Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

3 Chìa Khoá Mở Cửa Thành Công - Lord Beaverbrook

LỜI NGƯỜI DỊCH TUNG loại sách ích lợi trực tiếp cho các bạn trẻ hai mươi năm trước đây, tôi đã chọn cuốn MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG (Un art vivre) của André Maurois để dịch ra VIỆT NGỮ (1953). Lần này tôi chọn cuốn « BA CHÌA KHÓA MỞ CỬA THÀNH CÔNG » của Lord Beaverbrook, vì cuốn sách này có thể đem lại nhiều ích lợi thực tiễn cho các bạn trẻ muốn thành công trên đường đời. Hơn thế nữa, những kinh nghiệm bản thân của tác giả tác phẩm giá trị này được đúc kết như là một thứ cẩm nang tranh đấu trên đường kinh doanh có thể giúp các bạn thanh niên học hỏi để tiến mạnh tới đích. Dịch giả không ước mong gì hơn là các bạn trẻ bước vào đời xem qua cuốn sách này sẽ rút ra được những bài học thích đáng đưa đến một tương lai tốt đẹp. HOÀNG THU ĐÔNG *** LỜI MỞ ĐẦU CỦA J. P. KENNEDY Tôi chưa biết người nào đủ tư cách hơn là Huân Trước Beaverbrook để hướng dẫn thanh niên, cũng chưa thấy có người nào mà lịch sử thành công của đời sống cá nhân hấp dẫn bằng. Sinh ra trong một gia đình thanh bạch ở Tân Brimswich, tại Gia Nã Đại, Max Aitken (về sau trở thành Lord Beaverbrook) ngay từ lúc nhỏ tuổi đã tỏ ra những dấu hiệu có năng khiếu kinh doanh. Khi lên mười chẳng hạn, ông ta hết sức mong ước một chiếc xe đạp, song những may mắn để có được còn yếu kém hơn số lương ít ỏi của thân phụ ông, một mục sư. Thế rồi một hôm, có một hãng xà bông đề nghị treo giải thưởng một chiếc xe đạp mới cho đứa trẻ nào gởi về số giấy gói xà bông nhiều nhất. Thay vì đến các nhà hàng xóm để yêu cầu họ mua dùng loại xà bông có thứ giấy gói quý giá kia, Max nghĩ ra một sáng kiến đặc biệt. Ông ta đem tất cả số tiền dành dụm được ra mua các kết xà bông kia, đem bán lại mỗi bánh theo một giá hạ hơn trên thị trường – với điều kiện người mua trả lại giấy gói cho ông – và lập đi lập lại nhiều lần dịch vụ này. Nhờ thế mà Max đã đoạt được chiếc xe đạp, ghi vào bảng kinh doanh sự thành công đầu tiên trong số nhiều thành quả trên đường hoạt động dịch vụ. Đầu óc tháo vác và hiểu biết bén nhậy của ông được khai thác về sau đã mang lại cho ông tài sản, danh tiếng quốc tế, địa vị Nam Tước, các sở hữu địa ốc ở Sirrey, ở Jamaique, ở Nassau và Fredericton, một nông trại ở Ontario, một khách sạn đặc biệt ở Luân Đôn, một cao ốc văn phòng choáng ngợp bằng sắt và kính ở Fleet-Street, nhiều cổ phần lên đến nhiều triệu bảng Anh trong các đại xí nghiệp, làm chủ một tờ báo hàng ngày có số xuất bản vào hàng mạnh nhất trên thế giới. Buổi đầu Max kiếm ra tiền bằng cách bán báo, rồi mở rộng sự phát hành báo chí ở thị trấn quê nhà tại New Castle. Như thế còn chưa đủ, ông thành lập một hội và ấn hành tờ báo nhỏ của mình, NGƯỜI LÃNH ĐẠO (The Leader), trông nom lấy tòa soạn, sắp chữ và in bằng máy quay tay. Rời ghế nhà trường, Max làm việc ít lâu trong một tiệm tạp hóa, rồi đến một văn phòng pháp luật, trong lúc vừa tiếp tục học luật ở Saint John tại trường đại học Tân Brimswisk. Ông đã khổ công để giao thiệp, làm quen với người mới. Cho đến đỗi ông phải thuê dạ phục về mặc với hy vọng được mời dự một cuộc họp quan trọng có nhiều người tại Quốc hội. Ông chờ đợi cho đến giờ mở cửa buổi dạ hội, song tấm thiệp mời không bao giờ đến. Đau lòng vì cảm thấy bị gạt bỏ ra bên lề, Max nhất quyết phải thành công để có thể mở ra bất cứ cánh cửa nào bấy lâu vẫn khép kín đối với ông. Tin chắc rằng có tiền bạc mới có thể đến khắp mọi nơi, ông đã sử dụng tất cả đầu óc sáng tạo và hiểu biết của mình để làm ra tiền. Sau một thời kỳ ngắn ở trong hãng Bảo hiểm sinh mạng, ông đến Halifax và vào làm thư ký cho John F. Stairs, một tài phiệt già có nhiều quyền lợi lớn ở phía đông Gia Nã Đại. Ông chủ và người làm công trẻ tuổi chẳng mấy chốc trở thành đôi bạn. Max đề nghị với Stairs tập hợp lại nhiều ngân hàng nhỏ địa phương để tăng cường năng suất. Stairs cho phép Max thi hành dịch vụ, nhìn nhận là anh phải thành công. Anh chàng trẻ tuổi bị thử thách đã không lùi bước. Bấy giờ ông chưa được hai mươi mốt tuổi, gặp phải những giám đốc ngân hàng khắc khổ liên hệ đến dịch vụ, thảo luận với họ, thuyết phục họ là sáng kiến của ông đem lại lợi tức. Việc phối hợp các ngân hàng thành tựu, và lần đầu tiên trong đời Max được 10.000 đô la. Stairs lấy làm thích thú, mới giao cho ông vụ bán trái khoán của Hội Cưa và Thanh Tân-Ê-Cốt. Từ văn phòng này đến văn phòng nọ, Max đi tìm kiếm những khách hàng có thể mua, mang trái khoán trong một cái túi xà cột. Nhiệm vụ thành công và kiếm được một món lời riêng khá lớn. Max tạo lập « Nghiệp hội An Ninh Hoàng Gia » với Stairs làm chủ tịch, còn ông thì trở thành tổng giám đốc. Trong những năm đầu của thế kỷ này, người ta chứng kiến buổi đầu điện khí hóa, đã trở nên vô cùng quan hệ trong đời sống hiện nay. Nhiều tài sản lớn lao đã được tạo nên nhờ thiết lập điện trong những nhà ở, kỹ nghệ, nông trại, xe lửa. Max đã dấn thân hết mình trong công cuộc phát triển lớn lao này, đem về lợi tức quan trọng cho « Nghiệp hội An Ninh Hoàng Gia ». Khi John Stairs mất, phần cả Max sau khi giải quyết dịch vụ lên tới 50.000 đô la. Bấy giờ ông mới về ở Montréal, rồi lại bắt đầu trông nom tổ chức và thay đổi các hội, nhưng trên một phương diện to lớn hơn. Vào lúc cực thịnh của thời kỳ ở Montréal, ông được Ngân hàng thế lực Montréal giao phó công việc kiểm soát hoạt động dịch vụ của ba hội xi măng Gia Nã Đại. Trong lúc hoàn thành nhiệm vụ này, Max nhận thấy khả năng phối hợp cả ba hội lại và phụ thêm các hãng xi măng khác nữa để thành lập một hội liên hiệp mới quan trọng. Việc này đòi hỏi phải góp một số vốn 38 triệu đô la, một số tiền hết sức lớn lao chưa từng thấy trong lịch sử Gia Nã Đại, và sẽ lợi ích cho nền kinh tế chung trong nước. Ngân hàng Montréal và các xí nghiệp Gia Nã Đại khác chấp thuận kế hoạch và ủng hộ ông. Tuy vậy, trong lúc đang thương thuyết, một phe liên hệ đề nghị đem một công ty xi măng của mình nhập cuộc. Max từ chối, cho rằng lời yêu cầu bán công ty kia quá cao và nhận thấy dịch vụ không được lương hảo về mặt tài chính. Tác giả đề nghị liền rút lui khỏi buổi họp đang tiếp tục, phản đối Max trước Nghị viện, buộc tội ông đã tạo nên những tiền lời bất hợp pháp khi phóng đại giá trị tư bản pháp định của Hiệp hội. Như vậy là Max phải đương đầu với một đối thủ quỉ quyệt, có nhiều thế lực để đánh ngã bất cứ một thanh niên nào dưới ba mươi tuổi. Song Max đã không chiến bại. Anh chỉ có việc trình bày những dữ kiện ra trước Nghị viện và dân chúng, thế là chấm dứt nội vụ. Một khi bắt đầu, hiệp hội tỏ ra là một cơ sở tuyệt hảo và làm cho giá xi măng hạ xuống khắp Gia Nã Đại. Tuy vậy, ấm ức xót xa vì những lời lẽ rỉ tai của bọn thù nghịch loan truyền trong dân chúng chống lại ông, Max thanh toán phần của mình lên tới gần năm triệu đô la lúc bấy giờ, và tuyên bố là từ bỏ mãi mãi giới kinh doanh. Thời ấy ông đang ở lợi thế để lưu ý đến việc thực hiện một hoài bão vẫn ôm ấp bấy lâu : là đồng nhất những địa phận cách biệt của Đế quốc Anh thành một khối thịnh vượng hơn bằng cách hạ bỏ hàng rào thuế quan. Ông bắt đầu suy nghĩ thực sự đến việc nhảy vào chính trường để tranh đấu cho một sự cải cách giá biểu thuế quan và như thế là đảm bảo cho một sự đoàn kết chặt chẽ hơn của Đế quốc Anh. Ông đã gặp Bonar Law, một ngươi đồng hương ở Tân Brimswich, hoạt động chánh trị từ vài năm nay ở Anh. Max đến Luân Đôn, đi gặp Law, nói chuyện cải tổ quan thuế và Đế quốc Anh. Law hết sức quan tâm đến. Một tình bạn nồng ấm và lâu dài bắt đầu. Ít lâu sau đó, khi Law bắt đầu cuộc vận động bầu cử cho phe Đoàn kết, ông yêu cầu Max giúp cho một tay. Max mới quyết định đứng chung liên doanh với Law. Ông ra ứng cử trong một khu vực ở Lancashire. Khi bắt đầu cuộc vận động tranh cử, chỉ còn có mười ngày nữa thôi, mà ông lại phải đương đầu với một đối thủ có tên tuổi. Nhưng Max không sợ. Ông đã có dịp làm mau lẹ và đâu ra đấy. Ông liền thảo một kế hoạch vận động có thể giúp mình gặp tất cả những cử tri trong địa hạt. Max chưa có một kinh nghiệm nào về hùng biện chính trị, và hơn thế nữa giọng nói Gia Nã Đại của Ông làm cho cử tri Anh nghe lạ tai lắm. Bởi thế khi giới thiệu bạn cùng liên doanh, Bonar Law đã phải nói : « Xin quí vị đừng xét đoán bạn tôi qua các bài diễn văn đầu tiên. Tôi xin bảo đảm cùng quí vị rằng Ông ta sẽ giúp được nhiều việc cho khu vực nào bầu ông lên ». Law đã lo ngại không đúng. Thái độ chân thành của Max, sự ngay thật gạt bỏ những mánh lới mị dân, tất cả làm cho dân chúng chất phác ở Lancashire khoái chí tử. Max đã thắng lợi với một đa số đáng kể. Ông ta không gây sôi nổi trong năm đầu tiên ở nghị trường. Ông nghiên cứu thấu đáo những vấn đề chính trị Anh và liên kết bạn hữu trong tất cả các giới công luận, cũng như ông đã từng làm trong giới kinh doanh. Ông áp dụng cách trau dồi tuyệt hảo tài hùng biện của mình bằng lối chấp nhận đứng lên phát biểu khắp mọi nơi. Dần dà ông trở thành một nhân vật chính trị. Ông được trao tặng chức hiệp sĩ năm 1911. Mặc dù hết sức gắt gao, chính trị chỉ thu hút một phần hoạt động hăng say của Sir Max. Tuy đã tuyên bố là rời bỏ kinh doanh, ông trở thành chủ tịch Ngân hàng Thuộc địa và Công ty tổ hợp Công binh, trong lúc ông có mặt tại Luân Đôn từ một năm nay. Năm 1912, trong một tháng, đầu óc tháo vát của Ông đã phá vỡ những kỷ lục của ông. Ông điều đình mua tất cả những mễ cốc chở đến trong cùng một tỉnh,135 kho mễ cốc và hai máy xay, cộng với 1.370 đô la tài sản địa ốc ở Montréal, cũng trong thời gian ấy, ông làm tăng số vốn của một hội kim khí từ 200.000 đô la lên đến một triệu và gia tăng sự sản xuất theo đà ấy. Nhưng đến năm 1.913, ông đã trả giá cho nhưng năm lao lực không ngừng, phát bệnh nặng. Trong thời kỳ dưỡng bệnh, ông khám phá ra rằng tinh thần tháo vát và sự hiểu biết mà ông đã trông vào để tạo nên sự nghiệp, không đáng kể gì thiếu sức khỏe. Cho nên, ông tự hứa là ngừng bớt hoạt động. Bệnh trạng đã giúp ông tìm thấy một chìa khóa thứ ba, cộng thêm với hai chìa khóa đã đưa ông tiến lên khá xa. Người ta thấy Sir Max miễn cưỡng tỏ ý quyết liệt từ chối nhiều đề nghị hấp dẫn của người ta mang đến tận văn phòng ông tại Thredneedle Street. Một nghiệp vụ hiếm có thời bấy giờ có vẻ hình như là một lỗi lầm của thời đại lúc ấy, nhưng sẽ bộc lộ là nguyên nhân của một sự thành công lớn lao, đó là việc mua một số cổ phần nhỏ của nhựt báo xuất bản ở Luân Đôn, tờ Daily Express. Thế rồi vụ Sarajevo châm lửa vào là thuốc súng. Chiến thanh thế giới thứ nhứt xảy đến, và những quyết định hạn chế hoạt động của Max liền quên đi. Sir Max tự cảm thấy phải nhảy vào cuộc đấu tranh vì chính phủ Anh dấu kín không cho dân chúng biết những tin tức xấu từ mặt trận đưa về từng giờ. Ông nghĩ rằng người ta phải nói sự thật, dù là tốt hay xấu, và chỉ sau khi biết rõ các tai họa thì đế quốc Anh mới cảm thấy cần đoàn kết với nhau để nổ lực chiến thắng. Ông muốn nhất là những đồng bào Gia Nã Đại của ông biết rõ sự thật, chắc hẳn rằng họ sẽ chịu nổi và sẽ vì thế mà hành động quyết liệt. Sự khẩn khoản của ông gắt gao đến độ người ta phải cử ông làm đại diện cho chính phủ Gia Nã Đại ở mặt trận. Bắt đầu bằng mặt trận ở Ypres năm 1915, Sir Max nói cho thế giới hay những nỗi khốn khổ và tính chất anh hùng của binh sĩ Gia Nã Đại ở chiến trường. Trong khi chính phủ Anh còn dấu diếm dưới các hình thức tốt đẹp những sự thiệt hại ghê gớm của binh sĩ, thì Sir Max không rời nhiệm vụ đã định, chấp nhận cho những thông tín viên chiến tranh được tự do vào các phòng tuyến Gia Nã Đại và cung cấp cho họ tất cả những tin tức đòi hỏi, nếu không phương hại đến bí mật quân sự. Việc làm của ông có kết quả. Từ Tân Brunswich đến Vancouver, người Gia Nã Đại nỗ lực gấp đôi, khoác đầy mình danh dự. Tại Luân Đôn, hành động của Sir Max cũng được chú ý vì đến năm 1917, ông được phong làm huân tước Beaverbrook. Vài tháng sau, ông kiểm soát hoàn toàn nhựt báo Daily Express. Tất cả mọi người ở Fleet Strees đều cho rằng ông đã nhắm quá cao. Huân tước Northcliff, ấn hành tờ báo thế lực Daily Mail, tiên đoán rằng Max sẽ tiêu tan đến đồng xu cuối cùng vì báo chí. Cuối năm ấy, tờ Daily Express chứng tỏ thành công. Tuy vậy, Beaverbrook không ngủ trên những vòng hoa chiến thắng, đưa ra nhiều câu hỏi, nghiên cứu, hoàn bị kiến thức về nghề làm báo như ông đã từng hoàn bị kiến thức về tài chánh, kinh doanh. Nhiệm vụ nặng nề trông nom một nhựt báo bán chạy chưa đủ chiếm hết thì giờ, năm 1918 ông nhận giữ chức bộ trưởng Thông tin và hoàn thành nhiệm vụ khá tốt đẹp. Bao nhiêu nỗ lực làm việc đã được tưởng thưởng. Năm năm sau khi ông chủ trương tờ Daily Express vượt con số một triệu ấn bản. Ngày nay, các cơ sở xuất bản của ông ở Luân Đôn, Manchester và Glasgow, cùng hai tờ báo khác mà Beaverbrook lấy về sau đó, những nhựt báo buổi chiều ở Luân Đôn và Glasgow, Evening Standard và Evening Citizen, tổng cộng có năm triệu độc giả. Khi những đám mây đen vần vũ của chiến tranh thế giới thứ hai nổi lên, Beaverbrook (đã sáu mươi tuổi) thuộc nhóm ít người hướng dẫn cho nước Anh đang hướng về họ. Có dịp may được tham dự gần cuộc chiến đấu của những lũ khổng lồ, tôi có thể xác nhận với tính cách chứng nhân, rằng huân tước Beaverbrook, có lẽ hơn ai hết, là một trong số người tạo nên chiến thắng bằng cách làm cho nước Anh kiêu hãnh bị chiến bại đè nặng, đã ngẩng đầu lên trở lại. Vì cuộc chiến đã thắng lợi trên không nhờ R.A.F. (Không lực Hoàng gia), trong tháng chín năm 1940. Huân tước Beaverbrook, với tư cách là Tổng trưởng sản xuất Hàng không, đã cho « vài người » làm ra vô số phi cơ để chiến thắng trận đánh Anh quốc cho « bao nhiêu người ». Khi Thủ tướng Winston Churchill đưa ông lên làm Tổng trưởng Không quân năm 1940, Beaverbrook không để mất thời giờ chờ đợi chính phủ cấp cho những văn phòng cần thiết cho công việc bề bộn này. Ông lập tức biến đổi cơ sở của mình thành Đại bản doanh tạm thời, soạn thảo ngay cho mình và các cộng sự viên trực tiếp một kế hoạch làm việc bắt đầu từ tám giờ mỗi sáng để kết thúc vào hai giờ sáng hôm sau. Trong ngày hôm ấy, ông đến viếng bất ngờ một cuộc họp của những tay cầm đầu kỹ nghệ hàng không thường vẫn diễn ra. Ông tuyên bố rõ rệt với họ rằng bổn phận của họ không phải là mất thì giờ nhóm họp với nhau để bàn cãi các vấn đề. Vận mệnh của đất nước đang lâm nguy. Họ chỉ có một công việc độc nhất để làm : trở lại xưởng của họ để đóng máy bay. Ông đã nói với họ một cách hết sức giản dị, song thông điệp của ông mang đầy ý nghĩa : nếu họ muốn cho đất nước của mình còn tồn tại, thì họ phải hành động gấp, gấp hơn bao giờ hết và cho các phi công Anh phương tiện, bất cứ phương tiện gì, để hạ oanh tạc cơ của Hitler. Một ủy ban chủ nhân đem trình với ông một kế hoạch ba tháng sắp tới, ông mời họ về luôn, tuyên bố ngay rằng ông không để ý đến một kế hoạch cho ba tháng sắp tới. Họ có thể cho ông bao nhiêu máy bay trong ngày mai đây ? Không bận bịu vì giấy tờ, gạt bỏ tất cả những gì trên lối đi, ông chiếm các khoảng đất thuộc các cơ quan khác của chính phủ để làm xưởng máy, thu nhận những nhà chuyên môn tài giỏi có thể kiếm được, bất chấp các sự liên lạc của họ với chính phủ và quốc tịch của họ ; ông chỉ cần sản xuất máy bay với bất cứ giá nào. Kết quả ra sao ? Trong vòng một năm, Beaverbrook làm tăng con số sản xuất máy bay Hurricane từ 500 lên đến 2.850, máy bay Spitfire từ 430 lên đến 1.500. Ông giao cho không lực Hoàng gia (R.A.F.) 9.000 máy bay được sửa chữa trong một năm và 12.000 động cơ xét lại. Thương thuyết ký hiệp ước với chính phủ Hoa Kỳ, ông đã nhận được thêm 3.000 máy bay mỗi tháng. Ông kêu gọi những bà nội trợ Anh đi quyên hàng tấn nhôm phế thải. Ông mở một chiến dịch lớn hô hào gởi tặng phẩm để có « một phi cơ ghi tên bạn ». Ban đầu các nhóm gởi tiền cho ông, để mua các phi cơ lẻ loi, nhưng rồi chẳng mấy chốc, ông nhận được nhiều tiền để sắm cả bao nhiêu phi đoàn. Cuối chiến dịch này, ông nhận được các chi phiếu từ 25.000 đến 100.000 đô la, cùng một chi phiếu một triệu đô la. Khi Huân tước Beaverbrook bước vào bộ Không quân, vấn đề lớn đối với Anh quốc là tìm đủ số máy bay cho phi công, một năm sau, vấn đề là tìm ra đủ số phi công cho tất cả những máy bay sản xuất. Khi hòa bình trở lại, huân tước Beaverbrook quay về với báo chí của ông, tiếp tục cuộc đấu tranh cho sự thống nhất hợp tác, tương trợ lẫn nhau giữa các địa phận của Đế quốc Anh. Ông hết lòng ủng hộ vị trí Hoa kỳ trong cuộc chiến tranh Triều tiên, đến độ sa thải một viên chủ bút đã tỏ ra xem thường việc đó. Từ đấy, ông luôn luôn làm việc theo hướng làm sao cho Anh và Mỹ hiểu biết nhau hơn. Ông cho rằng việc liên lạc tốt đẹp giữa hai nước nầy là một cần thiết hệ trọng cho thời đại chúng ta. Sau gia đình, ông vẫn yên nhất là Đế quốc Anh : lý tưởng của ông là những vấn đề quốc tế phải do sự đoàn kết Anh Mỹ chi phối. Trong đời ông chẳng làm việc gì mà không phục vụ cho Đế quốc Anh. Điều đó cũng thực như việc ông phối hợp các ngân hàng nhỏ ở Halifax để có thể phục vụ thân chủ tốt hơn, việc ông hăng say sản xuất phi cơ trong thời chiến đã qua. Cho đến các đại nhựt báo của ông, trước tiên đối với ông không phải là phương tiện để làm ra tiền. Phần lớn những số tiền do các báo mang lại, ông đều đem tái đầu tư để phát triển báo chí và thúc đẩy phục vụ Đế quốc Anh tốt đẹp hơn.   J. P. KENNEDY Mời các bạn đón đọc 3 Chìa Khoá Mở Cửa Thành Công của tác giả Lord Beaverbrook.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bài Học Vô Giá Từ Điều Bình Dị - G Francis Xavier. Ph D
Xung quanh ta có rất nhiều điều bình dị nhưng mang những bài học thật giá trị. Các bạn có thể thấy điều này qua cuốn sách Bài học vô giá từ những điều bình dị của tác giả Francis Xavier. Sách tập hợp các câu chuyện tuyệt vời ở khắp nơi trên thế giới, về mọi tầng lớp xã hội. Những câu chuyện ấy dễ nhớ đến mức bạn có thể kể cho bạn bè, người thân, con trẻ... Bạn sẽ tìm thấy nhiều điều thú vị từ những câu chuyện ấy. Như câu chuyện Dưỡng nuôi chữ nhẫn: ngày xưa ở Ấn Độ, một lũ trẻ quyết tâm chọc giận một ông lão nổi tiếng điềm đạm. Lũ trẻ nói những lời khích bác, thậm chí đánh vào mặt ông, ông vẫn mỉm cười. Đến lần thứ mười, lũ trẻ quỳ xuống xin ông tha thứ và gặng hỏi: “Tại sao ông lại xử sự như vậy?”. Ông đáp: “Đó chỉ là những đứa trẻ”. Câu chuyện nhắc ta rằng tình thương có thể chiến thắng mọi cảm xúc. Song để đạt đến trạng thái đó cần sự kiên trì rèn luyện biết bao. Hay như câu chuyện Hãy làm đúng vai trò của mình. Một vị tướng có đứa con gái 3 tuổi rất tinh nghịch. Ông yêu cầu cô bé phải thực hiện kỷ luật như trong quân đội, thậm chí bắt cô bé gọi ông là ngài. Cô bé cười tươi, nói: “Thưa ngài, con yêu ngài lắm!”. Với cô bé ấy, người bố không là một vị tướng cao cấp mà chỉ là một người cha thương con. Mỗi chúng ta đều đóng nhiều vai trò trong cuộc sống. Nếu chỉ cứng nhắc thừa nhận một vai trò có lẽ ta sẽ gặp nhiều trở ngại. Thay vào đó, sao ta không học cách thích nghi với nhiều vai trò để thấy cuộc sống dễ dàng hơn? Và còn nhiều những câu chuyện có thể làm bạn suy tư, như Món quà đặc biệt cho người yêu quý, Câu chuyện của quỷ dữ, Biết chấp nhận thăng trầm của cuộc sống... 91 câu chuyện trong cuốn sách là những điều mà tác giả tích lũy được qua thực hiện chương trình “Phát huy thiên tài” nhằm phát triển nhân cách, phát huy tài năng của mỗi người. Điều thú vị là tác giả đưa ra những tình huống yêu cầu người đọc tự đưa ra phương án của mình rồi mới công bố đáp án ở cuối sách. Những câu chuyện trong cuốn sách ấy luôn giúp đục giả rút ra cho mình bài học quý giá để tự hoàn thiện bản thân. *** Trong bất kỳ thời đại nào, vấn đề phát triển con người cũng luôn được quan tâm và chú trọng. Điều này nhằm nuôi dưỡng nhân cách và phát huy tài năng của con người. Nó bao gồm nhiều vấn đề như quản lý thời gian, giải tỏa sự căng thẳng, nâng cao trí nhớ và sức mạnh của não bộ, tăng cường sức khỏe và thành công… Cuốn sách Bài học vô giá từ những điều bình dị gồm những câu chuyện khơi gợi cảm hứng và tinh thần học hỏi của mỗi người về thái độ và ứng xử để có được một cuộc sống an nhiên, hạnh phúc. Đây chính là kết quả của những nỗ lực không ngừng của Tiến sĩ Francis Xavier - một bậc thầy kể chuyện, người đã đọc hàng ngàn cuốn sách và tham dự rất nhiều hội thảo cũng như các chương trình đào tạo về thái độ sống và phát triển nhân cách con người. Cuốn sách này là tập hợp các câu chuyện tuyệt vời từ khắp nơi trên thế giới, từ mọi tầng lớp xã hội. Đây là những câu chuyện ngắn gọn mà bạn có thể kể cho bạn bè, người thân của mình nghe trong các buổi tiệc, khi thuyết trình nơi công sở hoặc khi kể chuyện cho con trẻ mỗi ngày. Mỗi chúng ta đều có thể đọc nhiều lần những câu chuyện trong cuốn sách này và bao giờ cũng rút ra cho mình được những bài học quý giá. Đây thật sự là một mỏ vàng mà nếu biết cách khai thác và sử dụng, bạn sẽ có được một kho tàng vô giá. Bạn sẽ được thưởng thức những câu chuyện giàu tính triết lý và nhân sinh. Phần cuối của câu chuyện không được giải đáp ngay mà người đọc phải tự suy nghĩ về câu trả lời. Tất cả đều phải suy nghĩ thật kỹ lưỡng và liên hệ với những tình huống xảy ra trong cuộc đời mình. Phương pháp này được nhiều người đánh giá cao vì nó làm thay đổi tư tưởng và khiến họ không ngừng học hỏi để hoàn thiện chính mình. Hãy đọc cuốn sách bằng tinh thần cởi mở, cố gắng tìm ra lời giải đáp cho các câu hỏi ở cuối mỗi câu chuyện trước khi tham khảo phần đáp án của chúng tôi ở cuối quyển sách. Điều quan trọng là bạn nên suy nghĩ thật kỹ về thông điệp của mỗi câu chuyện cũng như rút ra cho mình những bài học quý giá hơn là đọc lướt qua chỉ để giải trí. Đây thực sự cũng là một món quà nhiều ý nghĩa dành cho con của bạn. Những câu chuyện trong cuốn sách sẽ giúp trẻ tự rút ra cho mình những bài học quý giá và hoàn thiện bản thân mà không cần đến những lời “giáo huấn” của cha mẹ như ngày trước. Nhờ đó, bạn sẽ có vai trò như một người hướng dẫn cho con đọc sách, một người bạn đồng cảm cùng con trong những ý nghĩa ẩn sau mỗi câu chuyện.  Mời các bạn đón đọc Bài Học Vô Giá Từ Điều Bình Dị của tác giả G Francis Xavier. Ph D.
99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trương Tử Văn
Con người là một thực thể phức tạp, trong con người chứa đựng nhiều cảm xúc, tâm trạng khác nhau, đôi khi chỉ là một khoảnh khắc nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn đến cả cuộc đời... Qua quá trình nghiên cứu con người, các nhà nghiên cứu đã tổng hợp được 99 khoảnh khắc quan trọng nhất trong cuộc đời mà con người phải trải qua, có khi là niềm vui, có khi là nỗi buồn nhưng nếu con người có thể khống chế và điều khiển cảm xúc trong khoảnh khắc đó thì tâm hồn sẽ thanh thản hơn, nhẹ nhàng hơn, để khi trở về với cát bụi con người không phải hối tiếc. Bạn có bao giờ tự hỏi số phận bạn có gắn chặt với mỗi khoảnh khắc sinh mệnh của mình? bạn có thực sự có khoảnh khắc thời gian không? Ngoài khoảnh khắc thời gian ra, bạn còn có khoảnh khắc nào nữa không? Trong trí nhớ của bạn, bạn có nhớ một số việc mình làm và lý giải logic sinh mệnh của mình?.. Những thắc mắc tưởng chừng như sẽ trôi theo như dòng nước, trở thành kí ức được thể hiện trong cuốn sách "99 khoảnh khắc đời người" do Trương Tự Văn, Nguyễn An biên soạn. Khoảnh khắc đời người được giới thiệu trong cuốn sách, gồm các khoảnh khắc từ: Thời niên thiếu đến những năm tháng cuối đời, từ trong giao tiếp xã giao đến không gian rộng lớn, từ những lúc nỗi niềm trăn trở đến khi vượt qua nghịch cảnh, đắc ý khi thành công. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Số phận của tôi gắn chặt với mỗi một khoảnh khắc của sinh mệnh của tôi Ngoài khoảnh khắc thời gian ra, tôi còn lại cái gì nữa? Tôi thật sự có khoảnh khắc thời gian chăng? Điều tôi rõ ràng nhất là tôi đã từng làm một số điều gì đó. Chỉ cần trí nhớ chưa hoàn toàn mất hẳn, tôi luôn có thể nhớ lại được một số việc tôi đã từng làm. Nhưng thời gian không gian vẫn trôi đi mãi như dòng nước, một số việc trong hồi ức đều theo sinh mệnh của quá khứ mãi mãi qua đi, không thể tính là cái tôi có hiện tại... *** Chính là do khúc nhạc bi thương tế truy điệu vong linh, mới làm nổi bật lên vẻ vô cùng trang nghiêm và vĩ đại của bản giao hưởng của sinh mệnh. * Mặt trời lạnh lẽo đang nhảy nhót lần cuối cùng ở tít chân trời phía Tây, đang đi về sườn núi phía bên kia để đi ngủ rồi. Lúc mới đầu tôi đến với nhân gian, tôi khóc người ta cười; đến nay khi tôi vĩnh biệt nhân gian, tôi cười người ta lại khóc. Từ trong từng tiếng cười tiếng khóc này tôi đã thể nghiệm được một cuộc đời hoàn toàn mỹ mãn - Cuộc đời của tôi đối với bản thân tôi thật ra không có quá nhiều giá trị để nói. Giá trị của cả đời tôi chỉ ở chỗ đem lại cho người khác niềm vui và hạnh phúc. Cái chết của tôi thật ra không tạo nên đau khổ đối với bản thân tôi, chỉ là một loại giải thoát và hồi quy. Cái chết của tôi chỉ để lại cho những người sống - người thân và bạn bè của tôi những niềm nhớ nhung và luyến tiếc. Tôi đang mỉm cười đi về Thiên quốc. Tôi, một đời không hổ thẹn với Trời, không hổ thẹn với Người, cho nên khi ánh sáng của cái chết sẽ bao trùm lên tôi, thật ra tôi không vì tiếng khóc của người khác mà động lòng. Ngoài một chút tình lưu luyến lúc ẩn lúc hiện ra, trong lòng tôi phẳng lặng như tờ. Khi tôi sống đã đủ, giới tự nhiên đã tặng cho tôi món quà cuối cùng - cái chết này, hãy để cho tôi an giấc mãi mãi ở cung tẩm dưới đất. Tôi bằng lòng đón nhận lời kêu gọi kích động lòng người này, nhắm đôi mắt lại không chút bận lòng, chờ đợi tiếng chuông vang của Thiên quốc. Tôi biết, trong nhân gian cái bình đẳng vĩ đại nhất, triệt để nhất, chính là sinh ra và chết đi. Muôn vật sinh ra, muôn vật chết đi đều không thể chống lại được, không thể ngăn cản được. Trước cái sinh và cái chết muôn vật đều bình đẳng. Sinh so sánh với chết, giá trị của cái chết thông qua giá trị của cái sống thể hiện ra một cách gián tiếp. Chính là vì cái chết mới đột nhiên làm nổi bật lên giá trị của sinh mệnh, mới tỏ rõ sinh mệnh là đáng quý biết bao. Chính là do ánh sáng của cái chết mới làm nổi bật lên ánh sáng của sinh mệnh. Chính là do khúc nhạc bi thương tế vong linh mới làm nổi bật lên vẻ vô cùng trang nghiêm và vĩ đại của bản giao hưởng của sinh mệnh. Nếu như không có cái chết, sinh mệnh còn có ý nghĩa gì nữa? Pofuva trong sách "Mọi người đều phải chết" đã tô nặn nên Fuxưca bất tử. Fuxưca đã từng trải 600 năm phong vân, trước mắt ông chỉ nhìn thấy kẻ đi người lại, mặt trời lên rồi lại lặn, ông ta vẫn không chết, vĩnh hằng cùng với thời gian, thế là ông không có thời gian. Vì ông sinh mệnh vĩnh viễn tồn tại, do đó trên thực tế sinh mệnh đối với ông chẳng có ích gì, ông cũng như không có sinh mệnh. Beatlivi từ chối tình yêu của Fuxưca, đã nói với ông ta một câu đủ để cho loài người chúng ta ngẫm nghĩ mãi mãi: "Ðã đành Ngài có thể sống bằng sinh mệnh của hàng ngàn hàng vạn người, như thế thì Ngài hãy vì những người khác bỏ ra một chút hy sinh, thì có đáng là cái gì?" - Không có cái chết, loài người không thể phát hiện ra giá trị. Ðương nhiên, không có sinh sống thì muôn đời giống như một đêm dài, đó không phải là sự tồn tại mà chúng ta có thể tưởng tượng được. Khi ánh sáng của cái chết bao trùm lên chúng ta, chúng ta thực tế không có lý do để lo sợ và khủng khiếp. Cái chết đối sinh mệnh mà xét không nghi ngờ gì nữa là một việc tuyệt đối và tất nhiên. Chỉ cần chúng ta nghĩ đến đã là đặt mình vào trong việc tuyệt đối, vào trong việc tất nhiên, chúng ta còn lo sợ gì nữa? Con người ta chỉ có khi phải chọn lựa mới có lý do lo sợ, chỉ sợ sai lạc. Cái chết đối với chúng ta là cõi đi về không có chọn lựa nào khác, chúng ta bằng lòng cũng thế mà không bằng lòng cũng thế, vui vẻ cũng thế lo buồn cũng thế, dù thế nào cũng phải bước vào cửa chết cả. Nếu như bạn biểu hiện một dáng vẻ đáng thương hại, chứa chan hàng lệ, nơm nớp lo sợ, thê thảm không dám bước vào cửa. Ðã bước vào rồi vẫn chết không nhắm mắt, mở to miệng ra, làm cho những người đang sống nhìn thấy dáng bộ xấu xí đáng sợ của bạn, lúc này còn khổ biết mấy nữa? Người ta chỉ có thể xót thương kết cục của bạn không được trọn vẹn, cho rằng bạn vẫn còn tham lam không biết chán. Người ta có thể tiếc cho bạn vẫn đem cả lòng tham đi đến Thiên quốc. Sao không êm ả nhắm đôi mắt lại, mỉm cười để vĩnh biệt Nhân gian? Sao không vẽ lên một Dấu Chấm Hết cho việc kết thúc một sinh mệnh. Mời các bạn đón đọc 99 Khoảnh Khắc Đời Người của tác giả Trương Tử Văn.
Đừng Để Tiền Ngủ Yên Trong Túi - Thuật Đầu Tư Thông Minh Của Người Giàu Babylon - Tương Lâm
Được sở hữu một khối tài sản lớn là ước mơ và mong muốn của mỗi chúng ta. Trong thời đại ngày nay, khát hữu một khối tài sản lớn là ước mơ và mong vọng của con người đối với tài sản vật chất lại càng lớn hơn nữa. Thế nhưng giữa ước mơ và hiện thực thường có một khoảng cách nhất định. Chúng ta thường mơ được phát tài, và cũng thường than thở rằng ước mơ ấy quả là xa vời. Đó là vì năng lực ta có hạn? Hay là vì ta không đủ lòng tin? Hay là vì chúng ta chưa tìm thấy bí quyết làm giàu? Sáu nghìn năm trước, Babylon cổ đại mặc dù không hề có bất cứ lợi thế nào về tài nguyên thiên nhiên, nhưng họ vẫn có thể trở nên giàu có. Họ đã xây dựng nên thành Babylon - một thành phố phồn hoa, giàu có nhất bậc thế giới lúc bấy giờ. Nguyên nhân là vì người Babylon đã biết vận dụng một cách hiệu quả trí tuệ của mình để khắc phục sự khắc nghiệt của thiên nhiên, tổng kết và vận dụng các phương pháp làm giàu, đồng thời không ngừng khai thác và phát huy tiềm năng của con người, nhờ đó giúp cho số tiền của mình ngày càng được "sinh sôi" nhiều lên. Babylon nằm bên bờ sông Euphrates, từng là một thành phố tuyệt đẹp, giàu có và sung túc, vàng bạc châu báu của toàn thành phố nhiều không đếm xuể. Sáu nghìn năm trước, nơi đây từng là biểu tượng của sự giàu có. Nhưng tài nguyên thiên nhiên của ngôi thành này lại không mấy phong phú như mọi người hằng tưởng tượng, ở đây không có rừng, cũng không có mỏ quặng, thậm chí đá dùng để xây dựng cũng như các con đường thương mại đều rất ít. Ở Babylon chỉ có nước sông và đất đai phì nhiêu, nhưng lượng mưa không nhiều, còn khí hậu thì nóng và khô cằn. Tuy nhiên, người Babylon đã lập nên kì tích khi họ đã tận dụng được một cách triệt để những tài nguyên thiên nhiên đó để khắc phục điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, vận dụng trí tuệ một cách hoàn hảo để hoàn thành mục tiêu vĩ đại, viết nên trang sử hào hùng được lưu truyền mãi cho muôn đời sau. Đó cũng là một minh chứng rõ ràng cho sự nỗ lực của con người đã chiến thắng thiên nhiên. Có thể thấy, Babylon không chỉ là biểu tượng của sự giàu có mà còn là biểu tượng của trí tuệ. Babylon đã để lại cho loài người công trình đập dẫn nước vĩ đại, công trình nổi tiếng này đã nuôi dưỡng nhiều thế hệ người Babylon. Ngoài ra, người Babylon cũng đã để lại cho nhân loại một bức tường thành vĩ đại, tráng lệ hơn cả Kim tự tháp Ai Cập, và sau này nó đã trở thành một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại còn lại cho tới ngày nay. Trước kia, khi loài người còn dùng đá để làm rìu, giáo mác, mũi tên… thì người Babylon đã biết sử dụng sắt thép để chế tác các vật dụng và vũ khí. Đây là một sự tiến bộ vượt bậc so với thời đại. Khoảng sáu nghìn năm trước, người Babylon đã tinh thông các loại kĩ nghệ, điêu khắc, hội họa, dệt, đúc… Bên cạnh đó, trình độ xây dựng của họ cũng không hề thua kém so với các đô thị nổi tiếng khác trên thế giới. Các con phố ngang dọc nối với nhau, thương nhân buôn bán sầm uất... tất cả phác họa nên một cuộc sống phồn vinh nơi đô hội. Khi ấy, người Babylon đã xây dựng được một nền văn hóa của riêng mình. Họ khắc họa cuộc sống đương thời trên đất sét, trong đó bao gồm cả các truyền thuyết dân gian, thơ, lịch sử, luật pháp, khế ước… Babylon cũng có các nhà tư bản và các thương gia thông minh, sáng suốt. Teo lịch sử ghi lại, người Babylon là một trong những tộc người phát minh ra cách trao đổi, mua bán bằng tiền, kí kết biên lai hoặc khế ước cũng như các văn bản về quyền sử dụng tài sản đất đai sớm nhất trong lịch sử. Có thể thấy, lịch sử thành Babylon thật đáng kinh ngạc, còn cư dân nơi đây là một dân tộc vĩ đại và đầy trí tuệ. Mặc dù điều kiện tự nhiên thiếu thốn như vậy nhưng người Babylon cổ đại đã lập nên kì tích, để lại cho thế hệ sau những kết tinh trí tuệ quý giá. Kì tích này cho thấy họ đã biết tận dụng tối đa trí tuệ của mình để khắc phục điều kiện thiên nhiên khó khăn, khắc nghiệt. Tuy vậy, sự hưng thịnh của thành Babylon chỉ tồn tại được một thời gian ngắn. Khoảng một trăm năm sau, Babylon do không chịu nổi sự tàn phá của thiên nhiên nên đã bị vùi lấp, trở thành đống đổ nát. Ngày nay, nơi đây chỉ còn những cư dân du mục Ả Rập với cuộc sống nghèo khổ và những túp lều tạm bợ. Sự tráng lệ của Babylon ngày xưa chỉ còn là một quá khứ tươi đẹp. Mặc dù sự huy hoàng của thành Babylon đã mất đi, sự hưng thịnh không còn, nhưng trí tuệ của người Babylon thì vẫn còn nguyên giá trị. Họ đã để lại cho hậu thế một di sản quý giá, đó là con đường làm giàu: “một đồng vốn, vạn đồng lời”. Tuy đã sáu nghìn năm trôi qua, nhưng trí tuệ và bí quyết về sự giàu có của họ vẫn trường tồn cùng với thời gian, và được lưu truyền cho đến ngày nay. Trong cuốn sách này, nhóm biên soạn cố gắng chọn lọc phươngpháp làm giàu của người Babylon, truyền tải chúng thông qua lời văn rõ ràng và những câu chuyện sinh động. Hi vọng di sản trí tuệ này sẽ mang đến cho quý độc giả những gợi ý sâu sắc và bổ ích, giúp gợi mở cho những người còn đang lo lắng, do dự trên con đường làm giàu, để họ có thể thuận lợi hơn trên con đường thực hiện ước mơ của mình. *** 1. SỰ GIÀU CÓ SẼ MANG LẠI NIỀM VUI VÀ SỰ ĐẦY ĐỦ Ở Babylon cổ đại, bấy giờ Arkad là người giàu có nhất. Ban đầu, Arkad là một người làm công việc khắc chữ cho quan phủ để mưu sinh. Một cơ hội ngẫu nhiên đã giúp ông ta gặp được một phú ông vô cùng giàu có - Algamish. Dưới sự chỉ bảo của Algamish, Arkad dần dần khấm khá lên, rồi trở thành một phú ông giàu có. Về sau, ông được chia cho một phần tài sản của Algamish vì đã có công phát triển công việc của ông ấy và trở thành người giàu có nhất Babylon. Khi còn trẻ, Arkad đã từng muốn tìm cho mình niềm vui và sự đầy đủ từ trong cuộc sống bình dị. Nhưng dần dần, với trải nghiệm cuộc sống ngày càng phong phú thêm, Arkad nhận thấy rằng, sự giàu có có thể giúp ta được chú ý hơn cũng như có nhiều cơ hội hơn để tận hưởng niềm vui và cuộc sống sung túc. Arkad quyết định cần phải nỗ lực để có được niềm vui và cuộc sống sung túc mà sự giàu có mang lại. Ông hiểu rằng, nếu cứ chỉ biết chờ đợi suông mà không bắt tay vào hành động thì cho dù có mục đích và niềm tin đi nữa, ta cũng chỉ có thể mãi mãi giương mắt nhìn người khác tận hưởng niềm vui và cuộc sống giàu có mà thôi. Hoàn cảnh gia đình của Arkad vốn khó khăn, cha ông chỉ là một tiểu thương nhỏ, hơn nữa gia đình lại đông anh em và không có tài sản thừa kế, vì vậy Arkad hiểu rằng, ông chỉ có thể dựa vào sự nỗ lực của chính bản thân để thực hiện mục tiêu mà mình đã đặt ra. Tuy nhiên, Arkad không có gì nổi bật cả, cũng chưa nhìn ra được điểm mạnh của mình, cho nên ông chỉ bỏ thời gian và công sức vào việc học quản lí tài sản. Thực ra, muốn học được việc quản lí tài sản cũng không đơn giản chút nào, ít nhất cũng phải cần mẫn đọc những loại sách vở có liên quan. Nhưng lúc đó Arkad không có đủ thời gian để đi học hỏi, bù đắp những khuyết điểm của mình, nên ông cũng chỉ biết thở dài tiếc nuối về những tháng ngày trôi đi một cách vô ích. Tuy nhiên, từ những kinh nghiệm thực tế của cuộc sống, Arkad dần dần học được cách chi tiêu hợp lí hơn. Sau đó, ông quyết định bắt đầu tích lũy tài sản, và trong quá trình tích lũy ấy, ông đã học và đúc rút ra được phương pháp làm giàu và quản lí tài sản một cách hiệu quả. Bài học đúc kết Người ta có câu: “Tiền không phải là tất cả, nhưng nếu không có tiền thì không làm được gì”. Người có điều kiện kinh tế vững vàng có thể yên tâm tận hưởng những niềm vui trong cuộc sống, đồng thời thôi thúc họ tìm kiếm, theo đuổi những nhu cầu khác mà cuộc sống sung túc mang lại. 2 BẮT ĐẦU TỪ CON SỐ NHỎ Arkad tìm được một công việc, đó là khắc chữ lên những bản đất sét theo yêu cầu của các quan. Anh phải làm việc cực kì vất vả, mỗi ngày đều phải lao động rất nhiều giờ đồng hồ. Thời gian cứ trôi qua, mặc dù Arkad làm việc một cách tận tụy, nhưng vẫn không tiết kiệm được chút tiền nào. Chi phí sinh hoạt cần thiết tiêu tốn hết thu nhập của anh, tuy vậy Arkad vẫn không nản chí, quyết tâm tích cóp tài sản. Một hôm, ông chủ “ngân hàng” Algamish đến quan phủ để đặt bản khắc “Pháp lệnh số chín”. Algamish nói với Arkad rằng: “Chỉ cần anh khắc xong bản pháp lệnh đó trong hai ngày thì tôi sẽ trả cho hai đồng tiền công”. Mặc dù đã phải làm thêm rất nhiều giờ nhưng Arkad vẫn chưa khắc xong pháp lệnh đó vì nó quá dài. Do Arkad không hoàn thành đúng tiến độ công việc nên Algamish đã rất tức giận. Tuy nhiên, Arkad biết rõ rằng Algamish là một người rất giàu có nên đã lấy lại dũng khí và nói với Algamish rằng: “Nếu ông có thể nói cho tôi biết bí quyết làm giàu của ông, tôi sẽ làm việc thâu đêm nay, trước khi trời sáng nhất định sẽ khắc xong những pháp lệnh này cho ông”. Điều khiến cho Arkad cảm thấy vui mừng đó là Algamish đã đáp ứng yêu cầu này, nhưng với điều kiện là trước hết phải khắc xong pháp lệnh đó. Arkad rất vui mừng và đã thức cả một đêm để làm, cuối cùng anh cũng khắc xong. Khi Algamish nhìn thấy Arkad mệt tới mức mình mẩy đau nhức, hoa mắt, đầu óc quay cuồng, ông nói: “Tôi thích những người cầu tiến như anh. Bây giờ, tôi sẽ giữ đúng lời hứa của mình, nói cho anh biết con đường làm giàu của tôi”. Algamish nói một cách chân thành: “Anh phải hiểu rằng, trí tuệ của người trẻ tuổi giống như sao băng bay qua chân trời vậy, sẽ biến mất trong nháy mắt, còn trí tuệ của người già là ngôi sao bất biến không hề thay đổi, nó phát ra ánh sáng rực rỡ; trí tuệ là vĩnh hằng là mãi mãi, mặt trời của ngày hôm nay với mặt trời của ngày mà cha anh sinh ra là một”. Tiếp đó, ông tỏ ra thần bí nói với Arkad rằng: “Đừng cho rằng tôi nói nhiều, anh nhất định phải nhớ kĩ câu nói này, nếu không anh sẽ không thể nào hiểu được đạo lí mà tôi đã nói đâu. Và nếu vậy thì, sự vất vả cả đêm của anh coi như phí công rồi”. Mời các bạn đón đọc Đừng Để Tiền Ngủ Yên Trong Túi - Thuật Đầu Tư Thông Minh Của Người Giàu Babylon của tác giả Tương Lâm.
Người Bản Lĩnh - Hoàng Xuân Việt
Chuyện xưa, Trang-Vương sai mật thám nghiên cứu tình thế nước Trần để đánh. Mật thám về tâu : Không nên đánh Trần quốc. Trang-Vương hỏi : Tại sao ? Mật thám thưa : « Nước Trần đã thủ kiên cố lại chứa chất nhiều của cải. Đánh tất thua. » Ninh-Quốc liền đáp : « Nếu vậy thì nên đánh Trần quốc lắm. Nước ấy nhỏ mà thành hào cao sâu thì dân bị kiệt lực, nhỏ mà tàng trữ nhiều của cải thì thuế nặng, vua bị thù ». Trang-Vương nghe Ninh-Quốc hữu lý, đánh Trần, thắng. Còn chuyện nay ? Lúc làm Tổng thống, có lần Théodore Roosevelt dượt quyền với một Đại úy. Sĩ quan nầy đánh dập mắt trái của ông. Mắt đau rát quá, về sau mờ. Nhưng Roosevelt nén nỗi thống khổ, không hề cho viên Đại-úy hại mình biết. Một giáo sư toán đã đứng đầu sổ danh nhân thế giới hiện nay, người có hồi chánh phủ cùng nhân dân Đức coi như thần, người đã khai sinh một học thuyết làm chấn động giới triết học, được non nghìn quyển sách nghiên cứu, diễn giảng, bạn biết người ấy là ai chắc ? Albert Einstein. Được người đời đưa lên tận mây xanh như vậy, nhưng cha đẻ « thuyết tương đối » sống làm sao ? Sống đơn giản lắm. Ông coi bao nhiêu lời ca tụng của thiên hạ thua chiếc vĩ cầm của ông. Đi đâu Einstein rất ít đội nón, mặc đồ cũ mèm, lòng vô tư, có diện tướng an lạc. Đọc mấy chuyện trên, thưa bạn, chắc bạn có những nhận xét nầy : là Ninh-Quốc biết thấy cái thuận trong cái nghịch. Roosevelt biết trọng lòng dễ sợ của người dưới. Einstein sống đơn giản. Người ta gọi những bực nầy là kẻ có óc Già Giặn. Họ sống hạnh phúc, họ khéo xử thế, họ đắc lực chung qui nhờ bộ óc đã trui. Muốn đi theo vết chân của họ, chúng ta phải nỗ lực rèn đúc tâm hồn « bản lĩnh ». Bởi lòng người khó đo hơn sông biển, ruột xã hội có những hóc kẹt ác, bởi có nhiều phận sự hay cuộc lập thân thường không thành công cách đơn sơ, nên con người, muốn sâu sắc xử đối với kẻ xung quanh, đề phòng những mưu cơ, ăn chịu những thử thách, thất bại, phải khôn ngoan, trầm tĩnh, cẩn thận, lạc quan, can đảm, nói tắt là phải già giặn. Hẳn bà Dorothy Carnegie có lý khi viết quyển Don't grow old grow up để nhấn mạnh sự cần thiết của đức tánh căn bản nầy. Nó là nồng cốt của nhiều nhân đức khác. Nó là chìa khóa của đạo hạnh, luyện tâm, xử gia, xử thế, và hoạt động. Chiếc đũa tiên để sống ấy, người ta có quan tâm tạo cho mình không ? Hình như ít lắm. Đức Giêsu dạy ai không tái sinh làm con trẻ, sẽ không đặng vào thiên quốc. Trong quần chúng, lắm kẻ hiểu lầm chất triết lý nhân sinh thẳm sâu của huấn từ ấy. Đấng Cứu-Thế muốn con người tự tâm hồn nên vô tội, hiền lương, thanh khiết, khiêm từ, sốt sắng, nhẫn nại, bác ái, chịu khó v.v... tức là có bản lĩnh. Vả lại mục đích của luyện thân là làm sao cho ngày càng từng trải, con người bên trong càng lão luyện để làm nên những việc có ích cho bản thân, gia đình, quốc gia, chớ đâu phải lo bảo trì sự trẻ trung hiểu theo nghĩa non nớt mãi để rồi chuốt lấy những hối tiếc. Thực ra ai cũng muốn được gọi là già kinh nghiệm vì trong thực tế ai cũng cảm thấy làm việc gì mà đầu óc non nớt dễ thất bại. Nhưng ở thời nầy vì cơn lốc mê say vật chất xô đẩy, nên nhiều dân tộc, nhiều phong trào thích « vui vẻ trẻ trung ». Trong chức vụ, kẻ cao tuổi bị chê là « hết xài », quàng rờ, lạc hậu. Đức nghiêm trang có khi bị coi là kiểu cách, là khó tánh, ít bặt thiệp, quê mùa. Còn da mồi tóc bạc thì thôi : đã không được kính trọng lại bị coi như cái gì mà ai thấy cũng phải trốn. Đàn bà không sợ chi bằng cái già đã đành, mà đàn ông cũng rộn rịp làm cho trẻ. Người ta thoa phấn cho da mặt trẻ. Người ta lựa màu áo quần, lối trang sức cho thân thể ra vẻ trẻ. Đừng quên thời xuân xanh, cái đáng khen là sự mỹ miều của thân xác, còn cái đáng lo là sự non nớt, khờ dại của tâm não. Về đường tinh thần, tuổi trẻ phải chuẩn bị cho tuổi già, người thanh niên phải thu trữ kiến thức, phải sống kỹ đời sống, rút khôn trong những lần dại, để lúc cao niên chu toàn nghề làm người của mình. Đức già giặn khẩn thiết như thế, mà không phải tự nhiên ai cũng có hay hễ già cả thì tất nhiên già giặn. Có lẽ phần đông chúng ta nhận thấy riêng trong sự phán đoán hay trong việc làm lắm khi chúng ta non nớt, mặc dầu chúng ta đã khá tuổi. Chúng ta ít kiểm điểm hạnh kiểm của mình mà hay chê kẻ khác háo thắng, thiếu khôn ngoan, nghèo nhân đức, không khiêm tốn. Nghe một việc quấy, một tật xấu của tha nhân, chúng ta vội tin người thuật lại, liền chỉ trích. Nhiều chuyện đời, nếu xét kỹ, đơn giản lắm. Chúng ta hấp tấp làm cho nó ra phiền toái, bi đát, nguy nan. Làm lớn có nhiều trường hợp chúng ta phải biết hi sinh một để lợi mười, phải biết thu tâm người dưới, sáng suốt tự quyết, chúng ta lại câu nệ hẹp hòi, nô lệ dư luận khiến công ích bị thiệt hại. Thấy một người cầm hộp á phiện, nói gì không biết chúng ta liền nói người ấy có tật « bắn khí » hay dạy kẻ khác làm quen với nàng tiên nâu. Làm giáo sư hay giám thị, chúng ta in trí, xem tướng học sinh, đoán tính tình, tương lai, công tội, đoán không phải theo tâm lý học hay diện tướng học, mà theo lòng ích kỷ, theo óc tây vị nô lệ tình dục. Trước một công việc gì ta không chịu cân đo lợi hại, thất bại, đâm ra bi quan. Lâm vào một hoàn cảnh nguy nan, liệu không giải thoát được mà chẳng biết ăn chịu đau khổ, cứ oán hận người, trách số phận, chán đời, bỏ bê phận sự. Đó là chưa nói những tật đa ngôn, tánh thắc mắc, thói khoe khoan. Tất cả, thưa bạn, tất cả đều làm cho chúng ta thất bại. Nói tắt đều làm tâm hồn chúng ta còn « xốp » chưa được trui rèn già giặn. Trong cuốn Người Bản Lĩnh nầy chúng tôi nêu cho bạn lý tưởng già giặn. Những vấn đề được trình bày theo lối tùy bút. Chúng là những bí quyết thực hành, chỉ liên hệ với nhau trong lý tưởng làm người. Hi vọng đọc nó, con người bạn sẽ dần dần cường dũng. Đó là phần thưởng thỏa mãn cho người viết cùng bạn đây. Mà chắc đó cũng là nguyện vọng của bạn vì nó làm cho đời bạn lên hương. HOÀNG-XUÂN-VIỆT *** Không phải già cả thì tất nhiên già giặn : người ta có thể đầu hai thứ tóc mà non trí, cũng có thể còn măng xanh mà óc như thép đã trui. NGHIÊM-THỦY-THẠCH Phải có bản lĩnh cao cường lắm mới sống được cuộc đời đơn giản giữa thời đại thờ lạy Bò vàng nầy. FEURZINGER Mỗi ngày, sau giờ vật lộn với cuộc sống vật chất quá ư phiền toái, ta nên có vài phút thả hồn hướng thượng để tìm một viễn cảnh. WATERSTONE Ôi quí đẹp thay : những cha mẹ quê mùa sống thanh bần, dành dụm tiền cho con cái ăn học nên thân với đời. ECPROCLÉSIA Xung quanh bạn có vô số kẻ láo xược cách chân thành. CHRISPROTO Cứ nhoi lên : vấp té thì đứng dậy, tiến ngay không được thì tiến quanh. Mà nhứt định thành công sau cùng. HOÀNG-BÍCH-MỘNG *** Học giả Hoàng Xuân Việt sinh năm 1930 tại Bến Tre. Ông tốt nghiệp cao học tại hai trường Đại chủng viện Saint Joseph và Saint Sulpice. Ông còn theo học và nghiên cứu một cách chuyên sâu những môn như triết học, thần học, xã hội học, phụ nữ học, thiên văn học và năng lực hạnh tâm...có thể sử dụng thành thạo 7 ngôn ngữ: Anh, Pháp, Đức, Hán - Nôm, Bồ Đào Nha, Hy Lạp và cổ ngữ La tinh.   Ông còn là một nhà giáo với 55 năm làm thầy. GS cho biết ông đã làm thầy của khoảng 10.000 học trò, và nếu nhắc lại thì ông có thể nhớ từng người đã học ông vào thời điểm nào. Vì GS từng làm hiệu trưởng hai trường Nhân xã học làm người (từ 1966 - 1975) và Hán-Nôm Nguyễn Trãi (1993 - 2001). Mời các bạn đón đọc Người Bản Lĩnh của tác giả Hoàng Xuân Việt.