Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Gã Say Luận Đàm Thế Sự

Ba gã say luận đàm thế sự ra đời năm 1887, đúng thời điểm đất nước Nhật Bản đang đứng giữa ngã ba đường của lịch sử, loay hoay tìm đường hướng phát triển quốc gia: Phải lựa chọn chế độ chính trị như thế nào? Cần theo đuổi chính sách ngoại giao ra sao để có thể trở thành một cường quốc ở châu Á? Là xác lập chủ nghĩa lý tưởng Tây phương, qua hình tượng chàng Thân sĩ Tây học, sống trong “khuê các tư tưởng”? Là đi theo chủ nghĩa quốc quyền, qua hình tượng vị Hào kiệt, con người của hành động, thao thao bất tuyệt về mưu toan bành trướng Trung Hoa? Hay là chủ nghĩa hiện thực với đường lối trung dung, tùy thời tiến thoái, như hình tượng vị Nam Hải tiên sinh? Được cấu tứ dựa trên ý tưởng một cuộc luận đàm về chính trị giữa ba gã say, Ba gã say luận đàm thế sự đã chỉ ra những ưu nhược điểm của chủ nghĩa phương Tây, chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa quốc quyền, bành trướng, như một lời chỉ dẫn về con đường Nhật Bản nên đi và cũng được xem như điềm báo về sự thịnh suy của đế quốc Nhật Bản trong tương lai. Với văn phong cổ kính, ngôn từ hàm súc, sử dụng nhiều điển tích Đông Tây kim cổ, cuốn sách đã khắc họa một bức tranh đa diện, nhiều màu sắc về lịch sử văn minh thời Minh Trị, về những vấn đề mà giới tinh hoa Nhật Bản đang đau đáu bận tâm. Tác phẩm được coi như một danh tác tiêu biểu cho văn minh thời Duy tân Minh Trị. “Nói rằng nhiều vấn đề trọng đại của Nhật Bản hiện tại như hòa bình, tự do, phòng vệ, tiến bộ - bảo thủ, dân quyền - quốc quyền… được gói gọn trong Ba gã say luận đàm thế sự cũng không phải quá lời.”       --- Kuwabara Takeo *** VÀI NÉT VỀ TÁC PHẨM   Nakae Chōmin tên thật là Tokusuke, sinh ngày 1 tháng Mười một năm 1847 tại Kochi phiên Tosa (nay là tỉnh Kochi). Cha của ông là Tameshichi (sau đổi thành Motosuke, Yasosuke), mẹ là Yanagi và một người em trai tên Kōma. Tổ tiên của nhà Nakae có thể tính lùi về đến ông cố của Tokusuke là Densaku. Không có nhiều thông tin về lai lịch của Densaku, chỉ biết vào năm 1766 ông được tuyển làm Ashigaru của phiên Tosa, được cấp sinh hoạt phí gấp đôi và nhận bổng lộc bốn thạch lúa gạo. Tokusuke là đời thứ tư, sau người ông Katsuji và cha Tameshichi. Cha ông bị ràng buộc ở Edo nên thời thơ ấu được một tay mẹ nuôi dưỡng. Người ta truyền rằng ông vốn trầm tính như con gái và rất thích đọc sách. Năm 1861, cha mất, ông kế tục làm một Ashigaru. Năm sau, ông vào học Bunbukan (Văn Võ quán) khi nơi này vừa được thành lập, rồi nhận được sự chỉ dạy của Hosokawa Junjiro, một nhà Tây dương học nổi tiếng, người này sau làm Viện trưởng Đế quốc học sĩ. Nhờ sự tiến cử của Hosokawa, ông được gửi đến Nagasaki với tư cách là du học sinh của phiên và học tiếng Pháp với Hirai Gijūrō. Hai năm sau, ông lên Edo, theo học bậc thầy Pháp học Murakami Hidetoshi nhưng vì quá phóng đãng nên đã bị khai trừ. Khi Công sứ Léon Roches xuống phía tây vì vấn đề mở cửa Hyogo, ông đi theo với vai trò là tùy viên hỗ trợ phiên dịch. Trước và sau Minh Trị Duy tân, Chōmin không có hành động của một chí sĩ, ông chỉ học tiếng Pháp và nghiên cứu Pháp điển đồng thời khổ luyện âm khúc truyền thống Edo như Nagauta. Sau Duy tân, ông là học trò tại trường tư của Mitsukuri Rinsho, rồi trở thành người đứng đầu trường tư Nisshinsha (Nhật Tân xã) của Fukuchi Gen’ichirō, sau đó nhận giảng dạy tiếng Pháp tại Đại học Nankō (Nam Hiệu, sau là Đại học Tokyo). Năm Minh Trị thứ 4 (1871), ông có nguyện vọng sang Pháp du học, nhờ sự tận tình của Ōkubo Toshimichi, ông vào phục vụ ở Tư pháp sảnh [Bộ Tư pháp], rồi đồng hành cùng Iwakura Tomomi với tư cách là Đại sứ toàn quyền sang Tây dương. Trong thời gian lưu trú tại Pháp, ông từng giao du với Saionji Kinmochi và Komyoji Saburō, học hỏi nhà tư tưởng chính trị cấp tiến Acollas. Năm 1874, ông về nước và mở “Pháp Lan Tây học xá” để dạy Pháp học tại nhà, nhưng đến năm Minh Trị thứ 8 (1875) ông đến nhậm chức Hiệu trưởng trường Ngoại ngữ Tokyo. Chōmin nhận chức hiệu trưởng này chưa được ba tháng đã từ chức, có thuyết cho rằng vì ông chủ trương giáo dục Nho giáo nhưng bị phản đối. Việc này không có chứng cứ xác thực, nhưng có một sự thật là sau này vì yêu thích Hán học ông đã vào trường tư thục của Okamatsu Ōkoku. Genrōin (Nguyên lão viện) được thành lập, ông được thư ký quan của viện mời về làm việc, công việc ở đây cũng nhàn, lại thuận tiện cho việc kinh doanh “Pháp Lan Tây học xá” nên ông chuyển việc đến đó cũng là lẽ tự nhiên. Nhưng ở Genrōin, ông lại xung đột với Mutsu Munemitsu, nên đã từ chức vào năm 1877. Sau đó, ông vẫn nhận công việc phiên dịch do chính phủ ủy thác nhưng không thuộc chế độ phục vụ suốt đời. Có vẻ như khí chất ông không thể chịu được cuộc sống viên chức. Cuộc vận động tự do dân quyền cũng bắt đầu vào năm Chōmin về nước, nhóm người Itagaki Taisuke dâng bản điều trần [kiến bạch thư] thiết lập dân tuyển nghị viện. Chōmin không lập tức tham gia cuộc vận động này, ông phổ cập tư tưởng chủ nghĩa dân chủ, xây dựng cơ sở lý luận cho nó dựa vào Pháp học. Ông thử nghiệm việc dịch Khế ước Xã hội, nhưng rồi sau đó ông cùng Saionji Kinmochi sáng lập tờ báo Tōyō Jiyū shimbun(Đông Dương Tự do tân văn), do Saionji làm chủ tòa soạn, còn bản thân ông thì làm chủ bút. Số đầu tiên ra ngày 18 tháng Ba năm Minh Trị thứ 14 (1881). Đây là lần đầu tiên từ “Tự do” xuất hiện trên mặt báo ở Nhật Bản. Chính phủ lo sợ cuộc vận động tự do dân quyền lan rộng, bèn dựa vào uy quyền của Thiên hoàng đàn áp tờ báo, ép Saionji từ chức, tờ báo không tránh khỏi bị đình bản sau khi đã ra được 34 số. Cuộc vận động dân quyền phát triển đến mức, Iwakura Tomomi cho rằng “dù là thời điểm trước cách mạng Pháp, e cũng không sánh được với tình thế hiện tại”. Thế nhưng phe phản chính phủ cũng có nhiều yếu điểm nên cuộc vận động sớm nảy sinh chia rẽ, một bộ phận phần tử cấp tiến đã tự ý hành động trực tiếp, chẳng hạn như các vụ bạo động ở Gunma, Kabasan; hệ quả tất yếu là trung ương bộ của Đảng Tự do tự giải tán (tháng Mười năm 1884). Trước sự kích động như thế, Chōmin hầu như chưa có hoạt động chính trị nào. Ông phản đối đường lối khởi sự thô bạo mà chỉ muốn đào sâu về lý luận, ông dốc sức dịch sách L’Esthetique của Eugene Veron (1883), Histoire de la Philosophic của Alfred Jules Émile Fouillee (1886) và viết Rigaku Kogen(Lý học câu huyền) và Kakumeizen France Niseki Kiji (Ký sự hai thế kỷ nước Pháp trước cách mạng), quyển Ba gã say luận đàm thế sự này cũng là một trong những thử nghiệm đó. Chúng tôi sẽ bàn về điều này sau. Tuy nhiên, trong thư phòng của Chōmin chắc chắn sẽ không có những nghiên cứu thấu triệt mà chuyên sâu làm thỏa mãn việc tranh luận về lý luận chính trị. Sau khi quyển sách này xuất bản không lâu, nhân dịp Ngoại tướng [Bộ trưởng Bộ Ngoại giao] Inoue Kaoru phản đối kế hoạch Cải chính Điều ước*, cuộc vận động tổng lực của phái tự do dân quyền đã bùng nổ trở lại, đả đảo chính phủ phiên phiệt. Chōmin tham gia tích cực vào cuộc vận động này, đóng vai trò chỉ đạo, chấp bút thượng tấu buộc tội chính phủ thay cho Gotō Shōjirō. Thế nhưng chính phủ lo sợ cuộc vận động này nên đã công bố Điều lệ Bảo an vào cuối năm Minh Trị thứ 20 (1887), liệt ông cùng 570 người nhóm Ozaki Yukio, Hoshi Tooru vào thành phần nguy hiểm và bị trục xuất khỏi Tokyo, ông đành phải dời về Osaka. Nhưng, ở Osaka ông lại lập tức thành lập và kiêm chủ bút tờ Shinonome shimbun (Đông Vân tân văn), ra sức phổ cập tư tưởng dân quyền, ủng hộ việc thiết lập quốc hội. Mạch chính trong chủ trương của Chōmin là đưa việc khâm định hiến pháp vào quốc hội, cho phê duyệt từng hạng mục [điểm duyệt], qua đó có thể thực hiện được chủ trương dân chủ hóa. Nhờ đợt ân xá vào thời điểm công bố Hiến pháp, lệnh trục xuất Chōmin được giải trừ, ông quay lại Tokyo, ra ứng cử Khu số 4 Osaka và trúng cử trong cuộc tuyển cử Chúng nghị viện lần thứ nhất. Trong quốc hội, thành phần chống đối chiếm đa số nhưng không thể gắn kết trong một chiến tuyến thống nhất, bị chia rẽ bởi chính sách mua chuộc của chính phủ, tháng Hai năm Minh Trị thứ 24 (1891), dự toán thỏa hiệp với chính phủ được xác lập do phe Tosa phản bội, Chōmin giận dữ, nộp đơn từ chức “Tiểu sinh sắp tới đây e là phát bệnh do trúng độc rượu, không tiện đi lại, khó tham dự cuộc bỏ phiếu, vậy nay trình đơn này xin phép được từ chức” và rời bỏ quốc hội. Dù rất nhiệt tâm nhưng ông không thành công trong cuộc vận động thực tiễn có tính tổ chức. Đó phần nào cũng do tính cách cá nhân của riêng ông, nhưng cũng là bởi tình hình quá tệ, ông từng mắng những nghị viên nhút nhát là bọn sâu mọt không máu, cuối cùng lại phải ôm mối tuyệt vọng với giới chính trị hủ bại và dời về Hokkaido, ông làm chủ bút tờ Hokumon Shinbo (Bắc Môn tân báo) ở thành phố Otaru. Mùa hè năm Minh Trị thứ 25 (1892), ông rút khỏi tờ Hokumon Shinbo,sau đó bắt đầu sự nghiệp kinh doanh. Xét thấy nếu không có tiền thì cả hoạt động chính trị lẫn sáng tác đều mất tự do và suy thoái, ông quyết định sẽ kiếm tiền trước, ông cai rượu, quyết tâm dấn thân vào nhiều ngành nghề nhưng phần nhiều bị cho là mang tính môi giới. Tất cả liên tục bị thất bại, Chōmin rơi vào cảnh nghèo túng. Trong thời gian kinh doanh ông đã dịch lại Die beiden Grundprobleme der Ethik của Authur Schopenhauer từ tiếng Pháp nhưng trước sự can thiệp của ba nước sau chiến tranh Nhật-Thanh, ông đã phẫn uất thốt lên rằng “đó là vết nhơ lớn hằn sâu vào trang sử của Đế quốc Nhật Bản chúng ta”. Sau đó vào năm Minh Trị thứ 31 (1898), hầu như một mình ông tự sáng lập Kokuminto (Quốc dân đảng), phát hành bản tin Hyaku rei ichi (Bách linh nhất). Tuy nhiên, cương lĩnh đó không phải là chủ nghĩa quốc quyền mà là chủ nghĩa tự do tiến bộ, là yêu sách về tuyển cử phổ thông, miễn phí giáo dục tiểu học, tự do ngôn luận, xuất bản. Năm Minh Trị thứ 33 (1900), ông gia nhập Kokumin Domeikai (Quốc dân Đồng minh hội) của Konoe Atsumaro nhằm tiến vào đại lục, đồng thời khích lệ Risodan (Lý tưởng đoàn) của Kuroiwa Shuroku, Uchimura Kanzo cân nhắc đến việc bãi bỏ quyền sở hữu đất đai và quyền kế thừa tài sản, lại gia nhập “Phổ thông tuyển cử kỳ thành Đồng minh hội” (1901). Qua đó để thấy có không ít hành động trong cuộc đời ông bộc lộ sự mâu thuẫn. Tháng Ba năm Minh Trị thứ 34 (1901), Chōmin đến Osaka vì công việc kinh doanh và ngã bệnh, ông được chẩn đoán là ung thư thực quản, thời gian còn lại chỉ là một năm rưỡi. Sau khi làm phẫu thuật, ông viết lchinen yūhan(Nhất niên hữu bán) và Zoku lchinen yūhan (Tục nhất niên hữu bán) trong cơn đau bệnh. Ngày 13 tháng Mười hai, ông kết thúc cuộc đời 54 năm tại nhà riêng ở quận Koishikawa, thị trấn Takeshima. Mời bạn đón đọc Ba Gã Say Luận Bàn Thế Sự của tác giả Nakae Chōmin & Nguyễn Mạnh Sơn , Võ Vương Ngọc Chân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Xu Xu đừng khóc - Hồng Sakura
AudioBook Xu Xu đừng khóc   Tên eBook: Xu Xu đừng khóc (full prc, pdf, epub) Tác Giả: Hồng Sakura Thể loại : Truyện Teen, Tiểu thuyết, Văn học Việt nam   Nguồn: wattpad.com   Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Xu Xu đừng khóc Giới thiệu:   Họ - mỗi người một hoàn cảnh, một lối sống, một tính cách khác nhau; nhưng đều là những vệ sĩ đáng yêu vây quanh một cô nhóc!    Đu Đu đã luôn theo sát, luôn ở bên cạnh cô nhóc từ ngày còn bé, luôn nói với cô nhóc rằng: "Xu Xu, đừng khóc".    Hotboy Lo Lo nổi tiếng trường quốc tế Grand luôn bắt nạt cô nhóc, nhưng cũng dành cho cô trái tim nồng nhiệt, luôn nói với nhóc rằng: "Xu Xu, đừng khóc".    Một cao thủ karatedo, một giáo sĩ tương lai La La, cũng luôn dịu dàng nói với cô nhóc rằng: "Xu Xu, đừng khóc".    Vậy, cô nhóc đó là ai? Cô có điều gì đặc biệt để khiến bao trái tim rung lên mãnh liệt?   Mời các bạn đón đọc Xu Xu đừng khóc của tác giả Hồng Sakura.
Bàn về Chiến tranh
Tên eBook: Bàn về chiến tranh (full prc, pdf, epub) Tác giả: Carl von Clausewitz Thể loại: Chiến tranh, Luận đàm, Văn học phương Tây   Tên gốc: Vom Kriege   Dịch giả: Nguyễn Tùy, Đinh Kim Khánh   Scan: dhuy1990 và babylon   Đánh máy: conguyen, mrsimple, bống yêu, HNTXT, Tornad, cphong1993, picicrazy, kzak27, vqsvietnam, quocdat5594, chuquynhanh, Peeves, tamchec, Fish, cfcbk, lemontree123, assam1719, bichdinh, chaovnn   Soát chính tả: 4DHN   Tạo prc: Nhóm Tây Phong Lĩnh   Nguồn: tve-4u.org   Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Bàn về Chiến tranh Giới thiệu: Carl Philipp Gottfried von Clausewitz (1/6/1780 - 16/11/1831) là một binh sĩ của Vương quốc Phổ, một nhà lịch sử học quân sự, lý luận học quân sự có tầm ảnh hưởng lớn. Ông được biết đến nhiều nhất với luận thuyết Bàn về chiến tranh (Vom Kriege). Bàn về chiến tranh là một tác phẩm lý luận quân sự về chiến tranh và chiến lược quân sự do tướng Carl von Clausewitz viết. Nó được viết sau thời kỳ Chiến tranh Napoléon, khoảng giữa năm 1816 và 1830. Cuốn sách được xuất bản sau khi Von Clausewitz qua đời bởi người vợ của ông vào năm 1832. Nó đã được dịch ra tiếng Anh nhiều lần với tự đề On War. Bàn về chiến tranh là tác phẩm chưa được chỉnh sửa hoàn chỉnh; Von Clausewitz đã xem lại bản thảo viết tay của mình vào năm 1827, nhưng ông đã chết mà chưa kịp hoàn thành chỉnh sửa. Vợ của ông đã hoàn tất việc chỉnh lý toàn bộ tác phẩm và hai chương cuối cùng Von Clausewitz đang viết. Bàn về chiến tranh là một trong những tác phẩm lý luận quân sự đầu tiên về các chiến lược quân sự hiện đại. Điều này chính là do Von Clausewitz đã kết hợp được giữa các vấn đề về chính trị, kinh tế và xã hội, đây là những nhân tố quan trọng nhất quyết định đến kết quả của một cuộc chiến tranh. Tác phẩm được đánh giá là một trong những luận thuyết quan trọng nhất và là tác phẩm lý luận quân sự bắt buộc đưa vào giáo trình giảng dạy trong nhiều học viện quân sự ngày nay. Mời các bạn đón đọc Bàn về Chiến tranh của tác giả Carl von Clausewitz.
Địa Đàng Trần Gian - Thomas More
Tên eBook: Địa Đàng Trần Gian (full prc, pdf, epub) Tác giả: Thomas More Thể loại: Kinh điển, Giả tưởng, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây   Nguyên tác: Utopia   Dịch giả: Trịnh Lữ   Nhà Xuất Bản: NXB Hội Nhà Văn   Công ty phát hành: Nhã Nam   Số trang: 212   Hình thức bìa: Bìa mềm   Kích thước: 12x20 cm   Ngày xuất bản: 12 – 2007   Trọng lượng: 245 gram   Giá bìa: 27.000 VNĐ   Chụp ảnh: yewkla   Thiết kế bìa: hai   Type: hai, chút, smilehd, yewkla, ndviet, minh_trang2905, wannabe, longtit   Kiểm tra chính tả: wannabe   Tạo prc: hai   Nguồn: VH-Project - fb.com/vhproject, www.thuvien-ebook.com   Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Địa Đàng Trần Gian Giới thiệu:   Utopia của nhà nhân văn chủ nghĩa, học giả và là một vị Thánh tử đạo Thomas More.   Trong suốt năm thế kỷ từ ần bản đầu tiên, Utopia vẫn được cả thế giới tìm đọc – nó nhắc nhở, bàn tán, phân tích, giải thích và gợi ý về tất cả những vấn đề mà chúng tôi và bạn vẫn quan tâm và đối mặt hàng ngày, từ chuyện trộm cắp, nghiện ngập, đĩ điếm, nghèo khổ, tham nhũng cho đến chuyện tư chất của những người cầm cân nảy mực trong xã hội. Nó bàn đến thế nào là khoái lạc, hạnh phúc, cái gì đáng quý, cái gì không. Nó lột trần những giả nguỵ của luật pháp hiện hành, những cái vô lý của thói thường. Giải pháp tín ngưỡng của nó thật kinh ngạc, nên được cổ vũ trong thế giới khủng bố hiện nay. Nó thiết kế 1 chế độ chính trị và xã hội mà nó tin rằng sẽ giúp cho con người được no ấm. Thế giới phương Tây gọi nó là “cuốn sách nhỏ vĩ đại”. Chữ “UTOPIA” đã trở thành một danh từ trong ngôn ngữ của nhiều nước, đứng tên cho cái mơ ước và cũng là niềm thất vọng triền miên của nhân loại trên con đường tự hoàn thiện mình. Nó không thuộc thể loại nào, mà chính nó tạo ra 1 dòng sách của riêng mình – Utopia – trào lưu giả thuyết 1 cõi địa đàng trần gian.   Được ấn hành lần đầu tiên bằng tiếng Latin năm 1516, Utopia là kiệt tác của Thomas More (1477-1535), nhà nhân văn chủ nghĩa ưu tú, học giả kiêm giáo sĩ sau này bị Vua Henry VIII chặt đầu vì không chịu thừa nhận nhà vua như là người đứng đầu tối cao của Nhà thờ Anh Quốc.   Trong tác phẩm này, tên tác phẩm đã trở thành tên gọi cả một dòng sách và trào lưu giả thuyết một cõi địa đàng trần gian, More đã mường tượng ra một đảo quốc gia trưởng, nơi thực thi cởi mở tôn giáo, nơi người người đều làm việc, không ai sở hữu nhiều hơn đồng loại của mình, mọi của cải đều thuộc sở hữu cộng đồng, và bạo lực, đổ máu cùng những thói xấu vô đạo không hề tồn tại. Dù trong chừng mực nào đó có dựa trên nhữg trước tác của Plato và một số học giả tiền bối khác, song Utopia hầu như bao gồm những tư tưởng hết sức mới mẻ của More.   Gần 500 năm đã trôi qua kể từ khi tác phẩm được ấn hành, đã có rất nhiều nỗ lực để thực hiện những “Utopia” cả trên lý thuyết lẫn trong đời thực. Tất cả những nỗ lực ấy, dù thế nào đi nữa, dường như cũng đều là hiện thân của những ý tưởng đã sẵn có trong trang viết kinh điển của Ngài More: niềm tin tưởng lạc quan vào bản chất của con người, tầm quan trọng của môi trường và nên giáo dục căn bản, sự luyến tiếc một thuở hồn nhiên mộc mạc đã qua cùng những nhân tố tích cực khác.   Với Utopia, bạn đọc có thể tự tìm hiểu lấy cho mình cái ảo mộng không tưởng ấy của More và qua đó biết được làm thế nào mà mặc dù cõi địa đàng trần gian ông mường tượng kia vẫn còn là không tưởng, thì ít nhất một vài trong những số đề xướng của ông đã thành hiện thực trong thế giới hiện tại...   Mời các bạn đón đọc Địa Đàng Trần Gian của tác giả Thomas More.  
Những Đứa Con Của Nửa Đêm - Salman Rushdie
Tên eBook: Những đứa con của nửa đêm Tác giả: Salman Rushdie Thể loại: Huyền ảo, Lịch sử, Tiểu thuyết, Văn học Ấn độ   Dịch giả: Nham Hoa   Số trang: 608   Kích thước: 15 x 24cm   Ngày phát hành: 27-03-2014   Giá bìa: 145 000 VND   Công ty phát hành: Nhã Nam   Nhà xuất bản: NXB Văn Học   Chụp pic: sundaefruit   Type: kasachan, stupid.devil, Frozenz, Meobongxu87, undead_nd    Beta: sagelc91   Tạo prc: Dâu Lê   Nguồn: luv-ebook.com     Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Những đứa con lúc nửa đêm Giới thiệu Cuốn tiểu thuyết Những đứa con lúc nửa đêm lấy bối cảnh quá trình chuyển tiếp của Ấn Độ từ thời thuộc địa Anh sang độc lập rồi tách thành ba quốc gia độc lập Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh. Những đứa con của nửa đêm không phải được viết ra để đọ thật nhanh. Đồ sộ như chính nó, huyền hoặc như chính nó, với một người dẫn chuyện lơ đãng có chủ đích, một lượng từ vựng khổng lồ và vô vàn tham chiếu đến lịch sử cũng như thần thoại của một đất nước thịnh vượng bậc nhất về mặt văn hóa. Cuốn sách làm choáng ngợp ngay cả những người đọc dạn dày. Đây là sự trải nghiệm kỳ thú về tình yêu và mất mát, về những số phận trôi dạt giữa lịch sử đầy bão dông, giữa những nang lực diệu kỳ và phép thuật kỳ diệu như cổ tích. Như mọi tác phẩm khác của “thầy phù thủy” Salman Rushdie, Những đứa con của nửa đêm không phải được viết ra để đọc thật nhanh. Đồ sộ như chính nó, huyền hoặc như chính nó, với một người dẫn chuyện lơ đãng có chủ đích, một lượng từ vựng khổng lồ và vô vàn tham chiếu đến lịch sử cũng như thần thoại của một đất nước thịnh vượng bậc nhất về mặt văn hóa, Những đứa con của nửa đêm làm choáng ngợp ngay cả những người đọc dạn dày. Nhưng ngay cả chưa cần tường tận đến từng chi tiết tinh xảo, cuốn sách này vẫn là một trải nghiệm đọc kỳ thú, về tình yêu và mất mát, về những số phận trôi dạt giữa lịch sử đầy bão giông, những năng lực diệu kỳ và phép thuật như cổ tích, thật như đời và ảo như mơ. Những đứa con của nửa đêm đoạt giải Booker lần đầu tiên năm 1981. Năm 1993, nó lại được chính ủy ban bầu chọn của giải thưởng danh giá này trao giải Cuốn sách đoạt giải Booker hay nhất (The Best of the Booker). Thành tích phi thường đó một lần nữa được lặp lại vào năm 2008, đưa Những đứa con của nửa đêm trở thành một hiện tượng vô tiền khoáng hậu của văn chương thế giới. Nhận định “Một trong những cuốn sách quan trọng nhất từng xuất hiện trong thế giới nói tiếng Anh.” – New York Review of Books “Đồ sộ, sống sít, choáng ngợp… một cuốn sách diệu kỳ theo mọi nghĩa.” – Sunday Times “Một cuốn sách kỳ vĩ.” – Observer “Bản đồ văn chương của Ấn Độ cần phải được vẽ lại… Những đứa con của nửa đêm vang vọng như một lục địa tìm được tiếng nói của mình.” – New York Times Tác giả SALMAN RUSHDIE Salman Rushdie (Sinh 19/6/1947) là nhà văn Anh gốc Ấn, nổi tiếng nhất với tác phẩm Những đứa con của nửa đêm. Tác phẩm của ông kết hợp nhuần nhuyễn những yếu tố hiện thực huyền ảo với hư cấu lịch sử, hầu hết lấy bối cảnh lục địa Ấn, với chủ đề xoay quanh những mối quan hệ phức tạp giữa phương Đông và phương Tây. Tiểu thuyết thứ tư của ông. The Satanic Verses (tạm dịch: Những vần thơ của quỷ Satan, 1988) từng gây nên sự phản đối gay gắt ở nhiều nước Hồi giáo, mà đỉnh cao là án tử hình vắng mặt (Tatwā) do Ayatollah Khomeini, lãnh tụ tôn giáo tối cao của Iran, đưa ra vào ngày 14/2/1989 đối với ông. Rushdie được nước Pháp trao tặng Huân chương Văn học Nghệ thuật vào tháng 1/1999, và được Hoàng hậu Elizabeth II của Anh phong tước Hiệp sĩ vào tháng 6/2007 vì sự nghiệp văn chương. Đến nay, tác phẩm của ông được Nhã Nam dịch ra tiếng Việt và ấn hành gồm: - Haroun và biển truyện, tải eBook - Nàng phù thủy thành Florence, tải eBook - Những đứa con của nửa đêm, tải eBook Mời các bạn đón đọc Những Đứa con lúc nửa đêm của tác giả Salman Rushdie.