Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tửu Quốc - Mạc Ngôn

Tên Ebook: Tửu Quốc (full prc, pdf, epub) Tác Giả: Mạc Ngôn   Thể Loại: Tiểu Thuyết, Tình Cảm, Văn học phương Đông   Dịch Giả: Trần Đình Hiến   Đánh Máy: Nguyễn Học, Mọt Sách   Tạo Bởi: Phạm Huy Hùng   Nguồn: vnthuquan.net   Ebook: www.dtv-ebook.com   Ebook Tửu Quốc-Mạc Ngôn full prc pdf epub Giới Thiệu: Với Tửu Quốc (Đất nước của rượu), Mạc Ngôn đã trở thành nhà chép sử xuất sắc. Bằng bút pháp hiện thực pha lẫn huyền ảo, nhà văn kể lại câu chuyện về một đứa trẻ 14 tuổi, dung mạo xấu xí, ăn nhầm phải thuốc của Học viện nấu nướng và bị biến thành trẻ lên 3. Trinh sát viên ngoại hạng Đinh Công đến Tửu quốc để điều tra vụ việc thì cũng bị chết đuối trong rượu và mỹ nhân... Bản thân nhà văn Mạc Ngôn cũng từng thừa nhận: "Tôi viết Tửu Quốc vì buồn về sự sa đọa của con người, buồn cho một xã hội bị tha hóa, nơi mà người lớn chỉ biết nhậu nhẹt để rồi ăn hết phần của trẻ con và... ăn luôn cả thịt trẻ con!".   Mạc Ngôn Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, xuất thân nông dân, sinh ngày 17/2/1955 tại làng Cao Mật (tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Mạc Ngôn là điển hình cho sự thành đạt của lớp nhà văn trẻ thời kỳ ""hậu cách mạng văn hoá". Ông thất học từ năm 11 tuổi (đang học lớp 5 tiểu học thì nổ ra Cách mạng văn hoá). 10 năm sau đó, ông suốt ngày chăn dê ngoài đồng. Đói khát và cô đơn luôn là người bạn đồng hành. Mạc Ngôn hiện là sáng tác viên bậc 1 thuộc Tổng cục Chính trị Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Ông được Hiệp hội Nhà văn châu Á bình chọn là một trong những văn tài có triển vọng nhất thế kỷ XXI. Mời các bạn đón đọc Tửu Quốc của tác giả Mạc Ngôn.  

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tâm Hồn Trong Trắng
Trong khi hầu hết các tác gia phương Tây đi vào những đề tài như con người hiện đại, cuộc sống văn minh với sự no đủ về vật chất thì Paule Constant lại chọn cách ngược lại. Bằng giọng văn chân thật, bà đã vẽ ra cả một xã hội vẫn còn những ngổn ngang lo âu, toan tính, đặc biệt là những con người nhỏ bé, vô danh, lao xao như đàn khỉ ở Phi châu. Phi châu là bối cảnh quen thuộc được Paule Constant lựa chọn để mô tả những con người lam lũ, cơ cực. Cuộc sống của họ thường hiện lên như những kẻ man rợ, điên rồ và mù quáng, nhiều khi ranh giới giữa người và vật dường như không còn. Thực chất, đó chỉ là nét vẽ biếm họa của bà để những con người phương Tây hiện đại thấy rõ rằng: bên cạnh cuộc sống sung túc của họ thì còn cả những dân tộc, những đất nước, những con người đói khổ, khao khát cuộc sống no đủ, hạnh phúc. Tâm Hồn Trong Trắng (White Spirit) như là một tác phẩm mô tả hành trình kiếm tìm hạnh phúc của một con người nhỏ bé - chàng trai Victor. Victor rời nhà tới châu Phi, nơi anh hy vọng đó sẽ là miền đất hứa. Trên con tàu La Volonté de Dieu, anh đã tình cờ gặp một cô gái. Đó là Lola. Để rồi hành trình ra đi thoát khỏi quá khứ, vươn tới tương lai của anh trở thành một cuộc săn đuổi hạnh phúc. Victor đã vượt qua bao gian khó, bao tráo trở, bao lừa lọc, và vượt lên chính cả sự tha hóa của con người mình để đến với cuộc sống do chính anh tạo dựng. Đọc Tâm Hồn Trong Trắng (White Spirit) dễ khiến độc giả liên tưởng tới phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, với một bên là những kẻ bóc lột (César và Ysée) và một bên là 800 công nhân trong nông trường chuối - những kẻ như Victor, như Lola, và những con người bản xứ. Nhưng thực chất, đây chỉ là một cách mô tả cuộc sống đến tận cùng một cách trần trụi của Constant mà thôi. Để bạn đọc sẽ nhận thấy từ đó những bất công, những đau khổ mà nhiều nhân vật phải gánh chịu, cũng như tự lý giải nguyên nhân gây nên những bất công, đau khổ đó. Nét độc đáo là ở chỗ, Tâm Hồn Trong Trắng (White Spirit) ẩn chứa những mối tình hư hư thực thực. Nhìn thấy đấy mà lại như không thấy. Một đốc công độc ác với nhân công như Ysée, lại vô cùng đáng thương trong bóng tối, khi một mình đối diện với chính cái bóng lẻ loi của mình, khi trong căn phòng biệt lập với mọi người, lại hiện diện tình cảm đau đớn giữa ông ta với một con khỉ cái. Mối tình giữa César và Lola là mối tình chủ tớ, đầy mùi tiền và mùi chuối thối. Mối tình thánh thiện của Victor với Lola, lại thấp thoáng sự tự do đến đau lòng của con khỉ con, ngơ ngác trước thế giới đầy cạm bẫy… Sau hàng loạt tác phẩm dịch thành công như: Rừng thẳm của Julien Gracq, Bạn tôi tình tôi của Marc Levy, Người đàn bà thứ bảy của Frédérique Molay... Tâm hồn trong trắng là sản phẩm mới nhất của dịch giả Hiệu Constant. *** Paule Constant hiện tại sống tại Aix-en-Provence, một thành phố miền Nam nước Pháp. Bà là giáo sư giảng dạy văn học Pháp tại trường đại học Paul Cézanne (Aix-Marrseille III). Là một nữ tiểu thuyết gia, nhưng đồng thời bà cũng viết rất nhiều tiểu luận và cũng là một nhà phê bình văn học độc đáo. Bà đã thành lập và là Chủ tịch Trung tâm đào tạo nhà văn trẻ Miền Nam (Pháp) – Jean Giono tại thành phố Aix-en-Provence. Là một người bắt đầu sự nghiệp văn chương hơi muộn, cuốn tiểu thuyết đầu tay ra đời khi bà đã gần tuổi 40. Tác phẩm Ouregano (1980) đã ngay lập tức được bạn đọc đón tiếp nồng nhiệt và đã nhận được giải thưởng Valery Larbaud. Kể từ đó, nữ nhà văn làm việc không mệt mỏi và cho ra đời những tác phẩm có giá trị văn chương cao. Trong hầu hết các tác phẩm của mình, Paule Constant thường đi ngược dòng chảy với xã hội hiện tại. Bà đi sâu tìm hiểu cuộc sống đến tận chân tơ kẽ tóc, qua đó mà thực chất được phơi bày lộ liễu. Văn của Paule Constant là giọng văn trần thuật, hiện thực. Một nhà văn giàu kinh nghiệm sống và cặp mắt quan sát sâu rộng. Sáng tác của bà gần gũi với các tầng lớp người trong xã hội. Từ giàu sang đến nghèo hèn, ai cũng có thể tìm được bóng dáng mình trong đó. Chủ đề các tác phẩm của bà thường đề cập đến các nước thuộc địa. Bà lách sâu xuống đến tận cùng của đáy cuộc sống để moi bói từ đó lên chút tinh hoa tình người còn xót lại trong xã hội vật chất hoá này. Trong các tác phẩm của bà, cái ranh giới giữa người và vật đôi khi hay bị xô đẩy và nó hết sức mong manh. Những tác phẩm của Paule Constant đã được chọn để giảng dạy trong các trường học, được các công trình nghiên cứu văn chương chọn làm chủ đề nghiên cứu ở Pháp cũng như nhiều nước trên thế giới Mời các bạn đón đọc Tâm Hồn Trong Trắng của tác giả Paule Constant.
Tên Kẻ Cắp Và Những Con Chó
Saít Maran ra khỏi nhà tù với hy vọng làm lại cuộc đời để bình yên sống với đứa con yêu quý của mình. Nhưng Saít phát hiện ra một xã hội khác trước, đã thay đổi đến mức anh không còn chỗ đứng. Bị lừa dối và bị từ chối khắp nơi, kể cả những người thân nhất của mình là vợ con anh. Thất vọng và bị lừa phản bởi chính người thầy tôn kính, Saít đã nổi loạn chống lại xã hội ấy trong đoạn đường sôi nổi trong thành phố Cairô mà cuốn truyện dẫn người đọc chúng ta đi theo từng bước chân, từng suy tư, từng nỗi băn khoăn và hy vọng trong nhiều cuộc tiếp xúc và gặp gỡ: với Nua, cô gái làm tiền xinh đẹp vốn là bè bạn với anh từ nhỏ, với Giáo trưởng Ghêniđi, với Tácgiăng, tên chủ quán rượu kiêm trộm cướp…   Tác giả Mahfouz viết cuốn sách này từ 1961 bằng tiếng Ả rập tại Cairô, đến 1985 được dịch ra tiếng Pháp và được nhiều nước in lại và phát hành rộng rãi, được dựng thành phim. Năm 1988, cuốn sách được giải thưởng Văn học Nô-ben một cách xứng đáng. *** Nhà văn Ai Cập Naguib Mahfouz sinh trong một gia đình viên chức nhỏ, năm 1934 xuất bản tập truyện Tiếng thì thầm cuồng dại và các tiểu thuyết lịch sử Radobis và Cuộc đấu tranh của Phib. Sau thế chiến II, ông chuyển sang đề tài hiện đại, về  đời sống của tầng lớp của tầng lớp dân chúng thủ đô Cairo. Từ năm 1947 – 1956, ông viết tiểu thuyết ba tập Bộ ba Cairo, trong đó hai tập đầu được tặng giải thưởng quốc gia Ai Cập năm 1957. Năm 1959, tiểu thuyết ám chỉ bóng gió đến Muhammad và Jesus của ông được coi là phạm thượng và cấm xuất bản. Từ đầu những năm 60, ông thay đổi bút pháp: viết ngắn, phát triển nhanh, đề tài gay cấn, ngôn ngữ cô đọng gần với tiểu thuyết hiện đại Châu Âu. Ông còn hoạt động điện ảnh, làm chủ tịch Hội phê bình văn học nghệ thuật, và cố vấn Bộ văn hóa cho đến năm 1971 về hưu. Năm 1972, ông xuất bản tiểu thuyết Tấm gương, gồm 55 chương cũng là 55 bộ mặt đại diện cho các tầng lớp người khác nhau của Ai Cập được nhìn qua lăng kính nhà văn. Năm 1988, ông là nhà văn đầu tiên của Ai Cập nhận giải Nobel. Quá trình sáng tạo và ý thức công dân của ông trải qua những hoàn cảnh phức tạp và nhiều thay đổi chính trị của đât nước, các sáng tác của ông tỏ ra lo lắng cho số phận của đồng bào, thức tỉnh nhận thức đại chúng, giúp họ nhận biết vị trí của mình trong xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ, Ông được coi là nhà văn hiện đại lớn nhất của Ai Cập thế kỷ XX.  *** Nhà văn Naguib Mahfouz năm nay đã gần 80 tuổi. Tác phẩm của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và chuyển thành phim. Nhà xuất bản Sindbad – Pari đã xuất bản ba cuốn của ông: Cái ngõ lắm điều kỳ lạ, Câu chuyện phố tôi và Tên kẻ cắp và những con chó. Ông được tặng thưởng giải thưởng Nôben về văn học năm 1988.   Ba cuốn truyện với nội dung và phong cách khác nhau có thể coi là một bức tranh toàn cảnh về xã hội Ai Cập đương đại với nhiều chân dung phong phú, sinh động từ thầy tu, bác sĩ, giáo sư, đến các chủ hiệu, gái điếm, kẻ ăn mày, người thất nghiệp…   Kỳ lạ nhất là câu chuyện về một bác sĩ chuyên làm cái “dịch vụ” biến người lành thành tàn tật theo yêu cầu của khách. Khỏe mạnh, lành lặn không có việc làm kiếm sống. Đành phải nhờ bác sĩ biến thành mù lòa hoặc què quặt để đi ăn xin thì người ta mới cho! Một câu chuyện tưởng như không thể có lại là sự thật.   Tên kẻ cắp và những con chó được xuất bản năm 1961 ở Cai Rô, đã phản ánh xã hội Ai Cập trước và sau chiến tranh Ai Cập – Israel. Nhân vật chính là Said Mahbrane. Từ chỗ rất tin ở Thượng đế, ở nhà thờ, ở công lý và lương tâm – sau khi ra tù, anh đâm nghi ngờ và căm thù tất cả vì anh khám phá ra rằng xã hội đã từ bỏ anh, người ta đã phản bội anh.   Chính Aliebe, người bạn nghèo mà anh giúp đỡ đã âm mưu tố cáo với cảnh sát, đẩy anh vào tù và cướp vợ anh. Raouf Sluane là một giáo sư đại học mà đã có thời anh rất kính phục (nay là giám đốc một tờ báo lớn) đến bây giờ cũng chỉ là một tên đạo đức giả đáng khinh bỉ.   Niềm tin nơi anh bị đổ sụp khiến anh sinh tuyệt vọng và quyết định phải trả thù những kẻ phản bội. Nhưng không có nỗi đau và tuyệt vọng nào bằng việc chính con gái anh, nó không nhận anh. Như vậy đời anh còn ý nghĩa gì nữa? Nếu bọn phản bội không bị trừng phạt!   Cuốn truyện hấp dẫn không chỉ bằng những vụ án ban đêm, sự săn lùng của cảnh sát như một tiểu thuyết trinh thám. Cái hay và chiều sâu của truyện là ở những đoạn hồi tưởng, tường thuật xen kẽ những ý nghĩ, động cơ, tâm lý của nhân vật, mỗi người một vẻ rất sâu sắc. Mối tình của Noar cô gái điếm đối với Said trong ngôi nhà giữa những nấm mồ cũng thật là đẹp và kỳ lạ!   Ai là kẻ cắp! – Said hay chính là những tên phản bội kia?   Bọn chúng chó má hơn cả những con chó mà chúng đã dùng để ngửi hơi và lùng bắt anh.   oOo   Nếu không kể “Nghìn lẻ một đêm”, công chúng Việt Nam chưa tiếp xúc bao nhiêu với nền văn học Ả-rập. Sự hiểu biết của chúng ta đối với lịch sử, tôn giáo và văn học Ả-rập còn rất hạn chế! Đây là cuốn sách đầu tiên của một nhà văn nổi tiếng Ai-cập mà chúng tôi dịch để giới thiệu với bạn đọc, chắc không tránh được thiếu sót. Mong bạn đọc thông cảm.   Hà Nội, ngày 15 tháng Giêng năm 1990     Mời các bạn đón đọc Tên Kẻ Cắp Và Những Con Chó của tác giả Naguib Mahfouz.
Tội Ác Của Sylvestre Bonnard
Sylvestre Bonnard, một học giả già lỗi lạc đang gặp các vấn đề bất ngờ khi ông bắt tay vào tìm kiếm một vài tài liệu văn học cổ xưa của Giáo Hội để mang từ Paris đến Sicily và ghi dấu vào lịch sử cuộc đời của chính mình. Vì lợi ích của công lý và tình yêu, ông cố gắng hoàn thành công việc sao cho tốt nhất nhất là tính hợp pháp nghi ngờ. Với "Tội phạm của Sylvestre Bonnard", Anatole France (1844-1924) đã viết một cuốn tiểu thuyết vừa thông minh và khôn ngoan và theo cách thức của các bậc thầy vĩ đại của phong cách văn học - một cuốn sách đầy đủ lẫn hồi hộp từ đầu đến cuối. *** Một câu chuyện cảm động và kết thúc đẹp như mong ước, một cái kết gần giống như kết của 'Những người khốn khổ' (Les Miserables), với một đôi trẻ hạnh phúc, nhưng không kém phần hồi hộp khiến ta phải lo âu theo dõi. Sylvestre Bonnard, người kể chuyện, một ông lão tuổi ngoài 60 sống tại Paris, nước Pháp nửa sau thế kỷ XIX, sống cuộc sống độc thân giản nhị nhưng không quá túng thiếu với Thérèse người quản gia cũng già đã phục vụ ông qua mấy chục năm. Một con người khá cô độc nhưng không ghét loài người, sống bình lặng với người quản gia, con mèo, cùng công việc yêu thích là nghiên cứu các văn bản cổ, và dịu dàng, nhân ái với mọi người. Phần 1 - 'Khúc củi' với diễn biến về sau khá bất ngờ, khi ông theo đuổi một bản thảo cổ từ Ý trở lại Paris, trong quá trình đó gặp một người phụ nữ bí ẩn, và cuối cùng bản thảo bị người phụ nữ bí ẩn trả giá cao trong cuộc bán đấu giá. Người phụ nữ, hóa ra từng là vợ của một người nghèo khổ sống cùng tòa nhà với ông, nay đã là mệnh phụ, sẵn lòng mua bản thảo với giá cao để đáp lại ân tình của Bonnard khi trước. Một kết thúc theo kiểu gieo nhân nào gặp quả nấy. Phần 2 - 'Tiểu thư Jeanne Alexandre' là sự quyến luyến của ông lão Bonnard đối với Jeanne, cô bé là cháu gái của Clementine, người con gái mà ngày còn trẻ ông mến mộ. Do phá sản, bố mẹ cô khi mất đã để Jeanne bơ vơ giữa đời phải sống trong một trường nội trú với những điều kiện khắc nghiệt và người giám hộ không được tử tế. Nhờ danh vị thành viên Học viện mà Bonnard được cô Préfère nể trọng đón tiếp tử tế và cuộc sống của Jeanne đỡ khổ ải hơn. Nhưng khúc quanh của câu chuyện khá bất ngờ khi cô cấm ông Bonnard không được đến thăm Jeanne tại trường và cô bé lại tiếp tục chịu cuộc sống hà khắc dưới quyền cô. Người đọc hồi hộp theo dõi liệu ông lão Bonnard có thể phạm tội ác gì (theo hướng chống lại cô Préfère) nhằm giành giật lại cô bé mà ông yêu quý và muốn bù đắp cho. Kết cục, như ta đã biết là tốt đẹp, và cô bé Jeanne cũng đã có hạnh phúc lứa đôi với chàng công chức cùng nghề với Bonnard, khi còn là sinh viên đã tìm đến ông để trao đổi về học thuật. Trong Phần 2 này những trao đổi giữa ông lão Bonnard và chàng sinh viên Gélis về lịch sử (trang 224 - 225 - 226, Bản dịch của Nguyễn Xuân Phương, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, tháng 4.2001) là khá thú vị, hay trao đổi giữa Bonnard và cô Thèrése về giáo dục (trang 156) đến bây giờ vẫn hoàn toàn đúng đắn. Cũng ở Phần 2 này theo lời kể của Bonnard ta cũng thấy nước Pháp những năm 1800 vẫn còn chia rẽ khá sâu sắc giữa những người ủng hộ Napoleon (những kẻ cướp vùng Loire) và những người bảo hoàng Bourbons. - Con người (mặc giáp sắt thời Trung cổ) được bọc sắt như con bọ hung. Sự yếu đuối của họ là ở bên trong. (trang 18) - hãy đối xử rộng lượng với đồng loại để họ rộng lượng với chúng ta (trang21) - Người nghèo không tham vọng là có món tài sản vĩ đại nhất, hắn tự kiềm chế được mình, còn người giàu mà thèm muốn thì chỉ là một tên nô lệ khốn khổ (trang 22). - cái thú chuyện trò với một trí tuệ ưu việt và ôn hòa, cái thú ăn tối với một anh bạn thân (trang 22) - những thèm muốn thuở hoa niên là ghê gớm biết bao nhiêu (trang 22) - chúng cháu (tuy là người lớn) mãi mãi là trẻ con, chúng cháu không ngừng đuổi theo những đồ chơi mới lạ (trang 28) - người thiếu phụ ấy không trở nên xấu cũng không trở nên tốt. Hãy đợi chị ta kết thúc cuộc đời mới nên phán xét (trang 29) - điệu bộ bạo dạn ở những kẻ nhát gan (trang 37) - với ba xu, tôi có thể ăn, uống và rửa mặt tất tần tật với một lát dưa hấu bày trên chiếc bàn con (trang 38) - Phải thương xót họ: của cải vây quanh lấy họ mà không thấm thấu vào họ; họ đáng thương, nội tâm cùng quẫn. Sự khốn khổ của người giàu thật thê thảm. (trang 43) - Những người yêu tha thiết không viết về hạnh phúc của mình (trang 45) - người ta có học được đôi điều qua sách vở, nhưng người ta càng học tập được nhiều hơn khi đi đây đi đó. (trang 47) - những nỗi buồn, đó là một cách tiêu khiển quan trọng. (trang 51) - người mà ta yêu thương mãi mãi chỉ là một hình bóng, nhưng kỷ niệm về nàng mãi mãi là niềm mê say của đời ta. (trang 76) - con người chỉ làm chủ thời gian khi chia no ra thành giờ, thành phút, thành giây, nghĩa là thành những khoảng cách cân đối với đời người ngắn ngủi, bởi vì thời gian chính là cuộc đời. (trang 81) - đối với phái yếu, mọi việc đều đượcphép, mọi hành động của họ là đặc ân, là sủng ái. (trang 90) - Có trí thức chẳng là gì hết, tưởng tượng sáng tạo mới quan trọng. Chỉ cái gì người ta suy nghĩ sáng tạo ra mới tồn tại. (trang 91) - Nhân loại hầu như toàn là người chết. So với số người đã chết thì người còn sống chẳng là bao nhiêu. Cuộc đời này là gì, ngắn ngủi hơn trí nhớ, ngắn ngủi hơn con người. (trang 100) - cuộc đừi là vĩnh hằng, ta phải yêu quý nó trong những hình thái không ngừng đổi mới (trang 100-101) -điếc như bao than, chậm chạp như tổ chức tư pháp. (trang 108) - Hãy trù liệu cho những việc lớn, nên biết rằng ý định là thực tế duy nhất trên đời. (trang 109) - Hãy coi trọng vỏ bánh mì khô trong chiếc đãy hai túi của anh hơn những chim sẻ vườn được quay trong bếp của lãnh chúa. (trang 110) - Tất cả chúng ta đều có trong người một Don Quixote và một Sancho mà chúng ta nghe theo, và cả đang khi Sancho thuyết phục chúng ta thì chính là Don Quixote mà chúng ta phải khâm phục. (trang 110) - Thời gian chỉ êm dịu đối với những ai khoan thai thận trọng đón nhận nó. (trang 112) - thực tế vũ trụ là phản ảnh của tâm hồn chúng ta. (trang 113) - Goethe ví đại có sức sống lạ thường, thực sự tin rằng người ta chỉ chết khi người ta muốn, nghĩa là khi tất cả sức mạnh chống lại sự phân hủy cuối cùng, khi toàn bộ khí lực làm nên sự sống bị hủy diệt đến tận cùng. Nói cách khác, ông nghĩ rằng người ta chỉ chết khi khôn muốn sống nữa. (trang 141-142) - tôi vẫn thích sự đam mê điên rồ hơn sự đứng đắn dửng dưng. (trang 144) - một thằng ngu, không phải bằng ba chữ mà đúng là bằng mười hai tập. (trang 147) - Những kẻ không có nhược điểm thì thật ghê gớm; không ai tác động đến họ được. (trang 150) - điều thực sự xấu xa trong thời đại chúng ta là khôn ai bằng lòng địa vị của mình, trong xã hội, trong mọi tầng lớp, từ trên xuống dưới, bao trùm sự túng thiếu, nỗi khắc khoải lo âu, sự khát khao hạnh phúc. (trang 153) - Không có thời đại nào con người lại thèm muốn sự túng thiếu. Họ luôn luôn tìm cách cải thiện địa vị xã hội của mình. Sự cố gắng kiên trì này đã sản sinh ra những cuộc cách mạng trường kỳ. Nó tiếp tục, thế thôi. (trang 153) - nghệ thuật giảng dạy chỉ là nghệ thuật kích thích tính tò mò ham biết của những tâm hồn non trẻ, tiếp đó là thỏa mãn tính tò mò ham biết đó, và tính tò mò ham biết chỉ mãnh liệt và lành mạnh trong những đầu óc sung sướng. Dùn quyền lực nhồi nhét kiến thức vào những đầu óc thông minh là bịt chúng lại, bóp nghẹ chúng. Trí thức phải được nuốt vào một cách ngon lành thì mới tiêu hóa được. (trang 155-156) *** Anatole France (tên thật là François-Anatole Thibault, 16 tháng 4 năm 1844 – 13 tháng 10 năm 1924) sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học).   Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì “những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực”…   A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire.     Tác phẩm chính:   - Những câu thơ vàng (Poèmes dorés, 1873), thơ.   - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, 1881), tiểu thuyết.   - Sách của bạn tôi (Le Livre de mon ami, 1885), hồi ký.   - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, 1894), tiểu thuyết.   - Vườn Epicure (Le jardin d'Epicure, 1894), tập cách ngôn.   - Lịch sử hiện đại (L'histoire contemporaine), gồm 4 tiểu thuyết:    + Cây du trên đường dạo chơi (L'orme du mail, 1897)   + Hình người bằng cây liễu (Le mannquin d'osier, 1897)   + Chiếc nhẫn tử thạch anh (L'anneau d'amethyste, 1899)   + Ông Bergeret ở Paris (Monsieur Bergeret à Paris, 1901)   - Hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, 1912), tiểu thuyết   - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, 1914), tiểu thuyết.     Những tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:     - Quyển truyện của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Vũ Thị Hay và Lê Ngọc Trụ dịch, Trung tâm Học liệu xuất bản, 1962, tái bản 1972   - Sách của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Hướng Minh dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, 1988, tái bản 2009.   - Đảo Panhgoanh (L'Île des Pingouins tiểu thuyết), Nguyễn Văn Thường dịch, NXB Văn Học, 1982.   - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, tiểu thuyết), Đoàn Phú Tứ dịch, NXB Văn Học, 1987.   - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, tiểu thuyết), Nguyễn Trọng Định dịch, NXB Phụ Nữ, 1989.   - Các hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, tiểu thuyết), Trần Mai Châu dịch, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1990.   - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1996.   - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001.   - Thais-Vũ nữ thoát tục, (Thaïs, tiểu thuyết), Hoàng Minh Thức dịch, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1989.   - Mối tình người thợ gốm, (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, Hà Nội 1987. ***  Tôi xỏ chân vào giày vải, khoác lại áo mặc trong nhà rồi lau giọt nước mắt do cơn gió bấc thổi ngoài bến tàu làm cho tôi tối tăm mặt mũi. Lửa rực sáng trong lò sưởi phòng làm việc của tôi. Những tinh thể băng tuyết hình lá dương xỉ phủ đầy bên ngoài mặt kính các cửa sổ, che lấp con sông Seine, các cây cầu và cung điện Louvre des Valois.   Tôi đẩy ghế bành và bàn di động đến gần lò sưởi chiếm lấy chỗ của chú mèo Hamilcar. Nó nằm khoanh tròn trên chiếc ghế lông, bốn chân ôm lấy mũi, ở đầu các thanh gác củi. Một làn gió đều đều phe phẩy bộ lông dày và nhẹ của nó. Thấy tôi đến gần, nó hé hai hàng mi, đưa cặp mắt mã não ra nhìn dịu dàng rồi nhắm lại ngay, nghĩ rằng: “Không hề gì, đó là bạn ta.” “Hamilcar!”. Tôi vừa kéo chân vừa gọi nó – “Hamilcar, ông hoàng ngủ gà của khu nhà sách, người canh gác ban đêm ơi! Mày chống lũ gặm nhấm hèn hạ, bảo vệ những bản thảo và ấn phẩm mà nhà bác học già nua đã mua với số tiền dành dụm ít ỏi là lòng nhiệt thành không mệt mỏi. Hamilcar, trong chốn thư viện im lặng này được các đức tính nhà binh của mày bảo vệ, mày hãy ngủ ung dung đài các như một bà hoàng! Bời vì ở mày hội tụ được dáng vóc tuyệt vời của một quân nhân Hung Nô với vẻ yêu kiều của một phụ nữ phương Đông. Hỡi chú Hamilcar anh hùng và thích khoái lạc, hãy vừa ngủ vừa chờ cơ hội lũ chuột nhảy múa dưới ánh trăng, trước giáo đường của nhà thông thái giáo phái Bông-lăng”.   Lời mở đầu bài diễn văn này làm vui lòng con Hamilcar, nó phụ theo bằng một tiếng khò khò trong họng như tiếng reo trong ấm nước sôi. Nhưng khi tôi cất cao lời nói, con Hamilcar cụp tai xuống, nhăn cái trán vằn, có ý cảnh cáo tôi nói năng cầu kỳ hoa mỹ như vậy là nghe chướng và nó nghĩ:   “Con người sách vở này nói năng chẳng đâu vào đâu, còn bà quản gia thì bao giờ cũng chỉ tuôn ra những lời lẽ đầy ý nghĩa, chứa đựng sự việc, hoặc báo tin một bữa ăn hoặc một trận đòn. Người ta biết chắc điều gì bà nói. Còn ông già này ghép lại những âm chẳng có ý nghĩa gì hết”.   Con Hamilcar nghĩ như vậy đó. Để mặc cho nó suy tư, tôi mở một cuốn sách và chăm chú đọc. Đó là cuốn danh mục các bản thảo. Tôi thấy không có gì dễ dàng hơn, thú vị hơn, êm đềm hơn bằng đọc một cuốn danh mục. Cuốn danh mục tôi đọc, do ông Thompson, cán bộ thư viện của ngài Thomas Raleigh, soạn thảo vào năm 1824 là cuốn sách hỏng, đúng thế, vì sự vắn tắt quá đáng và không thể hiện chút nào thứ chính xác mà các nhà lưu trữ thế hệ tôi đầu tiên đưa vào các tác phẩm về ngoại giao và về khoa chữ cổ. Nó chưa hoàn hảo, phái đoán mò. Có lẽ vì thế mà khi đọc nó, theo một bản tính tưởng tượng phong phú hơn bản tính của mình, tôi có cái cảm giác đáng được gọi là sự mơ mộng. Tôi lâng lâng thả mình trong dòng suy tư lơ mơ thì chị quản gia bằng một giọng cáu kỉnh bảo tôi biết có ông Coccoz yêu cầu nói chuyện với tôi.   Quả nhiên, một người nào đó lặng lẽ theo chị đi vào thư viện. Đó là một con người bé nhỏ, một con người bé nhỏ thảm hại, vẻ mặt ốm yếu, mặc chiếc áo mỏng dài đến đầu gối. Anh tiến về phía tôi, cúi chào mỉm cười nhiều lần, một cách tự tin. Anh rất đỗi xanh xao, tuy còn trẻ và nhanh nhẹn, nhưng hình như đang ốm. Nhìn anh, tôi nghĩ tới một con sóc bị thương. Anh cầm trong tay một mảnh vải bọc hàng màu xanh, đặt lên ghế, rồi mở bốn đầu mối của mảnh vải, để lộ một lô sách màu vàng.   - Thưa ông – lúc ấy anh cất tiếng – tôi không có hân hạnh được ông quen biết. Thưa ông, tôi là người môi giới cho hiệu sách. Tôi làm việc này cho các nhà buôn chính ở thủ đô, và với hy vọng rằng ông vui lòng cho tôi được hết sức tự hào về sự tin cậy của ông, tôi xin tự tiện mời ông một vài cuốn sách mới.   Trời đất ơi! Sách mới gì mà con người Coccoz nhỏ bé này mời tôi mua thế. Tập thứ nhất anh ta đặt vào tay tôi là cuốn Lịch sử tháp chiến Nesle với những chuyện dan díu giữa Margurite de Bourgogne và đại tá Buridan.   - Đó là cuốn sách lịch sử. – Anh vừa cười vừa bảo tôi. – Một cuốn sách đích thực.   - Trong trường hợp này – tôi đáp – thì chán lắm, bởi vì những cuốn sách lịch sử mà không nói láo thì đều buồn thiu buồn thỉu. Chính tôi đã viết những sách xác thực kia và nếu chẳng may cho anh, anh đi từ nhà này sang nhà khác giới thiệu cuốn nào, anh sẽ có nguy cơ suốt đời giữ nó lại trong cái bọc vải xanh của anh, không bao giờ tìm ra một chị cấp dưỡng nào khá kém chín chắn mua cho anh.   - Thưa ông, tất nhiên – Con người nhỏ bé đáp lại hoàn toàn chiều theo ý tôi.   Và vừa cười, anh ta đưa cho tôi cuốn Những chuyện dan díu của Héloise và Abeilard, nhưng tôi làm cho anh hiểu ngay rằng ở tuổi tôi, tôi chẳng làm gì với một chuyện tình.   Vẫn nụ cười trên môi, anh đề nghị tôi mua cuốn Luật về trò chơi đông người bài pikê, bài béji, bài các tê, bài uýt, bài súc sắc, bài con đam, cờ tướng.   - Chao ơi! – Tôi bảo anh ta – nếu anh muốn tôi nhớ lại luật chơi bài béji, anh hãy trả lại ông bạn già Bignan của tôi đã cùng tôi chơi bài mỗi buổi chiều, trước lúc ông ấy được năm viện hàn lâm long trọng đưa đến nghĩa địa, hoặc anh hãy làm xẹp sự thông minh trang trọng của con Hamilcar mà anh thấy nằm ngủ trên chiếc gối này, đối với chuyện phù phiếm về các trò chơi của con người, vì ngày nay, nó là người bạn duy nhất trong các buổi tối của tôi.   Nụ cười của con người nhỏ bé trở nên mơ hồ và hốt hoảng.   - Đây – anh bảo tôi – một tập mới xuất bản về các trò giải trí đông người, những câu pha trò, những trò chơi chữ, với những cách đổi một hoa hồng đỏ thành hoa hồng trắng.   Tôi bảo anh rằng từ lâu tôi đã rối lên với những hoa hồng, còn đối với những câu pha trò thì tôi chỉ cần những câu nào tôi được phép dùng một cách tự nhiên trong quá trình tiến hành các công việc khoa học.   Con người bé nhỏ lại đưa cho tôi cuốn sách cuối cùng với nụ cười lần chót. Anh nói:   - Đây là Sách giải mộng, giải thích tất cả mọi giấc mộng của người đời: mộng được vàng, mộng thấy mình là kẻ trộm, mộng thấy mình chết, mộng thấy từ trên cao trơi xuống… Đủ cả!   Tôi cầm cái gắp than, vung mạnh và trả lời ông khách luôn:   - Đúng, anh bạn ạ, nhưng những giấc mơ đó và muôn nghìn giấc mơ khác, vui có, buồn có, tóm lại chỉ là một mà thôi, đó là giấc mộng cuộc đời, và cuốn sách bìa vàng nhỏ của anh có cho tôi cái chìa khóa để giải giấc mộng đó không? Mời các bạn đón đọc Tội Ác Của Sylvestre Bonnard của tác giả Anatole France.
Triển Lãm Thuộc Địa
Louis muốn làm chánh tham biện thuộc địa. Thực ra, đó là mong muốn của bà Marguerite, mẹ anh… Đến lúc lên đường, anh không còn thấy “nơi đó” kỳ lạ, mà chỉ thấy kinh khủng… Những xứ sở xa xôi mà người ta thèm muốn bỗng trở nên đáng sợ và Louis từ chối ra đi… Sau này, anh trao lại cho Gabriel, con trai mình, sứ mệnh thực hiện mơ ước của bà nội. “Triển lãm thuộc địa” là câu chuyện về nước Pháp đầu thế kỉ 20 được thổi phồng qua góc nhìn hạn hẹp. Đó là câu chuyện về một kỹ sư, say mê cây cao su, nhựa cao su và những chiếc lốp xe.   Well Leon dịch  *** Erik Orsenna tên thật là Erik Arnoult, sinh ngày 22 tháng 03 năm 1947 tại Paris, là một chính trị gia, đồng thời là tiểu thuyết gia người Pháp.   Một số tác phẩm của ông:   1973 Loyola’s blues   1977 La Vie comme à Lausanne   1977 Espace national et déséquilibre monétaire, dưới tên thật là Érik Arnoult   1980 Une comédie française   1988 L’Exposition coloniale   1992 Besoin d’Afrique, với sự cộng tác của Éric Fottorino và Christophe Guillemin   1993 Grand amour   1996 Histoire du monde en neuf guitares, với Thierry Arnoult   1996 Mésaventures du Paradis, mélodie cubaine, với Bernard Matussière   1997 Deux étés   1998 Longtemps   2000 Portrait d'un homme heureux : André Le Nôtre   2001 La grammaire est une chanson douce   2003 Madame Bâ   2004 Les Chevaliers du subjonctif   2005 Portrait du Gulf Stream   2006 Voyage au pays du coton  *** Mở đầu là cửa hiệu sách.   Tôi đề cập đến thời mà sách vở vẫn còn được coi trọng. Một thời kỳ lùi quá xa với lịch sử của chúng ta, phân cách chúng ta qua hai cuộc xung đột mang tính chất thế giới, vài cuộc thử nghiệm diệt chủng, thiết lập, thối chí, tháp Eiffel và một số các sự kiện khác ít quan trọng hơn.   Như vậy mở đầu là cửa hiệu sách. Tôi đã được thụ thai chính tại đây, giữa môi trường thuận lợi cho những tính cách thích đi đó đây, những mẩu chuyện về các cuộc hành trình, những tấm bản đồ, những cuốn sổ tay vệ sinh nhiệt đới. Bố mẹ tôi mới làm quen với nhau chưa được bao lâu, nhưng nỗi đắm say hai người dành cho nhau thật mãnh liệt. Do đang sống ở nhà bà nội, bố không thể đưa mẹ về chỗ mình. Hơn nữa, bố tôi ghét đồng quê và do chỗ người vợ chưa cưới của ông khước từ những cuộc du ngoại bằng xe ngựa thuê và đến những phòng thuê từng ngày một nên chỉ còn mỗi cửa hiệu.   - Hành động mà nhờ nó con có được cuộc đời đã xảy ra quá nhanh gọn, - mãi nhiều năm sau này ông mới thổ lộ với tôi. – Nếu bố đã giữ được lâu hơn thì chắc con đỡ bị bé nhỏ. Nhưng bố có các tình tiết được giảm nhẹ tội, cửa sắt không hạ, một vị khách có thể xộc vào bất cứ lúc nào… Bố xin lỗi con.  Những lời xin lỗi đã được chấp thuận. Vĩnh biệt vẻ oai vệ! Ta chẳng nói đến nữa. Mở đầu là cửa hiệu sách. Chính từ đây, Louis, bố tôi, đã tới bệnh viện khi đến đúng thời hạn. Quanh bên chúng tôi, các bà xơ từ thiện đi đi, lại lại, vỗ nhẹ các cặp má, làm dịu những tiếng kêu khóc, yêu cầu cho đưa nước sôi tới, trao bình sữa và bô, luôn miệng tạ ơn Chúa, như ta thường thấy diễn ra ở các nhà hộ sinh. Thờ ơ trước cảnh ồn ào náo nhiệt này, bố Louis cúi người bên nôi tôi, ghé miệng vào sát tai. - Ông nên để cháu bé ngủ yên.- một xơ nói.   - Ông không bị cảm đấy chứ? – Một xơ khác bảo.   - Thưa ông, mong ông đừng làm cháu bé bị mệt – bà xơ thứ nhất lại lên tiếng bảo.   Nhưng cháu bé không bị mệt. Nó vẫn được ấp ủ, có điều theo một cách khác. Hơi ấm của lòng mẹ tiếp theo sự âu yếm dịu dàng trong lời nói của cha. Và những cảm giác mới lạ khác nhau, không kém phần ngọt ngào, đôi lỗ tai nhỏ bé, trung khu của thính giác, có thể gây cho tâm hồn nhiều vui thích như toàn bộ da thịt. Sự thật này được năm tháng khẳng định. Các xơ từ thiện lo ngại cho sức khỏe của tôi:   - Thưa ông, tôi xin ông, thưa ông, trẻ sơ sinh cần tĩnh lặng.   Các xơ thì biết gì?   Do chỗ người nói chuyện không cần bận tâm ngay cả đến sự hiện diện của các xơ, các xơ liền cầu cứu hai anh trực phòng. Họ lôi ra khỏi phòng chàng Louis vẫn lẩm bẩm câu chuyện của mình. Gần đâu đây, sản phụ thiếp ngủ.     Cô gái được gọi là Sản phụ hẳn đã hút về mình tất cả giấc ngủ có được trong khu vực Paris, vì Louis, khi quay về nhà, không tài nào chợp mắt nổi, anh chong chong thao thức. Ta có con trai, ta có một đứa con trai, điệp khúc này như ánh mặt trời sưởi ấm lòng anh. Nửa đêm, đang đắm mình trong hồi ức của Christophe Colomb, Louis chợt tự hỏi: điều gì làm con người hạnh phúc hơn, có một đứa con trai hay phát hiện ra châu Mỹ? anh hoang mang khi nghe có tiếng gõ cửa hiệu sách ở dưới nhà.   - Thưa ông, thưa ông…   Một trong hai anh chàng trực phòng, cái tay lực lưỡng nhất, đã thô bạo tống khứ anh rời khỏi phòng, đang í ới gọi qua cửa.   - Mời ông lại ngay cho, mời ông lại ngay đi…   Louis vội nhảy bổ xuống.   - …Con trai ông cứ gào khóc hoài, bác sĩ trưởng khoa nghĩ rằng gào mãi thế cháu có thể chết mất.   - Từ bao lâu rồi?   - Dạ, từ lúc ông rời khỏi phòng.   Hai người vội lao tới bệnh viện. Các xơ đứng đợi ngoài hành lang, tay lần tràng hạt bằng gỗ hoàng dương.   - Mời ông vào đây, nhanh lên, lạy Đức Jésus, Marie, Joseph, ông vào nhanh lên…   Louis ngồi xuống và vừa mở miệng bắt đầu kể những câu chuyện của mình thì chú thính giả bé bỏng liền im bặt, nhìn cặp môi méo xệch và mép dúm lại, tất cả các xơ đang có mặt đều nhất trí cho rằng đấy là nụ cười đầu tiên. Từ lúc đó, chẳng ai còn nghĩ cách tống khứ người nói chuyện nữa. Họ còn cấp cho anh một chiếc giường xếp và một chiếc áo sơ mi theo quy định, rộng thùng thình, dài, màu trắng, vạt trái in hình Sacré – Coeur màu đỏ. Bố tôi phải ngừng kể một lát để xỏ áo. Lập tức những tiếng gào thét của tôi lại dội lên…   Để hai bố con tôi được tự do tâm sự, người ta đã ngăn cho hai bố con tôi một tấm bình phong đen thường dùng để cách ly những người hấp hối với thế giới bên ngoài. Do đó, trong căn phòng công cộng rộng, chúng tôi nghe nổi lên quanh mình những bài kinh cầu siêu và những lời cầu nguyện cho người chết. Dĩ nhiên, phần lời đệm đó không gây hại cho niềm hạnh phúc của cả ba người: tôi – Gabriel - đứa trẻ sơ sinh, Louis - người kể chuyện và mẹ tôi - sản phụ, giữa lúc đó đã thức giấc và chăm chăm nhìn chồng không rời mắt. Các xơ thay phiên nhau lần lượt bước vào căn buồng chúng tôi, viện lý do lấy tin (bà và ông đều ổn cả chứ? Ông và bà cần gì không?). Thật ra, họ làm ra vẻ như muốn có ý kiến và định giải đáp một câu hỏi mang tính thần học: tôi bặt khóc khi bố tôi vừa ghé vào tai tôi nói, liệu đấy có phải là một điều diệu kỳ không? Một số người sẵn sàng chấp nhận điều đó và cảm tạ Đấng Tối Cao đã chọn tu viện hèn mọn của họ để tỏ rõ tất cả Lòng Khoan Dung của Người… Nhưng đại đa số nữ tu sĩ cho rằng đây là loại các sự kiện thuộc kẻ hơi hạ cấp và người ta có thể gọi là ái tình, không thể hơn thế nữa. Mãi đến tận cuối đời mình, bố Louis của tôi vẫn nhắc đi nhắc lại rằng, tại nơi đó, giữa các bà xơ ở Saint- Vincent-de-Paul, bố đã được hưởng những giờ phút tốt đẹp nhất. Các xơ đã ân cần chăm sóc, chăm chút từng li từng tí và thậm chí sùng kính bố tôi (bởi vì giả thuyết về điều kỳ diệu không hoàn toàn loại bỏ, có lẽ cũng còn do ông đẹp trai và trẻ trung biết bao, chưa đầy mười tám cái xuân xanh). Họ bỏ qua cho bố tôi mọi ý thích thất thường, lo sợ ông bỏ về và tôi lại làm huyên náo ầm ĩ. Và bố Louis đã lợi dụng tình thế đó, ngay sáng hôm sau, miệng vừa kể chuyện cho con trai, ông vừa ca cẩm đủ mọi thứ bệnh và có trời mới biết nổi sức tưởng tượng về nỗi khắc khoải của ông thật phong phú biết nhường nào. Lúc thì ông kêu mình bị đau nhức cơ gian sườn, lúc thì kêu tay trái như bị kiến cắn râm ran, ruồi lọt vào mắt, và quãng chín giờ ông lại kêu hai mông ê ẩm… Mỗi lẫn ông kêu ca, người ta lại phải mời bác sĩ đến để an ủi ông: - Không, thưa ông, ông hoàn toàn khỏe mạnh.   - Ông thề đi! - Bố Louis yêu cầu.   - Có Chúa chứng giám, tôi xin thề đấy.   Và thế là chứng bệnh ám khó xác định đành lòng thuyên giảm và để bố tôi được yên vài giờ.   Ngày hôm thứ  mười, sáng ra đã thấy có mấy người đến phòng ở của nhân viên gác cổng, nơi dùng làm chỗ cấp cứu.   - Ở đây có bán sách về du lịch không?   - Không, thưa ông, đây là bệnh viện.   - Nhưng người ta đã cho tôi địa chỉ hiệu sách nhà Ambroise – Paré, lầu hai, hành lang Velpeau.   Bố Louis khi thu xếp nhặt nhạnh áo quần vào cái đêm đầy xúc động nọ, vẫn còn tranh thủ thời gian dán lên cửa cửa hiệu địa chỉ mới của mình.   - Quả thật, thưa ông, ông đã vượt quá giới hạn- giám đốc bệnh viện nói với bố tôi.   - Không buôn bán, tôi lấy gì mà sống?   Một lần nữa bên hành chính lại phải nhượng bộ. Và các hành lang màu lục nhạt của nhà hộ sinh phải chứng kiến cảnh khách quen thuộc lũ lượt kéo tới: các chú choai choai đỏ mặt hau háu những tên sách dâm dục, các giáo sư băn khoăn về những chi tiết đề cập đến vương quốc ở Mali (1240-1599) các người lính cưỡi lạc đã chẳng mấy mong muốn lênh đênh hai năm giữa Tenéré mà không mang theo bản đồ, cuối cùng, hạng người sau chót, ưa thích cửa hiệu sách hơn hết, những cặp vợ chồng viên chức trước khi lên đường yêu cầu lời khuyên về vệ sinh, cách ăn mặc, cách chống muỗi và những loài cắn đốt người.   Mời các bạn đón đọc Triển Lãm Thuộc Địa của tác giả Erik Orsenna.