Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

AI CẬP SINH TỬ KỲ THƯ

Ai Cập sinh tử kỳ thư là cẩm nang chỉ dẫn cho linh hồn hướng tới sự bất tử của Ai Cập cổ đại. Trong đó, "Bản thảo của Ani" là cuốn bản thảo ghi chép hoàn chỉnh nhất nội dung của Ai Cập sinh tử kỳ thư. Theo như những gì ghi chép trong cuốn sách, cuộc hành trình mà linh hồn phải trải qua để được bất tử sau khi chết thật ly kỳ và lắm gian nan. Sau khi người ta ta chết đi, linh hồn của họ sẽ trở về cõi âm, sau đó đi qua từng con đường nhỏ âm u dưới sự hướng đạo của thần chỉ dẫn và chiến thắng các loài ma quỷ đáng sợ. Trong quá trình tôi luyện này, chính linh hồn cũng không ngừng trưởng thành, họ dần dần hồi phục được các khả năng như khi còn sống , đồng thời cũng có được các phép màu thần thông...

Ai Cập sinh tử kỳ thư là cẩm nang chỉ dẫn cho linh hồn hướng tới sự bất tử của Ai Cập cổ đại. Trong đó, "Bản thảo của Ani" là cuốn bản thảo ghi chép hoàn chỉnh nhất nội dung của Ai Cập sinh tử kỳ thư. Theo như những gì ghi chép trong cuốn sách, cuộc hành trình mà linh hồn phải trải qua để được bất tử sau khi chết thật ly kỳ và lắm gian nan. Sau khi người ta ta chết đi, linh hồn của họ sẽ trở về cõi âm, sau đó đi qua từng con đường nhỏ âm u dưới sự hướng đạo của thần chỉ dẫn và chiến thắng các loài ma quỷ đáng sợ. Trong quá trình tôi luyện này, chính linh hồn cũng không ngừng trưởng thành, họ dần dần hồi phục được các khả năng như khi còn sống , đồng thời cũng có được các phép màu thần thông...

Ai Cập sinh tử kỳ thư - Đồ giải được biên soạn dựa theo tác phẩm nổi tiếng nói trên của người Ai Cập. Tác giả đã tiến hành giải thích những lời kinh sâu xa, khó hiểu, làm rõ mối quan hệ của từng nội dung, đồng thời xâu chuỗi chúng lại thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Nét đặc sắc của cuốn sách là đã sử dụng khá nhiều hình minh họa quý giá trong "Bản thảo của Ani", tiến hành giải thích theo trình tự của lời kinh để ý nghĩa rõ ràng và người đọc có thể nắm bắt các nội dung một cách dễ dàng hơn.

Ai Cập sinh tử kỳ thư - Đồ giải được biên soạn dựa theo tác phẩm nổi tiếng nói trên của người Ai Cập. Tác giả đã tiến hành giải thích những lời kinh sâu xa, khó hiểu, làm rõ mối quan hệ của từng nội dung, đồng thời xâu chuỗi chúng lại thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Nét đặc sắc của cuốn sách là đã sử dụng khá nhiều hình minh họa quý giá trong "Bản thảo của Ani", tiến hành giải thích theo trình tự của lời kinh để ý nghĩa rõ ràng và người đọc có thể nắm bắt các nội dung một cách dễ dàng hơn.

“Ani đứng trước một cái cân khổng lồ bằng vàng, nơi mà vị thần có cái đầu chó – Anubis – đang cân trái tim của chàng với một cái lông đà điểu thuần khiết”. Ani là một nhân vật có thật, một người thơ lại ở thành phố Thebes, Ai Cập sống vào khoảng thế kỷ 13 TCN. Và những gì được mô tả ở trên là một cảnh tượng trong cuốn Ai Cập sinh tử kỳ thư (Sách của người chết) của chàng, một cuộn giấy cói dài 24 mét được viết để giúp chàng đạt tới sự bất tử. Loại “điếu văn” này vốn chỉ được viết cho các Pharaoh, nhưng cùng với thời gian, người Ai Cập bắt đầu tin rằng kể cả người thường cũng có thể đến được kiếp sau nếu họ hoàn thành được cuộc hành trình. Hành trình thần thánh của Ani bắt đầu từ cái chết của chàng. Thân thể chàng được một nhóm tu sĩ đem đi “ướp xác”, bằng cách lấy mọi cơ quan nội tạng ra khỏi cơ thể, chỉ trừ lại trái tim, nơi tập trung cảm xúc, trí nhớ và sự thông thái. Sau đó, cơ thể được nhồi bằng một thứ muối gọi là natron và được gói lại trong 1 tấm vải tẩm nhựa thông. Ngoài ra, tấm vải bọc còn được yểm và bên trên trái tim còn đặt thêm một lá bùa hình con bọ hung, thứ mà sau mày sẽ cần dùng tới. Mục đích của quá trình kéo dài 2 tháng này là để bảo quản thi hài của Ani ở dạng hoàn hảo nhất để linh hồn của chàng về sau có thể nhập trở lại. Nhưng trước hết, linh hồn đó phải qua được “duat”, hay gọi là “âm phủ”. Đây là một vương quốc với các hang động rộng lớn, hồ lửa và những cánh cổng thần kì, tất cả đều được gác bởi những con quái vật đáng sợ như rắn, cá sấu, và những quái vật nửa người, có tên, ví dụ, như “kẻ tắm máu”. Để khiến mọi thứ kinh khủng hơn, Apep, vị thần hủy diệt hình con rắn khổng lồ, luôn nấp trong bóng tối, chờ cơ hội nuốt linh hồn của Ani. May mắn thay, Ani đã chuẩn bị trước các pháp thuật, ghi trong cuốn sách của mình. Như những người Ai Cập khác, Ani ghi trong cuộn giấy của mình những thần chú, lời kinh và mật mã mà chàng nghĩ rằng linh hồn chàng sẽ cần đến. Với những vũ khí này, người hùng của chúng ta vượt qua mọi trở ngại, đẩy lùi những cuộc tấn công của quái vật và khéo léo tránh được Apep, đến được tới Sảnh của Ma’at, nữ thần của sự thật và công lý. Ở đây, Ani đối mặt với thử thách cuối cùng. Chàng bị phán xét bởi 42 vị thần, những người sẽ phán xét xem liệu chàng đã sống một cuộc đời ngay thẳng hay chưa. Ani tới chỗ từng người, gọi họ bằng tên riêng, và nói ra một tội chàng chưa từng phạm phải. Trong những lời thú nhận hay khẳng định mình vô tội này, chàng tuyên bố rằng chưa từng làm ai khóc, không phải là kẻ rình mò, và chưa từng làm ô uế nguồn nước. Ani thực sự có một cuộc đời hoàn hảo đến như vậy? Không hẳn, nhưng đây là lúc lá bùa bọ hung phát huy tác dụng. Lá bùa có ghi dòng chữ “Đừng làm chứng chống lại ta”, như vậy trái tim chàng sẽ không phản bội lại chàng bằng việc gợi lại lần chàng nghe lỏm người hàng xóm cãi nhau hay rửa chân ở dòng sông Nile. Giờ mới là giây phút quyết định của Ani, cuộc “cân trái tim”. Nếu trái tim chàng nặng hơn chiếc lông vũ, tức là nó đã bị kéo xuống bởi những điều sai trái của Ani, nó sẽ bị cắn xé bởi con quái vật Ammit, nửa cá sấu, nửa báo và nửa hà mã, và Ani sẽ bị biến mất mãi mãi. Nhưng Ani đã gặp may. Trái tim chàng được phán là thuần khiết. Ra, vị thần mặt trời, đưa chàng tới chỗ Osiris, vị thần âm phủ, người cuối cùng sẽ cho phép Ani bước sang thế giới bên kia. Trên cánh đồng lau bất tận và tươi tốt, Ani gặp lại cha mẹ đã chết của mình. Nơi đây, không có nỗi buồn, đau đớn hay giận dữ, chỉ có công việc phải hoàn thành. Như những người khác, Ani phải trồng trọt trên mảnh đất của mình, việc này chàng được trợ giúp bởi con búp bê Shabti đặt trong mộ của chàng. Ngày nay, cuộn giấy của Ani được trưng bày ở bảo tàng Anh, nơi ở của nó kể từ năm 1888. Chỉ có mình Ani biết được điều gì đã diễn ra sau khi chàng chết. Nhưng nhờ có Cuốn sách của chàng, ta có thể tưởng tượng ra chàng vẫn mãi mãi canh tác trên cánh đồng của mình.

“Ani đứng trước một cái cân khổng lồ bằng vàng, nơi mà vị thần có cái đầu chó – Anubis – đang cân trái tim của chàng với một cái lông đà điểu thuần khiết”.

Ani là một nhân vật có thật, một người thơ lại ở thành phố Thebes, Ai Cập sống vào khoảng thế kỷ 13 TCN. Và những gì được mô tả ở trên là một cảnh tượng trong cuốn Ai Cập sinh tử kỳ thư (Sách của người chết) của chàng, một cuộn giấy cói dài 24 mét được viết để giúp chàng đạt tới sự bất tử. Loại “điếu văn” này vốn chỉ được viết cho các Pharaoh, nhưng cùng với thời gian, người Ai Cập bắt đầu tin rằng kể cả người thường cũng có thể đến được kiếp sau nếu họ hoàn thành được cuộc hành trình.

Hành trình thần thánh của Ani bắt đầu từ cái chết của chàng. Thân thể chàng được một nhóm tu sĩ đem đi “ướp xác”, bằng cách lấy mọi cơ quan nội tạng ra khỏi cơ thể, chỉ trừ lại trái tim, nơi tập trung cảm xúc, trí nhớ và sự thông thái. Sau đó, cơ thể được nhồi bằng một thứ muối gọi là natron và được gói lại trong 1 tấm vải tẩm nhựa thông. Ngoài ra, tấm vải bọc còn được yểm và bên trên trái tim còn đặt thêm một lá bùa hình con bọ hung, thứ mà sau mày sẽ cần dùng tới. Mục đích của quá trình kéo dài 2 tháng này là để bảo quản thi hài của Ani ở dạng hoàn hảo nhất để linh hồn của chàng về sau có thể nhập trở lại. Nhưng trước hết, linh hồn đó phải qua được “duat”, hay gọi là “âm phủ”.

Đây là một vương quốc với các hang động rộng lớn, hồ lửa và những cánh cổng thần kì, tất cả đều được gác bởi những con quái vật đáng sợ như rắn, cá sấu, và những quái vật nửa người, có tên, ví dụ, như “kẻ tắm máu”. Để khiến mọi thứ kinh khủng hơn, Apep, vị thần hủy diệt hình con rắn khổng lồ, luôn nấp trong bóng tối, chờ cơ hội nuốt linh hồn của Ani. May mắn thay, Ani đã chuẩn bị trước các pháp thuật, ghi trong cuốn sách của mình. Như những người Ai Cập khác, Ani ghi trong cuộn giấy của mình những thần chú, lời kinh và mật mã mà chàng nghĩ rằng linh hồn chàng sẽ cần đến. Với những vũ khí này, người hùng của chúng ta vượt qua mọi trở ngại, đẩy lùi những cuộc tấn công của quái vật và khéo léo tránh được Apep, đến được tới Sảnh của Ma’at, nữ thần của sự thật và công lý. Ở đây, Ani đối mặt với thử thách cuối cùng. Chàng bị phán xét bởi 42 vị thần, những người sẽ phán xét xem liệu chàng đã sống một cuộc đời ngay thẳng hay chưa. Ani tới chỗ từng người, gọi họ bằng tên riêng, và nói ra một tội chàng chưa từng phạm phải. Trong những lời thú nhận hay khẳng định mình vô tội này, chàng tuyên bố rằng chưa từng làm ai khóc, không phải là kẻ rình mò, và chưa từng làm ô uế nguồn nước. Ani thực sự có một cuộc đời hoàn hảo đến như vậy? Không hẳn, nhưng đây là lúc lá bùa bọ hung phát huy tác dụng. Lá bùa có ghi dòng chữ “Đừng làm chứng chống lại ta”, như vậy trái tim chàng sẽ không phản bội lại chàng bằng việc gợi lại lần chàng nghe lỏm người hàng xóm cãi nhau hay rửa chân ở dòng sông Nile. Giờ mới là giây phút quyết định của Ani, cuộc “cân trái tim”. Nếu trái tim chàng nặng hơn chiếc lông vũ, tức là nó đã bị kéo xuống bởi những điều sai trái của Ani, nó sẽ bị cắn xé bởi con quái vật Ammit, nửa cá sấu, nửa báo và nửa hà mã, và Ani sẽ bị biến mất mãi mãi. Nhưng Ani đã gặp may. Trái tim chàng được phán là thuần khiết. Ra, vị thần mặt trời, đưa chàng tới chỗ Osiris, vị thần âm phủ, người cuối cùng sẽ cho phép Ani bước sang thế giới bên kia. Trên cánh đồng lau bất tận và tươi tốt, Ani gặp lại cha mẹ đã chết của mình. Nơi đây, không có nỗi buồn, đau đớn hay giận dữ, chỉ có công việc phải hoàn thành. Như những người khác, Ani phải trồng trọt trên mảnh đất của mình, việc này chàng được trợ giúp bởi con búp bê Shabti đặt trong mộ của chàng.

Ngày nay, cuộn giấy của Ani được trưng bày ở bảo tàng Anh, nơi ở của nó kể từ năm 1888. Chỉ có mình Ani biết được điều gì đã diễn ra sau khi chàng chết. Nhưng nhờ có Cuốn sách của chàng, ta có thể tưởng tượng ra chàng vẫn mãi mãi canh tác trên cánh đồng của mình.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Cú Sốc Tương Lai
Cú Sốc Tương Lai Cú Sốc Tương Lai Thư viện Sách Mới xin thiệu với bạn đọc tác phẩm Cú Sốc Tương Lai – một trong bộ ba tác phẩm nổi tiếng đã đưa tác giả của nó lên vị trí “nhà tương lai học lừng danh”. Với dung lượng thông tin đầy ắp và những dẫn chứng cụ thể, có sức thuyết phục, Cú Sốc Tương Lai đã miêu tả, phân tích và nhận định về xã hội trong khung cảnh những đổi thay đến mức kỳ lạ, làm đảo lộn lối sống, cách nghĩ của con người từ xưa đến nay; rút ra những nhận định và đặc điểm của thời đại mà chúng ta đang sống. Đưa người đọc vượt qua những phát kiến hấp dẫn của “thời kỳ bùng nổ” để đến với những giải pháp nhiều mặt về vật chất và tinh thần, về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, về mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Tư Duy Lại Tương Lai Tự Đoán Định Tương Lai Khôn Ngoan Không Lại Với Giời Đây là một cuốn sách rất hấp dẫn mà bạn không nên bỏ qua nếu như bạn là một fan của dòng sách giả tưởng (Fiction). Hy vọng bạn sẽ có những giây phút thư giãn khi đọc cuốn sách này. Thư viện Sách Mới trân trọng gửi đến bạn đọc cuốn sách Cú Sốc Tương Lai. Đừng quên chia sẻ sách cho bạn bè và đăng ký email nhận thông báo sách hay hàng tuần.
Triết Học Trong Khoa Học Tự Nhiên
Triết Học Trong Khoa Học Tự Nhiên Triết Học Trong Khoa Học Tự Nhiên Vấn đề về mối quan hệ về mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên (KHTN) nói riêng hay khoa học cụ thể nói chung, đặc biệt là vấn đề về chức năng phương pháp luận của triết học đối với khoa học cụ thể, vốn là những vấn đề hết sức quan trọng trong di sản triết học của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin. Vấn đề này cũng đã được nhiều tác giả ở nước ta bắt đầu nghiên cứu từ những năm 1960 – 1970. Vào hè năm 1965, nói chuyện ở Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước, đồng chí Phạm Văn Đồng dặn dò: “Các đồng chí cần tự rèn luyện và giúp người khác rèn luyện phương pháp và tác phong con người làm công tác khoa học và kỹ thuật, phương pháp suy nghĩ, phương pháp làm việc, phương pháp nghiên cứu, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp trình bày, và tác phong điều tra, nghiên cứu, tác phong chính xác, ”. Đối với Nhà trường đồng chí nói: “ Ở trường Đại học, điều chủ yếu là học phương pháp bên cạnh việc học được điều này điều nọ. Điều này điều nọ có người nói là sau 8 – 10 năm, có thể là sau 15 năm sẽ trở nên lạc hậu. Cái còn lại đáng quý là phương pháp. Nếu anh tự vũ trang được một phương pháp vững mạnh thì anh dùng nó suốt đời vì anh phải học mãi mãi.” (Bài nói chuyện trước Đại hội Đại biểu lần thứ tư Hội liên hiệp học sinh đại học Việt Nam). Như vậy, ngay từ những thập niên 1960 – 1970, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã thấy rõ được tầm quan trọng của việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Triết học Mác và Các Khoa học cụ thể, và chỉ có việc nắm vững, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo những tư tưởng về các vấn đề này của các tác gia kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin mới có thể thực hiện được những vấn đề mà các đồng chí lãnh đạo đã dặn dò. Triết học tác động vào KHTN trước tiên là thông qua thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Như chúng ta đã biết, V.I.Lênin đã nói đến ý nghĩa to lớn của phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác đối với KHTN.
Tâm Thức Luyến Ái
Tâm Thức Luyến Ái Tâm Thức Luyến Ái – Erich Fromm Tâm Thức Luyến Ái muốn gây xác tín cho độc giả rằng mọi cố gắng của mình cho tình yêu đều phải tan vỡ, trừ phi mình cố gắng rất hăng nồng cho phát triển nhân cách toàn diện của mình để rồi hoàn thành một chiều hướng phong phú Bạn sẽ hiểu rằng mình không thể đạt được sự thỏa mãn trong tình yêu cá biệt nếu không có khả năng yêu thương người láng giềng của mình, nếu không có những đức khiêm tốn, -dũng cảm, tín thành và kỷ luật thật sự. Trong một nền văn hóa mà những tức tính này hiếm có, sự thành đạt khả năng yêu thương chắc chắn còn là một công trình họa hiếm. Hoặc giả, ai cũng có thể tự hỏi mình rằng đã có bao nhiêu người thực sự yêu thương. Nhưng, sự khó khăn của công việc ấy hẳn không phải là một lý do ngăn cản cố gắng nhận thức những khó khăn cũng như những điều kiện để kiện toàn nó. Mặt Dày Tâm Đen Tình Dục Học Đại Cương Tâm Lý Vợ Chồng Để tránh những phức tạp không cần thiết, tôi đã cố gắng đề cập vấn đề trong một ngôn ngữ không chuyên môn, tùy trường hợp có thể . Với cùng lý do ấy, tôi cũng đã tham khảo một ít văn chương viết về tình yêu. Tuy nhiên Tâm Thức Luyến Ái không hẳn chỉ là một tóm lược. Nó trình bầy nhiều ý tưởng bên ngoài những ý tưởng đã được diễn tả trước đây, và hẳn nhiên ngay cả những ý tưởng cũ hơn đôi khi lại mang những viễn tượng mới vì rằng chúng thảy đều qui tụ quanh một chủ điểm duy nhất : nghệ thuật về tình yêu.
Đường Về Nô Lệ
Đường Về Nô Lệ Đường Về Nô Lệ Đường Về Nô Lệ của F. A. Hayek, một trong những kinh tế gia và tư tưởng gia xuất sắc nhất của thế kỷ XX, có thể được xem như là cuốn “cẩm nang” hàng đầu để giải quyết những vấn nạn này cho xã hội Việt Nam hôm nay. Những khó khăn mà người Việt Nam chúng ta đã trải nghiệm trong thời kỳ kế hoạch hoá đã được Hayek nhìn thấy trước từ cách đây hơn 60 năm khi ông cảnh báo những hậu quả xấu nhất có thể xảy ra cho nước Anh nếu đất nước này áp dụng cơ chế hoạch định tập trung sau thế chiến II. Khi phương tiện sản xuất bị quốc hữu hoá, và mọi thứ đều phải tuân theo những kế hoạch cứng nhắc do trung ương áp đặt xuống thì động lực sáng tạo của các cá nhân sẽ bị mai một và hậu quả tất yếu là nền kinh tế của quốc gia sẽ bị suy yếu, và bất mãn trong xã hội ngày càng tăng. Những gì nền kinh tế Việt Nam phải trải qua trong giai đoạn áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước khi đổi mới, chẳng hạn khan hiếm lương thực thực phẩm – điều khó có thể tưởng tượng được một đất nước được xem là vựa lúa của thế giới, có lẽ là minh chứng rõ ràng nhất cho những tiên đoán của Heyek trên khía cạnh này. Triết Học Hiện Sinh Triết Học Mỹ Kinh Dịch Trọn Bộ Nhưng kinh tế không phải là lĩnh vực duy nhất là cơ chế kế hoạch hoá tập trung gây ra hệ quả xấu. Thực ra trong cuốn Đường về nô lệ, Hayek chỉ điểm qua các tác động thuần tuý kinh tế của cơ chế này. Ông chỉ ra rằng trong cuộc sống không thể tách rời “động cơ kinh tế” ra khỏi các mục tiêu khác mà con người muốn hướng tới vì một khi chúng ta không có cơ hội đạt mục tiêu khác. Khi cơ chế kế hoạch hoá tập trung ngăn cản các cá nhân quyền tự tìm kiếm thu nhập và sử dụng tài sản của mình cho những mục đích riêng tư tất dẫn đến những tác động tiêu cực về mặt đạo đức, thái độ, lối sống và cách ứng xử của con người, mặc dù sự thay đổi này diễn ra từ từ và gần như không thể nhận ra được.