Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả

Tác phẩm - Năm 1989, Những cậu bé kẽm lần đầu được xuất bản - Tháng 7 năm 1992, những đơn kiện Những cậu bé kẽm và S. Alexievich đầu tiên được gửi đi - Ngày 20 tháng 1 năm 1993, phiên xử đầu tiên diễn ra - Ngày 10 tháng 8 năm 2015, giải Nobel Văn học thứ 112 trong lịch sử gọi tên Svetlana Alexievich, dư luận một lần nữa lại dậy sóng… Vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Những cậu bé kẽm là thiên thứ ba trong loạt năm quyển của bộ Những giọng nói không tưởng gồm: Những nhân chứng cuối cùng, Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ, Lời nguyện cầu Chernobyl và Thời second hand. Những cậu bé kẽm, một nhan đề khốc liệt – những xác người trong quan tài kẽm – những cái xác vừa mới mười tám đôi mươi – những cậu bé đẹp đẽ rạng ngời, vừa rời vòng tay cha mẹ, người thương để rồi trở về trong những cỗ quan tài kín bưng – “hàng vận chuyển 200”. Được viết bằng thể loại văn xuôi tư liệu cùng với tâm thế của một con người vị nhân phản chiến, cuốn sách đã khuấy lên một giai đoạn lịch sử đầy những tổn thương đau đớn, đã phác họa một bối cảnh, đã soi chiếu bằng một góc nhìn trước nay chưa từng được công bố. Những cậu bé kẽm là lời bộc bạch của những người sống sót trở về từ chiến tranh Afghanistan và của thân nhân những người đã mất. Đó là những dòng hồi ức khốc liệt, đẫm máu, thống khổ và vĩnh viễn làm thương tổn không chỉ thân thể mà còn tinh thần con người. Nó phơi bày cái phi nghĩa, vô nhân của một cuộc chiến tranh vô vọng. Những “Afghan” – những người Nga tham gia chiến tranh ở Afghanistan 1979 – 1989, những người ra đi trên danh nghĩa làm “nghĩa vụ quốc tế” rồi rút về trong thất bại, không bao giờ được biết niềm tự hào của thế hệ cha ông trong cuộc chiến tranh Vệ Quốc vĩ đại. Người “may mắn” nằm lại trong những chiếc quan tài kẽm, số khác thân xác lang bạt nơi chiến trận. Kẻ sống sót trở về cũng không bao giờ có thể quay lại cuộc sống của một người bình thường bởi những sang chấn khủng khiếp mang tên hội chứng Afghanistan. Người ngoài cuộc nhìn nhận họ như những kẻ sát nhân, kẻ bại trận, còn chính họ cũng quên mất phải sống bình thường là thế nào! Hơn năm trăm cuộc phỏng vấn đã được Svetlana Alexievich thực hiện để tạo nên bức tranh toàn cảnh về những góc khuất của chiến tranh. Cũng chính những trang tư liệu về nỗi đau của những nỗi đau này, ngày 20 tháng 1 năm 1993, cuốn sách của Svetlana Alexievich bị đưa ra tòa xét xử bởi những người cung cấp tư liệu đâm đơn kiện với lý do phỉ báng danh dự và ngụy tạo lời kể. Phiên tòa kéo theo sự chú ý của chính quyền và công chúng tạo thành làn sóng dư luận ở cả hai phía, ủng hộ và chống đối Svetlana Alexievich. Ở những lần tái xuất bản sau, Svetlana Alexievich đã đồng ý thêm vào toàn bộ biên bản vụ kiện cùng những sự kiện có liên quan. Vậy, vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Có lẽ câu trả lời sẽ nằm trong suy nghĩ mỗi người khi bước vào thế giới của Những cậu bé kẽm. “Tôi tự hỏi Svetlana Alexievich có cần phải viết một cuốn sách về những điều kinh khủng của chiến tranh không? Có! Những bà mẹ có cần phải bảo vệ con trai mình không? Có! Và những “người Afghan” có cần phải bảo vệ đồng đội mình không? Lại một lần nữa - có! …Các đạo diễn và nhạc trưởng, các chính khách và nguyên soái, những kẻ tổ chức cuộc chiến tranh này, không có mặt trong phòng xử án. Ở đây chỉ toàn những phía bị hại: là tình yêu, không chấp nhận sự thật cay đắng về chiến tranh; là sự thật, cần phải được nói ra mặc cho tình yêu thế nào chăng nữa; là danh dự, không thể chấp nhận tình yêu lẫn sự thật...” Pavel Shetko Một “cựu Afghan” Tác giả Nhà văn Svetlana Alexievich tại Ukraine trong một gia đình công chức. Năm 2015, bà được trao giải Nobel Văn học. Theo Viện Hàn lâm Thụy Điển, giải thưởng này được trao cho bà để “tôn vinh những dòng văn phức điệu của bà. Văn của bà là tượng đài tri ân sự đau khổ và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta.” Sau khi tốt nghiệp khoa Báo chí Đại học Tổng hợp Quốc gia Belarus, bà làm việc cho tờ Báo nông nghiệp và tạp chí Neman ở Minsk. Trong suốt vài thập niên bà đã viết biên niên tư liệu – nghệ thuật Những giọng không tưởng – gồm năm quyển sách (Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ - 1983, Những nhân chứng cuối cùng - 1985, Những cậu bé kẽm - 1989, Lời nguyện cầu từ Chernobyl - 1997, Thời second-hand - 2013) và để những “con người nhỏ bé” đích thân kể về số phận của mình. Thực chất, đây là một thể loại đặc biệt, một loại tiểu thuyết chính trị đa giọng, trong đó những câu chuyện nhỏ bé hợp thành một lịch sử lớn. Các tác phẩm của Svetlana Alevievich đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng, là nền tảng cho hằng trăm bộ phim điện ảnh, kịch sân khấu và truyền thanh trên khắp thế giới, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế. *** LỜI GIỚI THIỆU “Văn chương đang ngạt thở trong những biên giới của mình”. Với tâm tình đó, nữ nhà văn Svetlana Alexievich đã quyết định chọn hình thức “truyện vừa tư liệu” cho cuốn sách Những cậu bé kẽm, được in lần đầu tiên năm 1989. Hai mươi sáu năm sau, cuốn sách đã góp phần đưa bà đến giải Nobel văn học năm 2015, cùng với bốn quyển sách khác trong loạt sách Những giọng nói không tưởng: Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ (1983), Những nhân chứng cuối cùng (1985), Lời nguyện cầu từ Chernobyl (1997) và Thời second hand (2013). Nhưng cũng chính thể loại truyện vừa tư liệu của Những cậu bé kẽm đã khiến bà phải ra tòa (phần cuối quyển sách đã giới thiệu tiến trình tố tụng này). Phiên tòa mà, từ một phía bà bị cáo buộc là “xúc phạm danh dự và phẩm giá” của những người lính đã chết trong cuộc chiến tranh Afghanistan, của những người mẹ vẫn còn đang ngồi bên mộ chí con mình. Còn từ phía những người ủng hộ nữ nhà văn, đó là phiên tòa “xử án văn chương”, “xử án một quyển sách”, “xử án sự thật”. Cuộc tranh cãi đó, cuối cùng được cố gắng ngã ngũ ở việc thế nào là thể loại truyện vừa tư liệu; vẫn chưa giải đáp được câu hỏi “sự thật là sự thật nào”, khi chính nữ nhà văn cũng hoài nghi như Pilatus đặt câu hỏi về sự thật trong phiên tòa xử Chúa. Phiên tòa đã khép lại đầu những năm 1990. Nhưng cuộc tranh cãi về sự nghiệp của nữ nhà văn Belarus viết bằng tiếng Nga một lần nữa được nhắc lại nhân Nobel 2015. Nếu bà được ngợi khen trên báo chí phương Tây như một “bậc thầy xuất sắc trong lĩnh vực văn xuôi nghệ thuật tư liệu”(Frankfurter Allgemeine), thì nhà phê bình Nga Olga Tukhanitsa, lại nhận xét vào tháng 12-2015: “Một mặt, Alexievich khăng khăng biện hộ mình không phải là nhà văn nhưng lại chứng minh những gì bà đang làm trong thế giới hiện đại là văn học chân chính; mặt khác, bà - như một nữ sinh, đoàn viên Komsomol, cố nhồi vào thông điệp của mình tất cả những khuôn mẫu định kiến về nước Nga…” Dẫu sao, chúng ta sẽ không thể tranh luận với cả hai ý kiến trên nếu chưa đọc hết Những cậu bé kẽm. Bản dịch tiếng Việt dựa trên nguyên bản tiếng Nga đã được tác giả hiệu đính và NXB Vremya (Moskva) phát hành năm 2017. Trân trọng giới thiệu cùng độc giả, và thành thật cảm ơn bà Marina Vladimirovna Sharoiko (Giảng viên Bộ môn Lý luận Văn học Nga, Đại học Tổng hợp Kuban) và bà Irina Letiagina (cựu biên tập viên NXB Cầu vồng, và NXB Tiến bộ - Liên Xô cũ) đã giúp chúng tôi hoàn thành bản dịch này. Phan Xuân Loan 10-2017 *** LỜI MỞ ĐẦU Tôi đi một mình. Giờ đây tôi sẽ phải đi một mình. Nó giết người. Con trai tôi. Bằng cái rìu nhà bếp tôi dùng xẻ thịt. Nó quay về từ trận chiến và giờ thì giết người. Buổi sáng nó mang cái rìu đặt về chỗ cũ, trong tủ bếp, nơi tôi cất chén dĩa. Hình như ngày hôm đó tôi còn làm cho nó món sườn hầm. Một lúc sau ti vi và báo buổi chiều đưa tin các ngư dân vớt được một thi thể từ dưới hồ. Từng mảnh. Bạn tôi gọi điện: - Chị đọc báo chưa? Một vụ giết người chuyên nghiệp. Kiểu Afghanistan. Con trai tôi đang ở nhà, nằm đọc sách trên xô pha. Tôi không biết và cũng chẳng đoán ra gì, nhưng chẳng hiểu sao sau những lời ấy tôi lại nhìn nó. Trái tim người mẹ. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Không à? Còn tôi thì nghe đấy, vừa bắt đầu kể chuyện này là tôi đã nghe tiếng chó sủa. Lũ chó đang chạy. Ở đó, nơi con trai tôi đang ngồi tù có những con bẹc giê lớn. Và mọi người mặc toàn đen, rặt một màu đen. Tôi trở về Minsk, đi ngang qua cửa hàng bánh mì, qua vườn trẻ, tay cầm ổ bánh mì với sữa và nghe thấy tiếng sủa. Tiếng sủa chói tai. Nó làm tôi như đui mù. Có lần tôi suýt lọt vào gầm xe. Tôi sẵn sàng ở rịt bên mộ con mình, sẵn sàng nằm cạnh nó. Nhưng tôi không biết… không biết sẽ sống thế nào với chuyện này. Đôi khi tôi sợ xuống bếp, sợ nhìn thấy cái tủ bếp đó, nơi cất cái rìu. Cô không nghe thấy gì hết à? Không à? Giờ đây tôi không biết nó sẽ ra sao, con trai tôi. Tôi sẽ đón nó về thế nào sau mười lăm năm nữa. Nó bị tuyên mười lăm năm khổ sai. Tôi đã nuôi dạy nó thế nào? Nó mê khiêu vũ. Tôi và nó đã đến bảo tàng Hermitage ở Leningrad. Chúng tôi đã đọc sách cùng nhau. (Khóc.) Chính Afghanistan đã cướp mất con trai tôi. …Tôi nhận được điện tín từ Tashkent: “Hãy đón chuyến bay số…” Tôi lao ra ban công, gào to hết sức: - Còn sống! Con tôi còn sống! Cuộc chiến khủng khiếp này kết thúc với tôi rồi. Rồi tôi ngất đi. Dĩ nhiên chúng tôi đã ra sân bay trễ, chuyến bay đã hạ cánh từ lâu, tôi tìm thấy con trai mình trong vườn hoa. Nó nằm trên đất và níu lấy cọng cỏ, ngạc nhiên sao cỏ xanh đến thế. Nó không tin mình có thể trở về. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi tối những người láng giềng kéo sang nhà chúng tôi, họ có một cô con gái nhỏ, bé thắt một cái nơ xanh trên tóc. Nó đặt con bé ngồi lên gối, ôm vào lòng và khóc, nước mắt cứ thế lã chã tuôn rơi. Bởi ở đó chúng đã giết người, cả nó. Mãi sau này tôi mới hiểu ra. Ở biên giới, hải quan đã “tỉa” quần lót của nó. Hàng Mỹ. Không được phép. Vì thế nó về nhà mà không có đồ lót. Nó mang về cho tôi cái áo choàng, cái áo cũng bị tịch thu. Nó mang cho bà ngoại cái khăn trùm đầu, họ cũng lấy mất. Nó đành về với những bông hoa lay ơn. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi sáng thức dậy nó còn bình thường: “Mẹ ơi! Mẹ ơi!”. Đến chiều mặt nó tối dần, khóe mắt nặng trĩu. Tôi không thể tả nổi điều đó. Lúc đầu nó chẳng uống giọt nào. Nó ngồi quay vào tường rồi bật dậy khỏi xô pha, với lấy cái áo khoác. Tôi đứng ngay cửa: - Con đi đâu, Valyushka? Nó nhìn tôi như nhìn vào thinh không. Rồi bỏ đi. Tối muộn tôi đi làm về, nhà máy ở xa, lại làm ca hai, tôi gọi cửa nhưng nó không mở. Nó không nhận ra giọng tôi. Chuyện đó thật kỳ quặc, ừ thì giọng bạn bè có thể không nhận ra, nhưng đây là giọng mẹ nó! Hơn nữa, lại là “Valyushka” - chỉ có tôi mới gọi nó như thế. Dường như lúc nào nó cũng đang đợi ai đó, sợ sệt. Tôi mua cho nó cái sơ mi mới, ướm thử và thấy trên tay nó có những vết cắt. - Cái gì đây? - Chuyện nhỏ mà mẹ. Sau đó tôi mới biết. Sau phiên tòa. Trong thời gian huấn luyện nó đã cắt cổ tay. Trong một giờ diễn tập, nó là nhân viên điện đài, nhưng không kịp ném điện đài xách tay lên cây đúng lúc, không hoàn thành nhiệm vụ đúng thời gian quy định nên thượng sĩ phạt nó múc 50 thùng chất thải từ nhà vệ sinh diễu qua đội hình. Nó đã xách và ngất xỉu. Bệnh viện chẩn đoán: chấn động tâm thần nhẹ. Đêm đó nó đã cắt ven tay. Lần thứ hai là ở Afghanistan. Trước cuộc bố ráp, họ kiểm tra và điện đài không hoạt động. Thiếu một số phụ kiện khan hiếm khi đó. “Kẻ nào đã lấy trộm chúng. Ai?” Chỉ huy cáo buộc nó hèn nhát giấu các chi tiết đó đi để không phải hành quân cùng mọi người. Mà ở đó trộm cắp như rươi, thậm chí các bộ phận ô tô cũng bị tháo rời đem bán cho các dukan*. Để mua ma túy, thuốc lá, thức ăn. Họ lúc nào cũng đói. Trên truyền hình đang có chương trình về Edith Piaf*, chúng tôi luôn xem cùng nhau. - Mẹ, - nó hỏi, - mẹ có biết ma túy là gì không? - Không. - Tôi nói dối, còn chính mình bắt đầu dõi theo nó: nhỡ nó hút thì sao? Tôi không phát hiện ra dấu vết nào. Nhưng ở đó họ sử dụng ma túy - tôi biết điều này. - Ở Afghanistan thế nào hở con? - Có lần tôi hỏi. - Thôi mà mẹ! Khi nó đi khỏi nhà, tôi đọc lại hết những bức thư từ Afghanistan của nó, tôi muốn đào xới, tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với nó. Tôi không tìm thấy gì đặc biệt, nó viết buồn nhớ cỏ xanh, bảo bà ngoại chụp hình trên nền tuyết rồi gởi cho nó. Nhưng tôi đã nhận ra, cảm thấy đã có gì đó xảy ra với nó. Họ đã trả về cho tôi một con người khác. Đó không phải là con tôi. Mà chính tôi đã đưa con vào quân ngũ, nó vốn được hoãn nghĩa vụ. Tôi muốn nó thành người dũng cảm. Tôi thuyết phục con và chính mình rằng quân đội sẽ trui rèn nó tốt hơn, mạnh mẽ hơn. Tôi tiễn nó đi Afghanistan với tiếng ghi-ta cùng một bữa tiệc ngọt chia tay. Nó mời bạn bè và các cô gái… Tôi nhớ đã mua tới mười cái bánh kem. Chỉ có một lần nó nói về Afghanistan. Vào một buổi tối. Nó ghé vào bếp, lúc tôi đang làm thịt thỏ. Cái bát đầy máu. Nó nhúng các ngón tay vào máu rồi nhìn cái bát. Nhìn chằm chằm. Rồi nói với chính mình: - Họ chở cậu ấy về với cái bụng bị thủng. Cậu ấy đề nghị mình bắn. Và mình đã bắn. Những ngón tay đầy máu thỏ. Với những ngón tay dính máu đó nó vớ lấy điếu thuốc rồi bỏ ra ban công. Tối hôm đó nó không nói thêm với tôi một lời nào. Tôi tìm tới các bác sĩ. “Hãy trả lại con trai cho tôi! Xin cứu giúp!” Tôi kể lại tất cả… Họ kiểm tra nó, thăm khám, nhưng ngoài chứng đau thần kinh tọa, họ chẳng phát hiện gì. Một lần nọ về nhà, tôi thấy bốn cậu trai lạ ngồi sau bàn. - Mẹ, họ từ Afghanistan về. Con gặp họ ở nhà ga. Họ chẳng có chỗ nào để qua đêm cả. - Tôi sẽ nướng một cái bánh ngọt cho các cậu. Nhanh lắm. - Chẳng hiểu sao tôi lại mừng rỡ. Chúng sống ở nhà tôi một tuần lễ. Tôi không đếm, nhưng tôi nghĩ chúng uống cỡ bốn thùng vodka. Mỗi tối tôi lại gặp ở nhà năm người lạ, người thứ năm là con tôi. Tôi không muốn nghe những câu chuyện của chúng, tôi sợ lắm. Nhưng vì ở chung một nhà nên tôi tình cờ nghe thấy. Chúng kể suốt hai tuần mai phục, chúng được phát thuốc kích thích để bạo gan hơn. Nhưng tất cả những chuyện đó được giữ kín. Vũ khí nào giết người hiệu quả hơn. Từ khoảng cách nào… Sau này tôi mới nhớ lại những câu chuyện đó, khi sự việc đã xảy ra. Chỉ sau đó tôi mới nghĩ ra, hoảng hốt nhớ lại. Còn trước đó chỉ có nỗi sợ: “Ôi,” tôi nói thầm, “chúng điên làm sao. Tất cả đều dở người”. Ban đêm. Trước cái ngày nó giết người. Tôi nằm mơ thấy mình đang đợi con nhưng mãi vẫn không thấy nó. Thế rồi người ta đưa nó về. Bốn “người Afghan” đó đưa về. Và họ ném nó xuống sàn xi măng dơ dáy. Cô hiểu không, sàn xi măng trong gian bếp chúng tôi ấy…* Cái sàn như sàn nhà tù. Lúc đó nó đã vào học khoa dự bị trường Đại học Kỹ thuật Phát thanh. Nó viết tốt bài luận. Nó hạnh phúc và mọi việc đều ổn. Tôi đã nghĩ nó đang nguôi ngoai. Sẽ đi học. Rồi cưới vợ. Nhưng cứ tối đến, tôi sợ những buổi tối, nó ngồi và nhìn chằm chằm vào vách rồi thiếp ngủ trên ghế bành. Tôi muốn nhào tới, lấy thân mình che chở và không thả cho nó đi đâu nữa hết. Bây giờ tôi nằm mơ thấy nó còn nhỏ và đòi ăn. Lúc nào nó cũng đói. Nó chìa hai tay. Trong mơ lúc nào tôi cũng thấy nó nhỏ bé và bị hạ nhục. Còn trong đời thật? Mỗi tháng hai cuộc gặp. Bốn tiếng chuyện trò qua lớp kính. Mỗi năm hai lần thăm nuôi, đó là khi tôi được mang gì đó cho nó ăn. Và tiếng chó sủa. Tôi nằm mơ thấy tiếng chó sủa. Chúng đuổi theo tôi khắp chốn. Có một người đàn ông tán tỉnh tôi. Tặng cả hoa. Khi ông ta mang hoa tới, “Ông tránh xa khỏi tôi,” tôi bắt đầu hét, “tôi là mẹ của tên giết người”. Thời gian đầu tôi sợ gặp những người quen, tôi trốn trong nhà tắm và chờ những bức tường đổ sập xuống người. Tôi ngỡ như người ngoài đường đều nhận ra tôi, chỉ trỏ nhau xem rồi xầm xì: “Nhớ vụ ghê rợn đó không? Chính con trai bà ta giết người đấy. Chặt làm tư. Kiểu Afghanistan”. Tôi chỉ ra đường vào buổi tối, tìm hiểu hết những loài chim đêm. Tôi nhận biết chúng qua tiếng hót. Vụ án được điều tra. Vài tháng trôi qua. Nó im lặng. Tôi đến quân y viện Burdenko ở Moskva. Ở đó tôi tìm được vài cậu trai từng phục vụ trong đội đặc nhiệm như nó. Tôi bộc bạch cùng họ. - Các cháu này, vì cái gì mà con trai bác giết người? - Hẳn là có chuyện gì đó. Tôi phải thuyết phục mình rằng con tôi có thể đã làm điều đó. Giết người. Tôi gặng hỏi họ rất lâu để hiểu ra rằng: nó có thể! Tôi hỏi họ về cái chết. Không, không phải về cái chết, mà về việc giết chóc. Nhưng cuộc trò chuyện đó không gợi được ở họ những cảm xúc đặc biệt nào, những cảm xúc mà bất kỳ việc giết chóc nào cũng đều có thể gợi lên ở một con người bình thường chưa từng thấy máu. Họ nói về chiến tranh như nói về một công việc, một công việc cần phải giết người. Sau đó tôi đến gặp những cậu trai cũng từng ở Afghanistan, và khi Armenia động đất họ đã tới đó cùng những đội cứu hộ. Tôi muốn biết, tôi bị ám ảnh vì chuyện đó: họ có sợ không? Họ cảm giác thế nào khi chứng kiến cái chết? Không, họ chẳng thấy sợ gì cả, thậm chí lòng thương hại ở họ cũng đã cùn mằn. Những hộp sọ vỡ tung, bẹp dí, những khúc xương người… Nhiều trường học bị vùi trong lòng đất. Những lớp học. Bọn trẻ ngồi học và cứ thế mà đi vào lòng đất. Còn họ thì nhớ và kể lại những chuyện khác, nào là họ đã đào được những kho rượu vang béo bở ra sao, họ đã uống những loại vang nào, loại cô nhắc nào. Họ đùa cợt: phải chi có thêm động đất ở đâu đó. Nhưng phải ở chỗ nào ấm áp cơ, nơi nho có thể mọc và làm được vang ngon. Họ sao thế? Tâm lý họ có bình thường không vậy? “Con căm thù cái đứa bị giết đó.” Nó viết cho tôi như thế cách đây không lâu. Sau năm năm. Chuyện gì đã xảy ra ở đó? Nó câm nín. Tôi chỉ biết, cậu trai đó tên Yura, khoác lác rằng đã kiếm chác được nhiều chi phiếu ở Afghanistan. Nhưng sau đó hóa ra cậu ta phục vụ ở Ethiopia, là chuẩn úy. Cậu ta đã nói dối về Afghanistan. Tại phiên tòa, chỉ một mình luật sư biện hộ nói rằng chúng ta đang xử án một người bệnh. Trên ghế bị can không phải là tội nhân, mà là bệnh nhân. Anh ta cần được điều trị. Nhưng đó là bảy năm về trước, khi sự thật về Afghanistan chưa được hé lộ. Và chúng ta đã gọi tất cả là anh hùng. Những chiến sĩ làm nghĩa vụ quốc tế. Còn con trai tôi là kẻ giết người. Bởi nó làm cái việc mà họ từng làm ở đó. Vì việc đó mà họ được trao mề đay và huân chương. Nhưng tại sao họ lại buộc tội mình con tôi? Tại sao không buộc tội những kẻ đẩy nó vào nơi đó? Dạy nó giết người! Tôi đâu có dạy con mình việc đó. (Bùng nổ và gào thét.) Nó giết người bằng cái rìu bếp của tôi. Rồi buổi sáng nó mang đặt cái rìu lại vào tủ bếp. Như một cái muỗng hay một cái nĩa bình thường. Tôi ganh tị với những bà mẹ có con trở về cụt cả hai chân. Cứ để nó căm thù mẹ mình sau khi đã nốc say. Căm thù cả thế giới. Cứ để nó lao vào bà ta, như lao tới kẻ thù. Bà ta sẽ trả tiền cho gái mại dâm, để nó không phát rồ. Bản thân bà ta từng một lần trở thành tình nhân cho nó, bởi nó đã trườn ra ban công và muốn lao xuống từ tầng mười. Tôi chấp nhận tất cả. Tôi ganh tị với tất cả những bà mẹ, kể cả những ai có con đã nằm trong huyệt mộ. Tôi sẽ ngồi bên mộ chí của con và hạnh phúc. Tôi sẽ mang hoa tới. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Nó đuổi theo tôi. Tôi nghe thấy chúng. Một bà mẹ Mời các bạn đón đọc Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả của tác giả  Svetlana Alexievich & Phan Xuân Loan (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điều Gì Em Cũng Muốn
Tập đầu tiên của seri ra mắt độc giả từ năm 2002, ngay lập tức đã thu hút được sự quan tâm của dư luận và đã dẫn đầu top 10 cuốn sách bán chạy nhất trong năm của New York Times. Không dừng lại ở đó, seri Kiều nữ lắm chuyện đã được chuyển thể thành phim Gossip Girl và phát sóng đều đặn trong suốt 6 năm trên kênh truyền hình quốc gia The CW với số người xem lên tới 2.35 triệu người mỗi lần phát sóng. Với lối viết mới lạ Von Ziegesar đã phản ánh được thế giới trần trụi của các cậu ấm cô chiêu ở Mỹ. Các nhóm nhân vật được xây dựng theo một khuôn mẫu truyền thống: tình yêu ẩm ương tuổi học trò, các anh chàng đẹp trai, những cô nàng thay bồ như thay áo, những câu chuyện cãi cọ và những trò chơi xấu giữa những cô nàng lắm chiêu … Dẫu vậy chúng vẫn có một sức hút kỳ lạ đối với giới trẻ có lẽ bởi từng tập sách đã đánh trúng tâm lý và phản ánh đúng thực trạng lối sống của giới trẻ hiện đại từ đó chúng có thể rút ra được những bài học bổ ích trước tình huống tương tự gặp phải trong đời sống thực. Tại Việt Nam, 4 tập đầu trong seri này đã được chuyển tới độc giả qua phần chuyển ngữ của Nguyễn Trương Quý. Với giọng dịch nhẩn nha, tinh quái và cũng thật … lắm chiêu và sâu cay bản dịch tiếng Việt gần như đã truyền tải được hết tinh thần chung mà bộ sách muốn chuyển tải tới giới trẻ. ***   Kỳ Giáng sinh ở thành phố New York thật kỳ diệu, nhất là khu phố trên. Không khí náo nức mùi của tuyết đang rơi, mùi củi trong lò cháy và mùi đồ ăn Giáng sinh đang nướng. Nhìn từ trên những căn hộ tầng thượng của chúng mình, Công viên Trung tâm trông giống như một xứ thần tiên bằng bạc, đại lộ Park Avenue trở thành một cuộc diễu hành của đèn Giáng sinh, và kích cỡ của cây thông trong Trung tâm Rockefeller dường như hứa hẹn một lễ Giáng sinh đáng kinh ngạc hơn bao giờ hết - dù rằng tất cả chúng mình rồi sẽ say túy lúy để có thể nhận ra. Dọc đại lộ Năm, các cửa sổ cửa hàng đều trang hoàng cho kỳ lễ. Các cô gái đi ra phố mua sắm mặc những chiếc áo khoác Marc Jacobs bằng cashmere màu xanh da trời lộng lẫy. Họ đã khuân về từ hồi tháng 10 và còn chần chừ gì mà không mặc. Ðêm đến, ai cũng ra ngoài cùng tận hưởng niềm vui, vui thật là vui. Quên đi việc học giữa kỳ; quên đi những tờ đơn đăng ký vào đại học phút chót; quên đi việc phải giúp mẹ mua quà tặng cho người giúp việc, đầu bếp, tài xế hay những bà chuyên lo việc giặt ủi. Hãy vơ lấy bộ váy quây Prada bằng satin đen, đôi giày cao gót 10 phân của Christian Louboutin hay đôi Perspex gót nhọn hoắt, cái túi Hermès Birkin màu cam, và tóm lấy chàng trai dễ thương nhất bạn biết rồi ra ngoài với tớ nào! Ngó nghiêng D và V đang khóa môi nhau ở dưới bến tàu trên phố 79. Thật là bi kịch khi họ mất bao nhiêu là thời gian để nhận ra họ thích nhau. N đang mua hoa hồng nhung cho J - và bạn không nghĩ rằng cậu ta lại có một phần con người ngọt ngào trong cơ thể nghiện ngập đẹp đẽ của mình. B và S đang phi đến hiệu Bendel’sđể chọn lấy bộ cánh mặc cho vũ hội Ðen Trắng đêm nay. Tớ nghe nói Flow - cựu người mẫu, giọng ca chủ lực và cây guitar mê ly của ban nhạc 45 , vừa mới giành giải MTV Music Awardcho album đầu tay hay nhất, Komunik8 - sẽ đến làm lễ công bố danh dự về số tiền quyên góp được. Dạ hội là một buổi gây quỹ cho Be Kind , một nhóm bảo vệ quyền động vật mà Flow là phát ngôn viên. Nhưng ai quan tâm làm gì cái đó chứ? Chúng ta đều biết chúng ta chỉ tới vì có thể ngó được cái khuôn mặt tuyệt hảo của chàng. Gặp bạn ở đó nhé! Họ thực sự là bạn bè trở lại? Ðúng đấy: S và B đã quyết định hôn nhau làm lành, và đúng lúc. Ý tớ là bạn thực sự làm bộ đâm lê được bao lâu với người đã cùng tắm chung thời tiểu học? B có thể không có tóc vàng hay cao ráo hoặc “trải đời” như S , nhưng chừng đó chẳng phải là cớ để cô phải ghét bạn mình. Và S sẽ chẳng bao giờ xảo quyệt hay ích kỷ bằng B , nhưng đấy cũng chẳng phải là điều khiến cô phải sợ nàng ta. Thay vì thế, hai cô gái quyết định đặt sang bên sự khác biệt và vui vẻ với nhau, ít nhất cũng để cho thời gian khắc trôi. Câu hỏi ở đây là, giờ họ quay lại với nhau, chuyện chơi khăm điên rồ nào họ sắp làm tới đây? Tin tớ đi, tớ sẽ là người đầu tiên khám phá ra, và các cậu sẽ là người thứ hai. Thì tớ có giỏi giữ bí mật đâu. Các cậu biết các cậu yêu tớ mà! GNC   Mời các bạn đón đọc Điều Gì Em Cũng Muốn của tác giả Cecily von Ziegesar.
Các Cậu Biết, Các Cậu Yêu Tớ Mà!
Tập đầu tiên của seri ra mắt độc giả từ năm 2002, ngay lập tức đã thu hút được sự quan tâm của dư luận và đã dẫn đầu top 10 cuốn sách bán chạy nhất trong năm của New York Times. Không dừng lại ở đó, seri Kiều nữ lắm chuyện đã được chuyển thể thành phim Gossip Girl và phát sóng đều đặn trong suốt 6 năm trên kênh truyền hình quốc gia The CW với số người xem lên tới 2.35 triệu người mỗi lần phát sóng. Với lối viết mới lạ Von Ziegesar đã phản ánh được thế giới trần trụi của các cậu ấm cô chiêu ở Mỹ. Các nhóm nhân vật được xây dựng theo một khuôn mẫu truyền thống: tình yêu ẩm ương tuổi học trò, các anh chàng đẹp trai, những cô nàng thay bồ như thay áo, những câu chuyện cãi cọ và những trò chơi xấu giữa những cô nàng lắm chiêu … Dẫu vậy chúng vẫn có một sức hút kỳ lạ đối với giới trẻ có lẽ bởi từng tập sách đã đánh trúng tâm lý và phản ánh đúng thực trạng lối sống của giới trẻ hiện đại từ đó chúng có thể rút ra được những bài học bổ ích trước tình huống tương tự gặp phải trong đời sống thực. Tại Việt Nam, 4 tập đầu trong seri này đã được chuyển tới độc giả qua phần chuyển ngữ của Nguyễn Trương Quý. Với giọng dịch nhẩn nha, tinh quái và cũng thật … lắm chiêu và sâu cay bản dịch tiếng Việt gần như đã truyền tải được hết tinh thần chung mà bộ sách muốn chuyển tải tới giới trẻ. ***   Khuyến cáo: Tất cả những tên thật về nơi chốn, con người và sự kiện đều được thay đổi hoặc viết tắt để bảo đảm khách quan. Cụ thể là tên tớ. Xin chào các cậu! Chào mừng đến với khu Upper East Side của thành phố New York, nơi bạn bè và tớ sống trong những căn hộ hoành tráng, tuyệt đẹp và đến học ở các trường tư đẳng cấp cao. Chúng tớ không phải lúc nào cũng là những người xinh đẹp nhất thế giới, nhưng chúng tớ biết trang điểm sao cho mình trông thật bắt mắt và ngon lành nhất. Mùa đông đang đến. Đó là mùa yêu thích của thành phố này và cả tớ nữa. Các cậu trai đi ra Công viên Trung tâm, chơi bóng hoặc làm những điều các cậu ấy vẫn làm vào mùa này, mặc cho lá khô rơi đầy trên áo len và trên tóc. Và những cái má ửng hồng đó... ôi hấp dẫn làm sao! Đã đến lúc rút thẻ tín dụng và xông vào cửa hiệu Bendel và Barneys để lựa những đôi ủng mới đỏm dáng, tất lưới khêu gợi, váy len mini và áo chui đầu bằng vãi cashmere tuyệt hảo. Thành phố dường như long lanh hơn vào thời điểm này, và chúng tớ cũng muốn long lanh theo! Thật không may, cũng đã đến lúc phải điền vào đơn đăng ký trường đại học. Chúng tớ đều là con cái những gia đình danh giá, học ở những trường trung học thuộc hạng cao cấp, không thể không nộp đơn vào các trường đại học Ivy Leagues [1] , và không đỗ vào các trường đó thì thật là một sự xấu hổ nhục nhã. Áp lực là vậy, nhưng tớ quyết không để nó đè bẹp mình. Đây là năm cuối trung học, chúng tớ sẽ chơi tới bến để ghi lại dấu ấn của mình và vẫn mang theo kiểu sống ấy khi vào trường đại học mình lựa chọn. Chúng tớ có dòng dõi oách nhất bờ Đông - tớ chắc rằng chúng tớ sẽ có cách để làm sao vừa kiếm được miếng lại vừa được chơi [2] , như chúng tớ vẫn luôn được thế. Tớ biết một số cô nàng sẽ không để cho áp lực đè nặng tí nào đâu... Những cảnh trông thấy B đi cùng bố vào mua kính râm ở hiệu Gucci trên Đại lộ Năm. Ông ấy không thể quyết được nên mua mắt kính màu hồng hay xanh ngọc nên ông mua cả hai. Chà, ông ta đúng là đồng bóng! N và đám bạn đang tìm những trường hay ho nhất trong cuốn Cẩm nang của người vào đại học ở cửa hàng sách Barnes & Noble trên đường 86 và Lexington. S đi làm mặt ở Aveda trong khu phố dưới. Và D , đang mơ màng xem trượt băng ở Trung tâm Rockefeller và viết vào cuốn sổ tay. Một bài thơ về S – không còn hồ nghi gì nữa - thật là lãng mạn. B cũng có một buổi tẩy lông kiểu Brazil ở tiệm Chị em J . Cô nàng đang chuẩn bị để... Có phải B thật sự sẵn sàng đón nhận bước tiếp theo không? Cô nàng nói về việc đó từ khi hết hè, lúc cô với N cùng nhau trở lại thành phố. Sau đấy thì S xuất hiện, mắt N bắt đầu lạc hướng lung tung, làm cho B quyết định trừng phạt cậu bằng cách bắt cậu chờ đợi. Nhưng giờ S đã có D , và N đã hứa sẽ cư xử tử tế với B . Đã đến lúc rồi. Sau cùng, không ai thực sự muốn vào đại học mà vẫn là trinh nữ cả. Tớ sẽ theo dõi sát sàn sạt đấy. Các cậu biết các cậu yêu tớ mà! GNC [1] Nhóm Ivy League là nhóm gồm 8 trường đại học hàng đầu ở bờ Đông nước Mỹ, có tiêu chuẩn đầu vào cao. [2] Nguyên văn: Kiếm được bánh ngọt rồi còn muốn ăn, tương đương với thành ngữ Bắt cá hai tay trong tiếng Việt. Mời các bạn đón đọc Các Cậu Biết, Các Cậu Yêu Tớ Mà! của tác giả Cecily von Ziegesar.
Hot Girl Trở Lại!
Tập đầu tiên của seri ra mắt độc giả từ năm 2002, ngay lập tức đã thu hút được sự quan tâm của dư luận và đã dẫn đầu top 10 cuốn sách bán chạy nhất trong năm của New York Times. Không dừng lại ở đó, seri Kiều nữ lắm chuyện đã được chuyển thể thành phim Gossip Girl và phát sóng đều đặn trong suốt 6 năm trên kênh truyền hình quốc gia The CW với số người xem lên tới 2.35 triệu người mỗi lần phát sóng. Với lối viết mới lạ Von Ziegesar đã phản ánh được thế giới trần trụi của các cậu ấm cô chiêu ở Mỹ. Các nhóm nhân vật được xây dựng theo một khuôn mẫu truyền thống: tình yêu ẩm ương tuổi học trò, các anh chàng đẹp trai, những cô nàng thay bồ như thay áo, những câu chuyện cãi cọ và những trò chơi xấu giữa những cô nàng lắm chiêu … Dẫu vậy chúng vẫn có một sức hút kỳ lạ đối với giới trẻ có lẽ bởi từng tập sách đã đánh trúng tâm lý và phản ánh đúng thực trạng lối sống của giới trẻ hiện đại từ đó chúng có thể rút ra được những bài học bổ ích trước tình huống tương tự gặp phải trong đời sống thực. Tại Việt Nam, 4 tập đầu trong seri này đã được chuyển tới độc giả qua phần chuyển ngữ của Nguyễn Trương Quý. Với giọng dịch nhẩn nha, tinh quái và cũng thật … lắm chiêu và sâu cay bản dịch tiếng Việt gần như đã truyền tải được hết tinh thần chung mà bộ sách muốn chuyển tải tới giới trẻ. *** Khuyến cáo: Tất cả những tên thật về nơi chốn, con người và sự kiện đều được thay đổi hoặc viết tắt để bảo đảm khách quan. Cụ thể là tên tớ. Xin chào các cậu! Có bao giờ các cậu tự hỏi cuộc sống thật sự của những người giàu có là thế nào không? À, tớ sắp kể cho các cậu biết đây vì tớ là một trong số đó. Tớ không nói về những siêu mẫu xinh đẹp, những nam diễn viên, hoặc những thần đồng âm nhạc, hay thiên tài toán học. Tớ đề cập đến loại người giàu từ trong trứng nước giàu ra - những loại như chúng tớ có tất cả mọi thứ mà người khác hằng ao ước, và chúng tớ đón nhận mọi thứ ấy như lẽ thường tình, hiển nhiên. Chào mừng các cậu đến với khu Upper East Side [1] của thành phố New York. Nơi đây, tớ và bọn bạn hàng ngày đi học, rồi đi chơi và sau đó là đi ngủ (thỉnh thoảng ngủ với nhau). Tất cả bọn tớ được sống trong những căn hộ to đẹp, có phòng ngủ, phòng tắm và đường dây điện thoại riêng biệt. Bọn tớ tha hồ tiêu tiền, rượu chè và làm tất cả những gì mà bọn tớ thích. Bố mẹ bọn tớ hiếm khi có mặt ở nhà cho nên đứa nào cũng có cả đống khoảng trời tự do, riêng tư. Bọn tớ thông minh, bọn tớ được ông bà cha mẹ truyền cho gen ngoại hình đẹp kiểu cổ điển. Bọn tớ ăn mặc rất sành điệu và sành sỏi trong khoản tiệc tùng. Phân của bọn tớ cũng thối lắm đấy, nhưng các cậu sẽ không ngửi thấy mùi được đâu, vì cứ cách một giờ, kẻ ăn người ở trong nhà đã xịt nước hoa vào phòng vệ sinh cho bọn tớ, thứ nước hoa Pháp với mùi hương tươi mát đặc trưng. Ðó là một cuộc sống xa hoa, nhưng cũng có vài đứa phải chịu đựng cuộc sống này. Từ tất cả các căn hộ của mình, bọn tớ đi bộ chút xíu là đến được Viện bảo tàng nghệ thuật Metropolitan nằm trên Ðại lộ Năm và gần nhiều trường tư thục nữ, như trường Constance Billard, nơi mà hầu hết bọn tớ đều đăng ký học. Dù mang đầy những tàn tích của lịch sử, Ðại lộ Năm luôn xinh đẹp vào mỗi sáng sớm với ánh mặt trời chiếu lấp lánh trên đầu của những cậu chàng quyến rũ đang theo học trường nam St Jude. Nhưng chỉ khu gần bên viện bảo tàng, có sự gì đó đang mục ruỗng… Những cảnh trông thấy Trong chiếc taxi đậu trước trung tâm mua sắm Takashimaya,B đang cãi nhau với bà mẹ của nó. Trên bậc cầu thang dẫn vào Viện bảo tàng nghệ thuật Metropolitan, N đang thích thú thưởng thức điếu thuốc vấn. Tại cửa hàng, C đang chọn mua một đôi giày đồng phục mới để đi học. Và kìa, trên chuyến xe lửa New Heaven chạy về Nhà ga Trung tâm hiện ra hình dáng quen thuộc của một thiếu nữ tóc vàng, người dong dỏng cao, đẹp đến mê hoặc. Thiếu nữ ước chừng 17 tuổi. Có thể nào lại là... Hay là S đã trở về rồi sao? Một cô gái từng học trường nội trú, bị đuổi học và nay đang trở về Vâng, S đã bỏ trường nội trú để quay về. Cô xanh xao hơn, tóc cô dài hơn. Ðôi mắt xanh sâu thẳm của cô đầy ắp bí mật huyền hoặc được giấu kín. Cô mặc lại những bộ quần áo cũ kỹ đến khó tin, như thể chúng vừa sót lại trong một trận bão ở vùng New England. Sáng nay, tiếng cười rộn rã của S vang dội khắp các bậc thang ở Viện bảo tàng nghệ thuật Metropolitan, nơi bọn tớ sẽ không còn có thể đứng túm tụm cùng nhau chia điếu thuốc và uống cà phê capuccino mà không thấy cô ấy đứng vẫy tay chào rối rít từ căn hộ của bố mẹ nằm ở phía bên kia con đường. Từ ngày trở về, cô ta có thêm thói quen là hay gặm gặm mấy cái móng tay càng khiến cho lũ bọn tớ tò mò hơn về bí mật của cô ta. Và trong khi cả lũ bọn tôi rất khao khát muốn được hỏi là vì sao cô nàng bị đuổi khỏi trường nội trú thì bọn tớ vẫn im như thóc. Bởi vì bọn tớ thật sự muốn xa lánh cô nàng. Nhưng S luôn luôn hiện diện quanh bọn tớ. Ðể đảm bảo an toàn, bọn tớ cùng canh đồng hồ chạy giờ y hệt nhau. Nếu bọn tớ không cẩn thận, S sẽ lôi kéo quý thầy cô về phe với cô ả. S sẽ mặc những bộ quần áo mà bọn tớ không thể nào mặc vừa. S sẽ ăn mất quả ô liu cuối cùng. S sẽ làm tình trên giường ngủ của bố mẹ bọn tớ, làm đổ rượu Campari lên chăn nệm của bọn tớ. S sẽ đánh cắp trái tim của các anh trai, bạn trai bọn tớ và về mặt nào đó chắc chắn S sẽ hủy hoại cuộc sống của bọn tớ và phá bĩnh tất cả bọn tớ bằng nhiều thủ đoạn. Tớ sẽ theo dõi cô ả thật chặt chẽ, sẽ canh chừng cô ả giùm cho lũ bạn bè. Tớ có thể đánh hơi được bọn tớ sắp có một năm đầy rẫy những trò khùng điên và ác hiểm. Các cậu biết các cậu yêu tớ mà! Gái nhiều chuyện (gnc)   [1] The Upper East Side là khu lân cận với khu Manhattan ở thành phố New York, nằm giữa Công viên Trung tâm và con sông phía Ðông. Giữ vị trí như là khu vực giàu có nhất của Thành phố New York. Mời các bạn đón đọc Hot Girl Trở Lại! của tác giả Cecily von Ziegesar.
Trường Đời
Năm tôi 11, 12 tuổi, tôi đọc tiểu thuyết Trường Ðời của Nhà Văn Lê Văn Trương, tôi đọc tiểu thuyết Giông Tố của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, Tôi đã viết nhiều lần: “Ai hỏi những tiểu thuyết nào có ảnh hưởng đến việc tôi thích viết truyện, tôi trả lời: Trường Ðời của Lê Văn Trương, Giông Tố của Vũ Trọng Phụng.” Trước năm 1945 tôi théc méc về 5 chữ “Phổ Thông Bán Nguyệt San” in trên trang bià những quyển tiểu thuyết như quyển “Trường Ðời.” “Phổ Thông Bán Nguyệt San” là cái gì? Mấy ông anh tôi, các ông chú, ông cậu tôi có nhiều ông thích đọc tiểu thuyết, tôi hỏi nhưng không ông nào trả lời được. Những năm xưa ấy tôi không chú ý đến dòng chữ nhỏ “Tạp chí văn học ra đầu tháng và giữa tháng” nằm dưới hàng chữ “Phổ Thông Bán Nguyệt San.” Mà có chú ý tôi cũng không hiểu nghĩa. Nhiều năm sau, khi cuộc đời không còn những quyển tiểu thuyết “Phổ Thông Bán Nguyệt San” tôi mới biết  Phổ Thông Bán Nguyệt San là tờ báo tháng ra hai kỳ, Nhà Xuất bản Tân Dân dùng cách này để được dễ dàng trong việc kiểm duyệt sách, Như vậy mỗi tháng Nhà Tân Dân xuất bản 2 quyển tiểu thuyết, đều đều trong nhiều năm. Một nhà xuất bản mỗi tháng  in ra hai quyển tiểu thuyết phải kể là nhiều. Một kỷ lục trong số những nhà xuất bản Việt từ ngày Việt Nam có Nhà Xuất Bản Tiểu Thuyết. Tôi không biết sau chiến tranh năm 1946 ông Lê Văn Trương trở về Hà Nội năm nào, tôi chỉ thấy ít nhất ông cũng trở về sống ở Hà Nội hai, ba năm trước năm 1954 là năm ông vào Sài Gòn. Về Hà Nội sau năm 1946,, ông Lê Văn Trương, Nhà Văn viết nhiều tiểu thuyết nhất Việt Nam, nhiều tiểu thuyết của ông rất “ăn khách”, không viết gì cả. Nguồn sáng tác của ông bị cạn. Một truyện ngắn ông cũng không viết. Vào Sài Gòn năm 1954 ông cũng không viết qua một trang tiểu thuyết nào. Thời gian đầu ông tìm những tiểu thuyết đã xuất bản của ông, nhiều quyển ông lấy ở những nhà cho mướn truyện, đem đến dạm bán cho mấy tờ báo, đề nghị nhà báo mua, đăng. Theo lệ, nhân viên những nhà báo nhận tác phẩm dạm bán không trả lời không mua ngay, mà nói: “Ðể chúng tôi đọc. Tuần sau ông trở lại.” Tuần sau ông LV Trương trở lại, nhà báo đưa trả mấy quyển truyện của  ông: “Truyện này không hợp với báo chúng tôi. Xin gửi lại ông.” Nhà Văn LV Trương bắt đền: “Trong lúc báo ông giữ tác phẩm của tôi, có người hỏi mua, tôi không có tác phẩm để bán. Báo ông làm tôi bị thiệt hại..” Nhà báo phải bồi thường cho ông một khoản tiền. Tôi – CTHÐ – chứng kiến chuyện tôi vừa kể ở toà báo Ngôn Luận. Sau 1954 Sài Gòn tái bản những tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Nguyên Hồng, Vũ Bằng, Khái Hưng, nhưng không tái bản một tiểu thuyết nào của Lê Văn Trương. Tôi không biết tại sao. Ông Lê Văn Trương là nhà văn Việt Nam – có thể là duy nhất – có đàn em viết truyện, ông sửa lại rồi ký tên ông đem bán cho nhà xuất bản. Vì ông nổi tiếng, vì truyện ông có nhiều người mua đọc, nên cứ truyện ký tên ông là nhà xuất bản mua. Người Pháp gọi những người viết truyện loại này là nègre. Hai ông đàn em viết truyện cho ông Lê Văn Trương ký tên làm tác giả là ông Ðặng Ðình Hồng, và ông Tân Hiến. Hai ông này cùng  vào Sài Gòn năm 1954.  Cả ba ông cùng nghiện thuốc phiện. Tôi thấy từ ngày vào Sài Gòn ông Lê Văn Trương không làm qua một công việc gì cả. Ông nghiện thuốc phiện nặng. .Ðời sống của ông đi vào tình trạng thiếu đói, vất vả, cực khổ. Từ năm 1960 ngày ngày ông lang thang đi tìm người quen để xin tiền, giới văn nghệ sĩ Sài Gòn gọi việc đi xin tiền người quen này là “đi cốc.” Khoảng năm 1958 hai ông Hoàng Xứ Lào Phoumi và Phouma tranh quyền làm Thủ Tướng Chính Phủ. Mỗi ông Hoàng có một số quân sĩ, hai ông dùng quân đội đánh nhau, những cuộc binh biến xẩy ra liên miên trên đấi Ai Lao. Nguồn cung cấp thuốc phiện cho Sài Gòn thời ấy là Ai Lao. Thuốc phiện từ Lào về Sài Gòn bằng đường hàng không. Một lần xẩy ra cuộc binh biến, phi trường Vientiane bị đóng cửa nhiều ngày. Nguồn thuốc phiện từVientiane về Sài Gòn phải ngừng. Thuốc phiện trở thành khan hiếm ở Sài Gòn. Những nhà buôn thuốc phiện không bán hàng ra, có bán thì cầm chừng, và bán giá đắt. Giới đệ tử của Phù Dung Tiên Nữ rơi vào tai kiếp không có thuốc hút. Dân Hít Tô Phê – Hít Thuốc Phiện – có thể nhịn ăn vài ngày nhưng nhịn thoóc một bữa thì không được. Không có thoóc. có tiền cũng khó mua được thoóc. Mà 90/100 dân Hít Tốp là dân nghèo, không phải nghèo thường mà là nghèo mạt rệp, nghèo đến con rêp cũng không sống nhờ được. Thời ấy Sài Gòn có câu: “Phu-mi, Phu-ma đánh nhau. Phu-mơ chết.” Phu-mơ: fumeur: người hút. Trong cơn bĩ cực ấy có ông nghiện nghĩ ra chuyện lấy sái thuốc phiện nấu với nước, lọc cho hết chất sạn, than, tro, dùng ống chich hút chất nước sái thuốc phiện chích thẳng vào mạch máu. Chất thuốc phiện vào máu, người nghiện phê ngay trong nháy mắt. Ðang hút 100 đồng, chỉ cần chích 10 đồng là người nghiện phê hơn hút. Nhưng việc chích – dân nghiện gọi là choác – làm hại cơ thể người chích gấp nhiều lần việc hút. Chích 1 năm hại người bằng hút 10 năm. 10.000 người nghiện hút may ra có một, hai người bỏ được hút, người choác thì 10.000 người chết cả 10.000 người. Ông Lê Văn Trương trở thành dân choác. Người ông khô đét, da ông đen sạm. Bà vợ sống với ông từ Hà Nội trước 1946 tới ngày ông qua đời ở Sài Gòn là bà Ðào. Bà này không phải là vũ nữ Dancing Fantasio mà là bà cô đầu. *** Đôi bên họ đã thỏa thuận, thân bằng cố hữu đã biết cả, nay con làm ngang trái như thế, không sợ người ta cười ba và mẹ ư? - Nhưng con không yêu thì biết làm sao! - Thế sao trước kia con bằng lòng? - Trước kia con khác mà bây giờ con khác. Ông Nam Long kéo ghế, ngồi lại gần Khánh Ngọc: - Ba không biết trước kia và bây giờ, tính tình con thay đổi thế nào. Nhưng ba chỉ nói để con biết ba yêu và chiều con lắm. Con đã rõ. Nay ba chỉ muốn con nghĩ đến những việc thiết thực một chút. Ba thầu khoán, công việc thì nhiều mà nó thì đỗ kỹ sư cầu cống. Nó có thể giúp đỡ cho ba và làm nổi danh thế của ba nhiều lắm. Gia dĩ nó là người đỗ đạt to, có địa vị trong xã hội, con lấy nó rất xứng đáng. Con nghĩ sao? Khánh Ngọc vặn chiếc mùi soa không trả lời. - Thế sao trước kia con bảo yêu nó? - Con đã bảo với ba trước kia khác mà bây giờ khác. Trước kia, con là con bé học trò mới rời khỏi ghế nhà trường. Chứ bây giờ... con đã từng trải việc đời, con nghĩ và cảm khác trước. Nếu đời người mà chỉ là một cuộc đi thầu để kiếm lãi, thì vâng con xin lấy một ông kỹ sư. Nhưng đời người không phải thế, mà sự sống là một cái gì thiêng liêng hơn sự đi tìm lợi lộc thì lấy chồng, con phải lấy một người... đàn ông, một người đàn ông thật đàn ông, thì đời sống của con mới thật đầy đủ. - Thế con định lấy ai? - Lấy ai rồi thì ba sẽ biết. - Con định lấy ông Trọng Khang à? - Vâng, con yêu người ta. - Ông ấy thì tài giỏi và nhiều nết tốt thật đấy. Nhưng không có bằng cấp và địa vị... gì... Khánh Ngọc ngắt lời cha: - Ông ấy có nhiều bằng cấp giá trị bằng nghìn cái bằng luật khoa cử nhân của con, và cái bằng kỹ sư cầu cống của anh Giáp. Con vì theo ba lên trên ấy, trải mấy tháng nguy nan và trực tiếp ngay với cuộc đời, con mới biết được cái sự thật ấy. Mà Giáp cũng thế. Còn như cái địa vị của ông ta thì ở trong trái tim con. - Nhưng con không nghĩ đến chỗ Giáp theo đuổi con trong bao nhiêu lâu, và vì con mà phải khổ sở ư? - Con nghĩ lắm. Con thương lắm. Nhưng thương không thể đi với yêu được. Bây giờ con mới nhận ra trước kia, con chỉ thích anh ấy, chứ con không yêu anh ấy bao giờ cả. - Anh về bao giờ mà không đánh dây thép cho tôi biết, để tôi ra ga đón. Thế nào công việc xong rồi chứ? - Ô kìa, thế Khánh Ngọc không nói gì cho anh biết cả à? - Có, tuần lễ trước đây gặp tôi ở bàn quần, cô ấy có bảo rằng công việc sắp xong. Nhưng tôi không ngờ chóng thế. - Thế mấy hôm nay anh không gặp à? Tôi tưởng anh với cô ấy ngày nào cũng phải gặp nhau chứ. Tôi ngỡ năm ngoái ở trên ấy về là cưới ngay, sao để trùng trình thế? Giáp lấy thuốc nhồi vào cái "píp" của mình, rồi đưa cho Trọng Khang: - Anh hút thử cái "píp" của tôi xem, ngon đáo để. Khánh Ngọc thích lắm nhé, vẫn bảo tôi chờ anh về để biếu anh. - Ừ, dáng đẹp lắm. - Anh cũng thích? Trọng Khang gật đầu. - Khánh Ngọc biết lựa tính anh lắm. À còn câu chuyện tôi với Khánh Ngọc thì bây giờ... chúng tôi là bạn, Khánh Ngọc không viết thư từ gì cho anh cả à? - Thì cũng như anh, tuần lễ viết hai lần, nhưng không thấy đả động đến chuyện nhân duyên... - Cuộc nhân duyên ấy không có nữa. Vì... Khánh Ngọc không yêu tôi, và tự tôi xét thấy không xứng đáng. - Có lý đâu thế! Đã cùng nhau sống những phút... - Những phút đó làm cho tôi hiểu... Anh Trọng Khang, tôi với anh... chỉ có sự thành thực mới xứng đáng với cái tình của chúng ta nó đã nảy nở ở bên cái chết. Khánh Ngọc yêu anh, yêu anh lắm, yêu như người ta yêu một cái gì đẹp đẽ và cao quý nhất ở trên đời. Trọng Khang đứng phắt dậy: - Nhưng tôi không thể yêu như thế? Tôi với anh... - Anh hãy khoan để cho tôi nói hết. Rồi anh muốn nói gì, tôi xin nghe. Trước nhất, tôi nói để anh biết: tôi không đau đớn mấy về chỗ Khánh Ngọc không yêu tôi. Mà Khánh Ngọc sẽ đau đớn vô cùng, nếu không lấy được anh, nghĩa là được anh yêu. Kìa thì anh hãy khoan để tôi nói. Anh đừng thương tôi, trước anh phải thương Khánh Ngọc, và yêu nữa. Bởi đối với một con người như thế mà không yêu, thì chúng ta thực không còn là con người nữa. Anh sở dĩ bắt trái tim anh phải câm là vì anh không muốn cướp mối tình của tôi. Nhưng mối tình ấy, có bao giờ thuộc về tôi đâu mà bảo anh cướp. Mối tình ấy mọc ra ở trong lòng nàng từ khi gặp anh, vì anh mà có. Còn đối với trước kia, chẳng qua là một thứ cảm tình ẻo lả, chạm vào những sự thực gay go là chết ngay. Sao gọi là tình yêu được! Lúc ấy, tôi là cái bóng một người đàn ông, mà Khánh Ngọc thì cái bóng một người đàn bà. Làm sao có chân ái tình. Mà nếu có thì cũng là cái bóng của ái tình thôi. Bây giờ, nếu anh không yêu thì Khánh Ngọc đau đớn lắm; và cũng chẳng ích gì cho tôi. Mà có lẽ vì thế, tôi cũng đau đớn. Chắc chả cần phải nói, một khi đã sống một cuộc đời như anh, hay thấp hơn, một cuộc đời như tôi đã tập ở bên cạnh anh thôi, thì những cái hình thức bề ngoài và những thành kiến nhỏ hẹp chúng ta chẳng tính đến. Tôi biết anh không khuyến khích mối tình của Khánh Ngọc và anh đã tìm hết cách để làm cho thui chột đi, nhưng một khi mối tình đã chớm mọc lên trong một trái tim hào hùng như thế, còn cái gì làm thui chột cho được. Anh về hỏi cô Tuyết Vi xem Khánh Ngọc thờ phụng anh đến thế nào, hắt hủi một mối tình như thế là một cái tội. Bây giờ, tôi đã nhờ sống bên anh mà... thành... người rồi, có bằng cấp làm người rồi, tôi tưởng tôi có quyền nói với anh: "Không hèn nhát trước nguy nan, chưa đủ, phải không hèn nhát trước hạnh phúc nữa". Trọng Khang lấy que diêm cời cái "píp": - Tôi về nhà lúc bốn giờ. Tắm rửa, thay quần áo xong là lại thăm anh ngay. Em Tuyết Vi cũng chưa nói gì cho tôi biết cả. - Mà cần gì phải ai nói. Mối tình Khánh Ngọc đối với anh sáng lòe ở đôi con mắt. Tôi tưởng anh biết rõ hơn ai hết. - Tôi biết nhưng... - Nhưng... vì một tình thương không phải đường, anh không thành thật được với anh chứ sao. À, Marie đến kia rồi. Chắc biết tin anh về đi tìm đấy. Khánh Ngọc chạy đến nắm tay Trọng Khang: - Em lại cô Tuyết Vi, nghe nói anh về, em đến thẳng ngay đây, vì em biết thế nào anh cũng đến đây trước. Anh về không đánh dây thép cho em ra đón, tệ thế thì thôi. Chà anh đen quá, thật bóng như Tây đen. Em ở nhà với cô Tuyết Vi, hai chị em chỉ lo anh ngã nước. Anh Giáp, hôm nay phải lại cả đằng nhà ăn cơm đấy nhé. Không thấy Giáp trả lời, Khánh Ngọc quay lại đã chẳng thấy Giáp đâu. Khánh Ngọc bỗng thẹn, má đỏ ửng: - Ồ, lủi đi đâu chóng thế thì thôi. Mời các bạn đón đọc Trường Đời của tác giả Lê Văn Trương.