Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kiến - Bernard Werber

Tên Sách: Kiến (Full PRC, EPUB) Tác Giả: Bernard Werber   Thể Loại: Giả Tưởng, Tiểu Thuyết, Văn học phương Tây   Dịch Giả: Lê Thu Hằng   Đánh Máy: Mọt Sách   Nguồn: vnthuquan.net   Ebook: http://www.dtv-ebook.com   Kiến - Bernard Werber (full prc, epub)   Giới Thiệu: Trong vài giây bạn đọc những dòng này, trên Trái đất có bốn mươi người được sinh ra nhưng có tới bảy trăm triệu con kiến ra đời. Từ hơn trăm triệu năm trước chúng ta, chúng đã ở đó, được chia thành nhiều đội, nhiều tổ, nhiều đế chế trên toàn bề mặt trái đất. Chúng đã tạo ra một nền văn minh song song, xây dựng những vương quốc thực sự, phát minh ra vũ khí tối tân, thiết kế cả nghệ thuật chiến tranh, làm chủ một nền công nghệ đáng kinh ngạc. Chúng có những Attila, Christophe Colomb, Jules César, Machiavel hay Léonard de Vinci của chính mình. Khi bước vào kho chứa đồ trong ngôi nhà mà ông bác nhà côn trùng học già di tặng, Jonathan Wells còn lâu mới nghĩ rằng anh sẽ gặp chúng. Theo chân anh, chúng ta sẽ khám phá thế giới giàu có ngoài sức tưởng tượng, khổng lồ và quyến rũ của những “người dưới đất” này trong một câu chuyện ly kỳ độc nhất vô nhị, nơi ở từng trang sự hồi hộp và ghê rợn đều được xây dựng dựa trên những cứ liệu khoa học chính xác nhất. Đọc "Kiến" rồi sau bị ám ảnh, nhìn thấy kiến không dám dí tay xuống nữa, không bởi vì bỗng dưng trở nên nhân từ không muốn sát sinh mà vì... sợ, hay nể thì đúng hơn cái giống loài bé tí... như mình đã biết vô cùng đơn giản, vô cùng trật tự và đạt hiệu quả cao trong mọi việc.   Bernard Werber sinh năm 1961 tại Toulouse, Pháp. Ngay từ khi mười bốn tuổi, anh đã viết truyện cho một tập san nhỏ về khoa học viễn tưởng. Sau khi học luật tại Toulouse và báo chí tại Pháp, Bernard Werber dành hơn mười năm làm nhà báo khoa học và đã từng cộng tác với rất nhiều tờ có tên tuổi như Nouvel Observateur, Le Point, Ça m'intéresse. Sau đó, anh tập trung vào viết văn. Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên xuất bản năm 1992,Kiến, nhà văn này đã nổi tiếng với một phong cách viết độc đáo, pha trộn giữa loại truyện phiêu lưu, khoa học viễn tưởng và triết lý.Kiến đã giành giải thưởng của độc giả tờ Khoa học và Tương lai (Sciences et Avenir). Cuốn thứ hai trong bộ ba tiểu thuyết về kiến,Le jour des fourmis (Ngày của kiến), ra đời ngay sau đó, đã được nhận giải thưởng lớn của độc giả tờ Elle. Các tác phẩm của Bernard Werber đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng. Với 15 triệu bản bán được trên toàn thế giới, cùng với Marc Levy, Bernard Werber là một trong những nhà văn Pháp đương đại nổi tiếng nhất. Ngoài tiểu thuyết, Bernard Werber còn được biết đến với truyện ngắn, truyện tranh, kịch và phim. Chú ý chỗ bạn đặt chân. Sau khi đọc xong cuốn tiểu thuyết quyến rũ này, bạn dám không nhìn thực tế theo cùng cách hiện giờ nữa. *** Một nền văn minh đầy kinh ngạc của loài kiến, một thế giới giàu có ngoài sức tưởng tượng, ly kỳ, rùng rợn và đáng sợ - đó là thế giới khắc nghiệt và kỳ diệu của những chú kiến bé nhỏ. Kiến không thuộc hàng tiểu thuyết khoa học kinh điển nhưng được xem là dấu son đỏ cho tiểu thuyết khoa học đương đại. Con người hoàn toàn có thể mường tượng ra tương lai không giống như hiện tại chút nào, một tương-lai-của-kiến. ----------------- Trong vài giây bạn đọc những dòng này, trên Trái đất có bốn mươi người được sinh ra nhưng có tới bảy trăm triệu con kiến ra đời. Từ hơn trăm triệu năm trước chúng ta, chúng đã ở đó, được chia thành nhiều đội, nhiều tổ, nhiều đế chế trên toàn bề mặt trái đất. Chúng đã tạo ra một nền văn minh song song, xây dựng những vương quốc thực sự, phát minh ra vũ khí tối tân, thiết kế cả nghệ thuật chiến tranh, làm chủ một nền công nghiệp đáng kinh ngạc. Chúng có những Attila, Christophe Colomb, Jules César, Machiavel hay Léonard de Vinci của chính mình. Khi bước vào kho chứa đồ ngôi nhà mà ông bác là nhà côn trùng học giả di tặng, Jonathan Wells còn lâu mới nghĩ rằng anh sẽ gặp... kiến, cùng cái thế giới giàu có ngoài sức tưởng tượng, ly kỳ, rùng rợn của chúng... Hãy chú ý nơi bạn đặt chân. Đọc xong cuốn tiểu thuyết này rồi, bạn sẽ không còn nhìn thực tế theo cách hiện giờ nữa. Kiến đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, giành giải thưởng của độc giả tờ Sciences et Avenir, và là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bernard Werber, nhà văn Pháp được đọc nhiều nhất trên thế giới. - “Trong Kiến, Bernard Werber đã làm được cho loài kiến những gì Richard Adams đã làm cho loài thỏ trong đồi thỏ…” – Bantam Doubleday Dell Publishing - “Đây là tiểu thuyết đầu tiên mà nhân vật chính là… kiến.” – Albin Michel - “Bernard Werber đã sáng tạo nên một thế giới loài vật gần gũi và chi tiết đến mức mỗi người đọc đều cảm thấy như mình là một phần của nó” – Kevin Grandfield. *** A nh sẽ thấy, không hoàn toàn như anh mong đợi đâu. Công chứng viên giải thích rằng tòa nhà được xếp hạng di tích lịch sử và nhiều nhà hiền triết thời Phục hưng đã từng sống ở đây, nhưng ông không nhớ là những ai. Họ xuống cầu thang, bước vào một hành lang tối om nơi công chứng viên dò dẫm hồi lâu, uổng công bật một cái nút trước khi thở dài: - Ái chà! Nó không chạy nữa. Họ tiến trong bóng tối, lộp cộp lần theo các bức tường. Khi cuối cùng công chứng viên tìm thấy cái cửa, mở nó và nhấn, lần này thì thành công, trúng cái công tắc, ông thấy khách hàng của mình mặt mày biến sắc. - Không ổn à, ông Wells? - Một chứng sợ thôi. Không sao đâu. - Sợ bóng tối? - Vâng. Nhưng đã khá hơn rồi. Họ xem xét mọi ngóc ngách. Đó là tầng hầm rộng hai trăm mét vuông. Dù nó chỉ mở ra phía ngoài bằng vài ô cửa tầng hầm hiếm hoi, bé xíu và sát trần, Jonathan vẫn hài lòng về căn hộ. Các bức tường được dán giấy xám đơn điệu, và bụi phủ khắp nơi… Nhưng anh sẽ không tỏ ra khó tính hơn. Căn hộ của anh hiện nay chỉ rộng bằng một phần năm căn hộ này. Hơn nữa, anh không còn khả năng để trả tiền thuê; nhà máy khóa nơi anh làm mới đây đã quyết định bỏ qua công đoạn của anh. Món thừa kế của bác Edmond đúng là của trời cho không tin được. Hai ngày sau, anh dọn đến số 3, phố Sybarites với vợ mình là Lucie, cậu con trai Nicolas và con chó bông lùn cụt đuôi Ouarzazate của họ. - Mấy bức tường xám này không làm em ngại đâu, Lucie vừa nói vừa lấy tay nâng mái tóc đỏ dày của cô. Chúng mình có thể trang trí như chúng mình muốn. Mọi thứ ở đây đều phải làm lại hết. Như kiểu mình biến nhà tù thành khách sạn đấy. - Phòng của con ở đâu ạ? Nicolas hỏi. - Phía cuối, bên phải. - Ẳng ẳng, con chó sủa, và nó bắt đầu nhay nhay bắp chân Lucie mà không biết là cô đang bưng chồng bát đĩa đám cưới trong tay. Kết cục, nó nhanh chóng bị nhốt vào nhà vệ sinh; khóa hẳn hoi, vì nó biết nhảy tới tận tay nắm cửa và biết xoay để mở cửa. - Anh có biết rõ ông bác hào phóng của anh không? Lucie tiếp tục. - Bác Edmond? Thực ra, tất cả những gì anh nhớ, chỉ là bác nhấc anh lên giả làm máy bay, lúc anh còn rất nhỏ. Một lần anh sợ đến nỗi anh đã tè dầm lên bác ấy. Họ cười. - Đã nhát gan thế cơ à? Lucie trêu. Jonathan làm ra vẻ không nghe thấy gì. - Bác ấy không trách anh về chuyện đó. Bác chỉ nói với mẹ anh: “Được rồi, chúng ta biết là sẽ không cho nó thành phi công…” Sau đó, mẹ nói rằng bác theo sát suốt cuộc đời anh, nhưng anh không gặp lại bác từ ấy. - Bác làm nghề gì? - Đó là một nhà bác học. Một nhà sinh học, hình như thế. Jonathan trở nên trầm tư. Cuối cùng, thậm chí anh cũng không biết ân nhân của mình. Cách đó 6 km: BEL-O-KAN, Cao một mét. 50 tầng dưới lòng đất. 50 tầng trên mặt đất. Thành phố lớn nhất của vùng. Dân số ước tính: 18 triệu. Sản lượng hàng năm: - 50 lít mật rệp. - 10 lít mật sâu yên chi. - 4 kilô nấm mũ. - Đá được dũi: 1 tấn. - Số km hành lang đi lại được: 120. - Diện tích trên mặt đất: 2m2. Một tia sáng vụt qua. Một cái chân vừa nhúc nhích. Cử động đầu tiên từ đợt bắt đầu ngủ đông, cách đây ba tháng. Một cái chân khác từ từ tiến, kết thúc là hai cái chân dần dần tách ra. Một cái chân khác duỗi ra. Rồi đến bộ ngực. Rồi một cái thân. Rồi mười hai cái thân. Chúng rùng mình để giúp dòng máu trong suốt lưu thông trong các động mạch của mình. Máu chuyển từ trạng thái sền sệt sang nhão rồi lỏng. Dần dần van tim bắt đầu hoạt động trở lại. Nó đẩy máu tới tận cuối các chi. Các cơ sinh học nóng dần lên. Các khớp siêu phức tạp xoay từ từ. Khắp nơi, xương bánh chè với các mảng bảo vệ cố tìm thấy cực điểm xoắn của chúng. Chúng tỉnh dậy. Cơ thể lấy lại hơi. Các động tác của chúng rời rạc. Như vũ điệu quay chậm. Chúng lắc nhè nhẹ, vẩy vẩy. Chân trước chúng chập lại trước miệng như kiểu đang cầu nguyện, nhưng không phải, chúng làm ướt các chân của mình để đánh bóng râu. Mười hai con vừa thức dậy xoa cho nhau. Sau đó chúng tìm cách đánh thức những con bên cạnh. Nhưng chúng mới chỉ có đủ sức để nhúc nhích mỗi cơ thể mình, chúng không còn năng lượng để cho đi. Chúng bỏ cuộc. Rồi chúng khó nhọc tiến đến giữa những cơ thể cứng như tượng của các chị em mình. Chúng hướng về bên Ngoài rộng lớn. Toàn bộ cơ thể máu lạnh của chúng cần phải hứng lấy năng lượng mặt trời. Chúng tiếp tục tiến lên, mệt nhoài. Mỗi bước đi là cả một sự đau đớn. Chúng muốn nằm lại đến chừng nào và muốn được yên tĩnh như hàng triệu bạn đồng loại của chúng! Nhưng không. Chúng là những người đầu tiên thức tỉnh. Bây giờ chúng phải đánh thức toàn thành phố. Chúng qua thành phố. Ánh sáng mặt trời làm chúng chói mắt, nhưng tiếp xúc với năng lượng trong lành sảng khoái đến nhường nào. Mặt trời rọi chiếu trên cơ thể gầy của chúng ta, Lay tỉnh những cơ bắp đau nhức Và hợp nhất các suy nghĩ tản mát.   Mời các bạn đón đọc Kiến của tác giả Bernard Werber.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

SOS
Có một nghề được gọi là “làm mẹ”. Đó là trở thành mẹ của những đứa trẻ không do mình mang nặng, rứt ruột sinh ra. Đó là trở thành mẹ trong một khoảng thời gian định sẵn, với những qui định không mấy dễ chịu, và một trong số những qui định ấy là quên đi hạnh phúc của cá nhân mình. Và cái chốn được gọi là gia đình ấy hẳn phải là nơi đầy ắp tình yêu thương, chan chứa sự vỗ về và an ủi tâm hồn người ta lắm. Bởi chỉ có như thế, “mẹ” mới sẵn sàng quên mình vì hạnh phúc của các “con”. Thế thì điều đó lí tưởng quá còn gì. Thực tế, làng trẻ để các cô gái trẻ tự nguyện vào đây làm mẹ, để chăm sóc những đứa trẻ mồ côi, bất hạnh, lại không được lý tưởng đến thế. Một làng trẻ mà thiếu tiếng trẻ nô đùa, nghịch ngợm. Một làng trẻ mà trật tự khuôn phép được đặt lên hàng đầu. Một làng trẻ không khác nào môi trường quân sự, mà những đứa trẻ chính là những chú lính tí hon dễ bảo. Một làng trẻ mà những đứa trẻ bị đánh mất tuổi thơ… Làm sao để yêu thương và được yêu thương tại một nơi nhân danh yêu thương, nhưng yêu thương lại không hề tồn tại? Làm sao có thể giải quyết được mâu thuẫn giữa yêu thương lí tưởng và lí tưởng yêu thương? Và “làm sao biết được những đôi mắt sớm suy tư đang nghĩ gì?” S. O. S! *** Có một công việc được gọi là “làm mẹ”. Có một quy định được gọi là “làm con”. Tình mẫu – tử chỉ trọn vẹn khi “mẹ” phải mang nặng và đứt ruột khi sinh ra “con”, có phải? Làm sao để yêu thương và được yêu thương tại một nơi mà tính yêu thương nhiều khi là bổn phận? _______________________________ Những câu văn trên được tớ trích ra từ tác phẩm truyện dài “SOS” của Nguyên Hương. Nguyên Hương có lẽ là một cái tên hơi xa lạ với các độc giả nhưng các tác phẩm của cô đều chứa đựng những lí tưởng cao đẹp, quý giá. Tuy “SOS” không phải là quyển sách đầu tiên của Nguyên Hương mà mình đọc, nhưng mình thực sự rất ấn tượng với nó. Ấn tượng từ cái tên, cái bìa và cả nội dung. Toàn bộ câu chuyện dài 180 trang kể về cô gái tên Thùy. Cô đang ở tuổi đời thanh xuân phơi phới, tương lai phía trước đang rộng mở đón chờ cô. Nhưng cô không chọn một công việc bình thường, rồi cưới chồng, rồi chăm lo cho đứa con chính mình đứt ruột sinh ra, mà lại chọn công việc làm “mẹ” ở trại trẻ SOS – trại trẻ dành cho các trẻ em cơ nhỡ, gia đình bỏ rơi. Một mình cô, nuôi 8 đứa “con”, đứa lớn nhất 11 tuổi và đứa nhỏ nhất mới chỉ 4 tuổi. Tại đây, những tình yêu chân thành, chất phát tỏa ra. Với văn phong tự nhiên, ngôn ngữ bình dị nhưng lại giàu cảm xúc xuyên suốt cả nội dung quyển sách, Nguyên Hương đã cho ta thấu cảm được tình mẫu – tử thiêng liêng từ giữa một người mẹ và các đứa con không cùng huyết thống. Những tình cảm chất phác, trong sang của các đứa trẻ đối với “người mẹ” xa lạ nhưng tình cảm ấy lại thân thuộc và ấm áp vô cùng. Đây thực sự là một quyển sách hay, một câu chuyện đẹp và đầy ý nghĩa nhân văn về tình cảm gia đình. Đây thực sự là một quyển sách rất đáng để đọc. _______________________________ Làm sao biết được những đôi mắt sớm suy tư đang nghĩ gì? Làm sao để giải quyết được mâu thuẫn giữa yêu thương lí tưởng và lí tưởng yêu thương? Làm mẹ có phải là một công việc không? REVIEW CỦA BẠN Le Hoang Thuy Vy   Mời các bạn đón đọc SOS của tác giả Nguyên Hương.
Nụ Cười Dưới Chân Thang
Henry Miller là người Mỹ, sinh tại New York, tại một thành phố tượng trưng cho Sinh mệnh Tây phương trong trạng thái huy hoàng nhất, với tất cả khám phá mới mẻ nhất của khoa học và cơ khí, mẫu mực của đời sống con người ở thời đại nguyên tử. Henry Miller chính là người đã phá hủy đời sống theo điệu Mỹ, đã phá Văn minh Mỹ một cách khốc liệt; đối với Henry Miller, tất cả những gì tàn bạo nhất, ngu xuẩn nhất, khờ khệch nhất, bi đát nhất, rỗng tuếch nhất, nhạt nhẽo nhất đều xuất phát từ Mỹ quốc, quê hương của ông. Tất cả những quyển sách của Henry Miller đều tố cáo Văn minh Mỹ quốc, tố cáo sự điêu tàn của Tây phương, tố cáo đời sống nông cạn của con người thời đại, tố cáo những ảo tưởng điên rồ của xã hội, đoàn thể, tôn giáo, đảng phái; luân lý, đạo đức; Henry Miller đánh dấu sự cáo chung của văn chương, thi ca và nghệ thuật: “Cách đây một năm, cách đây sáu tháng, tôi nghĩ rằng tôi là nghệ sĩ. Bây giờ tôi không nghĩ về việc ấy nữa, tôi LÀ!“ (Henry Miller, Tropic of Cancer, trang 1), “Tất cả những gì là văn chương, văn nghệ, văn học đều tách rời khỏi tôi” (op. cit, trang 1); Henry Miller “khạc nhổ vào mặt của nghệ thật, đá vào đít của Thượng đế, của Người, của Sinh mệnh, của Thời gian, của cái Đẹp, của Tình yêu!” (op. cit, trang 2); Henry Miller cho rằng Rimbaud đã thất bại một cách chua xót là vì “thời gian chưa chín muồi” (The time was not ripe) (cf. Henry Miller, the Books in my life, Icon Books; 1963, trang 96); Henry Miller khơi mở tất cả ý nghĩa trong sắc lệnh của Rimbaud: “A bas l’histoire!) (Đả đảo lịch sử!) (cf. Henry Miller, op. cit trang 86); Henry Miller ca tụng Rimbaud và gọi Rimbaud là “Kha Luân Bố của Tuổi trẻ” (cf. New Directions IX, New Directions XI) và cho rằng hành động của Rimbaud (khi lìa bỏ Tây phương để sống cuộc đời vất vả kỳ lạ ấy ở Phi châu) là một sự tự tử, vì Rimbaud thất vọng khi thấy Tây phương không còn thoát khỏi Tất mệnh đau thương kia. Bài văn đầu tiên trong đời Henry Miller là bài cảo luận ông viết về quyển Anti-Christ của Nietzsche; Henry Miller khinh miệt Heidegger, nhưng ông quí Eckhart và trích dẫn câu văn của Eckhart: “Hãy nhìn, tất cả là Bây giờ duy nhất” (cf. Henry Miller, Remember to Remember) và chính Henry Miller thốt lên: “Tất cả phải là một”. “Tất cả là một”, đi ngược lại với εν Πάντα của Héraclite trong tinh thần tương tức tương nhập của Kinh hoa nghiêm Phật giáo, “nhất tức nhất, nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất, nhất thiết tức nhất thiết”; khi đứng tại Mycenae tại Hy Lạp, trước mồ của Clytemnestra, Henry Miller đã sống lại tất cả những bi kịch Hy Lạp Thượng cổ (Eschyle, Sophocle, Euripide, vân vân); tác phẩm vĩ đại nhất của Henry Miller là quyển Colossus of Marcussi, nói lên sự trở về nguồn của Henry Miller khi ông khám phá lại đất trời Hy Lạp, sống lại buổi Triêu Dương của Sinh mệnh Tây phương; niềm vui vô hạn của sự tỉnh thức kỳ diệu lan tràn chan chứa trong quyển Colossus of Maroussi. Henry Miller là người duy nhất (trong mấy ngàn năm của Sinh mệnh Tây phương) người độc nhất đã tỉnh thức hoàn toàn, yêu Hố thẳm và đã mọc cánh bay vút từ Hố thẳm lên đến Thiên Không xanh lơ; ông ôm choàng cuộc đời vũ trụ trong vòng tay âu yếm (Henry Miller: Instinctively; just as a bird takes wing, he threw ou: his arms in an all-encompassing embrace), run say sung sướng tràn trề trong niềm vui lai láng vô biên, thốt lên mừng rỡ ở giây phút tối hậu: “Thế là đến rồi! Đến rồi!” (“At last, At last!”). Henry Miller tự xưng là “một thằng hề” truyện The Smile at the Foot of the Ladder (Cười dưới chân thang) của Henry Miller là nói về một anh hề kỳ lạ nhất chưa từng có trong lịch sự loài người; Henry Miller cho rằng truyện ấy là “truyện kỳ lạ nhất mà tôi đã viết trong đời” (undoubtedly it is the strangest story I have yet written); trong truyện ấy, Henry Miller đã đưa Sinh mệnh đến Tất mệnh và bay lên bầu trời xanh lơ của Tính mệnh trong Bình minh của Hố thẳm: “Niềm vui giống như một con sông: nó chảy miên man không ngừng. Đối với tôi, đó dường như tất cả lời nhắn gửi mà người hề đang cố gắng mang đến cho chúng ta, nhắn gửi chúng ta hãy nhập thế với dòng tuôn chảy di động không ngừng, nhắn gửi chúng ta đừng dừng lại để suy nghĩ, để so sánh, để phân tích, để ghì giữ, mà hãy tiếp tục tuôn chảy không ngừng vô cùng vô tận như dòng nhạc miên man. Đó là dâng bỏ, buông rơi, siêu thoát; người hề đã diễn tả sự siêu thoát ấy một cách tượng trưng. Còn chúng ta hãy làm sự siêu thoát ấy thành hiện thể”. (Joy is like a river: it flows ceaselessly. It seems to me that this is the message which the clown is trying to convey to us, that we should participate through ceaseless flow and movement that we should not stop to reflect, compare, analyze, possess, but flow on and through, endlessly, like music. This is the gift of surrender, and the clown makes it symbolically. It is for us to make it real). Henry Miller đã sống qua hết những mâu thuẫn, những bi kịch đau đớn khôn cùng của cuộc đời: “Chúng ta chết đang khi vùng vẫy để sinh ra đời. Chúng ta không bao giờ đã là, không bao giờ đang là. Chúng ta đang luôn luôn trong tiến trình biến dịch, luôn luôn ly cách và đứt lìa. Luôn luôn ở bên ngoài”. (We die struggling to get born. We never were, never are. We are always in process of becoming, always separate and detached. Forever outside). Những dòng chữ trên nói lên Sinh mệnh cựa quậy trên bờ đất, khi Sinh mệnh không còn tuôn chảy trong dòng sông Tính mệnh. Muốn sống lại, chúng ta chỉ cần khơi mở và khám phá: tất cả đều đã có sẵn trong ta rồi (we uncover and discover. All has been given, as the mystics say). Chúng ta chỉ cần mở mắt và lòng để trở nên một với toàn thể (we have only to open our eyes and hearts, to become one with that which is). Henry Miller là một trong số rất ít người mà Sinh mệnh đã được giải thoát; Henry Miller nhìn thế giới này qua một màu sắc mới lạ khác hẳn cách nhìn của đôi mắt thường nhân. Henry Miller nhìn thấy cuộc đời với một đôi mắt khác. Henry Miller sống tràn trề trọn vẹn trong khoảnh khắc hiện tại và sự hiện diện của Henry Miller chiếu tỏa rực ngời ánh dương buổi sớm, tuôn dậy một bài ca bất diệt của niềm vui chan chứa hương mai. Henry Miller mỉm cười dưới chân thang, một nụ cười thênh thang thiên sứ tuyệt trần (it was a broad, seraphic smile). Mời các bạn đón đọc Nụ Cười Dưới Chân Thang của tác giả Henry Miller.
Một Giọt Nắng Nhạt
Trong nhiều sáng tác Nguyễn Khải ta đã bắt gặp nhân vật xưng tôi. Một nhân vật tôi nửa là nhân vật hư cấu, nửa là chính nhà văn, tức là có một sự mơ hồ, lẫn lộn một cách chủ ý. Lối viết này thực ra không hoàn toàn mới trong lịch sử phát triển của văn học trong nước cũng như trên thế giới. Cái đặc sắc của Nguyễn Khải ở chỗ cái tình rất thực, tự bạch cũng là tự kiểm, tự đánh giá qua tự truyện. Kể cả tự giễu- một khuynh hướng đánh giá có màn sắc triết lý mà cũng rất trần đời. Một giọt nắng nhạt kể về quãng tuổi thơ đầu đời_"cái tuổi 15". Có nhiều nét giống Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, lại có cả những khía cạnh như Cỏ dại của Tô Hoài, nhưng có cái vẻ "dữ dội" hơn ở khía cạnh tâm lý. Cái khổ của vật chất cộng cái khổ tinh thần trĩu xuống tâm hồn thơ dại nhưng cũng đủ hiểu biết, thức tỉnh. *** Nguyễn Khải (3/12/1930 - 15/1/2008) Nhà văn được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. - Nguyễn Khải tên thật là Nguyễn Mạnh Khải, sinh năm 1930 tại Hà Nội. Quê nội ở thành phố Nam Định nhưng tuổi nhỏ sống ở nhiều nơi. Đang học trung học thì gặp Cách mạng tháng Tám. - Trong Kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Khải gia nhập tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo. Bắt đầu viết văn từ những năm 1950, được chú ý từ tiểu thuyết Xung đột (phần I năm 1959, phần II năm 1962). - Sau năm 1975, ông chuyển vào sinh sống tại tp. Hồ Chí Minh. - Năm 1988, ông rời quân đội với quân hàm đại tá để về làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Khải từng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 2, 3 và là Phó tổng thư ký khóa 3. Ông là Đại biểu Quốc hội khóa VII. - Các sáng tác của ông khá phong phú: về nông thôn trong quá trình xây dựng cuộc sống mới, về bộ đội trong những năm chiến tranh chống Mỹ, về những vấn đề xã hội–chính trị có tính thời sự và đời sống tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước những biến động phức tạp của đời sống. Sáng tác của Nguyễn Khải thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn với các vấn đề xã hội, năng lực phân tích tâm lý sắc sảo, sức mạnh của lý trí tỉnh táo. - Năm 1982, ông nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm. - Năm 2000, nhà văn được phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về Văn học nghệ thuật. - Ông mất năm 2008 tại thành phố Hồ Chí Minh do bệnh tim. Tác phẩm đã xuất bản Ông sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký sự, kịch. Trong đó, Nguyễn Khải để dấu ấn qua nhiều tác phẩm như: Xây dựng (truyện vừa, 1952) Xung đột (ghi chép nhiều tập, truyện, 1959-1962) Câu chuyện giữa một người đọc và một người chép (Nghiên cứu lý luận, 1959) Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960)  Một chủ đề chung quán xuyến tất cả sáng tác của tôi: Làm thế nào cho con người sống được hạnh phúc hơn. (trả lời phỏng vấn, báo Văn học, 1962) Sức mạnh của ngòi bút là được chiến đấu cho lẽ phải, cho chân lý (trao đổi, báo Văn học, 1962) Hãy đi xa hơn nữa (tập truyện vừa, NXB Văn học, 1963) Đường vào nghệ thuật (NXB Thanh niên, 1963) Gia đình lớn (Truyện vừa, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 1964) Người trở về (Tập truyện vừa, NXB Văn học, 1964)  Sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật thật cao đẹp xứng đáng với nhân dân anh hùng (Báo nhân dân, 1968) Người 40 tuổi (Tự sự lúc bước sang một năm mới, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1970) Ra đảo (tiểu thuyết, NXB Quân đội nhân dân, 1970) Đường trong mây (tiểu thuyết, NXB Văn học, 1970) Hãy đi xa hơn nữa (tập truyện vừa, NXB Văn học, 1971) Chủ tịch huyện (truyện, NXB Văn học 1972) Chiến sĩ (tiểu thuyết, NXB Quân đội nhân dân, 1973) Đối mặt (kịch, Tạp chí Tác phẩm mới, 1974) Tháng ba ở Tây Nguyên (ký sự, NXB Quân đội nhân dân, 1976) Cách mạng (kịch 4 màn, NXB Quân đội nhân dân, 1978) Cha và Con và... (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1979) Hành trình đến tự do (Kịch, NXB Văn nghệ, 1980) Khoảnh khắc đang sống. (Kịch bản điện ảnh, Báo Văn nghệ, 1980)  Bạn bè trên cao nguyên (truyện, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1981) Gặp gỡ cuối năm (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1982) Khoảnh khắc đang sống (kịch bản phim, truyện ngắn, NXB Văn nghệ, 1982)  Văn xuôi một chặng đường 1963-1983. Báo cáo bổ sung trình bày trong Đại hội lần thứ III Hội Nhà văn Việt Nam (Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 1984) Thời gian của người (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1982) Điều tra về một cái chết (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1986) Cái thời lãng mạn (truyện vừa, Báo Văn nghệ, 1987) Vòng sóng đến vô cùng (truyện, NXB Trẻ, 1987)  Nghề văn, nhà văn và Hội nhà văn (ý kiến, Báo Văn nghệ, 1988) Một giọt nắng nhạt (sách măng non, NXB Trẻ, 1988)  Những suy nghĩ về đổi mới văn nghệ (Báo Văn nghệ, 1989) Đến một nơi rất xa để được hiểu lại mình (Tạp chí Tác phẩm văn học, 1989) Một cõi nhân gian bé tý(tiểu thuyết, NXB Văn nghệ, 1989) Một người Hà Nội (tập truyện, NXB Hà Nội, 1990) Danh nhân của làng (truyện ngắn, 1991)  Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức (truyện ngắn, báo Văn nghệ, 1991)  Chuyện tình của mỗi người (truyện ngắn, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1992) Nghề văn cũng lắm công phu (Báo Văn nghệ, 1992-1993) Sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu (tập truyện, NXB Hội nhà văn, 1993) Một thời gió bụi (tập truyện ngắn, NXB Lao động, 1993)  Tôi nhiệt liệt ủng hộ các cây bút trẻ có tài. Thư ngỏ gửi nhà văn (báo Văn nghệ trẻ, 1995)  Nhìn lại những trang viết của mình. Tham luận tại Hội thảo Việt Nam nửa thế kỷ văn học (1995) Hà Nội trong mắt tôi (tập truyện ngắn, NXB Hà Nội, 1995) Nguyễn Khải với nghề văn (Báo Văn nghệ trẻ, 1996) Bắt đầu từ một câu nói (9-1996) Cuộc tìm kiếm mãi mãi (3-1996)  Tâm sự văn chương của nhà văn Nguyễn Khải (Báo Văn nghệ trẻ, 1997) Truyện ngắn và tạp văn (NXB Trẻ, 1997) Chị Xuân, chị Đào (Bút ký, Phụ san Văn nghệ Quân đội, 1998)  Người Ngu (Báo Văn nghệ trẻ, Xuân Mậu Dần, 1998) Những tháng năm yên tĩnh (Bút ký, Báo Văn nghệ, Tết Mậu Dần, 1998)  Ước gì tôi được trẻ lại, Chuyện cà kề, Một lá phiếu và một lá phiếu (Lão Bộc) (Phụ san Văn nghệ Quân đội, 1998)  Hạnh phúc đến muộn (Kịch nói, Tạp chí Tác phẩm mới, 1998) Một bài tiểu luận làm tôi thay đổi cả quan niệm về tiểu thuyết (trả lời phỏng vấn, Báo Tuổi trẻ chủ nhật, 1998)  Chút phấn của đời. (kịch nói 2 màn, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1999) Hãy biết cách cống hiến bạn đọc cái phần mạnh nhất của mình. Bài phát biểu tại lễ trao giải thưởng văn học 1998 của Hội nhà văn  Một cuộc bàn giao chậm lại đúng nửa thế kỷ (Báo Văn nghệ Tết Kỷ Mão, 1999)  Đến một nơi rất xa để được hiểu lại mình. (bút ký, Báo Văn nghệ, 1999) Đọc "Tiểu thuyết thứ bảy" (Báo Văn nghệ, 1999)  Chế Lan Viên - một nghệ sĩ, một chiến sĩ (Báo Văn hóa thể thao, 1999) Tìm đất sống (bút ký, Báo Văn nghệ, 1999) Truyện nghề (NXB Hội Nhà văn, 1999)  Tết của một chiến sĩ tình báo (Báo Văn nghệ Tết Canh thìn, 2000) "Tiểu thuyết là tinh hoa của hiện thực" (Báo Văn nghệ Tết Canh thìn, 2000)  Mạch nước trong vẫn lặng lẽ chảy (Báo Sài Gòn tiếp thị, 2000)  Đôi điều biết thêm về Nguyễn Văn Vĩnh (Phụ san Văn nghệ quân đội, 2000) Danh dự (truyện, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 2000)  Người Việt nam những chục năm đầu thế kỷ XX (Báo Văn nghệ, 2000) Tây Nguyên nửa đầu thế kỷ XX (Báo Văn nghệ, 2000)  Tôi là người may mắn (trả lời phỏng vấn, Báo Lao động, 2000)  Giận ông giời (truyện ngắn, Báo Văn nghệ, 2001) Má hồng (truyện ngắn, Báo Văn nghệ, 2001) Sống ở đời (tập truyện, NXB Trẻ, 2002) Thượng đế thì cười (tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn, 2003), mang giọng văn hồi ký về cuộc đời viết lách của ông. Cuối đời, ông dành thời gian đúc kết những nghĩ suy, đau đáu trong tùy bút: Nghĩ muộn (Tùy bút, 2000) Đi tìm cái tôi đã mất (Tùy bút, 2006) Mời các bạn đón đọc Một Giọt Nắng Nhạt của tác giả Nguyễn Khải.
Anh Meaulnes
Một trăm năm nay, người ta vẫn không ngừng hỏi và tự hỏi, Alain-Fournier đã làm như thế nào mà Anh Meaulnes cứ giữ mãi được sự huyền diệu vô song chưa từng bao giờ bị mai một, qua liên tiếp biết bao thế hệ độc giả. Rất có thể, sự tồn tại không vương xước xát của thời gian và ánh mắt con người ấy bắt nguồn từ một lòng quả cảm vô cùng hiếm hoi dám phiêu lưu tới những miền mong manh nhất của tâm tưởng và ký ức, để cho thực tại không ngừng chạm vào lãnh thổ của cái bí ẩn thuần khiết. Nhưng cũng cần thêm vào đó cảm hứng từ các thần tượng văn chương của Alain-Fournier, Maurice Maeterlinck và nhất là Charles Péguy. Dẫu là như thế nào, ra đời năm 1913, cùng tập thứ nhất À la recherche du temps perdu của Marcel Proust,Anh Meaulnesđánh dấu sự kết thúc của một thời đại lớn của nước Pháp và châu Âu; ngay sau đó, cuộc chiến tranh dữ dội sẽ làm tan biến biết bao con người ưu tú hạng nhất, trong đó trước hết phải kể tới chính Alain-Fournier. *** "Anh Meaulnes": tác phẩm văn chương huyền diệu chạm vào lãnh thổ của sự bí ẩn thuần khiết Một trăm năm, Anh Meaulnes vẫn là một tác phẩm văn chương huyền diệu vô song chưa từng bao giờ bị mai một, qua liên tiếp biết bao thế hệ độc giả Alain-Fournier là một trong những con người ưu tú của văn đàn nước Pháp. Ra đời vào khoảng những thập niên đầu của thế kỷ XX, tác phẩm đầu tay của Alain-Fournier đã trở thành kinh điển. Truyện không chỉ có ảnh hưởng mạnh tới những thế hệ nhà văn tây phương hiện đại mà còn làm rung cảm những tâm hồn trẻ tuổi sắp sửa vượt qua mốc quan trọng của tuổi hai mươi. Năm 1967 và 2006, Anh Meaulnes đã được chuyển thể thành phim. Kể về câu chuyện của những chàng trai trẻ tuổi trên hành trình khám phá cuộc đời, cuốn tiểu thuyết khai thác đề tài về sự chênh lệch và đối lập giữa sự vô hạn của ước mơ cùng sự hữu hạn của đời người. Xuyên suốt cả thiên truyện, Alain-Fournier đã khắc họa nỗi khắc khoải của con người trong cuộc đụng độ chênh lệch với định mệnh. Có thể nói trong thế giới văn chương, hiếm có tác phẩm nào giống như Anh Meaulnes. Dù không phải tự truyện nhưng trong đó người ta thấy rõ một sự đồng nhất gần như trọn vẹn giữa tác giả và những nhân vật chính, với những chi tiết hầu như hoàn toàn phản ánh cuộc đời ngắn ngủi của tác giả. Một trăm năm nay, người ta vẫn không ngừng hỏi và tự hỏi, Alain-Fournier đã làm như thế nào mà Anh Meaulnes cứ giữ mãi được sự huyền diệu vô song chưa từng bao giờ bị mai một, qua liên tiếp biết bao thế hệ độc giả. Rất có thể, sự tồn tại không vươngphôi pha của thời gian và ánh mắt con người ấy bắt nguồn từ một lòng quả cảm vô cùng hiếm hoi dám phiêu lưu tới những miền mong manh nhất của tâm tưởng và ký ức, để cho thực tại không ngừng chạm vào lãnh thổ của cái bí ẩn thuần khiết. Nhưng cũng cần thêm vào đó cảm hứng từ các thần tượng văn chương của Alain-Fournier, Maurice Maeterlinck và nhất là Charles Péguy. Dẫu là như thế nào, ra đời năm 1913, cùng tập thứ nhất Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust, Anh Meaulnes đánh dấu sự kết thúc của một thời đại lớn của nước Pháp và châu Âu; ngay sau đó, cuộc chiến tranh dữ dội sẽ làm tan biến biết bao con người ưu tú hạng nhất, trong đó trước hết phải kể tới chính Alain-Fournier. *** Alain-Fournier (1886 – 1914) lớn lên tại Sologne, nơi bố mẹ ông là giáo viên tiểu học.  Ông gặp Yvonne de Quièvrecourt, mối tình đầu, vào năm 1905. Chuyện tình này không đi đến hồi kết bởi ông chỉ gặp lại Yvonne vào tám năm sau, khi cô đã kết hôn và là mẹ của hai đứa trẻ. Lấy nguyên mẫu từ mối tình ấy, Anh Meaulnes được hoàn thành vào đầu năm 1913, trước tiên được in thành nhiều kỳ trên tạp chí La Nouvelle Revue Française, sau khi in thành sách tại nhà Émile-Paul Frères. Ngay khi chiến tranh nổ ra vào năm 1914, Alain-Fournier được điều động đến mặt trận Lorraine và cuối tháng Chín năm ấy, ông đã hy sinh trong một trận đánh tại rừng Saint-Rémy, khi ông chưa tròn hai mươi tám tuổi. *** Augustin Meaulnes, người hùng lớn hơn cả cuộc đời trong tác phẩm kinh điển Pháp quyến rũ năm 1913 của Alain-Fournier, là sự pha trộn tò mò giữa vị thành niên bị dày vò và hiệp sĩ sai lầm. Soubriquet "vĩ đại" luôn gắn liền với anh ta có lẽ là để chỉ kích thước của anh ta (lớn, cao) nhưng cũng là sức mạnh trong những giấc mơ của anh ta (hoành tráng, hoặc thậm chí vĩ đại). Như lời kể của con trai giáo viên mười lăm tuổi François Seurel, tác động của cậu bé mười bảy tuổi này đến nhập học tại trường của cha mình có phép thuật biến hình trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của Nick Carraway với Jay Gatsby, chỉ chuyển đến thế giới của những cô cậu học sinh ở tỉnh. Việc so sánh với The Great Gatsby chỉ là một trong nhiều hiểu biết tuyệt vời của Adam Gopnik, người đã viết lời giới thiệu cho bản dịch Penguin Classics xuất sắc này của Robin Buss (tôi cũng đã kiểm tra cuốn sách trong bản gốc). Văn bản bây giờ có vẻ hơi cũ, với các nhân vật có nhiều ý tưởng hơn là người thực, nhưng Gopnik đặt những ý tưởng đó trong bối cảnh văn học, lịch sử và Freud rõ ràng; ấn bản này gần như đáng mua cho riêng bài luận của anh ấy. Monsieur Seurel và các học sinh của ông dường như dành nhiều thời gian ở nông thôn như khi họ ở trong lớp học, và cuộc sống của vùng nông thôn đó chính xác là nằm ở vùng Cher của Pháp, không xa Bourges. Nhưng ở giữa nó, có một gia sản đã mất gần như là một giấc mơ, không bao giờ tìm lại được. Meaulnes đến đó một cách tình cờ vào một đêm, sau khi ngủ quên trên xe ngựa, và thấy mình đang chuẩn bị cho một đám cưới. Đó là một đoạn văn của phép thuật tuyệt đối: một nhà hát Watteauesque fête đông đúc bởi những đứa trẻ ăn mặc lộng lẫy và những nhân vật từ một nhà hát kịch. Anh gặp con gái của trang viên và yêu ngay lập tức. Nhưng đám cưới được gọi tắt và khách mời giải tán. Meaulnes dành nhiều năm tiếp theo để cố gắng tìm đường trở lại, cuối cùng theo chân Yvonne yêu xa của mình đến Paris. Giấc mơ thức dậy không khác gì thế giới hiệp sĩ bí ẩn trong tác phẩm Pelléas et Mélisande năm 1892 của Maurice Maeterinck, được nhìn thấy ở đây qua con mắt của tuổi thơ như một lời than thở cho sự kết thúc của tuổi thơ.   Mời các bạn đón đọc Anh Meaulnes của tác giả Alain-Fournier.