Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ai Làm Được

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Ai Làm Được của tác giả Hồ Biểu Chánh. Nguyễn Thanh Liêm   Văn học chữ Quốc Ngữ đã được thành hình ở Miền Nam ngay từ hạ bán thế kỷ XIX với Petrus Trương Vĩnh Ký và Paulus Huỳnh Tịnh Của. Nhờ công của hai ông, chữ Quốc Ngữ bành trướng nhanh chóng trong dân gian. Với sự bành trướng của chữ Quốc Ngữ và phương tiện in ấn mới, phong trào đọc tiểu thuyết càng ngày càng lan rộng. Tiểu thuyết trở thành món tiêu khiển rất ăn khách ở Miền Nam vào đầu thế kỷ XX. Các báo chí, các nhà in, và nhà xuất bản đều đói tác phẩm tiểu thuyết. Khởi đầu là những tiểu thuyết dịch, phần lớn là truyện Tàu, rồi đến những sáng tác của người Việt. Một trong những tiểu thuyết gia nổi tiếng trong thời kỳ mở đầu này là Hồ Biểu Chánh. So với các tiểu thuyết khác cùng thời thì tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh có tính cách mới mẻ hơn và hấp dẫn hơn.  Với tác phẩm đầu tiên, „U Tình Lục“, thành hình năm 1909 và xuất bản năm 1913, Hồ Biểu Chánh còn chịu ảnh hưởng truyện Nôm trong cách dùng thể văn lục bát trường thiên như Ðoạn Trường Tân Thanh hay Lục Vân Tiên. Tuy vậy mầm mới mẻ của tiểu thuyết của ông cũng đã khởi sắc qua bối cảnh (câu chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhất là ở quê hương Gò Công của ông ở Miền Nam), qua cách dàn dựng cốt truyện (plot) cũng như qua văn tự (dùng chữ Quốc Ngữ). U Tình Lục chỉ củ ở thể văn (thể lục bát trường thiên) và ở một số các từ ngữ và lối diễn tả trong một số câu thơ mà nghe qua ta thấy tương tự như truyện Kiều, như trong hai câu sau đây:                         „Cúc-Hương trở gót trướng hoa,                         Ruột gò chín khúc, lụy sa đôi hàng.“       Nhưng đến tác phẩm „Ai Làm Ðược“, ra đời liền sau U Tình Lục, thì Hồ Biểu Chánh đã là một tiểu thuyết gia loại mới hẳn.  Ai Làm Ðược  là quyển tiểu thuyết đầu tiên viết theo thể văn xuôi bằng chữ Quốc Ngữ. Bản thảo đã thành hình hồi năm 1912 lúc Hồ Biểu Chánh còn làm ký lục ở Cà Mau, nhưng phải đến năm 1922 tác phẩm tiểu thuyết đầu tay này mới chính thức ra đời sau khi đã được ông nhuận sắc. Ai Làm Ðược là tiểu thuyết viết theo kỷ thuật mới, nghĩa là viết theo cách viết tiểu thuyết của Pháp, chớ không viết theo kiểu truyện Tàu (chương hồi tiểu thuyết), hay kiểu truyện Nôm của các nhà nho Việt Nam xưa (viết theo thể lục bát trường thiên) như Nguyễn Du hay Nguyễn Ðình Chiểu. Hồ Biểu Chánh thành công ngay với tác phẩm đầu tiên theo loại mới này. Liền sau Ai Làm Ðược là một loạt 15 quyển tiểu thuyết khác của ông được xuất bản trong những năm kế tiếp trong thập niên1922-29. Ðiều này cho thấy độc giả rất ưa thích loại tiểu thuyết mới này của ông. So với truyện Tàu còn rất ăn khách trong thời gian này thì Ai Làm Ðược tỏ ra mới lạ và hấp dẫn hơn nhiều. Trước hết là mới trong bối cảnh của câu chuyện. Ðây là câu chuyện xảy ra ở Miền Nam Việt Nam, ở ngay tại Cà Mau, chớ không phải ở một nơi xa xôi nào bên Trung Quốc. Và chuyện xảy ra ngay trong thời gian gần đây chớ không phải chuyện xảy ra hồi xửa hồi xưa nào, với những nhân vật là người Việt Nam, và những sinh hoạt quen thuộc trong xã hội Miền Nam (Nam Kỳ Lục Tỉnh) vào khoảng thập niên cuối cùng của thế kỷ XIX. So với truyện Tàu dịch ra tiếng Việt, và với các truyện Nôm xưa, bối cảnh của Ai Làm Ðược hoàn toàn mới mẻ với tính cách phong tục (hay môi trường văn hóa/xã hội) của nó. Và đó là điểm hấp dẫn đầu tiên của quyển tiểu thuyết mới này.  Kế đó và quan trọng hơn nữa là cách dàn dựng cốt chuyện của Hồ Biểu Chánh. Phần đông truyện Tàu đều theo mẫu dựng mấu chốt chung của câu chuyện tựa trên những thử thách (challenges) bên ngoài để cho người anh hùng (nhân vật chánh) phải đương đầu và vượt qua những thử thách đó. Thử thách càng nhiều, càng lớn thì sự chiến thắng của người hùng càng vẻ vang và câu chuyện càng lôi cuốn hấp dẫn. Kết thúc câu chuyện là sự chiến thắng của người anh hùng, của người quân tử, của lẽ phải và luân lý đạo đức, với sự thỏa mãn của đọc giả. Loại chuyện tạo xúc động tựa trên những thử thách bên ngoài đó (loại melodrama) có cái hay của nó nhưng chưa nói hết được tấn kịch sâu sắc của con người trong loại drama. Ở đây không những có thử thách bên ngoài mà còn có xung đột giữa những tính tình khác nhau của các nhân vật và những mâu thuẫn bên trong tâm lý của các nhân vật chính. Từ những xung đột, những mâu thuẫn đó câu chuyện thường ẩn chứa nhiều ngang trái, éo le, gây nhiều xúc động trong lòng độc giả. Cũng từ những xung đột, mâu thuẫn ngang trái, éo le đó mà câu chuyện xảy ra, và diễn tiến một cách hợp tình, hợp lý, đưa dần đến đỉnh cao nhất (climax) của câu chuyện để kết thúc. Mấu chốt của câu chuyện trong Ai Làm Ðược là những xung đột, mâu thuẫn đó, những xung đột, mâu thuẫn dẫn đến những éo le ngang trái trong đời. Xung đột giữa mẹ ghẻ độc ác và con chồng cương quyết trả thù cho mẹ ruột. Mâu thuẫn trong bổn phận làm con đối với cha và bổn phận trả thù cho mẹ. Xung đột giữa luân lý về danh dự, tiết hạnh và về chữ hiếu, v.v. . . Qua những mâu thuẫn, xung đột trong tâm lý nhân vật, Hồ Biểu Chánh đã khéo léo kích thích và gây nhiều cảm xúc mạnh trong lòng người đọc khiến họ bị lôi cuốn vào câu chuyện từ đầu đến cuối. Câu chuyện diễn tiến như sau: Có một phú ông tên Bạch Khiếu Nhàn, nhà ở gần chợ Cà Mau, góa vợ, sống một mình trong ngôi nhà to lớn với mấy người gia nhân. Ông có một người con gái độc nhất đã gả cho ông Tri Phủ Lê Xuân Thới ở tại đó. Nhưng con gái ông không may đã lìa đời sau khi sinh được một cô con gái đặt tên là Bạch Tuyết. Ông Tri Phủ thì đã có thêm một người vợ lẽ là bà Nguyễn Thị Phường con của ông hương thân ở Ðầm Dơi trước khi mẹ Bạch Tuyết chết. Bạch Tuyết sống với cha là ông Tri Phủ và bà mẹ ghẻ bây giờ đã chính thức trở thành bà Tri Phủ sau cái chết của mẹ cô. Bà này có nhan sắc, lanh lẹ, ở với ông Tri Phủ có một đứa con trai tên là Lê Xuân Sắc. Bạch Tuyết thường hay qua lại nhà ông Bạch Khiếu Nhàn để thăm viếng ông ngoại.  Câu chuyện bắt đầu vào một buổi chiều năm 1894 khi ông Nhàn vào quán cơm chú Lỳ ở chợ Cà Mau. Ở đây ông có dịp gặp một thanh niên, người ở Vĩnh Long, mồ côi cha mẹ, tên Phan Chí Ðại, người thông minh, có chút học vấn, nhưng nghèo khổ đang muốn tìm việc làm ở Cà Mau. Mến tài Chí Ðại và cũng thương cho tình cảnh của người thanh niên này, ông Nhàn đem Chí Ðại về ở nhà mình và xin cho Chí Ðại một chân thơ ký trong văn phòng ông con rể là quan Tri Phủ. Chí Ðại rất có tư cách, làm việc mẩn cán, được mọi người thương mến, kính nể. Ban ngày Chí Ðại đi làm bên phủ, buổi tối thì về ở nhà Bạch Khiếu Nhàn. Chí Ðại xem ông Nhàn như sư phụ của mình, còn ông Nhàn thì thương mến Chí Ðại như cháu ruột của ông. Bạch Khiếu Nhàn là người gốc ở Thừa Thiên. Từ ngày con gái chết ông buồn rầu không đi về Trung thăm mồ mả ông bà. Bây giờ có Chí Ðại ông muốn nhờ Chí Ðại trông coi nhà cửa để ông đi về nguyên quán chơi chừng vài tháng. Nhưng ông Tri Phủ Lê Xuân Thới thì đề nghị nên để Chí Ðại qua ở bên phủ trong thời gian ông Nhàn đi chơi, để tiện dạy thêm cho con trai ông chớ để Chí Ðại ở một mình bên đó thì buồn chết chịu gì nổi. Ông Nhàn chìu ý ông Tri Phủ và từ đó Chí Ðại sang ở luôn bên phủ. Chí Ðại thường thấy Bạch Tuyết nhưng không hề dám nhìn hay đến gần nói chuyện.  Bà Phủ là người tham lam, độc ác nhưng bề ngoài rất khôn khéo với chồng và con ghẻ. Bà luôn khéo léo chìu chuộng, phục vụ cho ông chồng ghiền thuốc phiện, và lúc nào cũng tỏ vẻ thương yêu lo lắng cho cô con gái con riêng của chồng. Bà thấy ngày nào ông Nhàn, ông ngoại Bạch Tuyết, chết đi thì gia tài đồ sộ của ông sẽ thuộc về Bạch Tuyết. Bà thèm muốn gia tài đồ sộ đó nên muốn xui chồng gả Bạch Tuyết cho cháu ruột của bà. Bà nhỏ nhẹ, thiệt hơn với chồng, khuyên chồng sớm làm theo ý muốn đó của bà. Bà muốn đặt ông Nhàn trước một sự đã rồi để khi trở về dù ông Nhàn có không bằng lòng đi nữa thì cũng không còn làm gì được. Ông Phủ nghe lời vợ, cho Bạch Tuyết biết là ông đã quyết định gả Bạch Tuyết cho anh Ðồ, cháu ruột của bà Phủ. (Câu chuyện trở nên gay cấn bắt đầu từ đây).  Bạch Tuyết mạnh dạn phản đối quyết định của cha, không chịu về làm vợ anh Ðồ, cô cũng nói rõ là cô chê chỗ đó. Thật ra thì Bạch Tuyết từ chối vì một lý do quan trọng hơn là chê chỗ đó nhưng mà cô không thể nói ra lý do đó được. Cô thầm biết âm mưu sang đoạt gia tài của người kế mẫu. Cô cũng biết là trước đây mẹ cô chết không phải vì bệnh mà là vì bị bà kế mẫu tráo thuốc độc giết chết. Việc ác độc này cha cô không hề hay biết gì cả. Cha cô lại rất thương yêu, rất nghe lời bà kế mẫu độc ác này. Cô ôm mối hận thù trong thâm tâm và quyết chí chờ cơ hội trả thù cho mẹ ruột. Ðó là lý do thầm kín quan trọng khiến cô cương quyết từ chối cuộc hôn nhân. Thấy việc ép gả Bạch Tuyết chưa có kết quả tốt, bà phủ xoay qua cách khác. Bà nói với chồng là vì Bạch Tuyết đã có tư tình với người nào rồi nên mới từ chối cuộc hôn nhân do cha định đoạt. Bà tạo cơ hội để cho Bạch Tuyết phải có dịp đem thuốc cho Chí Ðại uống, và nói chuyện với Chí Ðại trước mắt đám gia nhân. Từ đó có tiếng xì xầm về việc Bạch Tuyết lo thuốc men cho Chí Ðại và hai người trò chuyện riêng với nhau. Chắc là họ có tư tình gì với nhau rồi. Từ tin đồn đó bà xui chồng đuổi Chí Ðại đi. Ông phủ lúc nào cũng thấy bà có lý, luôn nghe lời bà. Chí Ðại bị đuổi không một lời giải thích. Bị đuổi vô cớ, Chí Ðại sợ ở lại Cà Mau sẽ còn nhiều chuyện không hay nên biên thơ cám ơn Bạch Khiếu Nhàn và đi về Sài Gòn tìm việc làm. Chí Ðại đi là bà Phủ đã thành công một bước trong mưu tính của bà. Bà phải làm sao cho ông Phủ thấy là con gái mình đã bị hư và muốn che dấu sự hư hỏng đó để người ngoài đừng biết thì chỉ có cách là phải gả nó cho cháu bà càng sớm càng tốt. Chí Ðại đi rồi thì việc cho rằng Bạch Tuyết đã hư hỏng với anh chàng này càng được dễ dàng dựng nên. Ông Phủ liền nghe theo bà Phủ, chỉ thị thuộc hạ gắp rút chuẩn bị làm đám cưới cho Bạch Tuyết.  Bạch Tuyết cương quyết từ chối thì bị ông Phủ đánh cho một trận đòn đích đáng về tội hư hỏng. Bạch Tuyết không cách gì minh oan dược. Nhờ bà mẹ ghẻ can thiệp, xin cho cô, ông Phủ mới không đánh nữa. Bạch Tuyết chẳng những không mang ơn bà mẹ ghẻ mà còn căm hận nhiều hơn. Bạch Tuyết khổ sở quá mà không biết làm sao, không còn biết cầu cứu với ai được. Cô định tự tử, nhưng nghĩ lại nếu chết rồi thì còn ai để lo trả thù cho mẹ. Cô nghĩ đến việc thà trốn đi theo trai, thà mang tiếng xấu mà còn có thể trả thù được chớ ở lại đây thì chắc sẽ chết vào tay bà mẹ ghẻ mà thù nhà không trả được. Nhân một hôm ông bà Phủ đi xa, cô lén trốn nhà ra đi. Trước khi đi cô có qua nhà ông ngoại định viết thơ để lại nhưng chỉ mới viết có mấy chữ ông ngoại rồi bỏ dở. Nhưng cô đã có cơ hội đọc thơ Chí Ðại để lại cho Bạch Khiếu Nhàn. Qua thơ này cô biết Chí Ðại đi về đâu, và do đó cô quyết lòng đi theo Chí Ðại. Bạch Tuyết tìm gặp được Chí Ðại ở Sài Gòn. Cô kể rõ tình cảnh đớn đau, nguy hiểm, cô đơn, bơ vơ của cô cho Chí Ðại nghe, cô nói cho Chí Ðại biết tâm sự thầm kín của cô trong vấn đề trả thù cho mẹ, cô mong ước được sự giúp đỡ của Chí Ðại. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo này cô chỉ còn biết trông cậy vào Chí Ðại mà thôi, và cô mong được sống chung với Chí Ðại. Thương cho thân phận của Bạch Tuyết lại đã từng mang ơn Bạch Khiếu Nhàn, tất nhiên Chí Ðại phải hết lòng lo cho Bạch Tuyết nhưng để cho Bạch Tuyết đi theo ở chung với mình thì thật là khó coi nếu không nói là tội lỗi. Chí Ðại phân tích lợi hại, tốt xấu cho Bạch Tuyết nghe và khuyên nàng nên trở về Cà Mau để bảo toàn danh tiết. Nhưng Bạch Tuyết quả quyết thà tự tử chết chớ không thể về Cà Mau được. Cuối cùng Chí Ðại đành phải để Bạch Tuyết theo, sống chung với mình. Hai người sống với nhau và trở thành vợ chồng dù không chánh thức cưới hỏi. Nhưng cuộc sống của hai người vô cùng khổ cực. Chí Ðại không tìm được việc làm vững chắc, vợ chồng thiếu trước hụt sau, nợ nần không trả nổi. Bạch Tuyết có thai, sinh con, nhưng con đau và chết đi vì không tiền thuốc thang chạy chửa. Hoàn cảnh của họ thật vô cùng bi đát. Sau gần bốn tháng đi chơi ở Huế, Bạch Khiếu Nhàn trở về Cà Mau mới hay việc Chí Ðại bị đuổi và Bạch Tuyết đã trốn đi rồi. Ông đọc thơ Chí Ðại và Bạch Tuyết và nghĩ có thể Bạch Tuyết đã theo Chí Ðại lên Sài Gòn thành ra ông vội vã đi ngay lên Sài Gòn tìm cháu. Sau một thời gian khó nhọc tìm kiếm ông đã đến được chỗ ở đậu tồi tàn của hai người. Ông cho tiền trả nợ, mua sắm áo quần, giúp hai người làm hôn thú, rồi đưa hai người về Cà Mau. Ông hùn vốn với một người khách trú mua tàu lớn sang Ấn Ðộ Dương vớt ngọc điệp đem về bán ở bên Trung Quốc. Ông cho Chí Ðại theo tàu điều hành công việc để Chí Ðại có cơ hội gầy dựng sự nghiệp. Còn Bạch Tuyết thì ở nhà với ông. Nhưng bà Phủ đâu có để yên, bà lại xúi ông Phủ sang xin cho Bạch Tuyết về ở với ông bà. Trước lời cầu xin tuy hợp tình hợp lý của ông Phủ, ông Nhàn vẫn chưa chấp thuận. Nhưng Bạch Tuyết lại sợ rồi đây thế nào bà kế mẫu độc ác kia cũng tìm mọi cách ám hại nàng cho nên nàng phải một lần nữa trốn lên Sài Gòn để xa lánh bà mẹ ghẻ độc ác này.  Lần này thì Bạch Tuyết phải sống một mình ở Sài Gòn, nhưng cũng may là cô có mang theo được chút ít tiền và cô đã biết rành cuộc sống ở đây. Lần này cô cũng có cơ hội quen biết và giúp đỡ cho hai người bạn mà sau này họ sẽ trở thành đôi vợ chồng. Họ là những người bạn rất thân của cô, hết lòng giúp đỡ cô trong cơn hoạn nạn về sau. Một người là Băng Tâm, một cô gái quê ở Vĩnh Long, nghèo khổ, bơ vơ lần đầu đến Sài Gòn, và một người là Lý Trường Khanh, nhà giàu có, và là chỗ quen biết với chồng cô từ trước. Cuộc sống của Bạch Tuyết ở Sài Gòn lần này tuy có đỡ hơn lần trước nhưng cũng vẫn rất khổ cực. Cô lại bị đau yếu phải nhờ đến sự chăm sóc tận tụy của Băng Tâm và Trường Khanh. Bà Phủ thì không bao giờ chịu để cho Bạch Tuyết yên thân. Cái gia tài đồ sộ của ông Nhàn lúc nào cũng ám ảnh bà. Không cưới được Bạch Tuyết cho cháu bà thì phải làm sao giết được Bạch Tuyết để may ra ông Phủ và con trai bà còn được hưởng phần nào cái gia tài đồ sộ đó. Bà đích thân lên Sài Gòn tìm gặp Bạch Tuyết, dùng lời ngon ngọt dụ Bạch Tuyết về Cà Mau sống với ông bà. Bạch Tuyết nhất định không chịu. Bà Phủ lật đật về Cà Mau xúi ông Phủ lên Sài Gòn bắt Bạch Tuyết về. Biết thế nguy, Bạch Tuyết nhờ Trường Khanh tìm chỗ ở khác để trốn lánh. Nhưng Trường Khanh chưa tìm được chỗ thì ông Phủ đã lên tới. Lúc này Bạch Tuyết đau nhiều. Ông Phủ thuê ghe đưa Bạch Tuyết về Cà Mau với ông. Bạch Tuyết không trốn tránh nữa được, đành phải để cho ông Phủ bắt về thôi. Sợ Bạch Tuyết bị hại nên Băng Tâm nài nỉ xin được theo bên cạnh để săn sóc cho Bạch Tuyết. Bà Phủ không thích nhưng cũng không làm sao ngăn cản được. Khi Bạch Tuyết và Băng Tâm theo ông bà Phủ đi rồi thì Trường Khanh cũng hối hả xuống Cà Mau tìm gặp ông Nhàn để thông báo mọi việc. Ông Nhàn và Trường Khanh hết sức lo lắng cho số phận của Bạch Tuyết. Trường Khanh nghĩ kế đem Bạch Tuyết ra khỏi nhà ông bà Phủ, nhưng mưu kế bị bại lộ. Bà Phủ biết được bèn tương kế tựu kế cho gia nhân bao vây bắt Trường Khanh và Băng Tâm, vu cáo cho hai người thông đồng ăn trộm đồ nhà bà, kêu ông Phủ phải làm tờ trình gắp rút giải họ lên tòa để Bạch Khiếu Nhàn không kịp can thiệp, giúp đỡ. Giải quyết được Băng Tâm và Trường Khanh, bà Phủ bây giờ đã có đủ điều kiện và cơ hội để giết Bạch Tuyết. Bà tráo thuốc độc cho Bạch Tuyết uống cũng như bà đã làm trước đây cho mẹ ruột Bạch Tuyết. Biết thuốc của bà Phủ bưng vào là thuốc độc nên Bạch Tuyết không chịu uống. Bà Phủ bèn đóng chặt cửa phòng, đè Bạch Tuyết xuống, định đổ thuốc vào miệng. Bạch Tuyết chống cự mãnh liệt nhưng vì đau yếu lâu ngày thành ra không chống nổi sức mạnh của bà Phủ. Nhưng vừa lúc bà Phủ đè được Bạch Tuyết để sắp sửa đổ thuốc vào thì có người tông mạnh cửa phòng, nhào tới kéo bà Phủ ra, giải thoát cho Bạch Tuyết. Người đó là Chí Ðại, vừa về kịp đúng lúc để cứu Bạch Tuyết. Chí Ðại không quên giữ kỷ chén thuốc độc để làm tang chứng tố cáo bà Phủ.  Chí Ðại lên tòa giải oan cho Trường Khanh và Băng Tâm, và nhờ trạng sư đầu đơn tố cáo bà Phủ. Bà Phủ bị tòa tuyên án 8 năm cấm cố về tội giết người. Tri Phủ Trần Xuân Thới thì bị bắt phải về hưu sớm. Ông hết sức ăn năn. Chí Ðại đã thành công lớn lao trong chuyến đi vớt ngọc điệp ở Ấn Ðộ dương. Bạch Khiếu Nhàn vô cùng mừng rỡ. Trường Khanh và Băng Tâm làm lễ thành hôn ở đây với sự giúp đỡ của ông Nhàn. Chí Ðại và Bạch Tuyết vui mừng sum họp, nhưng niềm vui chưa trọn thì Chí Ðại bỗng thấy bức thơ tuyệt mạng của vợ viết cho mình mà chưa ký tên. Ðọc thơ xong Chí Ðại sợ quá nhưng may mà Bạch Tuyết chưa kịp tự tử. Chí Ðại phải hết lời khuyên giải, cắt nghĩa thiệt hơn, Bạch Tuyết mới bỏ ý định đó. Câu chuyện kết thúc ở đây với cảnh mọi người vui vẻ sống hạnh phúc bên nhau.    Ngoài sự hấp dẫn của câu chuyện, tâm lý các nhân vật cũng được khéo léo xây dựng để góp phần quan trọng vào tính logic của câu chuyện. Bà Phủ đẹp đẽ, lanh lợi, rất khéo léo bên ngoài nhưng bên trong vô cùng thâm độc, lúc nào cũng mưu tính giết người, đoạt của. Bên ngoài bà là người vợ hiền thục, hết sức lo lắng, chìu chồng, là người mẹ ghẻ tốt lúc nào cũng để ý lo lắng cho con riêng của chồng, nhưng bên trong bà là người hết sức tham lam và vô cùng ác độc, có thể mưu tính làm bất cứ cái gì, kể cả giết người, để đoạt lấy sự sản gia tài của người khác. Ông Phủ thì hiền từ nhưng lôi thôi, chỉ biết hưởng thụ (hút thuốc phiện), lúc nào cũng nghe lời bà Phủ, không hề biết những mưu toan và hành động gớm ghê của vợ. Vì chỉ biết nghe theo bà Phủ nên ông không biết được những đớn đau, khổ sở của con gái, ông không thấy và cũng không ngờ được sự nguy hiểm đến tính mệnh của Bạch Tuyết trước mưu toan hiểm độc của bà Phủ. Lại là người có học, biết trọng đạo lý Nho giáo nên ông phải nghe lời vợ mạnh dạn trừng trị đứa con gái bất hiếu, không nghe lời cha dạy lại mang tiếng hư hỏng, tư tình với trai.  Bạch Khiếu Nhàn là người giàu có, rất thương con cháu, nhất là thương Bạch Tuyết và sau này thêm Chí Ðại. Ông cũng biết con gái ông bị bà Phủ thuốc chết nhưng ông không nuôi ý định trả thù mà lại muốn tha thứ hết. Khi Bạch Tuyết bày tỏ với ông ý muốn trả thù cho mẹ ruột của cô thì ông cũng khuyên nên tha thứ chớ không tích cực giúp Bạch Tuyết trong vấn đề này. Ông rất thương yêu cháu ngoại và cũng rất thương Chí Ðại. Thấy Chí Ðại có học, có tài, có đức, nhưng không gặp thời ông đem về ở nhà, giúp Chí Ðại tìm việc, và có ý thầm muốn gả Bạch Tuyết cho Chí Ðại nhưng chưa tiện nói ra. Khi gặp được Chí Ðại và Bạch Tuyết ở Sài Gòn, ông không hề có một lời trách móc hay phê phán gì về hành động của hai người. Ông lại vui vẻ, hết lòng giúp đỡ hai người. Sợ Chí Ðại có mặc cảm nghèo khó trước cô vợ giàu ông tìm cách giúp Chí Ðại lập nên sự nghiệp. Chỉ tiếc là ông quá nhân từ và không có đủ thủ đoạn để giúp cháu ngoại đương đầu với mẹ ghẻ độc ác, tội lỗi. Bạch Tuyết, nhân vật chính của truyện, là một thiếu nữ thông minh, khá trí thức, biết lễ nghi, đạo lý, có ý thức và rất có ý chí. Biết mẹ bị dì ghẻ giết, cô âm thầm mang mối thù trong tâm, quyết chí tìm cơ hội trả thù. Cô không độc ác, không đủ bản lĩnh làm chuyện hung dữ, không dự tính hại bà Phủ bằng những hành vi ám muội. Cô chỉ mong có cơ hội đưa vấn đề ra trước pháp luật để luật pháp trừng trị tội phạm một cách công minh. Nhưng điều kiện sinh sống của cô không cho phép cô làm theo như cô muốn. Ngược lại cô bị đặt trong hoàn cảnh thật éo le ngang trái. Cô bị bắt buộc phải sống dưới bàn tay vô cùng độc ác của bà Phủ. Là người sẽ có gia tài đồ sộ, cô là miếng mồi ngon của bà mẹ ghẻ tham lam. Hằng ngày sống bên cạnh bà Phủ chẳng khác nào sống dưới tay tử thần. Ai có thể bảo vệ được cho cô? Người thứ nhất là ông ngoại cô. Ông rất thương cô nhưng ông không ở cạnh bên, không có quyền gì đối với ông bà Phủ, lại quá nhân từ, không có đủ thủ đoạn để đối phó, đương đầu với một người khôn lanh độc ác như bà Phủ. Người thứ nhì là cha cô. Cha cô chắc cũng thương cô nhưng lại rất nghe lời bà Phủ. Ở gần bên nhưng thật sự rất cách xa. Ông cha này không hề hiểu biết gì về cô thành ra vô tình ông trở thành đồng lõa với bà Phủ trong kế hoạch hãm hại cô. Tệ hơn nữa vì quá nhu nhược trước bà Phủ, ông bị bà biến thành một công cụ trong mọi dự tính thực hiện ý định độc ác của bà. Vô cùng cô đơn trước những hiểm nguy, Bạch Tuyết phải vớ vào cái phao cuối cùng là Chí Ðại. Theo trai là hư hỏng, là mất danh tiết, nhưng đó là con đường sống sót còn lại cho người thiếu nữ này. Theo trai để không chết, để còn có thể có cơ hội trả thù cho mẹ. Nàng là đứa con có hiếu, nhưng không phải vì thế mà dễ dàng để cho cha mẹ sai khiến lẽ nào cũng được. Ðặt trong cảnh ngặt nghèo nàng dám liều. Nàng chống lại quyết định của cha. Nàng quyết định trốn ra khỏi nhà. Nàng liều lĩnh ra đi, phiêu lưu chẳng kể, miễn sao tránh được bàn tay ác độc của bà mẹ ghẻ. Khi gặp Chí Ðại nàng liều lĩnh bày tỏ ý muốn sống với Chí Ðại một cách không mấy ngại ngùng. Thật ra Bạch Tuyết không mù quáng, điên rồ khi quyết định theo sống với Chí Ðại. Nàng cũng không phải chỉ có ý định dùng Chí Ðại như một công cụ hay một phương tiện để trả thù nhà. Trong thâm tâm, Bạch Tuyết rất kính nể mến yêu Chí Ðại. Có thể là cô thầm yêu Chí Ðại.  Khi trở thành vợ Chí Ðại nàng là người hết sức lo lắng thương yêu chồng. Con người liều lĩnh này vẫn trọng danh tiết cho nên mới có cái màn viết thơ tuyệt mạng để lại cho chồng trong phần kết thúc. Cô định tự tử để chứng tỏ rằng cô là người trọng danh dự, muốn bảo toàn danh tiết chớ không phải là người theo trai hư hỏng. Sở dĩ cô phải theo Chí Ðại là vì mối thù phải trả mà thôi. Bây giờ thù đã trả xong cô muốn tự tử chết đi để chứng tỏ lòng trọng danh tiết của cô. Chí Ðại rất xứng đáng là người yêu, là người chồng lý tưởng của Bạch Tuyết. Có học thức, rất đạo đức, có khả năng, làm việc tận tụy, rất trung thành, ngay thẳng, Chí Ðại là một chàng trai lý tưởng trong xã hội bấy giờ. Nghèo nhưng không bao giờ ham muốn nhận tiền của của người khác, dù đó là của vợ hay của bên vợ. Gặp cơn túng thiếu thì làm bất cứ việc gì dù là những nghề tay chân cực khổ bị người ta coi thường hay khinh khi, miễn có chút tiền nuôi vợ con. Chí Ðại rất xứng đáng với tình thương của Bạch Khiếu Nhàn, và càng xứng đáng hơn nữa với tình yêu và sự trao thân gởi phận của Bạch Tuyết. Phần đông người ta đọc tiểu thuyết là để được thích thú với câu chuyện, để quên cuộc sống thực tế mệt nhọc của mình trong phút chốc. Ðọc tiểu thuyết là để tiêu khiển, để „mua vui một vài trống canh“ như một nhà văn xưa đã nói. Thành ra tiểu thuyết phải có câu chuyện, và câu chuyện càng gay cấn, càng có nhiều động tác (actions) thì tiểu thuyết càng hấp dẫn đối với phần đông đọc giả. Câu chuyện phải có phần tưởng tượng ly kỳ nhưng cái ly kỳ tưởng tượng đó đừng quá xa cuộc sống thực tế. Câu chuyện phải có những bất ngờ mà người đọc không quá dễ dàng đoán trước sự việc, nhưng những bất ngờ đó đừng trái ngược tính hợp tình, hợp lý hay logic ở đời. Và câu chuyện phải sít sao với tâm lý các nhân vật, những động tác không trái ngược với tâm lý nhân vật. Phần đông độc giả đều có ý hướng đạo đức, phần đông đều mong đến một kết thúc có hậu, ơn đền oán trả, thiện thắng ác, người ngay/người tốt được thưởng, kẻ ác/kẻ gian phải bị trừng trị. Cái ý hướng luân lý đó thiếu thì đa số đọc giả sẽ rất phiền, sẽ ngại đọc những tác phẩm khác nữa của tác giả, nhưng nếu luân lý đó được đặt lên hàng đầu để buộc câu chuyện phải uốn nắn theo, thì câu chuyện sẽ trở nên nhàm chán, không còn đủ lôi cuốn, hấp dẫn. Câu văn cầu kỳ, khó hiểu cũng không mấy hấp dẫn đối với đa số độc giả, nên giản dị, nên nói cái ngôn ngữ của người đọc để cho họ dễ đọc. Ðó là những điều kiện để tiểu thuyết được nhiều người ưa thích. Ai Làm Ðược và nhiều tiểu thuyết khác của Hồ Biểu Chánh có đủ những điều kiện đó, ông đã đáp ứng đúng nhu cầu đọc tiểu thuyết để tiêu khiển của đa số độc giả Miền Nam trong các thập niên 1920- 1940 của thế kỷ XX.   ***   Tóm tắt Câu chuyện kể về cuộc đời của Bạch Tuyết và Chí Đại, hai nhân vật chính trong tiểu thuyết "Ai Làm Được" của Hồ Biểu Chánh. Bạch Tuyết là con gái của ông Tri Phủ Lê Xuân Thới và bà vợ cả, nhưng sau khi mẹ cô mất, bà Phủ, vợ lẽ, đã giết mẹ cô để chiếm đoạt gia tài. Bạch Tuyết ôm mối hận thù, quyết tâm trả thù cho mẹ. Chí Đại là một thanh niên nghèo, mồ côi cha mẹ, được ông Tri Phủ nhận về làm thơ ký. Chí Đại và Bạch Tuyết gặp nhau và yêu nhau, nhưng bà Phủ tìm cách chia rẽ hai người. Bà vu oan cho Bạch Tuyết hư hỏng và ép ông Tri Phủ đuổi Chí Đại đi. Bạch Tuyết đau khổ, bỏ nhà theo Chí Đại. Hai người sống với nhau ở Sài Gòn, nhưng cuộc sống rất khó khăn. Bà Phủ tiếp tục tìm cách hãm hại Bạch Tuyết. Bà dụ Bạch Tuyết về Cà Mau, rồi cho thuốc độc giết cô. Chí Đại kịp thời ngăn cản, cứu sống Bạch Tuyết. Cuối cùng, bà Phủ bị bắt vì tội giết người. Chí Đại và Bạch Tuyết đoàn tụ, sống hạnh phúc bên nhau. Review Tiểu thuyết "Ai Làm Được" được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, trong đó có thể kể đến: Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Ai Làm Được" được xây dựng chặt chẽ, hợp lý, có nhiều tình tiết bất ngờ, gây cấn, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Ai Làm Được" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Bà Phủ là nhân vật phản diện điển hình, với những thủ đoạn độc ác, mưu mô. Ông Tri Phủ là một người hiền lành, nhưng nhu nhược, dễ bị bà Phủ lừa gạt. Bạch Tuyết là một cô gái xinh đẹp, có cá tính mạnh mẽ, quyết tâm trả thù cho mẹ. Chí Đại là một chàng trai hào hoa, phong nhã, có tình yêu thủy chung, son sắt. Tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Ai Làm Được" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm lên án những thế lực tàn ác, độc ác, đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự kiên cường, ý chí trả thù. Kết luận Tiểu thuyết "Ai Làm Được" là một tác phẩm văn học có giá trị, góp phần làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Mời các bạn mượn đọc sách Ai Làm Được của tác giả Hồ Biểu Chánh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Quả Phụ Thứ Chín
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Người Quả Phụ Thứ Chín của tác giả Nghiêm Ca Linh (Nghiêm Ca Cầm). Từ thập kỳ bốn mươi đến thập kỷ tám mươi lưu truyền một câu truyện truyền kỳ có thật ở nông thôn trung nguyên. Một giai đoạn lịch sử thống khổ phức tạp rối loạn, một cuộc thử thách khắc nghiệt về nhân tính và luân lý làm người. Mọi người đa phần đều buộc phải lột xác biến đổi nhiều lần để được sống vật vờ, nhưng nữ nhân vật chính Bồ Đào một cô gái thật thà, chất phát ngu muội lại luôn tuân thủ những chuẩn mực giản dị của mình, bố chồng cô bị quy nhầm thành phần là địa chủ ác bá phải trốn dưới hầm chứa khoai lang mười mấy năm. Vương Bồ Đào là một hình tượng nghệ thuật độc đáo mà Nghiêm Ca Cầm cống hiến cho nền văn học đương đại Trung Quốc. Lòng nhân ái bao la và tính đôn hậu bao dung tất cả của cô đã vượt lên mọi sự tranh giành lợi hại của con người trên thế gian. Bắt đầu từ việc Bồ Đào với thân phận là con dâu nuôi từ nhỏ giữ trọn đạo hiếu bảo vệ che chở cho bố chồng, từ sự khác nhau trong quan hệ vụng trộm với những người đàn ông của Bồ Đào với thân phận là một goá phụ có ham muốn tình dục mãnh liệt, tình tiết của cuốn tiểu thuyết đã viết lên khía cạnh rực rỡ sáng ngời của nhân tính, thể hiện nguyên bản và năng lượng đích thực của nhân gian đất trời. Thế giới nhân gian trong cuốn tiểu thuyết là một thế giới hoàn chỉnh, đặc tính ngầm chứa cất giấu những điều bẩn thỉu xấu xa của nó được thể hiện qua tâm lý văn hoá tà ác tràn ngập nhân gian, ví như thói ghen ghét đố kị, sự lạnh lùng, thù hận, điên cuồng, nhưng dưới sự giày vò vô tận không ngừng của quyền lực chính trị, tất cả mọi tạp chất đều bị sàng lọc hết, nhân gian bị phan lật giày vò đem lại kết quả là mặt thuần tuý tự thân hàm chứa được giữ lại và bừng sáng. Nghĩa cử của bố chồng của Bồ Đào xuất phát từ tiền đề bố chồng Tôn nhị đại là một người trong sạch, ông túc trí đa mưu, khoan dung, đại lượng. đầy ắp trí tuệ về cuộc sống thường nhật, coi vạn vật tự nhiên như đồng loại, lãnh đạm đối với mọi vinh nhục thăng trầm của lịch sử. Trong những năm tháng dài đằng đãng ấy, ông cùng con dâu liên kết đồng mưu tiến hành một cuộc chơi, cùng đọ sức với sự tàn khốc của lịch sử. Cuối cùng sinh mệnh của kẻ nào dài hơn? Tình tiết phát triển đến sau cùng, cư dân của cả thôn đều bị cuốn vào cuộc chơi, mọi người dường như đồng lòng che chở bảo vệ cho sự tồn tại của cụ già, họ tham gia vào cuộc đọ sức lớn này với cả sức mạnh tập thể của nhân gian. *** Nghiêm Ca Cầm chọn khoảng thời gian và không gian đặc biệt cho Người quả phụ thứ 9: Thời cải cách ruộng đất ở Trung Quốc tại một làng nhỏ. Chọn góc nhìn từ dưới lên: Vương Bồ Đào quan sát thời cuộc bằng cái nhìn của một kẻ hồn nhiên về chính trị, giác ngộ. Bằng cách tiếp cận ấy, Nghiêm Ca Cầm gây dựng một mắt bão - Vương Bồ Đào, nhân vật chính - giữa tâm bão thời cuộc. Những giá trị suy vong, sự tráotrở và những ván cờ chính trị ngưng đọng tại một làng quê nhỏ. Vương Bồ Đào để lại ấn tượng cực kỳ sâu sắc cho độc giả. Chọn thời cải cách làm bối cảnh chính nhưng Nghiêm Ca Cầm không đặt nặng cảm hứng phê phán hiện thực mà muốn đưa cái nhìn phản đề thông qua nhân vật nữ chính. Từ sự hồn nhiên của Vương Bồ Đào, từng lớp vỏ hiện thực được bóc tách, gợi cho độc giả nhiều ý nghĩ vượt trên con chữ. Dưới mắt các nhân vật khác trong truyện, Bồ Đào luôn là kẻ yếu, chịu đựng sự xâm phạm của ngoại lực. Nhưng cũng như Mẹ Đất, Bồ Đào lặng lẽ và quyết liệt chuyển hóa tất cả tác động xấu của ngoại lực thành nguồn sống dạt dào. Cô đã nuôi dưỡng Nhị Đại - bố chồng mình, suốt 15 năm trước sự săn tìm của những kẻ quyền hành trong thôn. Lúc cương, lúc nhu, Bồ Đào lặng lẽ chinh phục mọi thử thách để hoàn thành nhiệm vụ cô tự giao cho mình. Sự giày vò của quyền lực chính trị lên tâm hồn nhân vật không hề làm biến dạng phẩm chất vốn có của Vương Bồ Đào. Cô có ăn cắp của thôn, nhưng là để cứu mình, cứu bố chồng và cả những người quanh cô. Cô có giết người, nhưng đó là kẻ đáng chết vì sự sống xứng đáng của những người khác. Vương Bồ Đào hành xử theo chuẩn mực của cô, những chuẩn mực đó không phải lúc nào cũng trùng khớp với chuẩn mực của xã hội mà cô đang sống, một xã hội luôn biến động bởi sự chi phối của nhiều thế lực. Quan hệ tình cảm - tình dục giữa Vương Bồ Đào và Sử Đông Hi, Sử Xuân Hi, lão Phổ, ThiếuDũng đều hết sức tự nhiên và không hề gợi cảm giác trần tục. Những quan hệ đó nhưsự tất yếu phải có và người đọc có thể chia sẻ với Vương Bồ Đào. Nếu con ngườitrí thức tiểu tư sản (nói riêng) và con người nói chung hầu như không thể thoát khỏi vòng cương tỏa của chính trị với các hình thức của nó, thì Vương Bồ Đào hoàn toàn không bị vòng kim cô quyền lực chi phối. Chính vì thế mà nhân vật này có thể được xem là một truyền kì cá nhân trong một giai đoạn xã hội ba đào. Có lẽ, Người quả phụ thứ 9, với tình cảm từ Vương Bồ Đào, đã sưởi ấm tâm hồn độc giả vốn đã bị đặt trong cái thế chênh chao vì một không gian nghệ thuật đem đến hàng loạt dằn vặt, hoài nghi của truyện. Vi Hạ Mời các bạn mượn đọc sách Người Quả Phụ Thứ Chín của tác giả Nghiêm Ca Linh (Nghiêm Ca Cầm).
Tình Khúc Chiều Thu
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tình Khúc Chiều Thu của tác giả Quỳnh Dao. Năm giờ chiều tan sở, Đồng Chi Quyên vội vã rời khỏi văn phòng làm việc ở cao ốc Giao Tân. Nàng đi thẳng sang cửa hàng thực phẩm tận bên kia đường. Buổi sáng khi đi làm, bước ngang qua đây, Chi Quyên đã thấy nó được đựng trong những chiếc hộp xinh xắn. Vy mà thấy được hẳn vui lắm. Chi Quyên nghĩ điều đó chợt thấy lâng lâng niềm vui. Cách đây không lâu, Vy còn nói với nàng. - Chị Ơi, hôm nào mình đi đào củ năng nhé? Hôm nào? Chi Quyên không thể nói cho Vy biết là không bao giờ có cái ngày đó nữa. đào củ năng? đó là chuyện xảy ra đã lâu... Lâu lắm rồi. đến độ Chi Quyên cũng quên bẵng đi. Vậy mà Vy vẫn nhớ. Lúc đó, gia đình của Chi Quyên ở ngoại ô thành phố Đài Bắc. Chung quanh nhà toàn là những cánh đồng cỏ lau. Mỗi sáng, cha mẹ, Chi Quyên và Vy đều ra ngoài, chạy nhảy trên đồng cỏ, hái hoa, đào củ năng... Lúc đó Chi Quyên và Vy thường đua nhau xem ai đào được củ to.  Bấy giờ Chi Quyên 17 và Vy mới 16 tuổi, cha mẹ còn đầy đủ. Thế còn bây giờ, cha mẹ Ở đâu? Lúc đó ngoại ô Đài Bắc chỉ có cỏ dại, ruộng vườn. Còn bây giờ, ở những nơi đấy đã mọc đầy những ngôi nhà cao tầng. Thời gian trôi nhanh, mọi vật dời đổi... Vy có biết những điều đó không? Có cần cho nó biết không? Đến trước cửa hàng thực phẩm, Chi Quyên thấy rõ ràng hàng củ năng mới dược chào hàng. Từng hộp từng hộp xinh xắn bọc trong giấy nhựa, có cả băng vải cột bên ngoài trông thật dễ thương.  Chi Quyên cầm một hộp lên rồi xem giá tiền, 40 đồng! Chi Quyên giật mình. Số tiền to quá, phải 40 đồng mới mua được hộp củ năng nhỏ. Với 40 đồng đó. Chi Quyên có thể làm được biết bao việc. Có thể mua áo mới cho Vỵ à, đôi giày cũng đã thủng đế... Mà Chi Quyên cũng không biết tại sao Vy lại mặc áo hao như vậy, giày cũng mau mòn như vậy? Nhưng mà... Chi Quyên lại phân vân với hộp củ năng trên taỵ 40 đồng, mắc quá. Lương tháng cả tháng của Chi Quyên lại chỉ có 4000 đồng... Thế này... Chi Quyên lại lưỡng lự. Ông Chủ tiệm bước ra.  - Cô muốn mua mấy hộp hở cô? Mấy hộp à? Chi Quyên mở to mắt. một hộp còn không có tiền mua ở đó mà mấy hộp. Chi Quyên lắc đầu vừa định rời khỏi tiệm, thì sau lưng có tiếng kèn xe. Chi Quyên quay người lại chiếc Datsun quen thuộc đang ngừng trước cửa tiệm. Một người đàn ông trung niên bước xuống xe.  - Mua trái cây hở Chi Quyên? Chi Quyên giật mình, đó là ông Phùng Tính Lân và là ông chủ của nàng. Không hiểu sao mỗi lần đứng trước ông Lân là Chi Quyên bối rối. Cái thái độ từ tốn, chậm rãi mà chỉ có những người đàn ông từng trải mới có, dễ làm cho người đối diện lúng túng. Mỗi lần ông Lân nhìn Chi Quyên như vậy là nàng bối rối. Ngay trong tiềm thức, nàng đã thấy sợ Ông Lân. Tại sao lại sợ? Dư luận ư? Không biết. Chỉ biết một điều là... Công việc làm đối với nàng rất quan trọng. Sự quan trọng đó làm nàng rụt rè. Vâng, Chi Quyên sợ những lời đàm tiếu không đâu, có thể khiến nàng bị mất việc.. Nàng sợ cấp trên không hài lòng... Mà cũng sợ cấp trên "quá hài lòng" nữa. Tóm lại nàng sợ đủ thứ. Làm người quả khó khăn.  - Dạ, không... Tôi chỉ mua một hộp củ năng thôi.  Chi Quyên trả lời lí nhí rồi vội vã móc 40 đồng ra trả. Ông Lân hỏi. - Mua có một hộp thôi à? Thế có đủ ăn không? Chi Quyên lúng túng. nàng không biết phải giải thích làm sao, chỉ cúi đầu nói. - Dạ, không phải để ăn! Tại tôi thích củ năng.  ông Tính Lân nhìn Chi Quyên cười, không hỏi tiếp. con gái thường hay vậy. Mua một hộp củ năng, không phải để ăn, để làm gì? Thích thôi à? ông nhìn xuống những hộp năng đang trưng bầy. Những chiếc hộp nhỏ thắt nơ xinh xắn trông thật mộng mợ Ông Lân chăm chú nhìn Chi Quyên. Hàng lông mi dài cong vút, cái khuôn mặt sáng sủa, cái miệng nhỏ xinh xinh và cái cằm nhọn. Nhưng mà không hiểu sao tuổi thanh xuân kia lại như lúc nào cũng có nét buồn u uẩn nào đó... Ông Lân lắc đầu. Nguyên tắc làm việc bấy lâu nay của ông là không dính dáng gì đến chuyện riêng tư của nữ nhân viên. Duy chỉ có Chi Quyên là ngoại lệ cái cô bé mới vào làm có một năm, với thái độ rụt rè cố hữu, lúc nào cũng chăm chỉ với công việc. Không có nụ cười. Khoảng cách chủ tớ khá rõ ràng... Chi Quyên là một cái dấu hỏi. Nhưng dấu hỏi kia lại làm cho ông tò mò để ý. Cái đó ông Lân cũng không biết tại sao, ông chỉ cảm thấy nhiều lúc mình hay thắc mắc một cách kỳ cục. Tại sao vậy?  - Nhà cô ở đâu Chi Quyên? Tôi lái xe đưa cô về nhé?  Chi Quyên vội vã đáp với một chút ngại ngùng.  - Dạ khỏi tôi thích đáp xe buýt hơn.  Nói xong, nàng ôm hộp củ năng bỏ đi như chạy trốn. Mãi đến lúc tiếng xe của ông Lân xa dần, nàng mới thở phào, nàng đi chậm lại. Hướng về phía trạm xe buýt. Ôm chiếc hộp giấy trước ngực, Chi Quyên chợt bâng khuâng. Không biết ban nãy mình có làm gì cho ông Lân buồn không? chuyện đó có ảnh hưởng gì đến công việc làm của mình không? Tất cả những bứt rứt đó chỉ ngừng lại khi chiếc xe buýt trờ tói. Người sao đông thế? giành giật chen lấn lên xe, Chi Quyên bước lên mà lo lắng. Không biết hộp củ năng rồi có bị bẹp đi không? Nàng căng thẳng. 40 đồng đấy! mà chỉ có 20 củ. Bị đè nhẹp là đau vô cùng. Chi Quyên ôm cứng chiếc hộp trước ngực, cẩn thận bước lên xe.  Xe chạy chậm quá. Thật lâu mới đến được trạm gần nhà, Chi Quyên xuống xe, mình đẫm ướt mồ hôi. Nhìn chiếc hộp đựng củ năng còn nguyên vẹn, nàng thở phào nhẹ nhõm. Hoàng hôn của mùa hè. Mặt trời đỏ chói. Một buổi hoàng hôn đẹp. Có niềm vui thoảng nhẹ khi nàng nghĩ đến chuyện Vy sẽ mừng ra sao khi trông thấy chiếc hộp củ năng này. Chi Quyên bước nhanh hơn, đi về phía con hẻm dẫn vào nhà. Nhưng vừa đến đầu hẻm, nàng đã chựng lại nhìn chiếc hộp củ năng trên tay suy nghĩ. Thế này không được, ta không thể đưa cho Vy thế này. Những củ năng nhặt ở ngoài đồng không nằm trong hộp đẹp, Chi Quyên nhớ lại ngày trước, khi cùng gia đình đi đào xới. Nhiều khi còn có cả rễ... Nàng ngẫm nghĩ, rồi cắn răng xé bọc giấy kiếng bên ngoài ra, tháo cả băng vải và hộp carton ném vào sọt rác. Nàng dùng tay bụm lấy 20 củ năng, bước nhanh về hướng nhà. Chưa lách qua cái ngõ hẻm hẹp hơn, Chi Quyên đã nghe thấy tiếng ồn ào. Không cần nghĩ, nàng đã hiểu chuyện gì đang xảy ra. Nàng buồn bực bước nhanh hơn. Trước mắt nàng là Vỵ Dáng dấp cao lớn của Vy đứng giữa lòng hẻm. Mặt mày lem luốc. áo tả tơi với cây chổi trên taỵ Vy đứng chống nạnh như một vị thần giữ cửa, đám trẻ con thì vây quanh vừa cười vừa hét. Chi Quyên thấy cảnh đó, vừa giận vừa buồn. Nàng gọi lớn. - Vy! Vy nghe tiếng chị kêu. Nhưng vẫn đứng bất động, nhìn nàng cười. - Ồ, chị! Chị xem này, em là Trương Phi, em bận giữ thành, không thể đi đâu được hết. Chi Quyên giận dữ. - Vy! Em đã hứa với chị là không ra ngoài. em lại để rách hết áo thế này? Em đã làm sai, em biết không.  Vy tròn mắt nói. - Đâu có chị? Em là Trương Phi mà? Em mới đánh thắng một trận. Chị biết em đánh với ai không? Tào... Tào...  Thằng nhỏ đứng bên cạnh lên tiếng.  - Tào Tháo! Vy kiêu hãnh nói.  - Đúng rồi, Tào Tháo! Em đã đánh thắng trận.  Chi Quyên đau khổ nói.  - Túy Vy Em về nhà ngay cho chị.  Vy lắc dầu.  - Không được. Em là Trương Phi mà.  Chi Quyên nói và bước tới.  - Em tầm bậy quá, em nào phải là Trương Phi, em là Đồng Túy Vy! Túy Vy thấy chị định ngăn nên quay lưng bỏ chạy, vừa chạy vừa nói.  - Chị bắt không được em đâu, chị sẽ không bắt được em đâu.  Chi Quyên giậm chân.  - Túy Vy.  Nàng biết là sẽ gặp rắc rối. Nhưng nhớ sực lại những củ năng, nàng đưa lên: - Túy vy, em lại đây. Chị vừa mới hái củ năng về cho em nè. Quả nhiên vừa nghe nàng nói, Túy Vy đã dừng chân lại, nhưng nó có vẻ nghi ngờ. - Củ năng à? - Ờ. Đây nè. Túy Vy nghiêng nghiêng đầu.  - Chị không gạt em chứ? - Em nhìn thử xem cái này là cái gì? Chi Quyên xoè tay ra. Mắt Túy Vy chợt sáng. Đúng rồi củ năng. Vy hét lên mừng rỡ. Rồi chạy vù về phía Chi Quyên.  - Củ năng, ồ củ năng. Chị mới đi đào đấy à? Chúng ta cùng đi đi.  Ngay lúc đó một chiếc xe gắn máy chạy vụt đến, Chi Quyên sợ quá hét lên.  - Túy Vy, cẩn thận! Nhưng không còn kịp. Diễn biến xảy ra quá nhanh. đầu tiên cây chổi trên tay của Vy đã quơ về phía xe. Làm chiếc xe lách nhanh, đâm sầm vào người Túy Vỵ Chi Quyên sợ hãi, buông hết những củ năng trên taỵ Bổ nhào về phía Túy Vỵ Chiếc xe cũng vừa kịp thắng gấp, đầu xe bị quay đi. Túy Vy và Chi Quyên thì không sao, nhưng chiếc xe đã đổ kềnh. Người lái xe bị té văng mấy vòng. Hình như đã bị thương. Chi Quyên vội chạy đến, tái mặt hỏi: - Trời ơi, anh có sao không? Có bị thương chỗ nào không? Người lái xe nằm dài trên đường. Chiếc nón an toàn ụp xuống mặt. Anh ta chậm rãi ngồi dậy kéo chiếc mũ ra. Một khuôn mặt rất trẻ, rám nắng. Một đôi mắt đầy nghị lực đang trừng trừng nhìn Chi Quyên.  - Mấy người làm gì thế? đang diễn kịch "đánh cướp" ngoài đường ư? Còn nói chuyện được! Thế này hẳn vết thương không nặng lắm. Chi Quyên thở ra nhưng vẫn lo lắng.  - Anh bị thương ở đâu vậy? Gã Thanh niên đứng dậy dựng xe lên, lấy tay gõ gõ lên đầu gối nói. - Chưa biết. Chân và người còn dính liền nhau, tay chưa gãy vậy chắc không sao đâu.  Chi Quyên bứt rứt.  - Nhưng mà... Tay anh đang chảy máu kìa.  Đúng rồi, tay bị lát một miếng da khá lớn, đang chảy máu. Ngoài vết thương đó hình như không còn vết thương nào khác. Chi Quyên còn đang phân vân chợt thấy đám đông bu lại. Túy Vy lại chen vào, nắm lấy tay anh chàng thanh niên khóc.  - Không biết đâu, anh làm vỡ hết những củ năng của tôi, anh phải đền đi. Đền đi! Chi Quyên vừa giật mình vừa tức. Nàng chụp lấy em tức giận la lên...  - Túy Vy... Em đã gây chuyện thế này còn quậy gì nữa chứ? Em muốn chị phải làm sao đây? Túy Vy buông tay thanh niên ra, quay lại nhìn thấy chị khóc, nó có vẻ sợ hãi, lúng túng.  - Chị Quyên, chị đừng khóc, em biết em sai rồi, em sẽ không dám nữa đâu.  Chi Quyên ra lệnh.  - Vậy thì em về nhà tắm rửa cho sạch sẽ đi.  Túy Vy vội bỏ đi, vừa đi vừa nói. - Vâng em đi, em đi ngay đây.  Chi Quyên nhìn theo bóng Túy Vy đi khuất mới quay lại. Anh chàng lái xe mục kích sự việc xảy ra, anh có vẻ ngạc nhiên nhìn đám đông, rồi nhìn Chi Quyên đang khóc, anh ta có vẻ thương hại.  - Không sao đâu, tôi không sao đâu. Nhưng mà sao cô lại khóc? Chi Quyên không đáp chỉ nói.  - Anh đến nhà tôi nhé? Nhà tôi có thuốc, tôi sẽ giúp anh rửa vết thương.  Chợt có một thằng bé nói.  - Đừng có đi, em của chị ấy là thằng điên đấy. Gã thanh niên nghe nói hơi do dự, nhưng Chi Quyên lắc dầu.  - Anh đừng nghe lời chúng nó, em tôi không có điên đâu.  ánh mắt của nàng đen nháy, đôi mắt hơi buồn nhưng thành thật. Gã thanh niên nhìn Chi Quyên rồi quyết định: mặc, điên hay không thì chẳng phải vấn đề. Không lẽ chỉ nghe dọa là rút lui? Thế là vừa đẩy xe anh vừa nói với Chi Quyên.  - Được rồi, tôi sẽ theo cô.  Đám đông đứng qua một bên. Chi Quyên dẫn đường về nhà. Gọi là "nhà" chứ đấy giống như một chòi nhỏ không sân, mặt hướng ra hẻm, đa số những ngôi nhà ở khu này đều như nhau, những ngôi nhà gỗ cũ kỹ không lầu, chật hẹp. Có lẽ chẳng bao lâu nữa, một hoặc hai năm. Rồi tất cả sẽ bị thay bằng những nhà cao tầng. Lúc đó số người sống ở đây sẽ dọn đi đâu? Anh thanh niên trẻ nghĩ ngợi và nhìn quanh một cách hiếu kỳ. Dựng xe ngoài cửa, anh theo chân Chi Quyên bước vào nhà, vừa vào trong đã thấy Vy ngồi đàng hoàng trên ghế. Người đã được lau chùi sạch sẽ. Anh ta đang cắn móng tay, thái độ của kẻ phạm tội đang hối lỗi. Thấy chị và khách bước vào, Vy có vẻ sợ sệt. Quyên nhìn thấy em như vậy, không nỡ giận nữa, nàng thở ra bảo. - Đi tắm rồi thay áo quần đi, xong hãy vào phòng, bao giờ tới giờ cơm chị kêu thì mới được ra nhé. Chi Quyên nói với cậu ta như nói với một đứa bé mới lớn. Túy Vy cũng ngoan ngoãn đứng dậy làm theo, đến cửa, Vy quay lại nhìn chị với ánh mắt rụt rè. - Nhưng mà... Chị không giận em chứ? - Nếu em nghe lời chị, thì chị không giận.  Túy Vy cười rạng rỡ.  - Vâng, em sẽ vâng lời. mai chị sẽ đưa em đi nhặt củ năng nhé? Củ năng? Thàng bé không quên chuyện củ năng. Chi Quyên bứt rứt nhìn em gịuc.  - Ờ, chuyện ngày mai để mai tính. Bây giờ em vào đi.  Túy Vy vẫn rạng rỡ nụ cười, bước nhanh vào trong. Đợi Vy đi khuất, Quyên mới quay lại. Gã thanh niên xa lạ vẫn nhìn Quyên với ánh mắt tò mò. Anh chàng có vẻ không hiểu. Quyên thấy tức cười và nhìn kỹ. Anh ta cao lớn. Chiếc nón an toàn đã được cởi xuống cho thấy mái tóc đen dài. Một khuôn mặt có góc cạnh. Trán cao, mũi cao, mắt to đen, cằm nhọn. Cái "đẹp" của đàn ông hình như có nhiều loại. Chi Quyên thấy Túy Vy đẹp trai, nhưng cái đẹp của Vy là cái đẹp "sữa". Còn anh chàng này đây đẹp trai như một thanh niên thực thụ.  Chi Quyên chỉ chiếc ghế mây rồi do dự hỏi. - Mời anh ngồi. Anh có thể cho biết quý danh không? Gã thanh niên trẻ nói. Tôi họ âu. Tên Dương Phẩm. Còn cô? - Dạ. Tôi là Đồng Chi Quyên! Chi Quyên nói rồi bước tới xem xét vết thương trên tay Phẩm. Nàng giật mình, vết thương nặng hơn nàng tưởng. Ngoài một mảng da bị mất, còn có một vết toét dài và sâu. Vậy mà không hiểu sao anh chàng lại có vẻ bình thản, không trách móc, cự nự gì cả. Có lẽ chưa kịp chăng? Chi Quyên nói nhanh: - Anh ngồi đây nhé, để tôi đi lấy thuốc.  Bước vào phòng ngủ, Chi Quyên mang thùng thuốc ra. Ở nhà này, thuốc men gần như không thể thiếu vắng. bởi vì cứ cách mấy hôm là Vy bị thương... Băng bó vết thương là một việc làm thường xuyên của Chi Quyên.  Mở thùng thuốc, Chi Quyên lấy bông băng, nước oxy già. Đỡ lấy cánh tay của Phẩm lên, nàng tỉ mỉ chùi lấy vết thương.  - Có đau một chút thì... ráng chịu nhé.  Dương Phẩm có vẻ lạ lùng, chàng nhìn thùng thuốc, trong đó có đủ tất cả. Bông băng, kéo, thuốc rửa, thuốc sát trùng...  Phẩm buộc miệng.  - Thì ra cô là một y tá? Chi Quyên thành thật nói.  - Không phải, tôi tốt nghiệp ở cao đẳng thương nghiệp. Biết đánh máy và kế toán. Hiện đang làm việc ở một công ty trong thành phố. Còn cái thùng thuốc này đây... được chuẩn bị là vì cậu. em của tôi... nó cứ bị thương thường xuyên.  Lợi dụng lúc Phẩm phân tâm, Chi Quyên lấy bông nhúng vào oxy già, quét mạnh lên vết thương. Phẩm rát quá nhảy nhỏm lên. Chi Quyên ngưng lại một chút, rồi tiếp tục xức thuốc, vừa xức vừa nói để Phẩm quên đau, Giọng Chi Quyên như nghẹn lại.  - Anh biết không, đám trẻ con ở đây chúng cứ ức hiếp em trai tôi. Có một lần chúng đốt lửa, suýt tí đã thiêu sống thằng bé... Thật là tàn nhẫn... Cái số của mỗi người hình như đều có sướng có khổ, nhưng người ta chỉ biết cái khổ của mình, lại bình thản với cái khổ của người khác. Chi Quyên nói và bắt đầu băng lại vết thương cho Phẩm. Phẩm ngập ngừng rồi nói. - Nêú cô không cho là tò mò... Thì cô có thể cho tôi biết...  Chi Quyên nhìn lên, chớp chớp mắt. ánh mắt của nàng buồn buồn. Quyên nói. - Không có gì đâu. Anh cũng xui thật, anh đi ngang qua, rồi tay bay họa gởi. à anh thấy đấy Vy nó đâu có điên đâu? Có điều... trí óc của nó hơi kém phát triển một chút. bác sĩ nói chỉ số thông minh của nó chỉ ngang với một đứa bé năm tuổi. Và anh biết không, khi ba mẹ tôi còn... Có bao nhiêu tiền người đổ hết tìm thuốc men chữa chạy. Nhưng tất cả đều vô nghĩa. Dương Phẩm nhìn ánh mắt trước mặt.  - Cậu ấy bị thế sau một con kích động hay một bệnh nặng? - Không phải. Bác sĩ nói nó bị bẩm sinh... Mà cái chứng này thì như anh biết, có thể có nhiều nguyên dọ Chẳng hạn như lúc mang thai, mẹ tôi đã uống lầm một thứ thuốc nào đó làm ảnh hưởng đến bộ não nó... Hoặc cũng có thể do di truyền... Tóm lại dù bất cứ nguyên nhân gì, bịnh của nó cũng thuộc loại bất trị.  Chi Quyên vẫn tiếp tục công việc.  - Anh biết không, đám trẻ ở đây cứ ức hiếp, cứ mang nó ra làm trò cười. chế giễu, nhưng mà anh thấy đấy... Vy nó chỉ hơi khờ khạo, chứ tính nó khá lành. Nó không hề có ác ý với một ai. Thỉnh thoảng sự khờ khạo của nó gây ra chuyện không hay như hôm nay... thì cũng không phải là một sự cố ý. Chúng ta làm sao đòi hỏi một đứa có trí khôn 4, 5 tuổi làm như người lớn được phải không anh? - Năm nay cậu ấy bao nhiêu tuổi? Chi Quyên thu xếp cồn lọ bông băng vào thùng thuốc, rồi đứng dậy nói.  - 18 tuổi. Anh Phẩm này, tôi thấy để cẩn thận hơn, anh nên đến bệnh viện xem lại... cái vết thương này hơi sâu, tôi chỉ có khả năng tẩy trùng nhẹ thôi... sợ thế này... có thể gây biến chứng.  Dương Phẩm không quan tâm lắm đến cái vết thương. Chàng ngắm cô gái trước mặt, cái nét mặt hiền hòa, chịu đựng kia như thu hút lấy chàng. - Thế bây giờ cha mẹ cô đâu rồi? Chi Quyên lặng lẽ nói.  - Đều qua đời, định mệnh dường như lúc nào cũng cay nghiệt với những kẻ bất hạnh. Mẹ tôi qua đời khi tôi lên 12, Còn cha tôi thì mới cách đây ba năm. Người đã vì Túy Vy mà khá mệt mỏi.  Nàng nói tới đó, chợt như nhớ ra nên ngưng lại, nàng đẩy mái tóc ra sau, rồi cười nói.  - Xin lỗi nhé, anh Phẩm. Khi không rồi đem những chuyện đâu đâu ra kể cho anh nghe... Ồ mà áo quần anh cũng lấm lem rồi kià. Chiếc áo màu xanh, quần jean trắng của Phẩm gìơ lấm lem cả. Bùn có, mà máu cũng có. Nơi lại bị rách. Chi Quyên xuýt xoa.  - Thật là có lỗi với anh.  Phẩm không quan tâm lắm đến quần áo. Chàng mải bận quan sát ngôi nhà. Những dụng cụ gia đình thật đơn giản. Mấy chiếc ghế, một bàn học, một bàn dùng cơm, một bóng đèn tròn. Trên vách một bức tranh thủy mạc cho thấy chủ nhân cũng thuộc hạng người biết chữ nghĩa. Ngôi nhà khá nhỏ có lẽ chỉ có hai phòng sinh họat và một nhà vệ sinh. Một ngôi nhà với hai chị em nương tựa. Chợt nhiên Phẩm thấy có cảm tình. Xưa đến giờ Phẩm chưa hề tưởng tượng ra có một gia đình như thế...  Bóng tối từ bên ngoài đang lùa vào. trời sắp tối, Phẩm yên lặng và Chi Quyên cũng yên lặng.  Cửa phòng trong chợt mở. Túy Vy Y thò đầu ra.  - Chi ơi chị, em đói rồi.  Đói à? Chi Quyên chợt nhớ ra, chưa nấu cơm, nàng lúng túng nhìn Phẩm.  - Xin lỗi anh Phẩm. Tôi phải vào trong nấu cơm. Tôi xin phép và mong là vết thương của anh mau lành, cũng như xe anh không hư nhiều lắm.  Dương Phẩm chợt đưa tay ngăn lại, chàng cũng không hiểu tại sao mới quen mà chàng lại tự nhiên thế.  - Khoan đã nào? Ban nãy cô đã giúp tôi băng bó vết thương, tôi không biết lấy gì cảm ơn... Hay là thế này... Tôi xin phép được mời chị em cô đi ăn ngoài một bữa, được chứ?  Chi Quyên tròn mắt nhìn Phẩm.  - Ồ không được, không được. Chính chị em tôi làm anh ngã xe. Chuyện đó đã làm tôi áy náy lắm rồi... Làm sao, làm sao lại có thể... bắt anh mời cơm nữa chứ? Dương Phẩm cắt ngang.  - Có gì phải quan trọng vậy? Cũng bởi vì... Tôi cũng thấy đói... Tôi cũng định đi ăn cơm. Mà tánh tôi lại không thích ăn cơm một mình. Nếu mời được hai chị em cô là... tôi vui lắm. Từ xưa đến giờ chàng chưa hề bị ai từ chối, nên chàng nói mà hơi phân vân. Ngay lúc đó Phẩm quay lại bắt gặp ánh mắt trẻ thơ của Vy, chàng nói ngay.  - Túy Vy, đói rồi phải không? Thích ăn gì nào? Bánh xép nước? Há cảo, mì bò khỏ hay là thức ăn ngọt? Túy Vy nghe sáng hẳn mắt, quay sang chị.  - Mình có bánh xép nước ăn nữa hả chị? Dương Phẩm chợt nhớ đến những củ năng, bồi thêm.  - Còn có củ năng nữa.  - Củ năng nữa à?  Vy reo lên, Chi Quyên thở dài. - Anh thắng rồi đấy. Chúng tôi thật phiền anh.  Thế là cả ba ra khỏi nhà. Đèn đường đã bật sáng. Bầu trời chỉ có vài ánh sao. Chi Quyên quay sang Phẩm. Chợt thấy ngày tháng như không còn đơn điệu nữa. Gió đem mát lạnh mùa thu đã đến. Mời các bạn mượn đọc sách Tình Khúc Chiều Thu của tác giả Quỳnh Dao.
Thầy Thông Ngôn
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn của tác giả Hồ Biểu Chánh. Ông Hương sư Trần Văn Sắc, ở Tầm vu, có một đứa con trai tên là Trần Văn Phong, cho lên Sài Gòn học, tuổi vừa mới hai mươi mà đã thi đậu Đíp lom và được cử về Bạc Liêu làm thơ ký học tập. Cả gia đình ông Hương sư kể cả Trần văn Phong hy vọng qua đó sẽ là bức thang danh vọng cho gia đình; Phong sẽ lấy được con gái nhà giàu có. Cũng vì vậy mà Phong đã bội ước với cô Hai Liền, người mà Phong hứa sẽ cưới sau khi học thành tài. Về Bạc Liêu làm việc, ngoài dự tính của Phong, thầy thơ ký mới tập sự gặp nhiều khó khăn trong công việc. Trên tình trường, Phong xém bị lừa gạt và bị làm nhục. Thời may đưa đến, Phong quen với Hội đồng Quản hạt ở Long Xuyên vừa mới đắc cử. Phong được Hội đồng Quản hạt giới thiệu cho cưới cô Như Hoa là con gái của một nhà cực giàu trong tỉnh Châu Ðốc. Do liên hệ của Hội đồng Quản hạt, Phong được chuyển về Châu Ðốc làm thông ngôn cho chủ tỉnh. Trong khi danh vọng được lên cao thì cuộc tình duyên của Phong đưa đến đổ vở vì Như Hoa hách dịch và ngoại tình. Cuối cùng xảy ra cuộc án mạng. Như Hoa bị chết để lại một đứa con cho Phong nuôi. Buồn chán Phong trở về Tầm vu và hy vọng lập lại cuộc tình duyên với cô Hai Liền, nhưng nhiều chuyện lại xảy ra ngoài sự dự tính của Phong... *** Tóm tắt Tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn kể về câu chuyện của Trần Văn Phong, một chàng trai trẻ tuổi, học giỏi, được gia đình gửi lên Sài Gòn học. Sau khi thi đỗ Đíp lom, Phong được cử về Bạc Liêu làm thơ ký học tập. Về Bạc Liêu, Phong gặp nhiều khó khăn trong công việc và tình trường. Phong xém bị lừa gạt và bị làm nhục. May mắn thay, Phong quen với Hội đồng Quản hạt ở Long Xuyên và được giới thiệu cho cưới cô Như Hoa, con gái của một nhà giàu có ở Châu Đốc. Phong được chuyển về Châu Đốc làm thông ngôn cho chủ tỉnh. Cuộc sống của Phong trở nên sung túc và danh vọng. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân của Phong với Như Hoa không hạnh phúc. Như Hoa là người hách dịch, ngoại tình và cuối cùng đã bị giết chết. Phong trở về Tầm vu và hy vọng lập lại cuộc tình duyên với cô Hai Liền, người mà Phong từng hứa sẽ cưới. Tuy nhiên, cô Hai Liền đã lấy chồng khác. Phong đau khổ và quyết định đi tu. Đánh giá Tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời 1900-1930. Thứ nhất, tác phẩm đã thể hiện được sự giao thoa của văn học trung đại và văn học hiện đại. Trong tác phẩm, ta vẫn thấy được những yếu tố của văn học trung đại như lối kể chuyện truyền thống, những lời bình luận của tác giả,... Tuy nhiên, bên cạnh đó, tác phẩm cũng có những yếu tố của văn học hiện đại như việc khắc họa tâm lý nhân vật, xây dựng tình huống truyện,... Thứ hai, tác phẩm đã phản ánh được những vấn đề của xã hội Nam bộ giai đoạn giao thời. Đó là những vấn đề như vấn đề người trí thức, vấn đề hôn nhân gia đình,... Thứ ba, tác phẩm đã thể hiện được tài năng của Hồ Biểu Chánh trong việc xây dựng nhân vật. Các nhân vật trong tác phẩm đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhân vật Trần Văn Phong là một nhân vật tiêu biểu cho thế hệ trí thức trẻ của Nam bộ giai đoạn giao thời. Phong là một người học giỏi, có chí cầu tiến nhưng lại thiếu bản lĩnh, dễ bị tha hóa bởi danh vọng và tiền bạc. Nhìn chung, tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn là một tác phẩm đáng đọc. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam. Đánh giá chi tiết Cốt truyện: Cốt truyện của tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn được xây dựng theo lối truyền thống, theo mô-típ "từ thiện đến ác, từ thiện đến khổ". Tuy nhiên, tác giả đã khéo léo lồng ghép những yếu tố hiện đại vào tác phẩm, khiến cho cốt truyện trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Nhân vật: Các nhân vật trong tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhân vật Trần Văn Phong là một nhân vật tiêu biểu cho thế hệ trí thức trẻ của Nam bộ giai đoạn giao thời. Phong là một người học giỏi, có chí cầu tiến nhưng lại thiếu bản lĩnh, dễ bị tha hóa bởi danh vọng và tiền bạc. Nhân vật Như Hoa là một nhân vật phản diện, là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Phong. Tình huống truyện: Tình huống truyện trong tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn được xây dựng một cách hợp lý, logic. Tình huống truyện đã góp phần đẩy nhanh mạch truyện, tạo nên những xung đột, mâu thuẫn giúp cho nhân vật phát triển tính cách, thể hiện được quan điểm của tác giả. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng hoàn cảnh, nhân vật. Ngôn ngữ của tác phẩm cũng được sử dụng một cách uyển chuyển, giàu hình ảnh, giúp cho tác phẩm trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Kết luận Tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời. Mời các bạn mượn đọc sách Thầy Thông Ngôn của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Thầy Chung Trúng Số
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số của tác giả Hồ Biểu Chánh. Năm 1944, đầu tháng 5, trời tối một lát thì có tiếng còi báo động thổi rang tất cả vùng Sài-Gòn, Chợ-Lớn, Gia-Định. Tuân theo luật phòng-thủ thụ-động, ai cũng lo đóng cửa tắt đèn đặng xuống hầm. Tiếng còi dứt rồi thì quang cảnh im-lìm, châu thành vắng hoe chẳng khác nào bãi sa-mạc. Cách chẳng bao lâu, mấy đoàn phi-cơ tiếp nhau bay ù-ù trên không-phận Sài-Gòn thả bom xuống nổ tưng-bừng từ Xóm-Chiếu qua phía chợ Bến-Thành làm cho nhơn-dân đều kinh hồn khiếp vía. Đến sáng người ta đồn vang có nhiều nhà tang hoang, có nhiều người vong mạng. Tôi tò-mò đi xem. Ôi thôi ! Tôi rất đau đớn mà nhận thấy tai-nạn chiến-tranh tàn khốc của thiên-hạ gây ra cho lương-dân Việt-Nam phải gánh chịu. Vừa đau lòng, vừa tức trí, tôi thả bước đi cho giải khuây, không cần tính đi đâu. Tình-cờ vô tới khúc đường Frère Louis, tôi chợt thấy một dãy phố cũ-kỹ, thấp thỏi, tôi dừng bước và ngó vào. Đây là chỗ tôi ở một thời gian, cách 34 năm về trước. Những kỷ-niệm xưa phát hiện rõ-ràng trước mắt tôi. Dãy phố 10 căn tuy cũ song vẫn còn nguyên như xưa. Căn bìa đây là căn nhà của bà Phán Lý ở. Bà là một sương phụ tuổi lối 50, bà ở với cô Thiên-Hương, con gái của bà chừng 20 tuổi, tuấn-tú dung-nhan, đoan-trang hạnh-kiểm. Bà Phán Lý luôn luôn mặc y-phục trắng bằng lụa trắng. Bà ít khi ra đường, lại cũng ít tới nhà ai mà chơi. Còn cô Thiên-Hương thì ngày như đêm cô cứ cặm-cụi thêu khăn lụa và thêu mặt giầy để gởi cho mấy tiệm bán. Căn kế đó là căn của thầy Chung ở. Thầy trẻ tuổi, đẹp trai, học đã có bằng Thành-chung mà chưa có vợ, lại mồ-côi cha mẹ, cũng không có anh em. Thầy ở đây một mình, thầy làm việc trong một nhà in lớn ở đường Kinh-Lấp, lương mỗi tháng 25 đồng. Thầy nói thầy ăn cơm tháng tại quán dì hai ở đường hẻm d’Ormay, không ai biết dì tên chi, thấy dì mập-mạp nên gọi tên dì là «Dì Hai phì lủ». Ăn cơm hai bữa, trưa được nghỉ trên lầu, phải trả cho dì mỗi tháng 10 đồng. Căn kế nữa thì vợ chồng chú thợ Tư ở. Chú làm thợ mộc trong một nhà thuốc tây ngoài đường Catinat, chú chuyên đóng thùng để gởi thuốc xuống lục tỉnh. Tôi ở căn khít với chú thợ Tư đây, ở gần hai năm êm ấm vô cùng. Còn 6 căn kế thì thầy giáo, thầy ký, thầy thông thuộc các sở ở, ai cũng có vợ như tôi, có thầy lại được mụn con nhỏ ban đêm khóc chói-lói. Hồi đó số lương của mấy thầy chỉ có vài ba chục, mỗi tháng phải trả tiền phố hết 5 đồng. May nhờ giá sanh-hoạt rẻ, lại cũng nhờ biết tiện-tặn. không coi hát bóng, không ngồi nhà hàng, nên ai cũng sống được. Lần bước về nhà, những cảnh trông thấy hôm nay, với những tưởng nhớ ngày xưa cứ trạo-trực trong trí tôi hoài, làm cho tôi ngẩn-ngơ lơ-lửng. Tối lại, ngoài sân nước mưa hè rỉ-rả không dứt. Trên án thắp đèn dầu phộng bủa yến sáng tuy không tỏ, song cũng đủ đọc sách viết văn được. Ngồi bên bóng đèn leo-lét, tôi hồi tưởng đến mấy người quen năm xưa cùng tôi chung sống trong dãy phố đường Frère Louis. Tôi nhớ chuyện thầy Chung với mẹ con bà Phán Lý, tôi bắt tức cười. Tôi cười là vì ba người nầy mường-tượng như nhơn-vật trong chuyện «La Cure de Misère“ của nhà văn-hào Pháp là François Coppé. Tôi liền lấy giấy ra viết chuyện thầy Chung, viết đặng quên thảm-họa của lương-dân vô tội mà bị sát hại rất đau, rất ức. *** Tóm tắt Tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số kể về câu chuyện của thầy Chung, một thanh niên trẻ tuổi, đẹp trai, học giỏi nhưng mồ côi cha mẹ, sống một mình. Thầy Chung làm việc trong một nhà in với mức lương 25 đồng/tháng. Hàng ngày, thầy ăn cơm trưa tại quán của dì Hai phì lủ. Một ngày nọ, thầy Chung đi mua sắm ở chợ thì gặp bà Phán Lý, một góa phụ có con gái xinh đẹp là Thiên Hương. Bà Phán Lý bị thu hút bởi vẻ ngoài lịch lãm của thầy Chung nên đã ngỏ ý muốn gả Thiên Hương cho thầy. Ban đầu, thầy Chung không đồng ý vì nghĩ rằng mình không xứng đáng với Thiên Hương. Tuy nhiên, sau khi nghe bà Phán Lý kể về hoàn cảnh của Thiên Hương, thầy Chung đã đồng ý. Hai người kết hôn và sống hạnh phúc bên nhau. Thầy Chung tiếp tục làm việc trong nhà in, còn Thiên Hương ở nhà chăm lo cho gia đình. Một ngày nọ, thầy Chung trúng số độc đắc với số tiền 100.000 đồng. Thầy Chung quyết định dùng số tiền này để giúp đỡ những người nghèo khó. Thầy Chung mở một trường học miễn phí cho những trẻ em nghèo. Thầy cũng quyên góp tiền để xây dựng cầu cống, đường xá, giúp đỡ những người gặp khó khăn. Sự tốt bụng của thầy Chung đã khiến cho mọi người yêu mến. Thầy được mệnh danh là “Thầy Chung trúng số”. Đánh giá Tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời 1900-1930. Thứ nhất, tác phẩm đã thể hiện được sự giao thoa của văn học trung đại và văn học hiện đại. Trong tác phẩm, ta vẫn thấy được những yếu tố của văn học trung đại như lối kể chuyện truyền thống, những lời bình luận của tác giả,... Tuy nhiên, bên cạnh đó, tác phẩm cũng có những yếu tố của văn học hiện đại như việc khắc họa tâm lý nhân vật, xây dựng tình huống truyện,... Thứ hai, tác phẩm đã phản ánh được những vấn đề của xã hội Nam bộ giai đoạn giao thời. Đó là những vấn đề như vấn đề nghèo đói, vấn đề hôn nhân gia đình, vấn đề người phụ nữ,... Thứ ba, tác phẩm đã thể hiện được tài năng của Hồ Biểu Chánh trong việc xây dựng nhân vật. Các nhân vật trong tác phẩm đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhìn chung, tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số là một tác phẩm đáng đọc. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam. Đánh giá chi tiết Cốt truyện: Cốt truyện của tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số được xây dựng theo lối truyền thống, theo mô-típ "tình yêu - sóng gió - hạnh phúc". Tuy nhiên, tác giả đã khéo léo lồng ghép những yếu tố hiện đại vào tác phẩm, khiến cho cốt truyện trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Nhân vật: Các nhân vật trong tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhân vật thầy Chung là một người tốt bụng, hào phóng, luôn muốn giúp đỡ những người nghèo khó. Nhân vật Thiên Hương là một người phụ nữ xinh đẹp, dịu dàng, biết lo toan cho gia đình. Tình huống truyện: Tình huống truyện trong tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số được xây dựng một cách hợp lý, logic. Tình huống truyện đã góp phần đẩy nhanh mạch truyện, tạo nên những xung đột, mâu thuẫn giúp cho nhân vật phát triển tính cách, thể hiện được quan điểm của tác giả. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng hoàn cảnh, nhân vật. Ngôn ngữ của tác phẩm cũng được sử dụng một cách uyển chuyển, giàu hình ảnh, giúp cho tác phẩm trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Kết luận Tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời 1900-1930. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam.   Mời các bạn mượn đọc sách Thầy Chung Trúng Số của tác giả Hồ Biểu Chánh.