Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Độn Toán Thần Diệu - Trần Khang Ninh

Độn Toán Thần Diệu  [Bấm Độn]. Phương Pháp Độn Toán Chọn Ngày Theo Lục Diệu. Độn Giáp Của Gia Cát Lượng. Quỷ Cốc Tử Độn Giáp. Xuất Hành Theo Độn Quẻ Tiên. Bát Môn Tiểu Độn.

Độn Toán Thần Diệu

Cuốn sách này gồm những nội dung chính sau:

Phương pháp độn toán chọn ngày theo lục diệu.

Độn pháp của Gia Cát Lượng.

Quỷ cốc tử độn pháp.

Xuất hành theo độn quẻ tiên.

Bát môn tiểu độn.

Xin trân trọng giới thiệu.

Ý thức được sự vận động của bản thân mình trong không gian, loài người đã hình thành nên khái niệm thời gian. Từ sự hình thành khái niệm thời gian, nhân loại đã làm ra công cụ để đo thời gian là lịch. Quá trình làm ra lịch, cả người phương Tây và người phương Đông đều thấy được sự tác động và chi phối của vũ trụ không gian qua thời gian tới mỗi người, mỗi khu vực địa lý, tới đời sống sản xuất xã hội… Điều này có thể thấy rõ nét nhất là sự thay đổi và tác động của tiết khí trong năm đối với sản xuất, mùa màng và sự phát triển của con người.

Thời gian là một yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của cá nhân và xã hội. Thời gian là phương tiện để dựng lại và ghi chép quá khứ, dùng trong tổ chức sản xuất, quản lý xã hội, trong sinh hoạt văn hoá và giao tiếp xã hội không chỉ hiện tại mà trong dự báo tương lai. Do vậy, nhận thức về thời gian là một trong những tri thức sớm nhất của loài người và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện.

Một khía cạnh độc đáo có tính đặc trưng nhất của thời gian, là sự tác động của nó đối với cuộc sống và hành động của từng người.

Cho đến nay, sự tác động trên nhiều phương diện của thời gian được các nhà khoa học phát hiện ra. Những khám phá này được giới nghiên cứu gọi là “nhịp sinh học”, đó là một trạng thái tinh thần, sức khoẻ của từng người có quan hệ mật thiết với sự thay đổi thời gian theo ngày, tháng, theo tuần và theo năm. Chẳng hạn, qua những nghiên cứu đặc biệt của mình, nhà nội tiết học Đan Mạch Hamburger đã cho biết, trong cơ thể mỗi người, mức nội tiết vỏ thượng thận là những chất điều chỉnh quan trọng nhất của nhiều quá trình trong cơ thể, luôn luôn thay đổi theo nhịp tuần lễ (7 ngày) một cách nghiêm ngặt. Con số 7 ngày trùng hợp với một tuần lễ, được nhân loại coi như một đơn vị thời gian mà các nhà nghiên cứu thường gọi là “con số 7 kỳ lạ” có nhiều điều bí ẩn. Hiện tượng kỳ lạ này được các nhà nghiên cứu làm như sau: chọn nhiều lần nhiều nhóm người và đề nghị họ gọi tên một con số bất kỳ từ 0 đến 9, kết quả phần lớn các trường hợp ấy, người ta đều chọn và gọi số 7. Gắn liền với con số 7, người ta còn đưa ra nhiều huyền hoặc, song thực tế lại phức tạp hơn nhiều khi bác lại những điều dị đoan về con số đó. Chẳng hạn, bảng thực nghiệm, các nhà khoa học đã xác lập được rằng, giới hạn khả năng con người, xử lý được thông tin thường chỉ bó hẹp trong sự ghi nhớ 7 từ, hoặc 7 loại đồ vật hoặc 7 ký hiệu cần phải tái hiện nhớ lại từ một bản liệt kê dài những tín hiệu thông tin mà họ tiếp xúc.

Những hiện tượng xã hội dường như cũng gắn liền với dịp thời gian của một chu trình 7 ngày (tuần lễ). Theo một số nghiên cứu cách đã lâu, ở Anh và xử Uên, từ 1970-1976 và trong các năm của thập kỷ 80 thế kỷ XX, vào những ngày thứ Bảy và Chủ nhật thì số lần sinh đẻ ít hơn so với những ngày khác trong tuần lễ.

Nhịp điệu thời gian theo nhịp 7 ngày tác động tới vạn vật, con người … cho đến nay còn bí ẩn, và điều đó đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu còn tiến hành những nghiên cứu mới. Người ta còn thấy nhịp thời gian còn mang tính xã hội.

Chẳng hạn, nhịp thời gian trong tuần của các xí nghiệp công nghiệp tác động đến người làm việc như sau: thứ hai năng suất lao động tương đối thấp, thứ ba, thứ tư, thứ năm thì năng suất có tăng lên, thứ sáu và thứ bảy lại giảm. Đối với sự học tập của học sinh sinh viên cũng theo quy luật này.

Theo Dịch Lý Phương Đông, nam giới cử sau 7 năm (7 tuổi ta, 6 tuổi lịch Dương) và nữ giới sau 9 năm có sự thay đổi toàn diện cơ thể. Đối với nam giới 7 lần thay đổi tức 7×7 = 49 tuổi là lần thay đổi lớn nhất trong cuộc đời, nên năm này người ta hết sức giữ gìn.

Ảnh hưởng của hoạt động mặt trời qua mỗi ngày đối với hoạt động của con người, cũng được các nhà khoa học quan tâm.

Ngay từ năm 1934, hai nhà khoa học Mỹ là anh em ruột Dull đã ghi nhận được chu kỳ 27 ngày của tỷ lệ tử vong có liên quan đến cường độ hoạt động của mặt trời. Năm 1937, họ cho biết đường cong tỷ lệ tử vong ở các thành phố lớn của châu Âu biến đổi đồng bộ khớp với hoạt động mạnh ở mức cao nhất của mặt trời. Năm 1964, tại Budapet thủ đô Hungari, những vụ tự tử do tổ chức cấp cứu ghi nhận được, rất khớp với những biến đổi tình trạng điện tích của không khí theo nhịp 27 ngày dao động hoạt tính của mặt trời. Cũng tại nước này, từ năm 1963-1964 những bão táp địa từ do mặt trời gây nên, đã làm tai nạn giao thông trên đường tăng lên 101%. ở các hầm mỏ than vùng Rua của nước Đức, sự cố xảy ra nhiều nhất vào những ngày có hoạt tính mặt trời tăng. Như vậy, cường độ hoạt động của mặt trời qua các ngày là nguyên nhân gây ra các tai nạn và các vụ tự tử. Khi trên mặt trời có những vết sáng tạo ra trong khí quyển, các nhà nghiên cứu thấy hành vi ứng xử của con người chậm đi, thường mất bình tinh, cùng lúc xuất hiện những hành động sai trái dễ gây ra bạo lực và xung đột.

Như vậy, dường như có những ảnh hưởng của vũ trụ, của mặt trăng, mặt trời đến hành vi của con người. mặt khác cùng không thể phủ nhận sự tác động các vì tinh tú tới mọi sinh vật trên trái đất, trong đó có con người qua các ngày, tháng, năm.

Sự ảnh hưởng của mặt trời qua các ngày tác động đến con người, được nhà khoa học Liên Xô cũ nổi tiếng AL Trigiepxki (1897 1964) nghiên cứu rất chi tiết. Ông cho rằng, mọi sự phát triển của sinh vật, trong đó có con người đã diễn ra dưới tác động của vũ trụ, mà rõ nét nhất là mặt trời. Chu kỳ hoạt động của mặt trời có liên quan đến hàng loạt những hiện tượng trên trái đất như: bệnh dịch ở thực vật, động vật, các nan dịch lớn ở người… Theo nhà khoa học này, các trung tâm hoạt tính của mặt trời có thể tồn tại lâu tới vài tháng, khi mặt trời quay, các trung tầm hoạt tính này cứ 27 ngày đêm, lại qua kinh tuyến trung tâm của bán cầu hướng về trái đất. Các hiện tượng này thành chu trình là : 5 – 6 năm, 11 – 12 năm và có khi hàng thế kỷ.

Trong vòng ảnh hưởng các chu kỳ hoạt tính mặt trời trên, nhiều biến cố đã xảy ra trên trái đất. Chẳng hạn các nhà khoa học ở thành phố Tomxcơ của nước Nga đã tiến hành thống kê nghiên cứu những vụ trục trặc kỹ thuật của xe hơi, đã phát hiện các trường hợp tai nạn giao thông trong 7 năm (1958 - 1964) đều thấy vào các ngày đầu và sau những chớp sáng trên mặt trời. Ở những ngày như thế, số lượng tai nạn giao thông tăng gấp ô lần so với ngày yên tĩnh, tức là không có chớp sáng. Nếu theo quan điểm này, sẽ có ngày hung họa, mặt trời thường ngày của nhân loại đáng quý có lúc trở thành "hung thần". Các nhà khoa học phương Tây còn cho rằng, ở mỗi người căn cứ vào ngày sinh của họ tính đi đều có nhịp sinh học theo thời gian ngày, được chia thành 3 chu kỳ song hành là: chu kỳ thể lực 23 ngày liên tiếp, chu kỳ xúc cảm 28 ngày liên tiếp, chu kỳ trí tuệ 33 ngày liên tiếp. Trong mỗi chu kỳ, những ngày đầu của chu kỳ có lợi cho một người, nửa sau là bất lợi. Ở nửa sau mỗi chu kỳ, người ta đưa ra những ngày nguy hiểm. Ngày nguy hiểm với mức độ c àng cao, khi ở mỗi người nhịp vận động của 3 đường giao động trùng nhau. Ở những ngày này, những sự cố nguy hiểm dễ xảy ra nhất.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

60 Năm Sinh Trong Hoa Giáp
Trong một thế giới rộng lớn và vũ trụ bao la vô cùng, vô tận, con người luôn muốn biết, muốn tìm hiểu, nghiên cứu những bí ẩn và ứng nghiệm những kiến thức và hiểu biết của mình, nhằm thỏa mãn khao khát ước muốn và trí tò mò của bản thân. Trong một thế giới rộng lớn và vũ trụ bao la vô cùng, vô tận, con người luôn muốn biết, muốn tìm hiểu, nghiên cứu những bí ẩn và ứng nghiệm những kiến thức và hiểu biết của mình, nhằm thỏa mãn khao khát ước muốn và trí tò mò của bản thân. Ấy vậy mà trí tuệ của loài người vẫn đang còn bị hạn chế. Mặc dù từ thế hệ này qua thế hệ khác, mỗi ngày loài người lại khám phá cái mới, sáng tạo cái mới, nhưng cũng đồng thời lại quên lãng hay bỏ qua nhiều kiến thức uyên thâm, những thành quả vĩ đại của các thời đại cổ xưa ví dụ như các nền văn minh In Ca, Cổ: Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ, Trung Quốc v.v… Nhiều nền văn minh sán lạng của lục địa Châu Phi cổ xưa đã làm con người ngày nay phải ngỡ ngàng, sững sờ khi tình cờ phát hiện ra từ lòng đất. Ngay như một điều hiển nhiên là trái đất quay quanh mặt trời, thế mà gần 16 thế kỷ (kể từ công lịch) các học thuyết tôn giáo vẫn phủ nhận và khi Galile bác bỏ thuyết “địa tâm” ủng hộ thuyết “nhật tâm” của Copecnic ông đã bị thiêu sống. Rồi Bruno cũng phải chết trong tù đầy vì ủng hộ cái sự thật hiển nhiên ấy! Thế mới biết nhiều khi chính con người đề ra học thuyết này, nọ và các trường phái triết học khác nhau chỉ bởi vì lợi ích giai cấp của trường phái, chứ họ không quan tâm mấy đến sự thực hiển nhiên là vậy. Ai cũng bảo cái của mình là duy nhất đúng, là chân lý tuyệt đối. Không, vũ trụ bao la và vô tận, thế giới con người, sinh vật và thực vật vẫn còn chất chứa vô vàn huyền bí mà loài người với trí tuệ còn có hạn của mình vẫn hàng giờ say sưa khám phá, chiêm nghiệm hết thế hệ này đến thế hệ khác để thỏa mãn trí tò mò và vì lợi ích của chính mình. Về lĩnh vực con người, hàng nghìn năm trước cho đến ngày nay người ta cũng rất muốn biết những điều bí ẩn của chính mình. Biết bao học giả đã, đang dày công nghiên cứu áp dụng và kiểm chứng qua nhiều khoa phép để dự đoán xem tương lai của mỗi cá thể sẽ phải trải qua trong thời gian sống thế nào. Đã có nhiều khoa dự báo ra đời. Ví như: dùng thuật tướng. Các tướng thuật gia cho rằng “Mệnh là căn bản của một đời người. Tướng là trợ thủ cho Mệnh mà hình thành”. Như vậy có Mệnh ắt phải có Tướng và ngược lại có Tướng phải có Mệnh. Nếu riêng về Thuật Tướng, con người còn chia nhỏ để kiểm nghiệm, đúc kết ví dụ: gồm Diện Tướng (tướng mặt), Hình Tướng (tướng dáng người), Tọa Tướng (tướng ngồi), Thanh Tướng (tướng qua tiếng nói) v.v.. Tướng Thuật gia nổi tiếng đời Đường Trung Quốc, ngài Viên Thiện Cương sau khi xem tướng cho Võ Tắc Thiên năm lên 9 tuổi đã tiên đoán với diện tướng “mắt rồng, cổ phượng, tướng cực quý hiếm” sẽ là thiên tử. Quả đúng là với dự đoán ấy, 28 năm sau ứng nghiệm. Hay dùng Thuật số (tử vi). Ở thời Tiền nhà Đường, Trung Quốc có rất nhiều Mệnh số gia nổi tiếng như: Ngài Dương Cấn ở Tứ Xuyên, tuy bị lòa mà giỏi đoán Mệnh, ông Thông Diễn, ông Chương Tấn Công, tể tướng bị bãi chức thời Kánh Lịch (Trung Quốc) v.v… đều là những Mệnh số gia uyên thâm dự báo, số mệnh không một lần sai. Họ đã được sách sử ghi chép. Rồi còn Chiêm tinh gia, Bốc Phệ gia (bốc quẻ); Nhà ngoại cảm, hay Kinh Dịch gia độn Giáp v.v.. Tất cả đều là các khoa phép dự báo ứng nghiệm trong thực tế cuộc sống. Cuối thế kỷ XX có nhiều Chiêm tinh gia rất nổi tiếng, nhà ngoại cảm tài ba, nhưng họ cũng chịu bất hạnh vì sự thù ghét của ý thức hệ. Đó là bà Vangelia Pendeva Minitrova, người phụ nữ Bulgari được mệnh danh là nhà tiên tri Vanga nhìn thấu tương lai và quá khứ, bà bị mù năm 16 tuổi và khi 30 tuổi đã thành nhà tiên tri và chính bà cũng đã bị ngồi tù vì không phù hợp ý thức hệ đang thống lĩnh lúc đó. Người phụ nữ Pháp Maria Adelaida Lenorman sinh ra ở Alanson Paris 1772 đã từng dự báo qua những con bài để biết về số phận chính xác đến tuyệt đối, ngay cả của hoàng đế nước Pháp hồi bấy giờ là Napoleon Bounaparte… Còn rất nhiều nhà ngoại cảm tìm hài cốt lỗi lạc nữa… Với quyển sách nhỏ được tập hợp từ nhiều kiểm chứng Đông, Tây, kim cổ góp phần dự báo để bạn đọc chiêm nghiệm và tham khảo. Ấy vậy mà trí tuệ của loài người vẫn đang còn bị hạn chế. Mặc dù từ thế hệ này qua thế hệ khác, mỗi ngày loài người lại khám phá cái mới, sáng tạo cái mới, nhưng cũng đồng thời lại quên lãng hay bỏ qua nhiều kiến thức uyên thâm, những thành quả vĩ đại của các thời đại cổ xưa ví dụ như các nền văn minh In Ca, Cổ: Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ, Trung Quốc v.v…Nhiều nền văn minh sán lạng của lục địa Châu Phi cổ xưa đã làm con người ngày nay phải ngỡ ngàng, sững sờ khi tình cờ phát hiện ra từ lòng đất. Ngay như một điều hiển nhiên là trái đất quay quanh mặt trời, thế mà gần 16 thế kỷ (kể từ công lịch) các học thuyết tôn giáo vẫn phủ nhận và khi Galile bác bỏ thuyết “địa tâm” ủng hộ thuyết “nhật tâm” của Copecnic ông đã bị thiêu sống. Rồi Bruno cũng phải chết trong tù đầy vì ủng hộ cái sự thật hiển nhiên ấy!Thế mới biết nhiều khi chính con người đề ra học thuyết này, nọ và các trường phái triết học khác nhau chỉ bởi vì lợi ích giai cấp của trường phái, chứ họ không quan tâm mấy đến sự thực hiển nhiên là vậy.Ai cũng bảo cái của mình là duy nhất đúng, là chân lý tuyệt đối.Không, vũ trụ bao la và vô tận, thế giới con người, sinh vật và thực vật vẫn còn chất chứa vô vàn huyền bí mà loài người với trí tuệ còn có hạn của mình vẫn hàng giờ say sưa khám phá, chiêm nghiệm hết thế hệ này đến thế hệ khác để thỏa mãn trí tò mò và vì lợi ích của chính mình.Về lĩnh vực con người, hàng nghìn năm trước cho đến ngày nay người ta cũng rất muốn biết những điều bí ẩn của chính mình. Biết bao học giả đã, đang dày công nghiên cứu áp dụng và kiểm chứng qua nhiều khoa phép để dự đoán xem tương lai của mỗi cá thể sẽ phải trải qua trong thời gian sống thế nào. Đã có nhiều khoa dự báo ra đời. Ví như: dùng thuật tướng. Các tướng thuật gia cho rằng “Mệnh là căn bản của một đời người. Tướng là trợ thủ cho Mệnh mà hình thành”. Như vậy có Mệnh ắt phải có Tướng và ngược lại có Tướng phải có Mệnh. Nếu riêng về Thuật Tướng, con người còn chia nhỏ để kiểm nghiệm, đúc kết ví dụ: gồm Diện Tướng (tướng mặt), Hình Tướng (tướng dáng người), Tọa Tướng (tướng ngồi), Thanh Tướng (tướng qua tiếng nói) v.v..Tướng Thuật gia nổi tiếng đời Đường Trung Quốc, ngài Viên Thiện Cương sau khi xem tướng cho Võ Tắc Thiên năm lên 9 tuổi đã tiên đoán với diện tướng “mắt rồng, cổ phượng, tướng cực quý hiếm” sẽ là thiên tử. Quả đúng là với dự đoán ấy, 28 năm sau ứng nghiệm.Hay dùng Thuật số (tử vi). Ở thời Tiền nhà Đường, Trung Quốc có rất nhiều Mệnh số gia nổi tiếng như: Ngài Dương Cấn ở Tứ Xuyên, tuy bị lòa mà giỏi đoán Mệnh, ông Thông Diễn, ông Chương Tấn Công, tể tướng bị bãi chức thời Kánh Lịch (Trung Quốc) v.v… đều là những Mệnh số gia uyên thâm dự báo, số mệnh không một lần sai. Họ đã được sách sử ghi chép.Rồi còn Chiêm tinh gia, Bốc Phệ gia (bốc quẻ); Nhà ngoại cảm, hay Kinh Dịch gia độn Giáp v.v.. Tất cả đều là các khoa phép dự báo ứng nghiệm trong thực tế cuộc sống.Cuối thế kỷ XX có nhiều Chiêm tinh gia rất nổi tiếng, nhà ngoại cảm tài ba, nhưng họ cũng chịu bất hạnh vì sự thù ghét của ý thức hệ. Đó là bà Vangelia Pendeva Minitrova, người phụ nữ Bulgari được mệnh danh là nhà tiên tri Vanga nhìn thấu tương lai và quá khứ, bà bị mù năm 16 tuổi và khi 30 tuổi đã thành nhà tiên tri và chính bà cũng đã bị ngồi tù vì không phù hợp ý thức hệ đang thống lĩnh lúc đó. Người phụ nữ Pháp Maria Adelaida Lenorman sinh ra ở Alanson Paris 1772 đã từng dự báo qua những con bài để biết về số phận chính xác đến tuyệt đối, ngay cả của hoàng đế nước Pháp hồi bấy giờ là Napoleon Bounaparte… Còn rất nhiều nhà ngoại cảm tìm hài cốt lỗi lạc nữa…Với quyển sách nhỏ được tập hợp từ nhiều kiểm chứng Đông, Tây, kim cổ góp phần dự báo để bạn đọc chiêm nghiệm và tham khảo.
Kinh Dịch - Trí huệ và quyền biến (Mưu của người quân tử) - Quyển hạ
Kinh Dịch xuất hiện từ thời thượng cổ, là cuốn Kinh đứng đầu những cuốn Kinh – quần Kinh chi thủ của Trung Hoa. Từ khi ra đời cho đến nay, Kinh Dịch đã cuốn hút không biết bao nhiêu nhà nghiên cứu thuộc nhiều thế hệ. Kinh Dịch xuất hiện từ thời thượng cổ, là cuốn Kinh đứng đầu những cuốn Kinh – quần Kinh chi thủ của Trung Hoa.Từ khi ra đời cho đến nay, Kinh Dịch đã cuốn hút không biết bao nhiêu nhà nghiên cứu thuộc nhiều thế hệ. Kinh Dịch không chỉ là thế giới hấp dẫn đối với các học giả Trung Quốc, học giả các nước phương Đông như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, mà còn hấp dẫn các nhà nghiên cứu ở các nước phương Tây như Anh, Pháp, Mĩ, Đức. Kinh Dịch bao gồm cả Đạo Trời – Đạo Đất – Đạo Người. Riêng Đạo Người, Kinh Dịch có 64 quẻ, tượng trưng các thời ; 384 hào tượng trưng 384 nhân vật điển hình, thiện có, ác có, sang có, hèn có ; mỗi nhân vật ở trong hoàn cảnh đặc biệt và có thời riêng. Trong thời chung, thời cơ riêng, ở hoàn cảnh đặc biệt, mỗi nhân vật điển hình trong Kinh Dịch thường đứng giữa ranh giới thiện – ác, tối – sáng, hoạ – phúc, thuận – nghịch, lợi – hại, tốt – xấu … chọn hướng nào là ẩn số của bài toán ở đời? Phù hiệu, văn tự của mỗi quẻ, mỗi hào là những dữ kiện của những bài toán ấy. Dịch là biến dịch, biến hoá ; quan trọng của Dịch là chữ Thời. Các nhà nghiên cứu thường dựa vào các dữ kiện tìm ra đáp số là lợi hay hại, thuận hay nghịch, xấu hay tốt. Kinh Dịch không chỉ là thế giới hấp dẫn đối với các học giả Trung Quốc, học giả các nước phương Đông như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, mà còn hấp dẫn các nhà nghiên cứu ở các nước phương Tây như Anh, Pháp, Mĩ, Đức.Kinh Dịch bao gồm cả Đạo Trời – Đạo Đất – Đạo Người. Riêng Đạo Người, Kinh Dịch có 64 quẻ, tượng trưng các thời ; 384 hào tượng trưng 384 nhân vật điển hình, thiện có, ác có, sang có, hèn có ; mỗi nhân vật ở trong hoàn cảnh đặc biệt và có thời riêng.Trong thời chung, thời cơ riêng, ở hoàn cảnh đặc biệt, mỗi nhân vật điển hình trong Kinh Dịch thường đứng giữa ranh giới thiện – ác, tối – sáng, hoạ – phúc, thuận – nghịch, lợi – hại, tốt – xấu … chọn hướng nào là ẩn số của bài toán ở đời? Phù hiệu, văn tự của mỗi quẻ, mỗi hào là những dữ kiện của những bài toán ấy.Dịch là biến dịch, biến hoá ; quan trọng của Dịch là chữ Thời. Các nhà nghiên cứu thường dựa vào các dữ kiện tìm ra đáp số là lợi hay hại, thuận hay nghịch, xấu hay tốt.Mở đầu Thượng kinh là hai quẻ Càn – Khôn, mở đầu Hạ kinh là quẻ Hàm, nam – nữ gặp nhau ; thể hiện tam tài Thiên – Địa – Nhân hoặc Thiên – Nhân hợp nhất. Thứ tự quẻ, tự quái giải thích như sau : Đầu tiên có Trời Đất, sau mới có vạn vật, đã có vạn vật, sau mới có trai gái, có trai gái mới có âm dương giao kết mà thành vợ chồng, đã có vợ chồng mới có công sinh dục mới thành cha con. Vậy sau mới thành trật tự loài người, mới sinh ra quân thần, đã có quân thần mới có chế độ mà chia ra trên dưới, đã có trên dưới, vậy sau mới đặt ra lễ nghĩa, mới có chỗ thực hành. (Hữu thiên địa, nhiên hậu hữu vạn vật, hữu vạn vật, nhiên hậu hữu nam nữ, hữu nam nữ, nhiên hậu hữu phu phụ, hữu phu phụ, nhiên hậu hữu phụ tử. Hữu liễu phụ tử nhiên hữu quân thần, hữu liễu quân thần, nhiên hậu hữu thượng hạ, hữu liễu thượng hạ, nhiên hậu lễ nghĩa hữu sở kiến lập, hữu sở thực chi. Mở đầu Thượng kinh là hai quẻ Càn – Khôn, mở đầu Hạ kinh là quẻ Hàm, nam – nữ gặp nhau ; thể hiện tam tài Thiên – Địa – Nhân hoặc Thiên – Nhân hợp nhất.Thứ tự quẻ, tự quái giải thích như sau : Đầu tiên có Trời Đất, sau mới có vạn vật, đã có vạn vật, sau mới có trai gái, có trai gái mới có âm dương giao kết mà thành vợ chồng, đã có vợ chồng mới có công sinh dục mới thành cha con. Vậy sau mới thành trật tự loài người, mới sinh ra quân thần, đã có quân thần mới có chế độ mà chia ra trên dưới, đã có trên dưới, vậy sau mới đặt ra lễ nghĩa, mới có chỗ thực hành.(Hữu thiên địa, nhiên hậu hữu vạn vật, hữu vạn vật, nhiên hậu hữu nam nữ, hữu nam nữ, nhiên hậu hữu phu phụ, hữu phu phụ, nhiên hậu hữu phụ tử. Hữu liễu phụ tử nhiên hữu quân thần, hữu liễu quân thần, nhiên hậu hữu thượng hạ, hữu liễu thượng hạ, nhiên hậu lễ nghĩa hữu sở kiến lập, hữu sở thực chi.
Địa lý Tảo Ao - Cao Trung
Khoa Địa Lý của Trung Hoa, xưa kia, là khoa phối hợp thuyết âm dương, ngũ hành với sự quan sát cách thế, hình thể của các mạch đất cùng lối đi của sông, ngòi, suối, lạch mà tìm ra nơi có chứa tụ khí mạch của đất, dùng nơi đó làm đất kết. Họ quan niệm rằng nơi có đất kết, có thể chôn xương người chết nếu là kết âm - phần và có thể làm nhà, đình chùa, lập Doanh trại, Thị Trấn, Đô thị lên trên nếu là đất kết dương cơ, để người sống được hưởng sự thịnh vượng, phát đạt do tụ khí của vùng đất kết đó.  Khoa Địa lý có từ lâu, sự ích lợi của đất kết đã được Ông cha chúng ta tin tưởng và cả chúng ta cũng có nhiều người công nhận là đúng; sử sách có ghi chép nhiều sự kiện chứng tỏ là khoa Địa Lý có một giá trị nào ảnh hưởng đến đời sống con người.Câu ca dao: " Sống về mồ mả chứ không ai sống về cả bát cơm" đã chứng minh sự quan trọng của khoa học địa lý với con người Việt Nam. Khoa địa lý, có một huyền thoại vàng son như vậy tiếc thay đến nay đã gần như thất truyền, vì phép địa lý chính tông đã bị những man sư và man thư làm cho sai lạc đi nhiều. Lý do của sự tàn tạ sa sút của khoa này trước kia do quan niệm người xưa để giữ ngôi vị của một số dòng họ nên họ giữ bí mật chỉ một số ít được truyền lại....Địa Lý Tả Ao Địa Đạo Diễn CaNXB Sài Gòn 1969Cao Trung112 Trang
Hi Di với vền văn hóa Trung Hoa đời Tống
Cuốn sách Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời Tống được soạn giả Dương Thành sưu tầm và biên soạn, gồm 2 phần: Phần 1: Khoa Lý số học – giới thiệu xuất xứ và trình bày những nét văn hóa Trung Hoa đời Tống trong này. Nhận định của soạn giả về những căn bản của Lý số học. Phần 2: Thuật Lý số học – xưa và nay – giới thiệu các cách phân tích, sử dụng những kiến thức của Khoa Lý số học, xưa và nay.​ Cuốn sách Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời Tống được soạn giả Dương Thành sưu tầm và biên soạn, gồm 2 phần: Phần 1: Khoa Lý số học – giới thiệu xuất xứ và trình bày những nét văn hóa Trung Hoa đời Tống trong này. Nhận định của soạn giả về những căn bản của Lý số học. Phần 2: Thuật Lý số học – xưa và nay – giới thiệu các cách phân tích, sử dụng những kiến thức của Khoa Lý số học, xưa và nay.​ Lý số học, theo tương truyền được đạo sĩ Trần Đoàn, tự là Đồ Nam, hiệu là Hi Di, ở núi Vũ Dương sáng lập ra vào cuối đời Đường, đầu nhà Tống ở Trung Quốc. Trong dân gian còn được gọi là Tử Vi, gọi theo tên ngôi sao đứng đầu các sao trong môn học này.Môn học này đã được truyền vào Việt Nam hơn 1000 năm nay và được người Việt Nam tiếp nhận một cách sáng tạo, có thể nói, trường phái Lý số học Việt Nam đã có những khác biệt nhất định so với Trung Quốc. Kể cũng kỳ lạ, hiện nay Lý số học không còn được thịnh hành lắm ở Trung Quốc. Người Trung Quốc bây giờ thường hay dùng Tử Bình và bốc Dịch để giải lý xem số! Điều này phải chăng cũng cảy ra giống quy luật lan truyền văn hóa, lan truyền đạo Phật, là truyền từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam.Những bí ẩn về Lý số học chắc chắn chưa thể khai thác hết, vì môn học này liên quan chặt chẽ đến thiên văn, địa lý và cấu trúc con người ở tầm vũ trụ, ở tầm tâm linh. Cũng vì thế mà nó mang một dáng dấp mơ hồ, vì cơ sở khoa học của nó dường như vẫn còn nằm trên ngưỡng nhận thức của khoa học hiện đại, nhưng cũng vì thế có nhiều phiên bản sáng tạo một cách chủ quan hạn hẹp đã xuất hiện, phủ lên cho nó một tấm áo dị đoan. Nhưng hàng nghìn năm tồn tại của nó đã chứng minh sức sống mạnh mẽ của một cốt lõi có giá trị thật.Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời Tống Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời TốngDương Thành biên soạnNXB Lao ĐộngSố trang: 639