Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Chơi Khăm Ngài Triệu Phú

Trong Vụ chơi khăm ngài triệu phú, Arsène Lupin đã dựng lên một kế hoạch tinh vi nhằm lấy trộm chiếc vương miện của ngài Gourney-Martin. Cũng giống như mọi lần, trước khi ra tay, Lupin gửi đến cho ngài triệu phú một bức thư thách thức. Ngài triệu phú đã phải cầu viện đến cảnh sát và cậu con rể tương lai là Công tước Chamerace để chống lại gã đạo chích tinh quái. Liệu Lupin có thực hiện được trót lọt phi vụ táo bạo này? Hay anh ta sẽ phải chịu khuất phục trước lực lượng cảnh sát hùng hậu và không kém phần mưu trí? *** “Siêu trộm hào hoa”, “Hoàng tử đạo chích”, “Robin Hood của giới tội phạm”, đó là những mỹ danh được dành tặng cho một trong những nhân vật tiếng tăm nhất của dòng văn học trinh thám phiêu lưu nước Pháp: Arsène Lupin. Ra mắt độc giả vào năm 1905 dưới dạng truyện ngắn dài kỳ trên tạp chí Je sais tout, gã đạo chích thông minh, quyến rũ nhưng không kém phần hài hước và láu cá ấy đã khiến cảnh sát khốn khổ vò đầu bứt tai, cánh nhà giàu ngày đêm lo ngay ngáy vì mất của, còn công chúng thì thích thú tán thưởng và hồi hộp dõi theo những màn trình diễn đầy hấp dẫn và không thể đoán trước kết cục. *** Arsène Lupin là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong loạt truyện thám tử, tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Pháp Maurice Leblanc, cũng như một số phần tiếp theo và rất nhiều phim truyền hình, phim điện ảnh như Night Hood, Arsène Lupin, các vở kịch và truyện tranh phỏng theo.   Cùng thời với Arthur Conan Doyle, Maurice Leblanc (1864-1941) đã sáng tạo ra nhân vật Arsène Lupin, một nhân vật có tầm phổ biến rộng khắp và lâu dài ở các nước nói tiếng Pháp, giống như Sherlock Holmes (tải eBook) ở các nước nói tiếng Anh. Serie Arsène Lupin gồm hai mươi tập truyện được viết bởi chính Leblanc cộng thêm năm phần tiếp đã được ủy quyền cho nhóm viết của Boileau-Narcejac thực hiện, cũng như nhiều tác phẩm khác phỏng theo. Nhân vật Lupin được giới thiệu lần đầu trên tạp chí Je Sais Tout qua một loạt truyện ngắn, bắt đầu từ số thứ 6, ngày 15 tháng 7 năm 1905. Ban đầu nhân vật mang tên Arsène Lopin, nhưng vấp phải sự phản đối từ một chính trị gia trùng tên, kết quả là "Lopin" đã bị đổi thành "Lupin". Arsène Lupin là một siêu đạo chích có tài hóa trang, một tên trộm quý tộc chuyên trộm đồ của nhà giàu trong khi núp bóng quý ông lịch thiệp. Nhân vật Lupin giống với Marius Jacob nên có khi được cho là dựa trên hình mẫu này.xuất hiện trong 12 tập truyện ngắn đã cho thấy đây là một nhân vật có thể sánh ngang cùng với các nhân vật khác như Holmes cua Conan Doyle, Hercule Poirot cuả Agatha. Hình tượng Lupin đã được nhiều bộ phim nổi tiếng lấy làm mẫu nhân vật như Kaito Kid trong bộ manga nổi tiếng Thám tử lừng danh Conan (tải eBook). *** Maurice Leblanc sinh năm 1864 tại Rouen, Pháp. Tên tuổi của ông thực sự được biết tới và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả suốt hơn một thế kỷ qua nhờ series truyện dài kỳ cho tạp chí Je sais tout về nhân vật siêu đạo chích Arsène Lupin. Nhờ những cống hiến không ngừng nghỉ của mình, Leblanc đã được trao tặng Huân chương Bắc Đẩu bội tinh. Ông mất năm 1941 tại Perpignan. Dưới đây là một số tác phẩm của Maurice Leblanc được dịch và xuất bản tại Việt Nam: - Cái chết rình rập - Đối đầu Sherlock Holmes - Sa bẫy địa ngục - Những cú siêu lừa của Arsène Lupin - Những cuộc phiêu lưu của Arsène Lupin - Tám vụ phá án của Arsène Lupin - Ngôi nhà bí ẩn - Báo Thù - Nữ bá tước Cagliostro - Hòn Đảo 13 chiếc quan tài - Hai Nữ Tướng Cướp - Tam giác vàng ma quỷ - Arsene Lupin và Hồi Ức Bí Mật - Vụ Chơi Khăm Ngài Triệu Phú - Cây Kim Rỗng - Lời Thú Tội - ... *** N hững luồng ánh nắng tháng Chín tràn ngập đại sảnh lâu đài Công tước xứ Charmerace, thứ ánh nắng dịu dàng làm sáng ngời những món chiến lợi phẩm hội tụ về đây từ bao nhiêu thời kỳ và bao nhiêu xứ sở, được bài trí hỗn độn với gu thẩm mỹ gớm ghiếc thông thường là căn bệnh cố hữu của những kẻ có tiêu chuẩn giá trị duy nhất là tiền. Ánh nắng óng vàng sưởi ấm những bức tường ốp ván và những đồ đạc cũ kĩ, khiến chúng hắt sáng mờ mờ. Nó trả lại cho nước sơn son thếp vàng đang phai của những chiếc tràng kỷ và những chiếc ghế dựa thời Đế chế thứ Nhất⦾ một chút gì rực rỡ xa xưa. Nó chiếu vào cả một dãy dài các bức tranh treo trên tường, chân dung những thành viên dòng họ Charmerace đã khuất bóng, những gương mặt đàn ông hoặc lạnh lùng hoặc vui vẻ, những chiến binh, những chính khách, những công tử phong nhã hào hoa, những gương mặt phụ nữ với vẻ đẹp hoặc độc đoán hoặc hiền hòa. Nó làm các bộ áo giáp sắt bật ra những tia lấp lóe và làm các bộ áo giáp đồng hắt sáng mờ mờ. Màu sắc của những món đồ sứ quý hiếm, của những chiếc tủ ngăn kéo phong cách phương Đông hoặc Phục Hưng được chạm khảm lộng lẫy lẫn với màu sắc của các bức tranh, các tấm thảm lớn và các tấm thảm nhỏ Ba Tư đặt rải rác khắp mặt sàn bóng loáng, đem đến cho sảnh đường sự phong phú, rực rỡ sắc màu. Giữa tất cả những thứ đẹp đẽ và giá trị mà ánh nắng ấm áp làm cho vẻ đẹp bộc lộ rõ ràng hơn ấy, gương mặt một cô gái trẻ ngồi viết bên bàn, trước khung cửa sổ trải dài, mở ra bãi cỏ rộng mênh mông tuổi đời đã bao nhiêu thế kỷ nay, là thứ đẹp đẽ và giá trị nhất. Đó là một vẻ đẹp thanh khiết, gần như mong manh. Làn da trong suốt, láng mịn tựa lớp men sứ cổ, đôi gò má trắng muốt, chỉ hơi phơn phớt hồng. Chiếc mũi thẳng tắp, thanh tú, cái cằm tròn trĩnh tuyệt diệu. Một người yêu cái đẹp sẽ bối rối, không biết nên chiêm ngưỡng cặp mắt xanh trong, thật đáng yêu và dễ khiến trái tim tan chảy, hay nên chiêm ngưỡng cái miệng nhạy cảm, với đôi môi đầy đặn, mọc mời những nụ hôn. Tuy nhiên, anh ta chắc chắn sẽ thấy nhói lòng bởi vẻ buồn bã khôn nguôi trên gương mặt xinh đẹp ấy, cái vẻ u uẩn bâng khuâng của người Slav bị một nỗi bất hạnh, đau khổ riêng tư nhuốm đậm thêm. Mái tóc vàng mềm mại ôm lấy gương mặt cô gái trẻ. Nắng đậu xuống khiến những món tóc óng ánh. Những lọn tóc quăn nho nhỏ, không tuân theo chiếc lược, lòa xòa trước vầng trán trắng muốt, phủ lớp lông tơ óng ánh vàng. Cô gái đang viết địa chỉ lên các phong bì, bên tay trái cô là một danh sách dài dằng dặc những cái tên. Cứ viết xong địa chỉ lên chiếc phong bì nào, cô lại nhét nhanh vào đó một tấm thiệp mời đám cưới. Mỗi tấm thiếp in hàng chữ: Ngài Gournal-Martin hân hạnh thông báo với quý vị đám cưới của con gái ngài, tiểu thư Germaine và Công tước xứ Charmerace. Cô gái viết đều đều, hết phong bì này tới phong bì khác, chồng phong bì mỗi lúc một dày lên trước mặt cô, sẵn sàng để được đưa tới bưu điện. Nhưng thỉnh thoảng, khi mấy người con gái đang chơi tennis ngoài bãi cỏ – mặt mũi ửng đỏ, tươi cười – cao giọng hơn bình thường đọc điểm số, khiến cô mất tập trung vào công việc, ánh mắt cô lại lang thang nhìn ra qua cửa sổ, rầu rầu dừng ở mấy người con gái kia, và khi ánh mắt cô trở về với nhiệm vụ của mình, cô bâng khuâng thở dài, khẽ khàng đến nỗi cô hầu như chẳng biết là mình vừa thở dài nữa. Rồi một giọng gọi to vang lên từ bãi cỏ: “Sonia! Sonia!” “Vâng, thưa chị Germaine.” Cô gái đang viết trả lời. “Trà! Em gọi trà, nhé!” Cô gái hét lên, giọng nóng nảy, khá gay gắt đối với tai người nghe. “Vâng, thưa chị Germaine.” Sonia đáp, viết nốt địa chỉ đang viết dở, rồi đặt chiếc phong bì lên chồng phong bì đã sẵn sàng để được đưa tới bưu điện. Cô đi ngang qua căn phòng, tới trước chiếc lò sưởi lớn lâu đời, rung chuông. Cô đứng bên lò sưởi một lúc, cắm lại bông hồng bị rơi từ lọ hoa xuống bệ lò sưởi, tư thế của cô với hai cánh tay vươn lên cắm lại lọ hoa bộc lộ nét duyên dáng của cái cơ thể mảnh dẻ. Cô vừa buông tay xuống thì người hầu bước vào. “Ông làm ơn đem trà ra nhé, Alfred.” Sonia nói bằng giọng trong ngần, thánh thót như chuông, món quà quý giá nhất tạo hóa ban cho chỉ một vài nữ diễn viên xuất sắc nhất. “Cho mấy người, thưa cô?” Alfred hỏi. “Cho bốn người, trừ phi ông chủ của ông đã về.” “Ồ, chưa. Ông ấy chưa về, cô ạ. Ông ấy đi Rennes ăn trưa bằng xe hơi, mà Rennes thì cách đây nhiều dặm đường. Phải một tiếng đồng hồ nữa ông ấy mới về được.” “Còn Công tước, ngài ấy cưỡi ngựa dạo chơi chưa về, phải không?” “Vâng, cô ạ.” Alfred đáp rồi quay đi. “Hẵng khoan.” Sonia nói. “Tất cả gia nhận đã gói ghém xong hành lý để đi Paris rồi chứ? Ông biết đấy, mọi người sẽ phải khởi hành sớm. Tất cả đám hầu gái đã sẵn sàng chưa?” “À, đám đàn ông con trai đã sẵn sàng rồi, tôi biết, cô ạ. Nhưng còn đám đàn bà con gái, tôi không biết, cô ơi. Bọn họ cứ lăng xa lăng xăng suốt ngày, có điều bọn họ bao giờ cũng mất nhiều thời gian hơn bọn tôi.” “Ông bảo bọn họ khẩn trương lên, và làm ơn chuẩn bị trà nhanh nhất có thể nhé.” Sonia nói. Alfred rời khỏi căn phòng. Sonia quay lại bàn viết. Cô không cầm bút mà cầm lên một tấm thiệp mời đám cưới. Đôi môi cô chầm chậm mấp máy đọc, vẻ trầm tư, muộn phiền. Cái giọng nóng nảy, hống hách khi nãy cắt ngang sự trầm ngâm của Sonia. “Em đang làm gì thế, Sonia? Em không tiếp tục viết đi à?” Germaine Gournay-Martin cao giọng bực bội, bước qua khung cửa sổ mở sát xuống đến sàn để vào sảnh. Cô gái thừa kế hàng triệu franc nhà Gournay-Martin cầm chiếc vợt tennis trong tay, đôi má vốn hồng hào càng hồng hào hơn vì vừa chơi thể thao. Đó là một cô gái xinh đẹp theo kiểu đỏ đắn, dễ thu hút sự chú ý, có phần lồ lộ, rất đối lập với vẻ đẹp thanh khiết của Sonia. Môi cô ta hơi mỏng quá, mắt không sâu chút nào, hai điều này kết hợp lại đem đến cho cô ta một vẻ khá khắc nghiệt, hoàn toàn tương phản với gương mặt dễ thương, hiền hậu của Sonia. Hai cô bạn vừa chơi tennis với Germaine theo cô ta vào sảnh: Jeanne Gautier – vóc người cao ráo, làn da tối màu, vàng vọt, có vẻ gì như hiểm độc và Marie Bullier – thấp, tròn, tầm thường và ủy mị. Bọn họ đi tới trước bàn Sonia đang ngồi viết. Marie chỉ chồng phong bì, hỏi: “Tất cả đây đều là thiếp mời đám cưới à?” “Ừ. Mà mới tới được vần V.” Germaine nói, cau mày với Sonia. “Công nương de Vernan… Công tước phu nhân de Vauvineuse… Hầu tước… Hầu tước phu nhân? Cậu mời cả quận Faubourg Saint-Germain ấy nhỉ!” Marie nói, xáo trộn chồng phong bì vẻ ghen tị. “Cậu hầu như sẽ chẳng biết ai vào với ai ở đám cưới của cậu.” Jeanne khúc khích cười đầy ác ý. “Xin lỗi các cậu.” Germaine nói vẻ khoe khoang. “Hôm trước, phu nhân de Relzières – chị họ chồng sắp cưới của tớ – đã tổ chức một buổi tiếp khách tại gia để tỏ lòng yêu quý tớ đấy. Ở buổi tiếp khách, bà ấy đã giới thiệu tớ với cả nửa Paris, cái thành phố Paris mà tớ chắc chắn sẽ quen thuộc, cái thành phố Paris mà các cậu sẽ thấy trong phòng khách của tớ.” “Nhưng bọn tớ sẽ chẳng còn xứng đáng làm bạn cậu khi cậu trở thành Công tước phu nhân Charmerace.” Jeanne nói. “Tại sao?” Germaine hỏi, rồi vội vã nói thêm: “Việc quan trọng nhất này, Sonia, đừng quên Veauléglise, 33 phố Đại Học… 33 phố Đại Học.” “Veauléglise, 33 phố Đại Học.” Sonia nói, lấy một chiếc phong bì mới và bắt đầu điền địa chỉ. “Khoan, khoan. Đừng đóng phong bì vội. Tôi đang phân vân không biết Veauléglise phải được đánh một dấu thập, hai dấu thập hay ba dấu thập.” Germaine nói với vẻ cực kỳ quan trọng. “Thế nghĩa là thế nào?” Marie và Jeanne đồng thanh kêu lên. “Một dấu thập có nghĩa là mời tới lễ nhà thờ, hai dấu thập có nghĩa là mời tới đám cưới và ăn sáng, ba dấu thập có nghĩa là mời tới đám cưới, ăn sáng và lễ ký giấy giá thú. Các cậu nghĩ nên dành cho Công tước phu nhân Veauléglise mấy dấu thập? “Đừng hỏi tớ. Tớ chưa có hân hạnh quen biết bà phu nhân cao quý đó.” Jeanne kêu lên. “Tớ cũng vậy.” Marie nói. “Tớ cũng vậy mà.” Germaine nói theo. “Nhưng tớ có ở đây danh sách khách khứa của Công tước phu nhân Charmerace đã quá cố, mẹ Jacques. Hai bà phu nhân này ngày trước hết sức thân thiết với nhau. Ngoài ra, Công tước phu nhân Veauléglise mặc dù đã sức tàn lực kiệt nhưng vẫn rất được ngưỡng mộ vì lòng sùng đạo. Bà ấy đi dự lễ sớm ở nhà thờ mỗi tuần ba lần.” “Thế thì đánh ba dấu thập.” Jeanne nói. “Tớ thấy không nên.” Marie nói nhanh. “Ở vị trí của cậu, bạn yêu quý, tớ sẽ không liều lĩnh để xảy ra sơ suất. Tớ sẽ hỏi ý kiến chồng sắp cưới của tớ. Anh ta hiểu biết cái xã hội này mà.” “Trời đất, chồng sắp cưới của tớ! Anh ta cóc quan tâm đến những chuyện kiểu này đâu. Bảy năm qua, anh ta đã thay đổi nhiều. Chứ bảy năm trước, anh ta coi mọi việc trên đời đều chẳng có gì hệ trọng. Anh ta đã lên đường đi thám hiểm Nam Cực chỉ để gây ấn tượng với mọi người. Ôi, ngày xưa, anh ta đích thực là một bậc công tước.” “Còn ngày nay?” Jeanne hỏi. “Ôi, ngày nay, anh ta là một kẻ kề rà kề rề, rất đỗi bình thường. Những chuyện thù tiếp khiến anh ta khó chịu. Anh ta nghiêm trang y như ông quan tòa vậy.” Germaine trả lời. “Ngài ấy hết sức vui vẻ mà.” Sonia bất ngờ phản đối. Germaine bĩu môi nói với Sonia: “Ồ, anh ta cũng vui vẻ ra phết đấy, mỗi khi anh ta bỡn cợt mọi người. Nhưng những lúc khác thì anh ta nghiêm trang y như ông quan tòa vậy.” “Cha cậu ắt hẳn hài lòng với sự thay đổi này.” Jeanne nhận xét. “Đương nhiên cha tớ thấy hài lòng rồi. Hôm nay cha tớ đang ăn trưa với ông Bộ trưởng, chủ đề bàn bạc duy nhất là tặng thưởng huân chương cho Jacques đấy.” “Chà, được huân chương Bắc Đẩu bội tinh thì tuyệt.” Marie nói. “Bạn yêu quý! Huân chương Bắc Đẩu bội tinh đối với những người thuộc tầng lớp trung lưu thì tuyệt, nhưng đối với một bậc công tước thì không phù hợp đâu!” Germaine kêu lên. Alfred mang khay trà vào, đặt lên chiếc bàn nhỏ gần chiếc bàn Sonia đang ngồi viết. Germaine cảm thấy mình quan trọng tới mức không thể ngồi yên, cứ đi đi lại lại xung quanh phòng. Bỗng nhiên, cô ta dừng phắt lại, chỉ một bức tượng bằng bạc đặt trên chiếc đàn piano, hỏi: “Cái gì thế này? Tại sao bức tượng này lại ở đây?” “Sao vậy nhỉ? Khi chúng ta vào đây, nó ở trên chiếc tủ ngăn kéo, chỗ thường lệ của nó mà.” Sonia nói, có phần kinh ngạc. “Ông đã vào sảnh lúc chúng tôi chơi ngoài vườn à, Alfred?” Germaine hỏi ông già gia nhân. “Không ạ, thưa cô.” Alfred đáp. “Nhưng ắt hẳn một kẻ nào đó đã vào đây.” Germaine khăng khăng. “Tôi không nghe thấy có ai vào. Còn lúc nãy thì tôi ở dưới bếp ạ.” Alfred nói. “Chuyện này hết sức kỳ quặc.” Germaine nhận xét. “Kỳ quặc thật đấy!” Sonia nói. “Tượng không có chân mà tự di chuyển chỗ này chỗ kia được.” Tất cả mọi người nhìn chằm chằm vào bức tượng, như thể họ chờ cho bức tượng lại ngay tức khắc di chuyển, trước mắt họ. Rồi Alfred đặt nó trở về vị trí cũ trên một chiếc tủ ngăn kéo, đoạn rời khỏi căn phòng. Sonia rót trà, mấy cô con gái vừa uống trà vừa dông dài bàn luận về đám cưới sắp sửa diễn ra, về việc sẽ mặc váy áo ra sao, về những món quà Germaine đã nhận được. Chuyện này nhắc nhở cô ta hỏi Sonia xem có ai từ ngôi nhà của cha cô ta ở Paris gọi điện đến chưa, Sonia trả lời là chưa có ai gọi cả. “Thật bực mình quá!” Germaine nói. “Thế tức là hôm nay chưa có ai gửi quà cho tớ.” Cô ta vừa bĩu môi vừa nhún vai với dáng vẻ của đứa bé vốn vẫn được cưng chiều, chẳng phù hợp với một thiếu nữ hai mươi ba tuổi đã hoàn toàn trưởng thành. “Hôm nay là Chủ nhật. Các cửa hiệu không giao đồ vào Chủ nhật ạ.” Sonia nhẹ nhàng nói. Nhưng Germaine vẫn bĩu môi chẳng khác nào đứa bé hư. “Chàng Công tước hay ho của cậu không đến uống trà với bọn mình à?” Jeanne hơi sốt ruột hỏi. “Ồ, phải rồi. Tớ đang đợi anh ta tới lúc bốn rưỡi. Anh ta phải cưỡi ngựa dạo chơi với hai anh em nhà du Buit. Họ cũng sẽ đến uống trà đấy.” Germaine nói. “Cưỡi ngựa dạo chơi với anh em nhà du Buit? Nhưng bao giờ vậy?” Marie hấp tấp kêu lên. “Chiều nay.” Mời các bạn đón đọc Vụ Chơi Khăm Ngài Triệu Phú của tác giả Maurice Leblanc.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Mẹ - Maxim Gorky
Người mẹ là tác phẩm viết về hiện thực xã hội nước Nga trong những năm đầu thế kỷ 20, khi giai cấp vô sản Nga đang chuẩn bị tiến hành cuộc cách mạng Nga lần thứ nhất. Tác phẩm vẽ ra trước mắt chúng ta bức tranh rộng lớn của xã hội Nga những năm đầu thế kỷ 20 với cái quá khứ nặng nề trong đời sống của vợ chồng bác công nhân Mikhain, với cái hiện tại đấu tranh gian khổ và anh dũng của mẹ con anh công nhân Paven… Đồng thời, tiểu thuyết còn gợi lên niềm tin chắc chắn về thắng lợi tất yếu của những người lao động chân chính với chế độ chuyên chế. Hình ảnh kết thúc của tiểu thuyết, “cảnh người mẹ bị bắt cầm tù” gợi nên trong lòng người đọc nhiều ám ảnh, nhiều xót xa nhưng nó làm cho người đọc lạc quan, tin tưởng ở ngày mai. *** Macxim Gorki (1864 – 1934) là nhà văn vĩ đại của giai cấp vô sản, là ngọn cờ đầu của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc đời hoạt động văn học gần nửa thế kỷ, ông đã để lại một sự nghiệp chói lọi, một di sản sáng tác khổng lồ, nó là niềm tự hào của nhân dân Nga và của cả loài người tiến bộ. Truyện ngắn Macxim Gorki có sự kết hợp hài hoà yếu tố lãng mạn và hiện thực. Ở đó có sự gắn bó máu thịt của ông với nhân dân và đất nước qua các giai đoạn cách mạng. Trong truyện ngắn Macxim Gorki bộc lộ niềm khao khát tự do và ca ngợi ý chí hào hùng, bất khuất của con người, phơi bày tính chất tàn bạo của chế độ xã hội – chính trị trước cách mạng, cái chế độ giết chết mọi cái có sức sống trong con người; quá trình trăn trở, tự ý thức đầy gian khổ của các tầng lớp “dưới đáy” để vươn tới sự đổi đời; đề cao và thi vị hoá lao động: phê phán lối sống và tâm lý ươn hèn của tầng lớp trí thức tiểu tư sản và tư sản; những truyện ngắn triết lý, những truyện có tính chất tự thuật… Danh tiếng của Gorky như giọng văn học duy nhất từ những tầng lớp đáy xã hội và như một người ủng hộ nhiệt thành cho cuộc cải cách xã hội, chính trị và văn hoá Nga (tới năm 1899, ông công khai liên kết với phong trào Dân chủ xã hội Mác xít) khiến ông trở nên nổi tiếng trong cả giới trí thức và số lượng ngày càng gia tăng các công nhân "có ý thức". Ở trung tâm của mọi tác phẩm của ông là một niềm tin ở giá trị vốn có và khả năng của con người (личность, lichnost'). Ông đưa ra các cá nhân đầy sức sống, nhận thức về phẩm giá tự nhiên của họ, và có cảm hứng từ nhiệt tình và ý chí của họ, những người chống lại các điều kiện sống đang ngày càng tồi tệ đi quanh mình. Tuy nhiên, cả các tác phẩm cũng như những bức thư của ông cho thấy một "con người không ngừng nghỉ" (một người thường xem xét lại mình) đấu tranh để giải quyết những tình cảm về đức tin và thái độ hoài nghi trái ngược bên trong, tình yêu cuộc sống và sự phẫn nỗ với sự tầm thường và nhỏ mọn của thế giới con người. Mời các bạn đón đọc Người Mẹ của tác giả Maxim Gorky.
Một Lễ Cưới Khác Thường - Jules Verne
Ngôi thứ nhất, Henri Vidal, kể lại câu chuyện mình từ Pháp sang Hungary dự đám cưới em trai Marc, lấy một cô gái bản xứ là Myra Roderich. Tuy nhiên đám cưới bị sự ngăn trở của Wilhelm Storitz, tình địch của Marc, đã bị gia đình Roderich từ chối. Hắn ta đã đe dọa sẽ dùng những "quyền lực siêu nhiên, vượt khả năng chống cự của con người" để can thiệp. Vậy lễ cưới có diễn ra được không, mời các bạn theo dõi. Tác phẩm này của Jules Verne tuy không hấp dẫn và nổi tiếng như các tác phẩm khác của ông như Hai vạn dặm dưới biển, Tám mươi ngày vòng quanh thế giới... nhưng cũng đáng để đọc qua một lần. Trong những tác phẩm khác, các máy móc trong trí tưởng tượng của Verne phần nhiều đã thành hiện thực thì trong tác phẩm này, khả năng "siêu nhiên" rất tiếc khoa học hiện tại đã chứng minh là "bất khả". *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. Mời các bạn đón đọc Một Lễ Cưới Khác Thường của tác giả Jules Verne.
Miền Đất Ấy - Antônio Torres
Antônio Torres sinh năm 1940 tại Junco, trong khu heo hút của vùng rừng gần như nguyên sinh của miền Bahia. Chúng ta có thể hiểu là: ông thuộc về thế hệ các nhà văn mới đã bén rễ trong vùng Nordeste[1] của quốc gia Brésil. Độc giả của Graciliano Ramos, của Jorge Amado hay Rachel de Queiroz, những bậc thầy của “tiểu thuyết xã hội xứ Nordeste” trong những năm ba mươi, sẽ nhận ra rằng miền đất dữ dội ấy không ngừng nuôi dưỡng sự tưởng tượng và sáng tạo nghệ thuật. Và những ai đã từng tin rằng dòng máu mang tính địa phương chủ nghĩa đã bị cạn kiệt cùng với sự thâm nhập tài tình của João Guimarães Rosa mà tác phẩm của ông đã biến hóa sự phong phú về chủ đề và ngôn ngữ địa phương bằng một tác phẩm cách tân mang tầm toàn cầu, sẽ nghe thấy những tiếng kêu với các trọng âm cấp thiết hơn của miền đất này mà hiện giờ đang trong cơn biến động. Junco không vang lên bên tai chúng ta như những cái tên khiến ta mê hoặc như Salvador, như Recife, Porto Seguro. Junco chẳng có gì khác biệt, không có gì đặc sắc, nó cũng tựa như hàng ngàn những ngôi làng bị hủy diệt bởi sự hoang tàn ù lì của sự đói nghèo và thi thoảng lại bị nạn hạn hán hoành hành. Và trên hết, Junco ngày nay là một vùng đất bị chính những đứa con mình bỏ rơi, những đứa con đó đã ra đi hoặc mơ mộng sẽ ra đi tới những thành phố của “phép mầu công nghiệp”, như Rio de Janeiro, Sao Paulo… Phải chăng sự phản bội ấy là nguyên nhân của tai họa mà nó hình như đè nặng lên những đứa con của vùng đất đã hy sinh vì sự tiến bộ? Mời các bạn đón đọc Miền Đất Ấy của tác giả Antônio Torres.
Mặt Trăng và Đồng Sáu Xu - William Somerset Maugham
MẶT TRĂNG VÀ ĐỒNG SÁU XU mượn một phần tiểu sử của danh họa người Pháp Paul Gauguin, một trong những họa sĩ tiên phong, một tên tuổi rất lớn và đầy sáng tạo của hội họa hiện đại, xuất hiện gần như đồng thời với sự ra đời lừng lẫy của các họa sĩ trường phái Ấn tượng. S. Maugham đã mượn câu chuyện nửa thực nửa hư về cuộc đời của nhà danh họa để trình bày những ý nghĩ của mình về Nghệ thuật, Tình yêu và Con người. Chắc hẳn ông có dựa vào quyển hồi ký của chính nhà danh họa, nhưng ở nhiều chỗ ông đã hư cấu với thủ pháp quen thuộc của mình. Ở đây chúng ta gặp lại Maugham với những chủ đề ta đã từng gặp trong hai tác phẩm kia: con người, dục vọng, nghệ thuật… Có thể nói trong cả ba tác phẩm nổi bật nhất này của mình, Maugham đều viết về sự ràng buộc mà cái bản năng lớn nhất của con người là Dục vọng (và dĩ nhiên theo nó là Tình Yêu) tác động lên nhân vật chính của tác phẩm, là những người đàn ông. Ở Of Human Bondage đó là sự ràng buộc, của dục vọng - tình yêu, trên một người bình thường. Ở The Radzor’s Edge là ràng buộc trên một người đi tìm sự giải thoát và ở The Moon and Sixpence là ràng buộc trên một nghệ sĩ thiên tài. Câu chuyện của 3 tác phẩm nói chung là mô tả cách những người đàn ông đó đã phản ứng lại sự ràng buộc kia… Khoảng năm 1972 - 1973 ở Sài gòn xuất hiện bản dịch The Moon and Sixpence dưới cái tên “Đời nghệ sĩ” (nxb Ca dao). Một nhà phê bình khó tính đã than trời về bản dịch này. Tôi tình cờ kiếm được nguyên tác ở chợ sách son trên hè phố Sài Gòn và đã kiểm chứng được lời than phiền này. Quả là một bản dịch quá tệ, tôi thử so vài trang để sửa và kết quả là mỗi trang của bản dịch được tôi sửa chi chít đen kịt, đó chỉ là với khả năng của một người có vỏn vẹn ít năm học tiếng Anh ở trường trung học. Tình cờ ít năm sau đó cũng trên hè phố bán son, tôi lại “vớ” được quyển nhật ký của Paul Gauguin dịch ra tiếng Anh với cái nhan đề The Intimate Journal. Kể cũng là duyên phận. Sách in lại nhiều bức tranh của Gauguin để minh họa. *** William Somerset Maugham là nhà văn Anh, sinh năm 1874 và sống ở Pháp cho đến khi lên mười. Học xong đại học ở Anh, ông làm thầy thuốc tại bệnh viện. Có khiếu văn chương, ông sớm bắt đầu viết tiểu thuyết và thành công với vài tác phẩm đầu tay, rồi chuyển hẳn sang sáng tác văn học. Ông nổi tiếng với hai truyện dài Kiếp người (Of Human Bondage) (1914) và Mặt trăng và đồng sáu xu(The Moon and sixpence) (1919). Trong số sách được xuất bản sau đó có: (Bức Bình phong (The Painted Veil) (1925),Quý Ngài trong phòng khách (The Gentleman in the Parlour) (1930), Don Fernando (1935), Lưỡi dao cạo (The Razor’s Edge) (1944), Sổ tay nhà văn (A Writer’s Notebook)(1949), Cách nhìn thiên vị (Points of View) (1958),… W.S. Maugham đồng thời còn là một nhà soạn kịch trứ danh với những sáng tác như: Phu nhân Frederick (Lady Frederick) (1907), Smith (1909), Đất hứa (The Land of Promise) (1913). Ông cũng là tác giả nhiều truyện ngắn rất được hoan nghênh. Toàn tập truyện ngắn của ông được tái bản nhiều lần với số lượng mấy trăm nghìn bản, ví dụ như Mưa. Trong Mặt trăng và đồng sáu xu, tác giả kể lại cuộc đời một nhà buôn cổ phần chứng khoán trở thanh họa sĩ thiên tài mà người đương thời chưa đánh giá đúng giá trị tác phẩm cho tới khi ông qua đời một cách thê thảm ở nơi đất khách quê người. Kinh doanh thành đạt, sống sung túc, được vợ con hết lòng yêu mến, Charles Strickland bất thình lình bỏ gia đình ra đi, không còn quan hệ với cái xã hội ông đã từng sống, quyết tâm hiến cả đời mình cho hội họa. Ông sống gian khổ trong nhiều năm phấn đấu không thành công ở Paris. Hoàn cảnh xui khiến, ông đi tìm môi trường sáng tác mới ở một nơi xa xôi ở cái tuổi gần năm mươi. Trên đảo Tahiti, trong một gian nhà nhỏ ở một vùng hẻo lánh, được chăm sóc bởi người vợ trẻ, ông miệt mài vẽ cho đến ngày chết vì bệnh hủi, mù cả hai mắt. Tác phẩm cuối cùng của ông là những bức tranh vẽ trên vách và trần nhà mà người được may mắn nhìn thấy đánh giá là kiệt xuất. Với tính khí khác thường vốn có, ông yêu cầu vợ đốt căn nhà, nhưng những bức tranh vẽ trên vải không đóng khung vứt lung tung trong nhà đủ cho những ai hiểu biết hội họa coi ông là một thiên tài. Mời các bạn đón đọc Mặt Trăng và Đồng Sáu Xu của tác giả William Somerset Maugham.