Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Hủi

Không có căn bệnh nào đáng sợ của nhân loại xuất hiện trong câu chuyện, cũng không có người nào mắc phải căn bệnh đó, Con Hủi là cái tên mà trong giới quý tộc gọi nàng, người con gái xinh đẹp, trong trắng như đóa huệ mang tên Stefcia. Nàng có một chuyện tình thơ mộng, đắm say, trong sáng và vô cùng mãnh liệt nhưng lại bi thương đế nao lòng. Bởi người nàng yêu không ai khác chính là đại công tử của dòng họ quyền quý nhất cả nước – Waldemar Michorowski. Họ chống lại những ràng buộc của đẳng cấp quý tộc để đến được với nhau và bảo vệ hạnh phúc đã lựa chọn. Nhưng liệu họ có vượt qua những ra cản khó khăn và hà khắc của giới quý tộc? *** Helena Mniszek tên thật là Ravich Rađô Miska thuộc dòng họ Mniszek Tơkhugiơnhixki, sinh năm 1878 tại điền trang Kurơtrưxe tỉnh Vôlưnhe. Năm 1899 bà lấy ông V. Khugiưnxki, chuyển đến sống ở Platerôvô (Litva), được bốn năm thì chồng qua đời. Năm 1910 bà tái giá, lấy ông A. Rađômiski, theo chồng về điền trang Rôgale, sau đó chuyển đến trang Kukharư ở tỉnh Puôxk (Ba Lan). Năm 1931, bà lại góa chồng, ở với gia đình tại đó. Mùa thu năm 1939, đại chiến thứ hai bùng nổ, bà bị quân Đức đuổi khỏi nhà, phải chuyển đến Xabnhi cùng Pôđlasie rồi mất tại đó năm 1943. Trong 20 năm hoạt động văn học (1909 - 1930) bà để lại nhiều tác phẩm, đáng kể nhất là các tiểu thuyết: Con Hủi (1909), Đại Công tử Mikhôrôvxki (1910), Những ngù lông xào xạc (1911), Cậu chủ (1912), Các quận công của rừng (1912), Gahenna (1914), Những kẻ thờ phụng quỷ sa tăng (1918), Ẩn sĩ ( 1919), Chàng Vecte (1921), Quyển của người (1922), Nhân sự (1922), Hoàng hậu Giezlla (1925), Ông bà chủ (1927), Từ mảnh đất của nước mắt và máu (1927), Hoa Mộc Lan (1928), Những người hậu chiến (1929), Nam châm của những con tim (1930)... và một số tập truyện ngắn khác nữa. Bà còn nhiệt tình tham gia nhiều hoạt động xã hội. Con Hủi là tác phẩm tiêu biểu và nổi tiếng nhất cùa H. Mniszek. *** Review by Âu Dung Hoa:   Nắng chiều vụt tắt, ngày dài cứ thế trôi đi. Tôi ngẩng đầu nhìn phố phường qua làn kính mờ, trong tay là tách trà còn nghi ngút khói. Vị trà khi đắng khi ngọt, đến cuối cùng chỉ vương lại chút dư âm trên đầu lưỡi, luyến tiếc rồi dần tan biến như chưa từng xuất hiện. Bất giác, trong không gian có chút đìu hiu ấy, tôi nhớ lại một cuốn sách mình đã đọc trước đó không lâu. Một chuyện tình buồn... Câu chuyện của chàng Đại công tử Waldemar Michorowski và nàng Xtefchia Rudecka – người con gái không cùng giai cấp. … Nàng Xtefchia là một cô gái xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ ở Vương Quốc. Sau khi tình đầu tan vỡ, quá thất vọng và đau đớn Xtefchia đã quyết định từ biệt cha mẹ đến làm gia sư cho Lucia Elzanowska, em họ của Đại công tước quyền quý nhất nước lúc bấy giờ - Waldemar Michorowski. Trải qua nhiều lần gặp gỡ, vượt qua những hiểu lầm ban đầu, tình cảm của Xtefchia dành cho Waldemar cũng dần thay đổi. Thế nhưng, trước một người “quá tầm với của nàng”, Xtefchia lo sợ ánh mắt của giới quý tộc, nàng đành chôn sâu tình cảm của mình và dùng một trái tim đau đớn để yêu Waldemar. “Xtefchia đã biến thành pho tượng chờ đợi như thế… Nàng đứng nơi đây bởi linh cảm rằng chàng sắp về, và nàng cứ đứng mãi kiên tâm chờ đợi… Hôm nay chàng sẽ tới đây!” Những tưởng tình yêu này chỉ xuất phát từ một phía nhưng đến khi Waldemar đột ngột bày tỏ tình yêu của chàng với Xtefchia, nàng hoảng hốt trốn chạy khỏi vòng tay chàng. Trong một lần về thăm gia đình, nàng được mẹ trao cho một quyển nhật ký của người bà quá cố. Thì ra năm xưa, bà ngoại của nàng và ông nội của Waldemar cũng từng trải qua một tình yêu sâu sắc nhưng đến cuối cùng vẫn không thể chiến thắng được những định kiến giai cấp của xã hội và phải chia tay. Sự thật kia khiến nàng kinh hoàng. Quá khứ lặp lại. Sự giễu cợt kinh khủng của số phận! Tình yêu này không thể che dấu - Xtefchia đã quyết định phải rời đi. “Nhất định ta phải cắt đứt, nhất định ta sẽ chấm dứt, dù tim ta có vỡ tung thành trăm mảnh cũng cam.” … Waldemar Michorowski – Chàng Đại công tử quý tộc giàu có, học thức cao luôn là một “mối” đáng giá với bất cứ cô gái nào gia huy có 5 gậy. So với những người quý tộc truyền thống, tư tưởng của chàng mới mẻ hơn, khách quan hơn và bước ra khỏi những xiềng xích vô hình của định kiến xã hội. Trước khi gặp gỡ Xtefchia, trong quan hệ với phụ nữ chàng vẫn tránh né mọi bổn phận ràng buộc. Thế nhưng từ khi Xtefchia xuất hiện, với học thức uyên thâm cùng phẩm hạnh cao quý như một đóa hoa, nàng đã từng bước cướp đi ánh nhìn và trái tim của Waldemar. Đã có lúc, chàng căm thù Xtefchia, nàng khiến chàng nổi điên vì “chàng không nhận ra bản thân mình nữa.”. Chàng nghiêm túc mổ xẻ lòng mình và đi đến kết luận - Xtefchia là người đã gây cho chàng những tình cảm khác, chàng yêu nàng bằng tình yêu thật sự và hết sức mạnh mẽ. Khác với Xtefchia, khi phát hiện tình yêu của mình dành cho nàng, Waldemar đã kiên quyết buộc nàng thừa nhận tình cảm của bản thân, dùng lý lẽ để bảo vệ tình yêu của họ trước những công kích từ những người thuộc “giới” của chàng với lời thề son sắt. - “Nàng phải là của ta, dù có phải làm đổ sập thế gian đi nữa!” - “Anh sẽ gạt phăng tất cả những gì cản đường chúng mình, anh sẽ đạp đỏ hết thảy mọi chướng ngại. Anh nhất định phải có em!” - “Chẳng lẽ tiểu thư nghĩ rằng tôi cho phép tiểu thư ra đi hay sao?” - “Tiểu thư chỉ có thể rời khỏi nơi đây với tư cách… vợ chưa cưới của tôi mà thôi.” - “Xtefchia Hoặc là em sẽ trở về làm vợ ta… hoặc ta sẽ chết.” Bằng tình yêu và sự kiên quyết của mình, Waldemar đã thực hiện đúng những gì chàng hứa. Bên cạnh chàng, sẽ không có thứ gì đe dọa được Xtefchia nữa. Nàng sẽ là Đại công nương xinh đẹp được mọi người tôn kính. Vốn tưởng rằng, tình cảm chân thành của Waldemar và Xtefchia đã giành chiến thắng nhưng đến cuối cùng Xtefchia đã gục ngã trước ngón đòn đê hèn của giới quý tộc danh giá. Trước đám cưới một ngày, trong bộ áo cưới xinh đẹp, Xtefchia yên ngủ giấc ngàn thu. Nàng ra đi đem theo ánh sáng của Waldemar. Trên ngọn đồi nghĩa địa rợp bóng thùy dương, Waldemar áp chặt mình vào miếng pha lê gắn ảnh nàng, trò chuyện với nàng, trách nàng đã vội đi xa. Chàng ghì chặt nàng vào tim, kéo níu nàng từ dưới những lớp hoa tươi thắm. Chàng muốn xuyên thủng cái đập chắn chia cắt chàng với nàng. Cả cuộc đời chàng như đã theo nàng nằm yên dưới lớp hoa này… … Lần đầu tiên đọc “Con hủi”, tôi thật sự bị những câu văn giàu chất thơ của tác phẩm này lay động và cuốn theo câu chuyện của họ lúc nào không hay. Những mẩu đối thoại ngắn giữa các nhân vật cũng khiến người đọc choáng ngợp và thăng trầm theo cung bậc cảm xúc của chính những nhân vật trong truyện. Mối tình của Waldemar – Xtefchia được ví như một “Romeo và Juliette” thứ hai trên văn đàn văn học thế giới. Thế nhưng, tôi lại thấy câu chuyện của họ có phần bi thảm hơn, họ chiến đấu với cả một giai cấp và nhận được kết quả là âm dương cách biệt. Rồi đến một lúc nào đó, có lẽ Waldemar sẽ vẫn tìm được đường đi cho mình, chàng sẽ gặp lại vị hôn thê Xtefchia ở một nơi khác. Chỉ mong khi ấy, cả hai người sẽ không phải trong tầng lớp hay giai cấp kia nữa, sẽ được sống với tình yêu say đắm của mình. Có thể nói, "Con hủi" là bộ tiểu thuyết phương Tây để lại trong tôi nhiều ấn tượng nhất, để khi nhớ lại, chút dư âm như hương thơm của một ly trà chiều vẫn vấn vương trong tâm trí. Nếu các bạn yêu thích văn học phương Tây, muốn tìm những bộ truyện giàu tính nhân văn, hãy thêm "Con hủi" và list truyện của mình nhé! *** Review Hằng Nga: Đây là cuốn tiểu thuyết tình yêu phương Tây đầu tiên mình đọc. Lần đầu cầm cuốn sách là vào năm lớp 8, do đi mượn nên mới đọc được một nửa đã phải trả. Sau này lúc nên cấp ba tìm mua mãi. Và cái gì đầu tiên cũng đẹp nên đến giờ đây vẫn là một trong những cuốn sách mình trân trọng nhất. Một câu chuyện tình yêu rất đẹp được ngta ví như một "Romeo và Juliet mới". Cái này mình không chắc lắm vì mình thấy hai khía cạnh mà câu chuyện khai thác có chút khác nhau. Xtefchia và Valdermar, hai con người xuất thân từ những tầng lớp khác biệt nhưng họ đã gặp và yêu nhau. Ban đầu giữa họ là rất nhiều những hiểu nhầm, mỗi khi gặp nhau không phải chàng trêu chọc nàng thì là nàng khinh thường chàng. Khá là đáng yêu. Về sau, khi hai người gỡ bỏ những định kiến và hiểu về đối phương thì họ đã bị nhau thu hút, đã fall in love lúc nào không biết. Nàng xuất thân từ một gia đình trung lưu nhưng được giáo dục vô cùng tốt. Nàng xinh đẹp, dịu dàng, lịch sự và hiểu biết. Sống giữa giới quý tộc Ba Lan vàng thau lẫn lộn, đầy những con người trưởng giả, nàng tỏa sáng đẹp đẽ, cao quý và thu hút ánh nhìn của chàng đại công tử Valderma Valderma, chàng là thừa kế của một đại gia tộc cao quý nhất Ba Lan, nhưng khác với những người họ hàng hay những người cùng giới, chàng không để ý quá nhiều đến những khác biệt về giai cấp và tầng lớp. Chàng trân trọng giá trị đến từ bên trong mỗi con người. Chàng bảo vệ Xtefchia trước tên người yêu cũ sở khanh. Chàng trân trọng nàng, yêu sự hiểu biết và tâm hồn cao quý của nàng. Valderma, chàng dũng cảm và chủ động với tình cảm và cuộc đời của chính mình, chàng vượt lên mọi rào cản về giai cấp, về định kiến xã hội để hỏi cưới Xtefchia. Chàng bảo vệ nàng trước cả giai cấp của chàng. Hạnh phúc tưởng chừng đã nằm trong tay hai người nhưng cuối cùng Xtefchia đã ra đi để mình Valderma ngồi lại trong căn phòng chống ngắm nhìn hình ảnh nàng, cô độc. Chuyện tình của họ thật đẹp. Có một điều mình thực sự rất thích ở câu chuyện này đó là hình ảnh những tòa lâu đài phương Tây cổ kính, rực rỡ và uy nghiêm. Từ hồi lớp tám mình đã bị ấn tượng, điều mình nhớ nhất trong chuyện chắc là mấy tòa lâu đài với khu rừng nơi Xtefchia hái nấm mất. Cái kết chuyện hơi buồn và u ám, nhưng không quá ấn tượng và ám ảnh. Cảm thấy cái chết của Xtefchia hơi gượng ép. Còn tổng thể đây là một câu chuyện ổn. *** Review Hana Hanhhan: Con Hủi là một tuyệt phẩm của văn sĩ Ba Lan Helena Mniszek. Dịch giả Nguyễn Hữu Dũng đánh giá cuốn sách là một "thiên Romeo và Juliet mới". Theo tôi, Con Hủi hoàn toàn xứng với những ca ngợi ấy. Mặc dù tựa sách mang tên một loại bệnh nhưng cả tác phẩm không ai mang bệnh này, có chăng chỉ có những kẻ hẹp hòi dùng định kiến của mình nhìn người mà họ coi là không xứng đáng như một "con hủi" một thứ bệnh dịch đáng ghê tởm. Xtefchia Rudexka là một "con hủi" đúng nghĩa trong mắt giới quý tộc Ba Lan. Cô xinh đẹp gia giáo, thông minh hiền hòa nhưng cô mang tội nặng nhất là thứ tội vì không được sinh ra trong một gia đình quyền quý. Cha cô ông Rudexka và bà Rudexka mẹ cô chỉ là những quý tộc nhỏ của Ba Lan, họ sở hữu một điền trang bé đến mức đám thượng lưu chỉ liếc qua đã cười khinh miệt. Xtefchia là một thiếu nữ đáng mến. Cô sinh ra và sống đúng với địa vị của mình, chưa từng có mơ ước cao sang gì. Nhưng tình yêu định mệnh với đại công tử Waldema Michorowski lại đưa cô lên bục của kẻ có tội, tội nghiệt vì đã với quá tầm tay mình. Walderma là điểm đẹp nhất của câu chuyện này dù nó được viết bởi một nữ sĩ và trung tâm câu chuyện cũng về một cô gái đáng thương. Nhưng Walderma bằng những phẩm giá cao quý và sự kiên định trong tình yêu lại khiến tôi có ấn tượng sâu đậm nhất. Chàng đẹp đẽ tài hoa. Chàng ngông nghênh cao quý. Chàng tự do tự tại. Chàng là tất cả những gì đẹp nhất ở một người đàn ông đáng kính mà tôi có thể tưởng tượng ra. Mỗi khi chàng dịu dàng gọi Xtefchia thân yêu bằng những tiếng "em yêu quý của anh" "em vàng ngọc của anh" rồi "em duy nhất của anh" trái tim tôi như cũng muốn tan chảy ra thành nước. Sống với một người như thế, được yêu bởi một người như thế thử hỏi còn gì hạnh phúc hơn? Thế nhưng tình yêu không chỉ là chuyện của hai người mà còn là mối bận tâm của dòng tộc, thậm chí của toàn bộ giới quý tộc Ba Lan. Định kiến giai cấp truyền từ đời này sang đời khác không cho phép đại công tử Walderma cao quý, người của gia tộc từng có nhiều vị nắm các chức sắc quan trọng được yêu một cô Xtefchia nhỏ bé vô danh, một cô thôn nữ tầm thường. Hệt như khi xưa thứ giai cấp ác nghiệt ấy đã dùng lý do đó để chia lìa ông của Walderma và bà của Xtefchia. Tôi nhớ mãi giây phút Walderma cất tiếng đòi quyền lợi cho tình yêu của mình rằng "ngoài tên họ, vọng tộc, gia huy và toàn bộ cái khung trang trọng này, cháu còn có trái tim và tâm hồn, những thứ mang ít nhiều khát vọng cá nhân chứ không phải khát vọng của gia tộc. Nó khao khát đôi điều gì đó, chỉ để cho riêng mình mà thôi. Không bao giờ cháu muốn hy sinh những tình cảm của mình để giữ lấy cái khung. Chỉ người phụ nữ cháu yêu thương mới có thể trở thành vợ cháu." Và chàng đã làm đúng như điều chàng nói. Không ai có thể ngăn được chàng cưới Xtefchia về làm vợ. Chàng yêu mãnh liệt như lửa, chàng dùng chính ngọn lửa ấy thiêu trụi mọi khó khăn luôn muốn trói buộc chàng. Thế nhưng Xtefchia của chàng rốt cuộc cũng chỉ là một cô gái yếu đuối bình thường. Ngay trước ngày cưới cô gục ngã chỉ vì những thêu dệt đê tiện của bọn quý tộc giấu mặt vẫn muốn chia rẽ mối duyên giữa cô và đại công tử Walderma. Cô tin vào chúng. Cô bị chúng ám ảnh. Cô được yêu nhưng cô không dám yêu. Trong khi vị hôn phu của cô làm tất cả để hai người được ở bên nhau thì cô khuất phục, chấp nhận lui bước trước khó khăn và để lại phía sau lưng một đám cưới mãi mãi không thể tiến hành. Xtefchia là một cô gái đáng thương nhưng tôi dẫu có thế nào cũng không thể tha thứ cho cô vì đã bỏ cuộc hèn nhát như thế. Bởi tôi đã hân hoan bao nhiêu cho đám cưới của cô. Bởi tôi đã vui mừng bao nhiêu khi biết cô và Walderma sẽ có được hạnh phúc trọn đời. Đại công tử Walderma chắc chắn còn hân hoan hơn tôi gấp ngàn lần. Vì chàng yêu cô, yêu "em duy nhất" của chàng xiết bao. Vậy mà dũng khí để đấu tranh cô cũng không có. Cô được giải thoát khỏi mọi áp lực trần gian, để lại đại công tử Walderma - người yêu cô và cô cũng yêu nhất mực sống trọn đời với nỗi tiếc nuối vì đã không bảo vệ được người mình yêu thương nhất. Những tháng ngày về sau của chàng có lẽ chỉ còn sự im lặng câm đặc, bởi hạnh phúc cuối cùng đã chết theo Xtefchia bé nhỏ mất rồi. Mời các bạn đón đọc Con Hủi của tác giả Helena Mniszek.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Amber: Kiếp Hồng Nhan - Kathleen Winsor
Có thể nói ngay, Forever Amber là một tác phẩm văn học xuất sắc của nữ văn sỹ Kathleen Winsor. Bà đã kể lại một câu chuyện xảy ra vào thế kỷ 17 tại Anh quốc, xoay quanh nhân vật nữ chính là Amber - một cô gái mồ côi - đã dùng nhan sắc và sự quyến rũ của mình để tồn tại trong xã hội đa dạng lúc bấy giờ. Cô sẵn sàng làm người tình hay vợ những kẻ giàu có, nhưng lại không có được người cô yêu. Một điều lạ của cuốn sách, đó là nó vừa được yêu thích, vừa (từng) bị cấm xuất bản ở nhiều nơi (và bị xếp vào hàng… khiêu dâm). Dù vậy, cuốn sách vẫn có sức sống mạnh mẽ và luôn nằm trong danh sách tiểu thuyết hay nhất. Đoạn đời tuổi trẻ của Amber vùi dập trong chuỗi ngày mê muội, trong sự vùng vẫy để đạt điều cô mong ước. Những biến cố lịch sử có thật cũng được thể hiện sinh động dọc theo quãng đời của cô. Vừa dũng cảm lại vừa lẳng lơ, Amber có những lúc “lên voi” trong giới thượng lưu, thậm chí cả triều đình, và có những khi “xuống chó” phải đổi thân xác để có miếng ăn. Một trong những sự kiện khiến cho câu chuyện mang hơi thở thật của bối cảnh là trận dịch hạch kinh hoàng tại London. Qua đó cũng chứng tỏ tình yêu mãnh liệt và sự dũng cảm của Amber. Suốt đoạn đời được mô tả trong tác phẩm, Amber yêu và chỉ yêu Bruce Carlton. Kết thúc câu chuyện, Amber bắt đầu một hành trình vô vọng đến Hoa Kỳ để tiếp tục tìm kiếm Bruce, người đã lập gia đình với một cô gái khác. Hình như bản dịch tôi đọc là từ bản tiếng Pháp, cho nên tác giả đặt tựa là “Ambrơ” (theo Ambre). Sau này tôi có thấy sách được tái bản. Một cuốn sách không thể bỏ qua, tuy nhiên, cùng nguyên nhân với lệnh cấm từng dành cho nó tại nhiều nơi, tôi nghĩ nó chỉ thích hợp với người trên 20 tuổi (hoặc hơn nữa). * *   * Từ một cô gái bị khinh thường nơi miền quê, Amber trở thành một mệnh phụ phu nhân quyền quý. Amber St. Clare sinh ra đã mất mẹ và không bao giờ được biết mặt cha. Từ đó, cô bé lớn lên trong sự ganh ghét, dè bỉu của những người xung quanh, ngoại trừ tình yêu của cô Sarah tốt bụng. Cuộc gặp gỡ với Bruce Carlton năm cô 16 tuổi, khi anh cùng đoàn kỵ sĩ của Nhà vua đi ngang qua làng Marygreen, đã thực sự đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời cô. Cô dành cho anh tất cả tình yêu sâu đậm, cháy bỏng và cuồng nhiệt… Cô theo anh đến Luân Đôn và không ngờ rằng trong suốt 10 năm sau đó cô phải trải qua biết bao biến động của thời cuộc và nhất là những thay đổi ghê gớm của cuộc đời mình. Xã hội dạy cho cô cách thức để vượt qua những hiểm nguy, gian khó, kể cả những ngày tháng kinh hoàng và khủng khiếp nhất. Amber không ngần ngại trước mọi thứ có thể đem lại cho cô tình yêu, tiền tài và danh vọng. Từ một cô gái bị khinh thường nơi miền quê, Amber trở thành một mệnh phụ phu nhân quyền quý, một nữ bá tước… và hơn thế nữa là một quận chúa được nhà vua đặc biệt sủng ái. Cô đã có tất cả những gì cô muốn, ngoại trừ một điều thiêng liêng nhất - đó là tình yêu và một mái ấm gia đình thật sự với người đàn ông mình rất yêu… *** Mùa xuân năm ấy khô ráo và bụi bặm. Trời ít mưa. Tuy nhiên đến tháng Năm, trên các cánh đồng xung quanh Luân Đôn phủ đầy những tấm thảm đỏ chói của cây chĩa ba, hoa mào gà lớn, những đàn ong vo ve, những cánh đồng lúa xanh rì. Ngoài phố lại vang lên tiếng rao: - Trái anh đào chín đỏ đây! Hoa tường vi đây! Ai muốn mua hoa oải hương của tôi nào! Khu Mậu dịch lóng lánh những bộ áo mùa hè, vải ga mỏng, vải có vân sóng, đủ màu sắc: vàng lưu hoàng, mận, Thổ Nhĩ Kỳ, hồng tươi. Thời tiết nắng đẹp, gió mát thổi tới. Trong suốt năm, không có tin tức nào làm người ta sôi sục và tức giận bằng tin đồn là York đã cải hóa sang Công giáo. Không ai có thể chứng minh được việc đó; quận công từ chối không chấp nhận, trừ Charles lẽ ra phải biết rõ thì chỉ nhún vai, từ chối không để liên lụy đến mình. Tất cả những kẻ thù của quận công mưu mô với nhau chặt chẽ hơn; trong lúc đó người ta nhận thấy quận công York và Arlington bỗng trở nên rất thân với nhau. Điều đó càng có ảnh hưởng đến tin đồn một cuộc liên minh Pháp - Anh, vì Arlington đã từ lâu có thiên vị với Hòa Lan, bị nghi ngờ bản thân ông là công giáo, hoặc dù sao thì cũng có cảm tình với công giáo. Những lời đồn đại đó lan truyền nhanh chóng trong thành phố, Charles khó che giấu được nỗi bất bình của mình và có mấy lời nhận xét về sự không kín đáo của dân tộc Anh. Tại sao họ không bằng lòng được cai trị bởi những người làm nghề đó? Mẹ kiếp! Làm vua cũng chẳng hay gì hơn một anh làm bánh hoặc anh thợ lợp nhà. Có lẽ ông học một nghề còn tốt hơn! Không còn nghi ngờ gì nữa; nếu vua không kết hôn một lần nữa, York chỉ cần sống lâu, sẽ nối nghiệp vua Charles. Hoàng hậu đã lại sẩy thai lần thứ tư vào cuối tháng Năm. Một con cáo đói đã liếm mặt trong khi bà đang ngủ, làm bà hoảng sợ và mấy giờ sau bà mất đứa con! Buckingham đã thuê các thầy thuốc khẳng định là hoàng hậu không bao giờ có con được nữa, nhưng Charles không muốn nghe. Vua và hoàng hậu, cả hai đều sầu não, Catherine không còn chút nghi ngờ gì nữa, mình là người bất hạnh nhất trong tất cả các người đàn bà: một hoàng hậu tuyệt sản. Nhưng Charles vẫn tiếp tục cả quyết chống lại mọi góp ý làm Người phải xa vợ. Lòng trung thực hay nỗi thờ ơ, người ta không sao hiểu được! Ở trong triều có nhiều thiếu phụ mà những cuộc tranh luận về một hoàng hậu mới hướng vào đấy, gây ra những mối lo ngại. Dù sao thì Barbara Palmer cũng nghe với một nụ cười thích thú và ranh mãnh. Bởi vì, không còn là nhân tình của vua, vị trí của bà không còn may rủi nữa. Dần dần mối quan hệ của bà với Charles dịu đi. Họ giống như cặp vợ chồng, thờ ơ lẫn nhau, tổ chức một cuộc sống yên lành, không cãi cọ, ghen tuông, không giận hờn, vui sướng. Họ tìm thấy ở những đứa con của họ một lợi ích chung; và bây giờ giữa hai người xuất hiện một thứ tình bạn mà họ không thấy vào thời họ yêu nhau. Bà không còn ghen tuông với các nhân tình của Người, và Người thì vui lòng hả dạ thấy đã thoát được những cơn thay đổi tính nết đột ngột của bà. Charles vui thích đứng xa quan sát tính thất thường và nỗi yếu đuối của Barbara. Amber thấy sốt ruột, cô tống cho Almsbury rất nhiều thư hỏi xem anh có nghe nói gì về Carlton không. Mỗi lần cô đều nhận được trả lời với cùng một ý. Almsbury không còn biết gì hơn, người ta đợi Bruce vào tháng Tám hoặc tháng Chín, làm sao mà có thể cụ thể hơn được với cuộc hành trình trên mặt biển? Amber không sao có thể nghĩ đến việc khác. Lại một lần nữa, nỗi khát vọng cũ đau đớn và say mê lại trào dâng trong lòng cô. Tuy nhiên cô quyết định là lần này phải có thái độ đàng hoàng và đúng nghi thức. Cô sẽ đứng hơi xa để nhường cho chàng đi những bước đầu. Đó là cách tốt nhất để giữ một người đàn ông. Cô tự trách mình: “Ta cứ luôn luôn như là một người hầu hèn mọn của chàng: nhưng lần này sẽ khác hẳn. Dù sao thì bây giờ ta cũng đã là một bà lớn rồi, một bà quận chúa, và chàng mới chỉ là nam tước. Bất kể thế nào, cũng phải để chàng bắt đầu trước!” Cô biết là vợ chàng sẽ đi theo chàng, nhưng cô không lo lắng đến việc ấy. Bởi vì nhất định Bruce Carlton không phải là người đàn ông phô trương một tình yêu thái quá đối với vợ. Điều đó chỉ đúng với bọn trưởng giả vô học thức, còn đối với một người quý phái có kể chi đến vợ mà không dám đi ra ngoài không gươm! Hai vợ chồng Almsbury trở lại Luân Đôn hồi tháng Bảy để thu dọn nhà cửa, thuê một số người hầu mới và chuẩn bị đón những người khách quý đang sốt ruột chờ mong. Almsbury đến thăm Amber, cô quyết định giữ thái độ thản nhiên, nói huyên thuyên về nhiều vấn đề tước vị của cô, tòa nhà lớn cô đang xây, những vị khách cô sẽ mời chủ nhật tới. Almsbury mỉm cười nghe cô nói và gật đầu tán thưởng, không hề đả động đến Bruce. Câu chuyện của Amber chậm dần lại. Cô có vẻ phân vân, rồi cuối cùng biết là anh trêu mình, cô cảm thấy bực, bèn hỏi: - Thế nào, có tin tức gì không? - Tin tức à? Để tôi suy nghĩ đã, con ngựa cái đen của tôi, mà em vẫn cưỡi đấy, mới đẻ một chú ngựa con tuần trước và… - Quỷ nó bắt anh đi! Tại sao anh cứ để em phải chết dần thế này? Hãy nói em nghe, anh biết những gì? Khi nào anh ấy tới? Nàng cũng đi theo chứ? - Tôi không biết gì hơn những điều đã viết cho em, vào khoảng tháng Tám hoặc tháng Chín. Phải, nàng cũng sẽ tới. Tại sao? Em không sợ nàng à? Amber liếc cặp mắt dữ tợn nhìn anh; cô khinh khỉnh nhại lại: - Sợ nàng? Almsbury, anh tò mò thật! Đề nghị anh cho biết vì sao tôi lại sợ nàng? - Cô ngừng lại rồi hùng hổ nói tiếp - Vả lại tôi đã hình dung được rất rõ ả rồi, ả Corinna ấy! - Thật hả? - Almsbury lễ phép nói. ... Mời các bạn đón đọc Amber: Kiếp Hồng Nhan của tác giả Kathleen Winsor.
Thời Bi Tráng - Nguyễn Văn Thịnh
Nửa sau thế kỷ XX là thời kỳ biến động lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Vì độc lập, tự do và thống nhất tổ quốc, người Việt Nam liên tục phải đương đầu với những thế lực bành trướng lớn nhất trong lịch sử loài người. Thành thị là nơi hợp lưu người tứ xứ. Nhưng mỗi nơi hình thành những đặc trưng cư dân khác nhau. Người Hà Nội là đặc trưng của nền văn hóa sông Hồng, tiêu biểu là nền văn hóa Thăng Long. Qua những biến thiên thời cuộc, người Hà Nội trải khắp theo chiều dài đất nước và tỏa đi tứ xứ, tiếp thu nhanh văn minh thời đại. Kết hợp truyền thống văn hóa Đại Việt họ luôn hướng về cội nguồn dân tộc, góp phần xứng đáng vào việc bảo vệ tổ quốc để dân tộc trường tồn. Thời Bi Tráng là tiểu thuyết về thời kỳ lịch sử ấy. Truyện là chuỗi hồi ức sống động mang nét sử thi với nhiều nhân vật vương bóng nhũng con người thật, nổi chìm theo sự đổi thay trong bối cảnh thời gian và không gian đất nước rộng dài. Dưới thể tiểu thuyết chính luận xã hội, những sự kiện và diễn biến thời cuộc được sưu tầm cẩn trọng, phong phú, công phu gần với tiến trình lịch sử. Tác giả sinh ra và lớn lên ở đất Hà Thành và trôi nổi theo dòng thác biến động xã hội lớn lao suốt mấy mươi năm từ Bắc vào Nam, lòng còn mang đậm ký ức tuổi thơ về cố đô Thăng Long. Những kỷ niệm của tuổi ấu thơ ngọt ngào và tuổi thanh xuân buồn vui trong khói lửa chiến tranh cùng cuộc sống xô bồ trong buổi giao thời. Những sự kiện ngày một mờ đi. Những con người ngày càng vắng bóng. Nhưng những dấu tích còn vương lại nơi trang sách, họa là chút gợi nhớ với lớp chứng nhân và gợi cảm với lớp người sau về một quá khứ bi hùng... *** Hà Nội, mùa thu Mậu Tuất 1958. Vào một buổi trưa, cuối đê La Thành đầu ô Đống Mác, trên con đường trải đá xanh lởm chởm, một người tàn tật mặc quân phục, đội chiếc mũ gắn ngôi sao vàng quân hiệu điều khiển chiếc xe lăn quanh quẩn nhiều lần, đưa mắt dò tìm khắp hai dãy phố. Trời bỗng sầm tối lại. Cơn dông ập tới. Con lốc xoáy chạy dọc trên đê cuốn theo khối bụi mịt mù lẫn rác và lá bay lả tả. Những giọt mưa nặng hạt đập lộp bộp rải rác lưa thưa trên những mái nhà, tán lá. Người ta nháo nhác chạy tìm chỗ trú. Anh thương binh dừng xe, cúi gằm xuống, một tay ghì cần lái, một tay giữ chặt mũ cho gió khỏi giật đi. Những hạt mưa mau hơn rải đều lan ra phát lên tiếng rào rào hỗn tạp. Đám mây như con trâu đen trũi ầm ầm chạy qua, đuổi theo sau lại là khoảng trời quang đãng mênh mông rực nắng. Anh thương binh ngẩn ngơ nhìn trước nhìn sau lại thủng thỉnh cho xe đi dò dẫm. Cơn mưa bóng mây ào ào chợt đến, chợt đi. Lại vang lên những tiếng người gọi nhau í ới, những tiếng còi và chuông xe đủ loại pin… pin! kính… coong! ếp ... ếp! và những tiếng thét vội vã cáu kỉnh tục tằn của cuộc sống phố phường thường nhật. Bầu trời lại hiện ra cao ngất ngằn ngặt trong xanh với những áng mây trắng muốt mỏng tang nhởn nhơ đuổi nhau bay về phía chân trời. Anh thương binh dừng xe trước Nhà máy nước, ngại ngùng nhìn con dốc đối diện bên một ngôi nhà tầng cất dở dang nhưng vẫn trưng tấm biển Nhà hộ sinh to tướng. Mấy người đàn ông đứng lơ ngơ quanh đó chạy tới vồn vã hỏi: - Đồng chí bộ đội tìm ai hay muốn vào trong làng? - Vâng! Tôi vào làng trong. Họ xúm nhau lại khiêng cả anh thương binh cùng chiếc xe xuống dốc và ríu rít thân mật hỏi : - Đồng chí bị thương à? - Đồng chí vào nhà ai? Có việc gì không? - Xin cảm ơn các bác! Tôi về nhà tôi. Giọng anh run run và đôi tay anh lập cập điều khiển chiếc xe bon bon như chạy. Con đường làng quen thuộc đây! Những viên gạch dày cộp mòn trũng mấp mô. Dưới gánh nặng của thời gian, rìa đường từng mảng nứt trĩu xuống như muốn rời ra. Con sông Tô Lịch làm ranh giữa làng trong với làng ngoài đôi bờ hẹp lại, nông toèn, đen đặc, tỏa ra một không khí nặng nề. Anh thương binh nhẹ tay đẩy, thủng thẳng nhận ra từng địa danh dấu tích: Đây là hồ Trung! Bên đây là hồ Cổ Ngựa! Mấy đứa trẻ con tò mò nhìn anh xa lạ. Mấy người lớn ngờ ngợ nhưng chiếc xe đã lăn qua khiến họ chưa kịp nhận ra người cũ. Đình làng Hương Thể mình đây! Đình chùa đều bị chiến tranh tàn phá, hơn chục năm rồi vẫn là mái ngói mái tranh tạm bợ trên cốt tường cũ loang lổ gió sương. Cái giếng trước cổng chùa ngày nào nước trong xanh là thế, cả làng ra đây gánh nước về ăn, giờ chỉ còn là cái ao toen hoẻn đặc bèo tổ ong xám ngoét. Cổng đình xưa cao to ngất ngưởng uy nghi giờ là một khoảng trống thông thống với đường làng. Cây đa phủ bóng rợp sân đình, rễ của nó làm bật tung lên những viên gạch lát mòn. Anh dừng xe áp sát vào khúc tường tào xá sứt mẻ rêu phong, hướng ra hồ Đình, ngày xưa có kệ gạch xây rộng lắm. Chiều chiều lớp nhỏ và các anh lớn ra đây vẫy vùng thỏa thích, bây giờ lềnh bềnh những mảng bèo tây. Cái giếng thơi to tướng giữa sân đình đã bị san phẳng đi rồi, mấy đứa trẻ quần nhau một quả bóng bưởi, nhễ nhãi mồ hôi… Anh ngửa mặt nhìn lên tán đa cổ kính già nua, không để ý có người dừng lại dõi nhìn theo. Tiếng ai hỏi làm anh giật mình quay lại: - Ai như là Nghĩa… phải không? Anh bỏ mũ ra. Người ta chạy lại, xúm quanh, nhận ra người làng mình, tíu tít: - Thằng Nghĩa! - Anh Nghĩa! - Cậu Nghĩa! - Cháu nội cụ Hai Mùi! - Con ông Hai Nhàn… Ông ấy chết sớm lắm! - Cháu gọi ông Ba Thanh bằng chú đấy! - Sao đến bây giờ mới về? - Tưởng chết ở mãi đâu rồi chứ! Thấy anh tần ngần, một người giải thích: - Những ngày đầu kháng chiến, lính Pháp nã vãi đạn pháo vào làng, người chết rải rác khắp nơi. Sau nó tràn vào, bắt người sống quăng xác người chết xuống giếng đình nên dân làng phải lấp đi! Nghĩa dần nhận ra từng người nhưng anh không thể trả lời những câu hỏi dồn dập được. Mấy đứa trẻ sấn tới xăm xăm đẩy xe đi: - Chú bộ đội… thương binh về nhà ai? Người ta theo nhau dặn với: - Đất nhà cụ Hai Mùi ở dọc hồ Dài! - Ông Ba Thanh giờ ở… trên phố! - Bà Gái… à bà Bình ấy là cháu nội còn ở đấy! Chiếc xe chạy băng băng dưới sức đẩy của đám trẻ háo hức nhiệt tình và tranh nhau hỏi: - Chú bộ đội bị thương ở đâu thế? - Chú có đánh trận Điện Biên không? - Chú còn đi được nữa không? - Chú không có vợ con à? - Chú Úy hay là Tá? - Là lính… trơn! – Anh trả lời bâng quơ. Một đứa ra vẻ người lớn, giải thích: - Chú giấu sao được bọn cháu. Đi bộ đội lâu thế, bị thương nặng thế, “bốn túi chân trì” lại được cấp xe riêng… bét cũng phải là Đại úy! ... Mời các bạn đón đọc Thời Bi Tráng của tác giả Nguyễn Văn Thịnh.
Đi Tìm Chiếc Bình Graal - Vincent Watelet
Chiếc bình thiêng có tên là Graal trong đó đã chứa những giọt máu quý giá của Đấng Cứu Thế vào ngày Chúa tử nạn trên cây thánh giá để cứu vãn những nỗi khổ của loài người. Một thiên thần đã đọc cho Joséphé viết nên câu chuyện này. Đến lượt tôi, tôi lại kể các bạn nghe để các bạn biết sự thật về những hiệp sĩ và những con người thần thánh qua các cuộc phiêu lưu kỳ lạ đầy nguy hiểm của mình đã làm thế nào để cuối cùng chinh phục được chiếc bình Graal. Vào thời kỳ Chúa tử nạn trên cây thánh giá, ở Jérusalem có một người tốt bụng và chính trực tên là Joséphé d’ Arimathie, ông đã đi theo Chúa trên tất cả các chặng đường đau khổ của Người. Nghe nói chính Joséphé đã hứng những giọt máu chảy ra từ những vết thương của Chúa vào trong chiếc bình Graal, chiếc bình thiêng này được giữ và lưu truyền trong gia đình Joséphé từ đời cha sang đời con trong thời gian rất dài. Rồi một hôm, chiếc bình Graal, sau khi đã chu du qua nhiều đại dương, được mang tới nước Anh do một người cháu họ lâu đời của Joséphé, mà người ta chỉ biết dưới tên gọi "Vua Câu Cá". Vị vua này không trị vì như các vị vua khác trên trái đất mà cho xây tại một nơi bí mật một lâu đài rộng mênh mông xứng đáng lưu giữ chiếc bình thiêng, sau đó giam mình trong lâu đài để cầu nguyện. ít lâu sau một vị vua mới lên ngai vàng vương quốc Anh, tức là vua Arthur. *** Perceval đi ngựa lâu lắm, hy vọng cuối cùng tìm được lâu đài vua Câu Cá. Trên đường, chỗ nào chàng cũng nhìn thấy những dấu hiệu của cái ác cái xấu đang hoành hành trong vương quốc: trang trại bị cháy rụi, nhà tu bị phá phách, đất đai hoang tàn... Lòng chàng đau đớn trước những thảm họa này và càng mong mau chóng đạt tới mục đích của cuộc tìm kiếm. Nhưng mãi vẫn chẳng thấy lâu đài Graal đâu cả... Một hôm, trong khi cứ lang thang như vậy không biết đi đâu thì chàng gặp cô gái trọc đầu, người đã để lại tấm khiên ở lâu đài Camelot mà hiện chàng đang mang, giữa có chữ thập đỏ chót. - Xin chào hiệp sĩ, - cô nói. - Ta chưa bao giờ gặp nhau, ấy thế nhưng tôi xin bảo đảm với chàng rằng số phận chúng ta ràng buộc chặt chẽ với nhau. Không! Xin chàng đừng nói gì hết! -.Cô vội nói khi Perceval định cất lời. - Tôi biết chàng là ai và chàng đang đi tìm cái gì. Vì vậy chàng hãy nghe tôi nói. Một thử thách cuối cùng đang chờ đợi chàng. Chắc chàng đã nghe tên tay hiệp sĩ ác Long và các hiểm họa hắn gây ra quanh lâu đài Camelot. Chàng phải thắng bằng được tên hiệp sĩ Dragon Argent này mà muốn vậy chàng hãy mau chóng trở lại Camelot. - Đã bao lần rồi, kể từ lâu lắm, tôi cứ phải rời xa mục đích đã dắt dẫn cuộc đời tôi! - Per-ceval kêu lên. Chàng bỗng thấy mình vô cùng mệt mỏi. - Chàng hãy tin tôi, con đường chàng tìm phải đi qua những cuộc giao tranh mới tới được, - cô gái trọc đầu nói rồi bỏ đi. - Hỡi chàng hiệp sĩ được chúa Trời ban phúc, ta sẽ gặp nhau sau! Perceval hiểu rằng từ nay đời chàng không còn thuộc về mình nữa, chàng phải nhất nhất tuân theo các hiệu lệnh đưa ra trước mặt mình. Mà cuộc gặp gỡ này là một trong những hiệu lệnh ấy. Chàng bèn theo con đường dẫn về lâu đài Camelot và tới đây sau nhiều ngày đường. Gau-vain và Lancelot, mới trở lại đây từ chưa lâu lắm đón tiếp chàng rất nồng nhiệt và khi nghe chàng bày tỏ động cơ trở lại Camelot họ nhất trí chàng làm như vậy là đúng. - Xin thề với ngôi mộ của Chúa, lưỡi kiếm này sẽ cùng lưỡi kiếm của bạn đâm xuyên thân mình tên hiệp sĩ Dragon Argent! - Lancelot hứa. - Và kiếm của tôi cũng vậy! - Gauvain phụ họa. Những thể hiện của tình bằng hữu ấy làm tâm hồn Perceval mạnh mẽ thêm, chàng quyết định cả ba ngay sáng sớm hôm sau sẽ lên đường đương đầu với tên hiệp sĩ đang phá hoại cả vùng đó. Ngày hôm sau họ tỉnh dậy thì đã thấy tất cả các hiệp sĩ Bàn Tròn tập trung trong sân lâu đài và xin với họ cho đi cùng. Nhưng Perceval từ chối chỉ để Lancelot và Gauvain đi theo mình. Họ phóng ngựa rất lâu, rời khu rừng ra vùng đồng bằng rộng lớn, từ đây ra đến biển không bao xa. Vừa tới gần bờ biển thì một thầy tu mình đầy máu lại gần họ. - Thưa các ngài, xin các ngài hãy chọn con đường khác và đi xa vùng bờ biển này ra! Bởi vì trên hòn đảo trước mặt các ngài kia là lâu đài.của tên hiệp sĩ Dragon Argent, không ai thoát được hắn đâu! Ba hiệp sĩ trấn an thầy tu và hỏi xem có thể kiếm thuyền ở đâu. Thấy ba chàng kiên quyết như thế ông thầy tu đưa họ đến một chỗ có thể xuống thuyền lên đảo. ... Mời các bạn đón đọc Đi Tìm Chiếc Bình Graal của tác gi Vincent Watelet.
Tôi Là Lưu Nhảy Vọt - Lưu Chấn Vân
“Tôi là Lưu Nhảy Vọt” là cuốn tiểu thuyết hài dí dỏm mang đậm phong cách của nhà văn Trung Quốc - Lưu Chấn Vân. Nội dung xoay quanh câu chuyện mất túi xách của anh đầu bếp Lưu Nhảy Vọt. Trong khi đi tìm, gã lại nhặt được một chiếc túi khác. Bí mật trong chiếc túi này liên quan đến tính mạng của một số nhân vật thuộc tầng lớp trên trong xã hội. Lưu Nhảy Vọt lập tức trở thành mục tiêu săn tìm của bọn họ. Gã giống như một chú cừu vô tình lạc vào giữa bầy sói. Sự xuất hiện của chú cừu làm thế giới trở nên không kiểm soát nổi... kéo theo bao tình huống nực cười và mở ra muôn mặt đời thường của đủ mọi dạng người trong xã hội, từ chủ thầu xây dựng tới giám đốc công ty có bà vợ hay ghen, cô ca sĩ bày trò chán ăn để tạo scandal, ông Bộ trưởng. Một cuộc kiếm tìm đầy thú vị về chiếc túi xách với số tiền mặt và giấy ghi nợ trị giá hơn 3 vạn tệ của người tình vợ Lưu Nhảy Vọt đền bù cho ông chồng bị cắm sừng… sẽ lôi cuốn độc giả hết từ bất ngờ này tới bất ngờ khác. Tiểu thuyết xuất bản tại Trung Quốc tháng 11 - 2007, bán được 40.000 bản ngay trong 02 tháng đầu phát hành. Tác phẩm được chuyển thể thành phim truyện nhựa cùng tên do nữ đạo diễn Mã Lệ Văn thực hiện, bắt đầu công chiếu tại nước này từ ngày 18.1.2008, với sự tham gia của các ngôi sao: Tần Hải Lộ, Lí Dị Tường, Cao Quần Thư, Trần Đại Minh... Bộ phim nhanh chóng lập kỷ lục về doanh thu với hơn 10 triệu tệ chỉ sau 3 ngày đầu công chiếu. *** Mọi bi kịch đều không có chỗ cho sự lựa chọn. Trong bi luôn có hài. Lưu Chấn Vân. Gã đồng hương với Tưởng Giới Thạch lấy ngón tay cái và ngón giữa chụm vào nhau thành hình chữ O giơ lên, đầu gật gù, miệng nói giọng quan thoại Chiết Giang. Thế thì đúng rồi. Mọi căn nguyên đều từ chuyện sảy thai mà ra, chứ không hề liên quan đến tuổi thơ và người mẹ của Cù Lợi. Điều mà Cù Lợi lo lắng không phải là Nghiêm Khắc, cũng không phải bản thân, cũng chẳng phải cả thế giới, mà là con cái. Kiểm tra quần lót của Nghiêm Khắc vì sợ chồng có con với người đàn bà khác. Rồi lại bắt đầu chiến tranh lạnh. Chỉ vì mỗi chuyện đầu tóc mà cãi nhau loạn lên với các hiệu làm đầu xung quanh, ấy là để xả cơn phiền muộn ra ngoài. Càng ăn càng béo là vì tâm lý đã đập bát thì đập cho tan luôn. Rồi tiến tới, căn nguyên của bệnh cũng chẳng phải ở chuyện con cái nữa, mà là sợ mình không có con, sau này, tài sản sẽ rơi vào tay ai. Nói cách khác, là tiền. Đã tìm ra nguyên nhân, tay bác sĩ cảm thấy nhẹ nhõm, khoan khoái hẳn. Bản thân Cù Lợi, lẽ ra, cũng nên thấy nhẹ nhõm mới phải, nhưng không, cô ta càng trầm cảm, u uất hơn. Bởi cô ta không có cách nào giải quyết căn nguyên này. Vốn không đến mức lo lắng cho thế giới như thế, nhưng giờ đây, Cù Lợi lại càng lo lắng hơn. Vốn dĩ điều làm cô ta lo lắng là cả thế giới, nhưng sau khi nghe lời mách bảo của bác sĩ, dần dần, nỗi lo lắng của Cù Lợi tập trung cả vào một mình Nghiêm Khắc. Hơn lúc nào hết, cô ta để ý đến nhất cử nhất động, mỗi lời nói, việc làm của Nghiêm Khắc ở bên ngoài. Cô ta cũng biết, sự lo lắng và kiểu để ý thái quá như vậy rất dễ phản tác dụng. Cũng có thể, điều mà cô ta cần chính là sự phản tác dụng. Muốn dùng sự phản tác dụng, dùng sự bùng nổ, dùng kết quả tồi tệ nhất, dùng sự giết người, dùng sự máu chảy thành sông để chứng minh cái sai không phải ở mình, đồng thời, đổ hết trách nhiệm cho đối phương và thế giới. Ngày trước, cô ta lo Nghiêm Khắc có người đàn bà nào đó ở bên ngoài. Bây giờ, Nghiêm Khắc chẳng có người đàn bà nào ở bên ngoài cả, điều ấy lại làm cô ta thấy không yên tâm. Có khi, Nghiêm Khắc vụng trộm ở ngoài càng nhiều lại càng tốt. Càng nhiều, càng làm cho mong ước của cô ta sớm thành hiện thực. Chuyến đi Thượng Hải lần này vốn không phải để khám bệnh, mà là một thói quen. Hôm qua, một bạn ruột của Cù Lợi gọi điện thoại mách chuyện báo đăng ảnh Nghiêm Khắc chụp với cô ca sĩ sao. Bạn ruột của Cù Lợi cũng là vợ của một gã nhà giàu, to béo phục phịch. Đương lúc cảm khái, giọng bà bạn có phần hưng phấn. Điều ấy lại giúp Cù Lợi nhận rõ bộ mặt thật của bà bạn ruột. Cũng thuộc dạng người lúc nào cũng mong bạn mình gặp xúi quẩy. Loại tâm lý có vấn đề. Nhưng bà bạn ruột không hề biết rằng, khi biết tin này, Cù Lợi không hề buồn bã, mà trái lại, cũng hưng phấn như bà bạn ruột. Giống như ngựa chiến khi ngửi thấy mùi sa trường và máu, là máu trong huyết quản lập tức sôi sục. Nhưng trong điện thoại, Cù Lợi lại làm ra vẻ khổ tâm, cũng có ý để cho bà bạn mắc lừa. Thực sự, cô ta đã sẵn sàng cho sự kìm nén. Cô ta muốn nuốt trọn quả mật đắng và liều thuốc độc này. Núi lửa tích tụ càng lâu, thì lửa phun ra càng dữ dội. Máy bay chở Cù Lợi đáp xuống sân bay thủ đô Bắc Kinh. Nghiêm Khắc tất tưởi ra đón vợ, trong tay cầm một tờ báo. Cù Lợi biết, Nghiêm Khắc cố làm ra vẻ thật thà để che giấu sự thật, chiếm lấy tiên cơ. Sau khi lên ô-tô, Cù Lợi ngồi ôm con chó cưng, còn Nghiêm Khắc thì giở tờ báo ra, chỉ cho vợ xem bức ảnh, rồi giải thích: - Mình có tin hay không thì tùy. Nhưng lúc ấy tôi đang mua khoai lang, không để ý cô ta là ai. Ý đồ quá lộ liễu của chồng chợt làm Cù Lợi sôi giận. Vốn không muốn mắc bẫy của bà bạn ruột, nhưng giờ đây Cù Lợi lại sập bẫy. Cơn giận đã định kìm nén, bỗng chốc bùng lên. Cù Lợi nói: - Mình việc gì phải căng thẳng thế? Để tôi đến hiện trường hỏi han là ra hai năm rõ mười ngay ấy mà. - Chuyện từ hôm qua, ai người ta nhớ? Cù Lợi mặc kệ, bảo lái xe đi thẳng đến đoạn phố trong ảnh. Nhưng mụ làm như vậy lại vừa vặn mắc lừa Nghiêm Khắc. Nghiêm Khắc không phải muốn che giấu quanh co, mà muốn khuất phục đối phương một cách mềm mỏng. Điều gã ta mong đợi chính là để Cù Lợi đến hiện trường. Trước đây, Cù Lợi từng đến những hiện trường khác, làm gã cứ nơm nớp. Nhưng lần này thì khác. Mọi việc đều đã được cắt đặt kỹ lưỡng. Đến mức, gã lo mình đã mất công đạo diễn một vở kịch như thế. Gã không phải muốn nhân dịp này để phủ định việc mình đã làm, mà là để phủ định cả con người Cù Lợi. Nghiêm Khắc cũng vào vai, làm ra vẻ bất đắc dĩ: - Mình thích thế nào thì tùy. Rồi cùng Cù Lợi đến con phố hôm qua. Lưu Nhảy Vọt vốn rất tự tin, nhưng khi trông thấy Cù Lợi và Nghiêm Khắc xuống xe, vở kịch bắt đầu mở màn, gã bỗng thấy có chút căng thẳng. Dù sao, trước đây, gã cũng chưa từng bao giờ diễn kịch, càng chưa từng diễn cuộc sống. Diễn cuộc sống, té ra, còn khó hơn cả diễn kịch.   Mời các bạn đón đọc Tôi Là Lưu Nhảy Vọt của tác giả Lưu Chấn Vân.