của bản thân, giúp chúng ta xử lý nhiều vấn đề, hóa giải những vấn đề phức tạp, biến chúng trở nên đơn giản. Chúng ta cũng nghiệm ra rằng, khi một thử thách được lặp đi lặp lại nhiều lần, nó sẽ dần trở nên dễ kiểm soát và tự động hóa sau đó; và phần thưởng sẽ chỉ dành cho những ai chỉ thu nhận kiến thức ở mức khái niệm từ một vấn đề nhưng biết cách vận dụng linh hoạt nó cho nhiều vấn đề khác nhau, thậm chí ngày càng phức tạp và mới mẻ, nhất là trong một thế giới luôn tồn tại sự thay đổi, công nghệ phát triển thần tốc hàng ngày hàng giờ như hiện nay. Nếu lâu nay chúng ta đã quá quen thuộc với quan niệm “Một nghề cho chín hơn chín mười nghề,” hay “Một nghề thì sống, đống nghề thì chết,” thì bạn sẽ thay đổi suy nghĩ, như được khai mở khi đọc xong cuốn sách này. Hiểu sâu, Biết rộng – Kiểu gì cũng thắng mang tới cho bạn đọc, đặc biệt là những ai đang quan tâm đến định hướng nghề nghiệp, phát triển con người như các bậc cha mẹ, giáo viên, các nhà quản trị nhân sự, các chủ doanh nghiệp, hay các bạn trẻ đang băn khoăn suy nghĩ về hướng phát triển của sự nghiệp và cuộc đời mình, có thêm nhiều góc nhìn mới mẻ, hiện đại. Trong một thế giới luôn vận động, biến đổi không ngừng, đòi hỏi mỗi chúng ta cần linh hoạt thích nghi, mở rộng sự hiểu biết, đa dạng hóa các kỹ năng, nhanh nhạy nắm bắt mọi cơ hội, thay vì chỉ tập trung chỉ duy nhất một lĩnh vực chuyên môn. Nếu chúng ta không có một góc nhìn đa chiều trên một vấn đề, chúng ta dường như không thể phân tích sự tương quan, tương tác của chúng trong một không gian có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng dẫn đến hệ quả, từ đó đưa ra một giải pháp mang tính khoa học và hữu dụng. Tôi tin rằng, Hiểu sâu, Biết rộng – Kiểu gì cũng thắng của David Epstein sẽ gợi ý cho bạn một lối tư duy rộng mở để nắm chắc thành công.   “Trước mắt chàng bao giờ cũng là toàn bộ cái điền trang chứ không phải một bộ phận riêng biệt nào của nó… Và cách quản lý của Nikolai đã mang lại những kết quả vô cùng tốt đẹp.” - Lev Tolstoy, Chiến tranh và hòa bình (War and Peace) “Không công cụ nào có quyền lực tuyệt đối. Không chiếc chìa khóa vạn năng nào có thể mở được tất cả các cánh cửa.” - Arnold Toynbee, Nghiên cứu về lịch sử (A Study of History) *** THEO ROGER HAY THEO TIGER? Chúng ta hãy bắt đầu bằng một vài câu chuyện trong giới thể thao. Câu chuyện đầu tiên, có lẽ bạn đã biết. Người bố đoán được có gì đó khác biệt ở con trai mình. Khi mới sáu tháng tuổi, cậu bé đã có thể đứng thăng bằng trên lòng bàn tay bố khi ông đi từ đầu nhà đến cuối nhà. Lúc bảy tháng tuổi, ông tặng con trai một cây gậy đánh gôn và cậu bé kéo nó đi khắp nơi trên chiếc xe tập đi hình tròn. 10 tháng tuổi, cậu trèo từ trên ghế cao xuống, lăn tròn cây gậy đánh gôn đã được cắt ngắn cho vừa tầm và bắt chước động tác đánh bóng mà cậu nhìn thấy trong gara. Vì chưa thể trò chuyện cùng con trai, người bố đã vẽ hình để bày cho cậu cách cầm gậy. “Rất khó diễn tả cách đẩy bóng ra làm sao khi thằng bé còn chưa nói được”, người bố chia sẻ. Khi lên hai – độ tuổi mà Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa bệnh tật liệt kê mốc phát triển thể chất chỉ là “đá bóng” và “đứng trên đầu ngón chân” – thì cậu bé đã xuất hiện trên kênh truyền hình quốc gia và dùng một cây gậy cao ngang vai để đánh bóng bay qua tay chơi bậc thầy được bao người kính trọng – Bob Hope. Cùng năm đó, cậu tham gia giải đấu đầu tiên trong đời mình và đứng đầu bảng thi dành cho lứa tuổi dưới 10. Không để lãng phí thời gian. Ở tuổi lên ba, cậu đã biết cách đánh bóng ra khỏi “bẫy cát”1, và người bố đã vạch ra con đường tương lai cho cậu. Ông biết con trai mình đã được lựa chọn cho bộ môn này và nhiệm vụ của ông là hướng dẫn cậu bé. Hãy thử tưởng tượng xem: Nếu ngay khi còn bé, bạn đã biết chắc về sứ mệnh sau này của mình, có lẽ bạn cũng sẽ bắt đầu chuẩn bị từ năm ba tuổi về cách ứng xử với giới truyền thông đang thèm khát tin tức. Người bố này cũng thế, ông đóng vai phóng viên, đặt câu hỏi cho con mình, dạy cậu cách trả lời ngắn gọn, không bao giờ nói nhiều hơn những gì được hỏi. Năm đó, cậu bé đánh 48 lượt, 11 lượt cho mỗi lỗ trên sân gôn chín lỗ ở California. 1. Sand trap hoặc bunker: vùng lõm trên sân đánh gôn, được dọn sạch cỏ và đất và thay thế bằng cát trắng. (ND) Khi lên bốn, bố cậu đưa cậu đến sân gôn vào lúc chín giờ sáng và đón cậu về tám tiếng sau đó, đôi khi còn rinh thêm khoản tiền thắng cược từ những kẻ ngố dám nghi ngờ về khả năng của con mình. Lên tám tuổi, lần đầu tiên cậu bé chiến thắng bố mình. Người bố không phiền lòng chút nào, vì ông tin con mình có tài năng phi thường và chính ông đã được số phận cắt đặt để giúp đỡ cậu. Bản thân ông cũng là một vận động viên xuất sắc đã vượt qua rất nhiều khó khăn nghiệt ngã. Ông chơi bóng chày ở trường đại học và là cầu thủ da màu duy nhất trong đội bóng. Ông hiểu rõ tâm lý con người, có kỷ luật cao. Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành xã hội học, ông đã phục vụ trong lực lượng tinh nhuệ Mũ nồi xanh1 ở Việt Nam, sau đó giảng dạy về chiến tranh tâm lý cho các sĩ quan tương lai. Ông biết rằng mình chưa dành những điều tốt nhất cho ba đứa con của cuộc hôn nhân đầu nhưng bây giờ, ông đã được trao cơ hội thứ hai với đứa con thứ tư. Tất cả đều diễn ra theo đúng kế hoạch. 1. Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc, với sự tham gia của nhiều quốc gia thành viên. Cậu bé nổi tiếng trước cả khi đến học tại Stanford và bố cậu đã sớm công khai khẳng định giá trị của con mình. Ông khăng khăng rằng con trai sẽ có sức ảnh hưởng lớn hơn cả Nelson Mandela, Gandhi, thậm chí cả Đức Phật. “Nó có lượng người hâm mộ lớn hơn bất kỳ ai trong số họ”, ông ấy nói. “Nó là cầu nối giữa phương Đông và phương Tây. Không có giới hạn vì nó đã được dẫn đường chỉ lối. Tôi không biết chính xác điều này sẽ diễn ra như thế nào. Nhưng nó chính là “NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN”. _____ Câu chuyện thứ hai, có lẽ bạn cũng biết, dù thoạt đầu không nhận ra. Mẹ cậu là một huấn luyện viên nhưng bà chưa bao giờ huấn luyện con mình. Khi bắt đầu tập đi, cậu chỉ lăng xăng đá bóng xung quanh mẹ. Hồi còn nhỏ, cậu chơi bóng quần với bố mình vào ngày Chủ nhật. Cậu mê trượt tuyết, đấu vật, bơi lội và trượt ván. Cậu cũng chơi bóng rổ, bóng ném, quần vợt, bóng bàn, cầu lông qua hàng rào của hàng xóm và chơi bóng đá ở trường. Sau này, cậu thừa nhận là việc chơi nhiều môn thể thao đã giúp bản thân phát triển thể lực và khả năng phối hợp tay-mắt. Cậu nhận ra chơi môn thể thao nào cũng chẳng quan trọng, miễn là được chơi với bóng. “Tôi luôn hứng thú hơn với các môn thể thao liên quan tới bóng,” cậu nhớ lại. Cậu là một đứa trẻ thích vận động. Bố mẹ cậu không ao ước con mình sẽ trở thành vận động viên. “Chúng tôi không có kế hoạch A hay kế hoạch B gì cả,” mẹ cậu chia sẻ. Ông bà khuyến khích cậu con trai thử sức ở nhiều môn. Thật ra, điều này rất quan trọng. Theo lời người mẹ thì cậu sẽ “không thể chịu nổi” nếu phải ngồi một chỗ quá lâu. Mặc dù dạy quần vợt nhưng mẹ cậu bé quyết định không huấn luyện con mình. “Thế nào nó cũng làm tôi bực mình,” bà nói. “Lúc nào nó cũng thử những cú đánh rất lạ và chắc chắn không bao giờ đánh trả quả bóng một cách bình thường. Điều đó thật chẳng vui chút nào đối với một bà mẹ.” Một cây bút của tờ Sports Illustrated quan sát thấy rằng thay vì đẩy con mình ra, bố mẹ cậu bé thường cố gắng kéo con mình lại. Khi gần đến tuổi thiếu niên, cậu bắt đầu hứng thú với quần vợt, và “nếu họ có động viên con trai chút ít thì cũng chỉ là nhắc nhở chơi vừa phải thôi, đừng có ‘lậm’ quá đấy”. Khi cậu thi đấu, mẹ cậu thường đi lang thang tán gẫu với bạn bè. Bố thì chỉ có một nguyên tắc duy nhất là: “Không được chơi ăn gian.” Cậu đã không chơi ăn gian và bắt đầu trở nên vượt trội. Mời các bạn đón đọc Range - Hiểu Sâu Biết Rộng Kiểu Gì Cũng Thắng của tác giả David Epstein.
Đứa Con Gái Hoang Đàng
"Tiếp nối cuốn tiểu thuyết nổi tiếng HAI SỐ PHẬN về William Kane và Abel Rosnovski, Đứa con gái hoang đàng là một câu chuyện được chắp bút của thế hệ tiếp theo. Câu chuyện đầy trớ trêu, trắc trở nhưng đầy nhân văn. TƯƠNG LAI CỦA CÔ LÀ THAM VỌNG Florentyna Rosnovski – con gái Abel – với một ý chí sắt đá di truyền từ người cha, cô quyết tâm theo đuổi mục tiêu và lý tưởng của mình, đó là trở thành nữ Tổng thống Mỹ đầu tiên. Tuy thế, cuộc đời của cô, cũng giống như người cha của mình, cũng gặp vô cùng nhiều trắc trở mà người phụ nữ tham vọng này nhất định phải vượt qua. Với hình tượng được lấy cảm hứng từ những nhân cách lớn như “bà đầm thép” Margaret Thatcher, Golda Meer, hay Indira Gandhi, Jeffrey Archer đã trả lời cho độc giả những câu hỏi về cuộc đời và số phận, về ý nghĩa của cuộc sống này. Vượt qua cơn giông tố, vươn đến những vì sao chính là thông điệp mà cây bút tài ba muốn truyền tải." 3. Ý NGHĨA NHAN ĐỀ Tiểu thuyết Đứa con gái hoang đàng được dịch từ tên gốc The Prodigal Daughter. Cái tên này được Jeffrey Archer đặt theo một Dụ ngôn trong Kinh Thánh – The Prodigal Son. Ở Việt Nam, tích này được biết đến với cái tên Người con hoang đàng, hay Đứa con hoang đàng trở về. Cách đặt tên này tạo ra một sự kết nối chặt chẽ vói phần 1 – Hai số phận. Tiểu thuyết Hai số phận với tên gốc là Kane and Abel – vốn dĩ cũng là một biến thể của Cain and Abel – một Dụ ngôn khác trong Kinh Thánh. 4. SỨC HẤP DẪN CỦA CUỐN SÁCH ĐỐI VỚI ĐỘC GIẢ “Một trong mười nhà văn có tài kể chuyện hay nhất thế giới.” – Los Angeles Times “Mạch truyện nhanh và lôi cuốn.” – Library Journal “Một bậc thầy trong việc pha trộn các yếu tố quyền lực, chính trị và danh vọng vào trong một cuốn tiểu thuyết.” – Entertainment Weekly “Một người kể chuyện ở đẳng cấp của Alexander Dumas, với kỹ năng vượt trội, Archer khiến độc giả không ngừng tự hỏi điều gì đang đón đợi phía trước.” – Washington Post *** THÔNG TIN VỀ SERIES “KANE VÀ ABEL” Series về Kane và Abel của Jeffrey Archer xoay quanh những nhân vật của gia đình Rosnovski và Kane. Phần một với nhan đề Kane and Abel được xuất bản với tên tiếng Việt Hai số phận đã và đang là một cuốn sách bán chạy bậc nhất tại Việt Nam. Cuốn sách nói về William Kane và Abel Rosnovski – hai người anh em nhưng lại sinh ra ở hai hoàn cảnh trái ngược; cuốn sách là một câu chuyện cảm động về hành trình đi lên và vượt qua những thử thách. Đứa con gái hoang đàng (The Prodigal Daughter) tiếp nối câu chuyện giữa hai gia đình, có thể nói đây là phần hậu truyện của Hai số phận, cuốn sách nói về cuộc đời và số phận của thế hệ thứ hai, cụ thể hơn là Florentyna Rosnovski – con gái của Abel, khi gia đình Rosnovski đã định cư tại Mỹ. Và cuối cùng là phần 3 – Bà Tổng Thống Trước Họng Súng (Shall we tell the President), tiếp nối câu chuyện dang dở của Đứa con gái hoàng đàng. *** Jeffrey Archer (sinh ngày 15/4/1940) là một tiểu thuyết gia người Anh, cựu chính trị gia và là người tiên phong trong làng tiểu thuyết Anh Quốc. Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, ông ghi dấu ấn với rất nhiều tiểu thuyết nổi tiếng, có thể kể đến : Hai số phận, Đứa con gái hoang đàng và các cuốn cùng series Biên niên Clifton: Chỉ thời gian có thể cất lời, Tội lỗi của người cha, Bí mật sâu kín nhất… Ông được mệnh danh là một trong những nhà văn có tài kể chuyện hay nhất. Tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Kẻ Mạo Danh - Jeffrey Archer Ấn Tượng Sai Lầm - Jeffrey Archer Quyền Lực Thứ Tư - Jeffrey Archer Bước Ngoặt Trong Câu Chuyện - Jeffrey Archer Hai số phận - Jeffrey Archer Luật Giang Hồ - Jeffrey Archer Điều Lệnh Thứ 11 - Jeffrey Archer Vượt Lên Hàng Đầu - Jeffrey Archer Chỉ Thời Gian Có Thể Cất Lời Tội Lỗi Của Người Cha Không Hơn Một Xu Không Kém Một Xu Bà Tổng Thống Trước Họng Súng ... *** Nếu đã yêu thích “Hai Số Phận”, chắc chắn bạn cũng sẽ yêu thích phần hai mang tên “Đứa Con Gái Hoang Đàng”. Bởi nó cũng cuốn hút và hấp dẫn như tập truyện trước đó, cũng như có cả những sắc thái riêng. Hai Số Phận là một trong những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng và được yêu thích của nhà văn Jeffrey Archer. Câu chuyện xoay quanh William Kane và Abel Rosnovski, hai con người có cùng ngày tháng năm sinh, nhưng xuất phát điểm khác nhau. Nếu William Kane sinh trưởng trong sự giàu có, thì Abel Rosnovski lớn lên trong nghèo khổ. Cuộc đời của họ vô tình mà đan xen lẫn nhau, với bao hạnh phúc và thăng trầm, oán thù và lòng biết ơn, mang đến bao cảm xúc mạnh mẽ dội thẳng vào người đọc cho đến tận trang cuối cùng. Đứa Con Gái Hoang Đàng được biết đến là phần tiếp theo của Hai Số Phận. Nhân vật chính của phần này là Florentyna Rosnovski, cô con gái của Abel Rosnovski. Cũng giống như cha mình, cuộc đời của Florentyna trải qua nhiều thử thách, thăng trầm trắc rở, ngay cả khi tuổi thơ của cô ấm no hơn của cha mình. Có lẽ đó là số phận của những người sẽ leo lên tới đỉnh, ai cũng phải trèo qua rất nhiều trở ngại để đến được đích. Được nói đến là phần tiếp theo của Hai Số Phận, Đứa Con Gái Hoang Đàng gợi nhớ đến tinh thần của cuốn tiểu thuyết trước đó, đặc biệt là qua sự kế thừa giấc mơ và ý chí của Florentyna từ người cha Abel. Nhưng ngay cả khi chưa đọc Hai Số Phận, người đọc cũng sẽ nắm được cốt truyện của Đứa Con Gái Hoang Đàng. Jeffrey Archer không hổ danh là một trong những nhà văn có tài kể chuyện hay nhất. Kết cấu cuốn tiểu thuyết chặt chẽ, đầy ắp các tình tiết, những chi tiết nhắc lại và những chi tiết mở rộng được sắp xếp mượt mà để độc giả mải cuốn theo chúng. Và rồi khi đang mải mê như thế, Jeffrey Archer sẽ tạo ra những cú rẽ khiến người ta không thể không sửng sốt, bất ngờ, cảm thán nhưng không thể ngừng đọc. Theo dõi từng trang Đứa Con Gái Hoang Đàng là theo dõi từng bước chân của Florentyna Rosnovski. Khi Florentyna còn bé, cô từng có một chú gấu bông Franklin D. Roosevelt - cựu Tổng thống Mỹ, bập bẹ từ đầu tiên là “Tổng tống” (“Tổng thống” - cô bé lúc này vẫn phát âm chưa rõ). Và rồi khi lớn lên, cô muốn trở thành chú gấu bông đó, trở thành một Tổng thống. Jeffrey Archer dành nhiều bút lực để miêu tả cuộc đời của Florentyna từ lúc mới sinh ra, trở thành thiếu nữ, cho đến ngày cô theo đuổi giấc mơ trở thành Tổng thống. Vẫn là một nhân vật giàu ý chí và nghị lực, nhưng khác với câu chuyện của cha mình là Abel, câu chuyện của Florentyna mang dáng dấp của nữ quyền - nơi giới tính không quyết định ý chí và sức mạnh của người mang một giấc mơ lớn. Ở Florentyna, độc giả thấy hình ảnh của những “bà đầm thép” như Margaret Thatcher - cựu Thủ tướng Anh hay Indira Gandhi - cựu Thủ tướng Ấn Độ… nhưng đồng thời vẫn khá gần gũi. Không chỉ có những giấc mơ lớn cùng ý chí đáng ngưỡng mộ, Đứa Con Gái Hoang Đàng còn mang đến những mảnh ghép khác của cuộc đời Florentyna. Đó là mái ấm gia đình đầy vững chãi - dù không thể tránh được những lúc bất đồng, đó là sự thấu hiểu và chắp cánh của một cô gia sư tận tụy. Và tình bạn - bắt đầu từ tranh đua, rồi trở thành sẻ chia hỗ trợ; dĩ nhiên không thể thiếu tình yêu - điều đã khiến Florentyna thăng hoa, thậm chí đau khổ, nhưng chưa bao giờ ngừng hạnh phúc. *** “Tổng thống Hoa Kỳ.” Cô gái nhắc lại. “Ba có thể nghĩ ra một lí do đáng giá hơn cho việc tự làm mình phá sản đấy.” Người cha vừa nói vừa tháo chiếc gọng kính nửa vầng trăng trên đầu mũi và nhìn chăm chú cô con gái từ phía trên tờ báo đang đọc. “Ba đừng phi lý vậy chứ. Tổng thống Roosevelt đã chứng minh với chúng ta rằng không có sự cống hiến nào vĩ đại hơn việc phục vụ cộng đồng đó thôi.” “Điều duy nhất mà Roosevelt đã chứng minh là...” Người cha cất lời, rồi ông ngừng lại và quay trở về với tờ báo của mình khi nhận ra cô con gái có thể nghĩ lời nhận xét của ông là đùa giỡn. Cô gái tiếp tục câu chuyện bởi rất muốn biết điều gì đang diễn ra trong đầu cha mình. “Con nhận thấy là mọi việc sẽ vô nghĩa nếu con theo đuổi những đam mê như thế mà không được ba ủng hộ. Vấn đề giới tính của con đã thừa đủ rắc rối mà không cần thêm sự bất lợi bởi việc có xuất thân là người Ba Lan đâu.” Tờ báo ngăn giữa người cha và cô con gái đột ngột bị hạ xuống. “Đừng bao giờ nói một cách khinh thường như vậy về người Ba Lan.” Ông nói. “Lịch sử đã chứng minh chúng ta là một dân tộc đáng tự hào với những con người chưa bao giờ nuốt lời. Ba của ta từng là một Nam tước...” “Vâng, con biết. Đó cũng là ông nội của con còn gì, nhưng ông làm gì có ở đây để giúp con trở thành Tổng thống.” “Điều đó lại càng đáng tiếc hơn” cha cô thở dài, “bởi vì ông chắc chắn sẽ trở thành một nhà lãnh đạo tuyệt vời cho cộng đồng chúng ta.” “Thế sao cháu gái ông lại không nên làm điều đó cơ chứ?” “Chẳng tại sao cả.” Abel nói và nhìn xoáy vào đôi mắt màu xám kim loại của đứa con độc nhất. “Vậy thì ba à, ba sẽ ủng hộ con chứ? Bởi vì con không hi vọng thành công nếu không có sự hỗ trợ tài chính của ba.” Người cha lưỡng lự đôi chút trước khi trả lời. Ông đặt gọng kính lên mũi và chậm rãi gập tờ Chicago Tribune1 lại. “Ba sẽ có một thỏa thuận với con, con yêu xét cho cùng thì chính trị cũng chính là những chuyện như vậy. Nếu kết quả của cuộc bầu cử cơ sở tại New Hampshire chuyển sang hướng có lợi, cha sẽ ủng hộ con hết khả năng. Ngược lại, con phải dẹp bỏ ngay ý tưởng đó đi.” “Ba định nghĩa hướng có lợi là thế nào?” Ngay lập tức cô con gái đáp lời. Một lần nữa, người đàn ông lại do dự, cân nhắc những lời nói của mình. “Nếu con thắng cuộc bầu cử cơ sở, hoặc giành được hơn 30% số phiếu bầu, ba sẽ đi với con đến vòng bầu chọn nội bộ Đảng cho vị trí ứng viên Tổng thống, ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc ba sẽ khánh kiệt.” Cô gái thả lỏng người lần đầu tiên trong suốt cuộc nói chuyện. “Cảm ơn ba. Con không đòi hỏi gì hơn thế được nữa.” “Không, tất nhiên là không rồi” ông đáp lại. “Giờ thì ba có thể quay lại với việc tìm hiểu xem làm thế nào mà The Cubs2 lại có thể để thua trận thứ bảy trong mùa giải bởi The Tigers3 được chưa?” “Họ là đội yếu nhất, không còn nghi ngờ gì nữa, với cái kết quả thua tận 9-3.” “Quý cô trẻ tuổi à, con có thể cho rằng mình biết một, hai điều gì đó về chính trị, nhưng ba có thể khẳng định với con là con chẳng biết chút gì về bóng chày cả.” người đàn ông nói trong khi mẹ cô gái bước vào phòng. Ông quay thân hình nặng nề của mình về phía vợ. “Con gái chúng ta muốn chạy đua vị trí Tổng thống Hoa Kỳ đấy. Em thấy điều đó thế nào?” Cô gái ngẩng lên nhìn mẹ, háo hức đợi câu trả lời. “Em sẽ nói cho anh điều em nghĩ nhé” người mẹ trả lời. “Em nghĩ là đã quá giờ đi ngủ của con bé rồi, và đấy là lỗi của anh vì đã cho phép nó thức khuya như vậy.” Abel nhìn đồng hồ. “Em nói đúng.” Ông thở dài. “Về giường ngủ thôi, bé con.” Cô gái đến bên cạnh cha, hôn lên má ông và thì thầm. “Con cảm ơn ba.” Ánh mắt người đàn ông dõi theo bước chân của cô con gái mười một tuổi lúc cô bé rời khỏi phòng và ông nhận thấy những ngón tay trên bàn tay phải của cô đang nắm lại với nhau, tạo thành một nắm đấm nhỏ và chặt, một điều mà cô bé luôn làm khi tức giận hoặc quyết tâm. Ông tin rằng cô đang có cả hai cảm xúc đó lúc này, nhưng ông biết là sẽ vô ích nếu cố gắng giải thích cho Zaphia – người vợ của mình – rằng đứa con duy nhất của họ không phải người tầm thường. Abel lâu nay đã từ bỏ cố gắng làm cho vợ có cùng đam mê với mình, và ít nhất hãy cảm ơn Chúa là bà ấy cũng không can thiệp sâu vào sở thích của con gái họ. Ông quay lại với tin tức về đội bóng Chicago Cubs cùng thất bại của họ ở mùa giải này, và phải thừa nhận đánh giá của con gái ông có lẽ là đúng trong chủ đề này. Florentyna Rosnovski không đề cập đến cuộc đối thoại ngày hôm đó thêm một lần nào nữa trong suốt hai mươi hai năm sau, nhưng khi cô nhắc lại chuyện này, cô cho rằng cha mình sẽ thực hiện phần của ông trong thỏa thuận giữa họ. Xét cho cùng, như cách ông luôn nhắc nhở cô, người Ba Lan là một dân tộc đáng tự hào với những con người chưa bao giờ nuốt lời. Mời các bạn đón đọc Đứa Con Gái Hoang Đàng của tác giả Jeffrey Archer.
Cuộc Đời Bất Tử Của Henrietta Lacks
Cuốn sách kể câu chuyện về tế bào HeLa của một người phụ nữ da màu đã qua đời vì căn bệnh ung thư. Nhưng những tế bào được lấy từ cổ tử cung của Henrietta Lacks năm 1951 đã tạo nên cuộc cách mạng trong ngành y học.   Nhờ tế bào HeLa: Người ta đã tìm ra vaccine phòng bệnh bại liệt, tạo ra kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm, đẩy mạnh nghiên cứu gene. Các nhà khoa học cũng đã hiểu biết rõ hơn về cơ chế phân chia của tế bào, về hoạt động của các căn bệnh ung thư. Còn dùng để nghiên cứu cách thức chống AIDS, tác động của phóng xạ và chất độc lên tế bào, lập bản đồ gene, chế ra thuốc chống cúm, bệnh lậu và nhiều căn bệnh khác.  Những phát hiện ấy đã mang lại lợi ích cho hàng triệu con người trên hành tinh này. Trong khi đó, chính người phụ nữ da màu và con cái bà đều sống trong cảnh nghèo khó, cùng cực; thậm chí, đến khi mất, bà cũng chỉ được chôn trong một ngôi mộ không bia.  Câu chuyện khó tin này nhờ có vai trò của một nhà văn tên Rebecca Skloot. Cô đã dành hơn 10 năm để tìm hiểu về sự thật đằng sau tế bào HeLa, bối cảnh và viết nên cuốn sách đầu tay gồm những câu truyện phi hư cấu mang tên “The Immortal Life of Henrietta Lacks” (Cuộc đời bất tử của Henrietta Lacks) và nhanh chóng trở thành tác phẩm bán chạy nhất của tờ New York Times. Cuốn sách đã dấy lên những cuộc tranh luận không hồi kết về vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y học, về tôn giáo và về vấn đề chủng tộc tại Mỹ cũng như trên toàn thế giới.  Năm 2017, Đài truyền hình HBO đã sản xuất một bộ phim cùng tên để vinh danh những đóng góp của bà Henrietta và tế bào HeLa cho khoa học. « Đây là một cuốn sách phi hư cấu. Không có cái tên nào bị thay đổi, không có nhân vật nào được thêu dệt, không có sự kiện nào được dàn dựng. Trong lúc viết cuốn sách này, tôi đã thực hiện hàng nghìn giờ phỏng vấn với gia đình và bạn bè của Henrietta Lacks, cũng như với các luật sư, các chuyên gia đạo đức, các nhà khoa học, và các nhà báo đã từng viết về gia đình Lacks. Tôi cũng đã dựa vào một lượng lớn ảnh và tài liệu lưu trữ, các nghiên cứu khoa học và lịch sử, cùng nhật ký cá nhân của Deborah Lacks - con gái của Henrietta.” – Tác giả.  Trên bìa sách là hình ảnh Henrietta Lacks, với hai tay chống nạnh, mép trái bị rách, được gắn lại bằng băng dính, treo trong phòng của cô con gái chưa từng gặp mặt mẹ. Đó là những năm cuối của thập niên 1940 và bà còn chưa bước sang tuổi 30, nước da màu nâu sáng của bà láng mịn, cặp mắt vẫn trẻ trung. Bà nhìn thẳng vào máy ảnh và mỉm cười, hai tay đặt trên hông, đôi môi tô son đỏ thẫm, y phục được vuốt phẳng phiu – một hình ảnh ý nghĩa được nhắc lại rất nhiều lần trong cuốn sách này.  Các giải thưởng mà tác phẩm đạt được: Top Bestseller của New York Times trong hơn 7 năm kể từ khi xuất bản. Top 100 Cuốn sách Nên đọc Trong đời của A Được dịch ra hơn 25 thứ tiếng trên thế giới. Cuốn sách Hay nhất năm 2010 (của hơn 60 đơn vị truyền thông, trong đó có The New York Times, The New Yorker, Entertainment Weekly, People, Los Angeles Times, Kirkus Review, National Public Radio).  Các giải thưởng tiêu biểu: Welcome Trust Book Prize, Cuốn Sách Của Năm (của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ), và Heartland Prize (của Chicago Tribune)… *** #Review Cuộc đời bất tử của Henrietta Lacks - Câu chuyện ly kỳ này có thật, và mình đã thực sự sốc! "Chuyện bắt đầu ở thập niên 1940, khi Henrietta Lacks - người phụ nữ Mỹ gốc Phi mắc bệnh ung thư cổ tử cung phải đến khám và điều trị tại bệnh viện Johns Hopkins. Từ đây, các bác sĩ phát hiện ra tế bào của cô có tốc độ phát triển kinh khủng - phân chia vô hạn khi đem nuôi cấy. Các nhà nghiên cứu và các tay kinh doanh nhân rộng tế bào này và bán được hàng triệu đô-la. Nhờ vào tế bào bất tử HeLa, y học đã có những bước tiến vượt bậc: điều chế vắc-xin phòng bại liệt, nhân bản vô tính, lập bản đồ gen người, nghiên cứu thuốc điều trị ung thư, AIDS... Đến nay, nó vẫn tồn tại ở khắp các phòng thí nghiệm và phục vụ cho nghiên cứu khoa học thế giới. Bất kể những điều phi thường đó, không ai biết về sự tồn tại của Henrietta Lacks. Bởi sự bất hạnh trong thời đại của Jim Crow - một đạo luật kỳ thị chủng tộc và chống lại người da đen. Henrietta chết trong đau đớn mà không hề biết rằng tế bào của mình đã cứu sống hàng ngàn người khác. Và người nhà của cô thì sống nghèo khổ, bệnh tật suốt đời: chồng bị ung thư tiền liệt tuyến, các con cô - người trầm cảm, người bệnh tim, người chết trong viện tâm thần. Đi tìm lại công bằng cho gia đình Henrietta Lacks, nhà văn Rebecca đã mất gần 10 năm trời, với hàng trăm giờ phỏng vấn, hàng ngàn tài liệu khoa học để đem câu chuyện này ra ánh sáng. Chính vào lúc mà mọi chuyện tưởng như sắp thành công với Cuộc hội thảo Henrietta Lacks chủ trì bởi Quỹ Quốc gia về Nghiên cứu Bệnh Ung thư được lên kế hoạch tổ chức vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, tại Washington, D.C. Chiếc máy bay đầu tiên đã đâm vào Trung tâm Thương mại Thế Giới. D.C bị phong tỏa, cuộc hội thảo bị lùi lại mà không có kế hoạch tổ chức lại vào một ngày khác. Đây thật sự là cuốn sách phi hư cấu cảm động và ly kỳ về người phụ nữ da màu phi thường Henrietta và những mặt trái của nghiên cứu Khoa học." - Linh Hạ *** LỜI TÁC GIẢ Đây là một cuốn sách phi hư cấu. Không có cái tên nào bị thay đổi, không có nhân vật nào được thêu dệt, không có sự kiện nào được dàn dựng. Trong lúc viết cuốn sách này, tôi đã thực hiện hàng nghìn giờ phỏng vấn với gia đình và bạn bè của Henrietta Lacks, cũng như với các luật sư, các chuyên gia đạo đức, các nhà khoa học, và các nhà báo đã từng viết về gia đình Lacks. Tôi cũng đã dựa vào lượng lớn ảnh và tài liệu lưu trữ, các nghiên cứu khoa học và lịch sử, cùng nhật ký cá nhân của Deborah Lacks – con gái Henrietta. Tôi đã cố gắng hết sức để ghi nhận và lột tả ngôn từ mà các nhân vật sử dụng khi nói và viết: những đoạn hội thoại được ghi lại theo nguyên bản tiếng địa phương; các đoạn văn trích từ nhật ký và những ghi chép cá nhân được giữ nguyên văn những gì họ đã viết ra. Như lời một trong số các con cháu của Henrietta đã nói với tôi: “Nếu cô trau chuốt cho hoa mỹ và thay đổi những tình tiết trong câu chuyện họ kể, đó là một việc làm không trung thực. Làm vậy chẳng khác nào lấy đi cuộc sống, trải nghiệm, và cả bản thể con người họ”. Rất nhiều chỗ trong cuốn sách, tôi đã mượn từ ngữ mà những người được phỏng vấn đã dùng để miêu tả thế giới và những trải nghiệm của họ. Bằng cách này, tôi đã tái sử dụng ngôn ngữ trong thời đại và hoàn cảnh của các nhân vật, kể cả những từ như da màu. Các thành viên của gia đình Lacks thường gọi Johns Hopkins là “John Hopkin”, và tôi đã giữ nguyên cách nói này trong các mẩu đối thoại của họ. Các câu thoại với ngôi nhân xưng thứ nhất của Deborah Lacks đều được giữ nguyên như lời cô nói, đôi khi có sửa lại cho súc tích và rõ ràng hơn. Henrietta Lacks đã qua đời nhiều thập niên trước khi tôi bắt đầu viết cuốn sách này, vì vậy tôi phải dựa vào các cuộc phỏng vấn, các hồ sơ pháp lý và bệnh án để tái dựng những phân cảnh trong cuộc đời bà. Ở những phân cảnh đó, cuộc hội thoại hoặc là được suy luận từ các tài liệu viết tay hoặc được trích dẫn nguyên văn theo những gì được thuật lại cho tôi trong cuộc phỏng vấn. Bất cứ khi nào có thể, tôi đều thực hiện những cuộc phỏng vấn với nhiều nguồn tin khác nhau để đảm bảo tính xác thực. Đoạn trích từ bệnh án của Henrietta trong chương 1 là bản tóm tắt dựa trên nhiều ghi chép khác nhau. Từ HeLa, được dùng để chỉ các tế bào nuôi cấy có nguồn gốc từ cổ tử cung của Henrietta Lacks, xuất hiện xuyên suốt cuốn sách. Nó được đọc là heelah (hy-la). Về biên sử: mốc thời gian của các nghiên cứu khoa học được ghi trong cuốn sách này là thời điểm mà nghiên cứu đó được tiến hành, không phải là ngày mà chúng được công bố. Ở một số trường hợp, các ngày này được áng chừng vì không tìm được những ghi chép cụ thể về ngày bắt đầu nghiên cứu đó. Ngoài ra, vì tôi chuyển qua chuyển lại giữa nhiều câu chuyện, hơn nữa các nghiên cứu khoa học kéo dài trong nhiều năm, nên có những đoạn trong cuốn sách này, nhằm giúp người đọc dễ hiểu hơn, tôi đã miêu tả các phát kiến ấy theo trình tự thời gian, mặc dù thực tế chúng diễn ra cùng một thời điểm. Tiểu sử của Henrietta Lacks và các tế bào HeLa làm dấy lên nhiều vấn đề quan trọng về khoa học, đạo đức, chủng tộc, và các tầng lớp trong xã hội. Tôi đã làm hết sức mình để trình bày các vấn đề một cách rõ ràng nhất theo mạch câu chuyện của gia đình Lacks, và tôi cũng chèn thêm một lời bạt để đề cập đến những cuộc tranh luận về đạo đức và pháp luật hiện hành xung quanh quyền sở hữu và nghiên cứu mô. Còn nhiều chuyện phải bàn về tất cả những vấn đề này, nhưng việc đó nằm ngoài phạm vi của cuốn sách, vì vậy, tôi xin dành nó cho các học giả và các chuyên gia trong ngành. Tôi hy vọng độc giả sẽ thông cảm cho những thiếu sót này. Chúng ta không nên nhìn bất kỳ ai như một sự trừu tượng. Thay vào đó, chúng ta phải nhìn thấy bên trong mỗi người một vũ trụ, với những bí mật, những kho báu, những nỗi thống khổ của riêng nó, cùng với những niềm hân hoan. — ELIE WIESEL Trích "Những Tên Bác Sĩ Quốc Xã và Đạo Luật Nuremberg" Mời các bạn đón đọc .ời các bạn đón đọc Cuộc Đời Bất Tử Của Henrietta Lacks của tác giả Rebecca Skloot.
Marley và Tôi
Bạn đang tìm kiếm một câu chuyện đầy cảm xúc và vui nhộn thông qua cuộc đời của một chú chó? Cuốn sách bán chạy Marley và Tôi: Cuộc sống và tình yêu với chú chó tồi tệ nhất thế giới của tác giả John Grogan sẽ mang đến cho bạn điều đó. John và Jenny, cả hai đều rất trẻ và họ yêu thương nhau, với một ngôi nhà lý trưởng và không quan tâm gì đến thế giới. Nhưng khi họ mang về nhà Marley, một chú chó con giống Labrador màu vàng để giúp họ tập tành làm cha làm mẹ trước khi thật sự sẵn sàng chào đón thành viên thứ ba trong gia đình – và cuộc sống của họ mãi không còn như trước nữa. Marley nhanh chóng lớn lên và trở thành một chú chó nặng chín mươi bảy pound nghịch ngợm với những trò phá phách không ngừng. Nhưng ẩn chứa bên trong sự quậy phá đó là một trái tim trong sáng và là một mẫu hình chung thủy về tình yêu và sự hiến dâng dành cho gia đình đang ngày càng phát triển thông qua việc làm mẹ, sinh con… Chú cũng chính là sợi dây gắn kết và là nhân vật quan trọng giúp đôi vợ chồng trẻ vượt qua được những giai đoạn khó khăn nhất trong cuộc sống. Cuốn tự truyện này đã được chuyển thể thành phim truyện nhựa cùng tên với sự tham gia của hai diễn viên nổi tiếng Jenifer Aniston và Owen Wilson, đã công chiếu tại Việt Nam từ tháng 3/2009. Sách nhanh chóng trở thành international bestseller với 5 triệu bản đã được bán ra. Có mặt liên tục trong 76 tuần trong danh sách sách bán chạy nhất của thời báo New York Times, trong đó chiếm vị trí số 1 suốt 23 tuần. *** Hạnh phúc vì đã có Marley John Grogan và Jennifer hẳn là một trong những đôi tình nhân hạnh phúc bởi họ thực sự yêu nhau và hiểu được sự thiêng liêng của hai tiếng Gia đình. Để chuẩn bị cho sự xuất hiện của những đứa con bé bỏng, họ đã mua về một chú cún để “luyện tập” trước. Tên chú cún là Marley – được đặt theo tên huyền thoại nhạc reagge Bob Marley. Từ đây, rất nhiều chuyện bi hài diễn ra khiến cho John và Jennifer gắn bó với nhau hơn sau những tranh cãi và mâu thuẫn rất đỗi thường tình mà bất cứ cặp vợ chồng nào cũng gặp phải. Về phần Marley, chú chó này thì cực kì nghịch ngợm, phá phách khỏi phải nói! Này nhé, Marley luôn thích nhai ghế sô-pha trong nhà, mỗi lúc trời mưa kèm sấm chớp thì chú chó không ngừng tru tréo và hiếu động đến mức người dạy chó cũng phải “đầu hàng” ngay trong lần đầu tiên hai vợ chồng đem chú chó đến lớp. Đến cả người giúp việc, tuy chỉ vài ngày “chịu đựng” Marley cũng tuyên bố với đôi vợ chồng rằng: “Đã có 11 cơn bão từ ngày mấy người đi. Tôi là người nuôi chó chứ không phải một con chó. Con quỷ mang gương mặt chó này đã nhảy lên chân tôi và tè lên tấm thảm của quý vị”. Và khi 3 thiên thần nhỏ của John và Jennifer lần lượt chào đời, Marley đã từng khiến cho John quát tháo “Mày là chú chó tồi tệ nhất thế gian!” và Jennifer thì nổi sùng lên đòi John tìm cách tống khứ Marley đi vì tất cả những thói quen xấu của nó đang khiến cho cô trở nên kiệt sức. Nhưng cũng chính chú chó Marley đó đã ở bên xoa dịu nỗi buồn của Jennifer khi cô lần đầu tiên bị “mừng hụt” chuyện mang thai; cũng Marley đó đã chơi đùa với cả gia đình những ngày mùa đông tuyết phủ trắng trời; cũng Marley đó hàng chiều chạy ra đón 2 nhóc Patrick và Connor khi chúng đi học về; cũng Marley đó xuất hiện trong những bài báo “người thật, việc thật” của John đã được cắt dán thành album cẩn thận; cũng Marley đó đã hiện diện như thành viên thứ 6 của gia đình Grogan – luôn ở bên họ dù họ ở đâu, làm gì… Như một qui luật tự nhiên tất yếu, Marley rồi cũng phải ra đi vì tuổi già. Giây phút Marley lìa đời, John đã ở bên cạnh cho đến khi chú chó trút hơi thở cuối cùng. Cậu cả Patrick xem lại từng cuộn băng video có hình ảnh Marley chơi đùa với cả nhà. Jennifer lặng lẽ ngồi bên khung cửa sổ rơi nước mắt khi tất cả kí ức về Marley ùa về trong xúc cảm dạt dào. Marley đã được chôn cất trước nhà cùng những kỉ vật của những người yêu quí chú chó, để chú chó có thể vĩnh viễn gần bên với gia đình Grogan. Dưới ánh nắng mặt trời ấm áp trong buổi sáng đầu tiên không còn Marley vui đùa nữa, John dường như vẫn nhìn thấy hình bóng thân quen quanh quất đâu đấy. Rồi gia đình Grogan sẽ tiếp tục sống, bên nhau và chia sớt mọi niềm vui và nỗi buồn. Nhưng có một điều chắc chắn, đó là họ sẽ không bao giờ quên Marley! Đoạn kết Marley và tôi là những lời tự sự tận đáy lòng của John khiến khán giả bồi hồi xao xuyến thông qua chất giọng truyền cảm của nam chính Owen Wilson: “Một chú chó không đi xe đẹp hay mặc quần áo đẹp. Chỉ cần một cây gậy, thế là đủ. Một chú chó không quan tâm đến chuyện bạn giàu hay nghèo, bạn được học hành hay thất học, bạn thông minh hay bạn ngu ngốc. Hãy trao trái tim bạn cho nó và nó sẽ trao lại trái tim nó cho bạn. Có bao nhiêu người làm được như nó? Có bao nhiêu tình cảm trong sáng như nó? Có bao nhiêu người khiến bạn cảm thấy đặc biệt trong đời?”. Marley và tôi đã trao tặng cho người xem những cảm xúc tuyệt vời của tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình và truyền đạt đến người xem những bài học quý giá. Với mỗi gia đình, dù có biết bao những rắc rối xảy ra hàng ngày – giống như một chú chó cũng có những “thói hư tật xấu” gây bao phiền toái nhưng rồi mọi thứ sẽ đều ổn thỏa bởi đến cuối cùng, chính tình yêu sẽ hàn gắn tất cả và cũng sẽ chữa lành tất cả. *** Tưởng nhớ tới cha tôi, Richard Frank Grogan. Tinh thần dịu dàng của ông thắm đượm từng trang sách này. Lời nói đầu Con Chó Hoàn Hảo Mùa hè năm 1967, khi ấy tôi mới mười tuổi. Cuối cùng trước những lời van nài dai dẳng của tôi, bố cũng phải đầu hàng và cho tôi sở hữu một con chó của riêng mình. Chúng tôi đánh chiếc xe chở hàng của nhà tới vùng nông thôn Michigan, nơi có trang trại của một người phụ nữ thô kệch cùng bà mẹ già. Trang trại chỉ cung cấp duy nhất các loại chó nhà. Những con chó đủ mọi kích cỡ, hình hài, độ tuổi hay tính khí. Chúng chỉ có hai điểm chung: một là con lai không rõ dòng giống, còn hai là miễn phí với những gia đình tốt. Chúng tôi đã tới một trại nuôi chó lai. - Bây giờ, cứ từ từ mà chọn, con trai. Quyết định hôm nay của con sẽ sống cùng con nhiều năm nữa đấy. - Bố nói. Tôi nhanh chóng xác định những con chó lớn hơn chắc đã thuộc về những cơ sở từ thiện của ai đó. Ngay lập tức tôi chạy tới chuồng chó con. - Con nên chọn một con không nhút nhát. Thử lắc mạnh lồng xem con nào không sợ hãi - Bố tôi dạy. Tôi tóm lấy dây xích ở cửa lồng, giật rầm rầm. Cả tá chó con loạng choạng lùi lại, con nọ đè lên đầu con kia, thành một đống nhung nhúc lông lá. Chỉ còn duy nhất một con trụ lại. Nó màu vàng, có vệt lang trắng trước ngực. Nó xô vào cửa lồng, sủa ăng ẳng không tỏ vẻ sợ sệt. Nó nhảy cẫng lên, thích thú liếm ngón tay tôi qua lưới chắn. Đó thực là tình yêu sét đánh. Tôi mang nó về nhà trong một cái hộp các-tông, đặt cho nó cái tên Shaun. Nó là một trong những con chó đã cho loài chó một cái tên hay. Nó mau chóng nắm vững tất cả những mệnh lệnh tôi dạy và xử sự rất tốt. Tôi có thể đánh rơi mẩu bánh mỳ xuống sàn, nó sẽ không động đến cho tới khi tôi cho phép. Nó chạy đến mỗi khi tôi gọi, ở nguyên đó khi tôi bảo làm thế. Chúng tôi có thể thả nó ra ngoài một mình ban đêm, biết chắc rằng nó sẽ quay về sau khi lượn một vòng. Thi thoảng, chúng tôi có thể nhốt nó ở nhà một mình hàng giờ, tự tin nó sẽ không gặp tai nạn hay phá phách thứ gì đó. Nó chạy đua với ô tô nhưng không đuổi theo chúng, thả bộ bên cạnh tôi mà không cần buộc xích. Nó có thể nhảy xuống hồ nước nhà tôi rồi ngoi lên với những hòn đá to, lắm khi mắc kẹt trong hàm. Với nó không có gì vui hơn việc được đi xe ô tô, ngồi im ở ghế sau bên cạnh chúng tôi trong các chuyến dã ngoại của nhà, hài lòng ngó ra ngoài cửa xe, ngắm nhìn hàng giờ khung cảnh thế giới bên ngoài đang trôi đi. Có lẽ điều tuyệt nhất là tôi đã dạy nó kéo tôi quanh khu theo kiểu xe chó kéo, trong khi tôi ngồi trên xe đạp. Điều này làm đám bạn phải ghen tị với tôi. Chưa một lần nào nó đẩy tôi vào nguy hiểm. Nó ở bên khi lần đầu tôi hút thuốc (cũng là lần cuối cùng của tôi), và cả khi tôi lần đầu hôn bạn gái nữa. Nó đã ở ngay đó, bên cạnh tôi, trên ghế phụ khi tôi lần đầu lén lấy trộm chiếc Conrvair của anh trai để đi chơi. Shaun mạnh mẽ nhưng biết kiềm chế, rất tình cảm nhưng điềm tĩnh. Thậm chí nó còn có lối cư xử nhã nhặn cao quý, lùi vào bụi rậm trước khi ngồi xổm làm nhiệm vụ cá nhân, chỉ thò mỗi cái đầu ra ngoài. Nhờ có thói quen sạch sẽ này mà chúng tôi có thể an tâm dạo chân trần trên bãi cỏ. Họ hàng tới thăm vào cuối tuần rồi về nhà, cũng quyết mua một con chó. Họ cực kỳ ấn tượng với Shaun - còn gọi là “Thánh Shaun”, mỗi khi tôi gọi nó. Đó chỉ là một câu đùa trong nhà, chuyện phong thánh, nhưng hầu như chúng tôi đều tin thế. Sinh ra với lời nguyền của dòng dõi vô danh, nó là một trong hàng chục nghìn những con chó chẳng ai đoái hoài ở nước Mỹ. Nhờ một chút may mắn, nó đã được để mắt tới. Nó bước vào đời tôi và tôi cũng bước vào đời nó. Khi ấy, nó đã cho tôi tuổi thơ mà mỗi đứa trẻ đều xứng đáng được hưởng. Mối tình ấy kéo dài mười bốn năm. Khi nó chết, tôi đã không còn là một thằng bé con mang nó về nhà vào cái ngày hè ấy. Tôi đã là một người đàn ông, tốt nghiệp đại học và nhận việc đầu tiên ở bang. Saint Shaun đã ở lại khi tôi đi. Nó thuộc về nơi ấy. Bố mẹ, lúc đó đã nghỉ hưu, gọi báo tin cho tôi. Mẹ sau này có nói với tôi: - Suốt năm mươi năm lấy nhau, mẹ chỉ thấy bố con khóc duy nhất hai lần. Lần đầu là khi chúng ta mất Mary Ann (chị gái tôi, bị sinh non). Lần thứ hai là ngày Shaun chết. Saint Shaun của tuổi thơ tôi. Nó là một con chó hoàn hảo. Ít nhất là tôi sẽ nhớ nó biết nhường nào. Đó là Shaun, con chó đã dựng nên những chuẩn mực để tôi đánh giá tất cả những con chó khác sau này.   Mời các bạn đón đọc Marley và Tôi của tác giả John Grogan.