Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sáu Ngày Của Condor - James Grady

James Grady là nhà văn tiến bộ Mỹ. Ông sinh năm 1949 tại một thị trấn nhỏ thuộc bang Montana. Ngày nhỏ sống tại quê nhà. Sau khi tốt nghiệp đại học Montana, J. Grady trở thành nhà báo. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế trường đại học, ông đã say mê tìm hiểu các môn khoa học xã hội - chính trị và sử học. Tuy rất có năng khiếu về văn chương, nhưng J. Grady vẫn không dám sống bằng nghề cầm bút, vì ông vốn biết chắc mười mươi rằng "phàm đã là nhà văn thì khó lòng được sống một cuộc đời no đủ". Bởi thế, J. Grady xin vào làm trợ lý các vấn đề lập pháp tại Uỷ ban soạn thảo hiến pháp bang Montana. Tiếp đó, suốt nhiều năm liền ông đã làm qua đủ mọi nghề: khi thì công nhân, khi thì chuyên gia bài trừ tệ nạn phạm pháp trong trẻ em, khi thì phóng viên báo chí. Cuộc sống của ông cứ tiếp tục trôi qua như thế cho mãi đến năm 1974, năm J. Grady công bố cuốn truyện đầu tay, làm chấn động dư luận: "Sáu ngày của Condor" 1 (trong những lần tái bản sau này được đổi tên thành "Ba ngày của Condor"). Cuốn tiểu thuyết đã đem lại cho tác giả danh tiếng ấy lập tức được đạo diễn Mỹ có tên tuổi là Sydney Pollack đưa lên màn ảnh và càng làm xôn xao dư luận. Năm 1975, J. Grady cho ra mắt bạn đọc thiên tiểu thuyết thứ hai: "Cái bóng của Thần Ưng". Nhân vật chính ở đây vẫn là anh chàng Ronald Malcolm quen thuộc mà một nhà phê bình đã từng tặng cho danh hiệu là "gã điệp viên đáng mến và hấp dẫn nhất, nhưng đồng thời cũng lại là tên điệp viên khó gặp và phi hiện thức nhất trong lịch sử tồn tại của cơ quan CIA". Ngay cả khi tác phẩm đầu tay đã có tiếng vang rộng khắp, J. Grady vẫn còn nấn ná khá lâu mãi tại quốc hội Mỹ với chức vụ trợ lý của một hạ nghị sĩ. Còn hiện thời, J. Grady đang làm thư ký riêng cho một nhà báo Mỹ lừng danh. Ông chỉ sáng tác truyện trinh thám những khi rỗi việc. Các cốt truyện trong sáng tác của ông thường xây dựng trên chất hiện thực. Những gì được hư cấu hoàn toàn không phải nhằm mục đích "thêm nhưn thêm nhị" mà chỉ là phương tiện để gắn kết các biến cố thực lại với nhau cho bố cục tác phẩm được cân xứng, thật hài hoà. Năm 1980, tác phẩm thứ ba của J. Grady ra đời: "Bắt lấy ngọn gió lành". Mùa xuân năm 1981, lại một tiểu thuyết hấp dẫn nữa của nhà văn, thiên truyện thứ tư ra mắt bạn đọc: "Kẻ trốn chạy ngoài phố". Những biến cố trong "Sáu ngày của Condor" bắt đầu từ việc một nhân viên trong một tiểu ban của CIA (gọi là "Hội Văn Sử") phát hiện ra một vụ gian lận về chứng từ, sổ sách, và muốn làm "sáng tỏ", anh bèn viết một tờ trình ngắn gởi lên cấp trên. Tờ trình rơi vào tay một "ông lớn" ở Tổng hành dinh CIA. Nhân vật này cho thi hành "những biện pháp khẩn cấp nhằm huỷ diệt hết tất cả các "khoản" cùng những hồ sơ lưu trữ có liên quan đến công việc, lẫn những nhân viên của cái tiểu ban có dính đến câu chuyện nêu trong "tờ trình". Thế là ngay đêm hôm đó, nhân viên viết tờ trình bị thủ tiêu tại nhà. Và sáng hôm sau thì toàn bộ người của tiểu ban bị giết một cách thảm khốc, trừ mỗi một mình anh chàng Malcolm, vì sáng hôm đó đi vắng, nên thoát chết. Trở về trụ sở và chứng kiến cảnh giết chóc tàn khốc nọ, Malcolm với biệt danh Thần Ưng (Condor), đã dùng điện thoại báo động. Báo động! Báo động khẩn cấp! Phong toả ngay căn cứ!... Và từ đó bắt đầu cuộc săn lùng, cuộc đấu trí, chung quanh cái trục là Malcolm, "người hùng" trong một tình thế bắt buộc, như anh thú nhận: "không có con đường nào khác". Cả hai phía; phía "chính thống" và phía "buôn lậu ma tuý" đều lùng sục Malcolm, bởi vì anh là người nắm được đầu mối của cái tấn kịch khủng khiếp. Malcolm, cái anh chàng "thư lại" ấy, bỗng chốc phải đối phó với hàng trăm tình huống gay cấn - và tình huống cũng đã buộc anh phải hành động mưu trí, sáng tạo để thoát chết và để khám phá ra bọn thủ phạm vụ án. Vấn đề là trong khi hành động như thế, Malcolm cũng dần dần hiểu ra một điều cơ bản là cả hai phía săn lùng anh cùng có chung một bản chất: "Maronic là đứa giết người thuê. Malcolm bỗng nhớ lại giọng nói của những nhân viên nhà nghề ở đầu đường dây "Báo động", những người cũng y hệt như Maronic vậy. "Không", anh nghĩ bụng, - cuộc săn lùng từ trước đến giờ chỉ nhằm vào mỗi một mình mình. Vấn đề đặt ra chỉ có thế này họ chống lại mình, họ hại mình" (chương Thứ ba (đêm) - Thứ tư (Rạng sáng)). Thông qua toàn bộ câu chuyện, J. Grady cũng phơi bày được một bộ mặt bản chất của xã hội Mỹ: đó là một xã hội với những tội ác kinh điển, thường trực, một xã hội đầy dẫy bọn buôn lậu, bọn găng- xtơ thích máu, mà đối với chúng việc giết người "chỉ là công việc làm ăn, không hơn không kém" và "họ không xúc động mảy may nào về những hậu quả do họ gây nên". Điều đáng chú ý nữa là cái bọn tội phạm ấy lại chính là những nhân vật có cỡ nằm ngay trong nội bộ CIA. Đúng hơn, một số nhân vật có cỡ trong CIA đã móc ngoặc với bọn găng xtơ, làm ăn phi pháp và gây tội ác. Và việc chúng khử cả một tiểu ban của CIA một cách lạnh lùng, tàn bạo… để bịt đầu mối, đã nói lên cái bản chất của những con người trong cái công cụ đáng nguyền rủa ấy của nước Mỹ. Qua cuốn tiểu thuyết, nội tình của CIA, cái mặt trái của tổ chức cồng kềnh này, đã bị phơi trần. Nó có nội gián. Nó mọt ruỗng từ bên trong. Nó kém hiệu lực mặc dù hùng hổ. Đứng trước sự khủng hoảng, nó đối phó lúng túng. Cái gì sẽ xảy ra nếu không có anh chàng Malcolm? Nhân vật "ông già hiền hậu" chỉ là nhân vật tỉnh táo gần như duy nhất, trong trường hợp ấy cũng sẽ chẳng làm nên chuyện gì. Còn Malcolm? Anh là "người hùng" trong một tình thế bắt buộc, như anh thú nhận: "không có con đường nào khác". Cái kết thúc phần nào "có hậu"của cuốn truyện, tuy không hẳn đã phản ảnh chân xác lô- gich của xã hội Mỹ, nhưng cái kết thúc ấy cùng với phần nào cái chất lương thiện trong con người bình thường Malcolm, biểu tượng của khát vọng về lẽ phải và lòng nhân đạo của nhân dân Mỹ, đã đem lại cho người đọc cảm tình và hy vọng. Đó là một tích cực đáng nói của cuốn truyện này Hội Văn nghệ Quảng Nam - Đà Nẵng Mời các bạn đón đọc Sáu Ngày Của Condor của tác giả James Grady.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đòn Hẹn - Thế Lữ
AudioBook Đòn Hẹn   Thế Lữ, tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ) là nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động sân khấu Việt Nam. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và Máu (1934). Trở thành thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn kể từ khi mới thành lập (1934), ông hầu hết hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời cũng đảm nhận vai trò một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Truyện của Thế Lữ, theo cách xếp quen thuộc được chia làm 3 thể loại chính: truyện kinh dị (Vàng và Máu, Bên đường Thiên Lôi), truyện trinh thám (Lê Phong và Mai Hương, Gói thuốc lá, Đòn hẹn, Tay đại bợm...) và truyện lãng mạn núi rừng (Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh). Đòn Hẹn là một tác phẩm thuộc thể loại trinh thám được Thế Lữ viết năm 1937. Mời các bạn đón đọc Đòn Hẹn của tác giả Thế Lữ.
Kéo Dài Công Bằng - Cuộc Hôn Nhân Êm Ấm - Stephen King
Kéo Dài Công Bằng Trên đường về nhà, Dave Streeter bắt gặp Geogre Elvid, người đàn ông bán mọi thứ “kéo dài”, kể cả sự sống. Với một điều kiện: Streeter phải tìm cho được một người anh ta căm ghét nhất để Elvid “di chuyển” những điều tồi tệ Streeter phải chịu đựng tới kẻ đó. Và thật bất ngờ, Streeter hiểu ra người anh ta căm ghét nhất là người bạn thân nhất thời còn đi học Tom Goodhugh. Streeter nói lại lựa chọn của anh ta với Elvid, và những gì xảy đến sau đó khiến anh ta tin phép màu có thật. Song điều có thật nữa là anh ta đã đánh mất đi lương tâm của chính mình. Cuộc Hôn Nhân Êm Ấm Sau hai mươi bảy năm chung sống hòa hợp, Darcy vô tình phát hiện Bob Anderson, người chồng cô tin yêu bấy bao nhiêu năm qua, thực chất là kể sát nhân hàng loạt Beadie đã nằm ngoài vòng pháp luật hàng năm trời. Lương tâm và tình cảm giày vò khiến Darcy không thể làm ngơ trước tội ác của chồng dù Bob là kẻ có linh tính khác người, ngay lập tức đã nhận ra vợ anh ta đã phát hiện được manh mối về nửa con người trong bóng tối của anh. Mời các bạn đón đọc Kéo Dài Công Bằng và Cuộc Hôn Nhân Êm Ấm của tác giả Stephen King.
Kỵ Sĩ Thứ 5
“Tập sách tiếp theo của bộ truyện trinh thám bán chạy nhất trong mười năm qua, giờ còn hãi hùng hơn" Nằm trong series Women's Murder Club của James Patterson, sau các tác phẩm: Kẻ đầu tiên phải chết, Cơ hội thứ 2, Cấp độ 3, Kỵ sĩ thứ 5, Mục tiêu thứ 6 và Thiên đường thứ 7... *** Trung uý Lindsay Boxer đang đi mua sắm với thành viên mới nhất của Câu lạc bộ nữ điều tra các tội ác giết người, luật sư Yuki Castellano và bà Keiko - mẹ của Yuki, thì đột nhiên bà Keiko bị đột quỵ. Ngay lập tức bà được chuyển đến bệnh viện thành phố San Francisco và sức khoẻ của bà đã tốt hơn. Nhưng vài ngày sau đó, bệnh viên gọi cho Yuki thông báo một tin kinh hoàng. Keiko đã được điều trị sai thuốc dẫn đến đau tim và đã tử vong. Điều đáng ngạc nhiên đây không phải sai lầm đầu tiên của bệnh viện này. Nhiều bệnh nhân được xuất viện với thông báo tình trạng sức khoẻ tốt, nhưng sau đó tình hình lại xấu đi. Bệnh viện bị điều tra, Lindsay và câu lạc bộ nữ điều tra các tội ác giết người trực tiếp tham gia vụ này. Liệu có điều gì kỳ quặc trong hoạt động của bệnh viện? *** “Patterson lại một lần nữa tỏ ra là bậc thầy của những mưu mẹo và thủ đoạn… Với một cuốn sách như vậy: mỗi khi bạn tưởng như mình đã khám phá được mọi bí mật của vụ án thì cũng là lúc bạn nhận ra tằng tên giết người vẫn đang còn ở phía trước” - Tạp chí Provindence Sunday. Mời các bạn đón đọc Kỵ Sĩ Thứ 5 của hai tác giả James Patterson & Maxine Paetro
Vị Khách Không Mời - Agatha Christie & Charles Osborne
AudioBook Vị Khác Không Mời Một người đàn ông bị kẹt xe bên đường phải vào nhà nhờ giúp đỡ thì lại phát hiện một người đã chết trên xe lăn, cạnh đó là một người phụ nữ tay cầm súng... *** Đã gần nửa đêm, một đêm tháng Mười Một buốt giá, sương mù phủ khắp nơi trên con đường quê phía nam xứ Wales, không xa vịnh Bristol. Từ xa xa, chốc chốc vang lại tiếng còi hụ báo sương tự động. Đâu đó còn nghe thấy tiếng chó sủa hay tiếng chim ăn đêm gọi nhau. Ven con đường vắng này, vốn chỉ nhỉnh hơn một lối đi, cũng có vài ngôi nhà, nhưng cách nhau tới nửa dặm. Tại một khúc quanh tăm tối nhất có một ngôi nhà ba tầng xinh đẹp, nhìn ra đường từ phía bên kia khoảnh vườn khá rộng. Cũng chính tại chỗ đó, lúc này có một chiếc xe bị mắc kẹt bánh trước vào rãnh bên đường. Người lái xe sau vài lần cố tăng ga, đành bỏ cuộc, tắt máy. Một hai phút sau, người tài xế ra khỏi xe, đóng sập cửa xe lại sau lưng. Ông ta dáng người đậm, tóc vàng sẫm, khoảng ba mươi nhăm tuổi, mặc một bộ vét nỉ, áo mưa sẫm màu, đầu đội mũ. Tay cầm đèn soi đường, ông ta cẩn trọng bước qua đám cỏ về phía ngôi nhà, thỉnh thoảng dừng bước quan sát mặt tiền lịch lãm của ngôi nhà thiết kế theo phong cách thế kỷ 18. Ngôi nhà này không hề có một ánh đèn, kể cả khi ông ta đã tới bên cửa hướng ra phía vườn. Quay người nhìn lại bãi cỏ và con đường phía sau, người đàn ông bước hẳn tới bên cửa, lấy tay xoa kính rồi nhìn vào trong. Không thể nhìn thấy gì, ông ta gõ lên cửa. Chờ không thấy tiếng đáp trả, ông ta gõ mạnh hơn. Đến khi thấy gõ mãi cũng không có ích gì, người đàn ông vặn tay nắm. Cánh cửa ngay lập tức mở ra, ông ta bước vào trong căn phòng tối. Khi đã vào trong, ông ta dừng lại rồi nghe ngóng xem có tiếng động hay ai đang đến hay không, sau đó nói to, “Xin chào, có ai ở nhà không?”. Lấy đèn soi xung quanh căn phòng, ông ta thấy đó là một thư phòng khá tiện nghi, trên tường có khá nhiều sách, và ở giữa phòng có một người đàn ông trung niên đang ngồi trên xe lăn, mặt hướng ra cửa thông ra vườn, trên gối còn có một tấm khăn. Người đàn ông này có vẻ như đã ngủ say. “Xin chào,” người tài xế nói. “Tôi không có ý định đường đột thế này. Có điều ngoài kia sương mù dày quá, tôi bị đâm xuống rãnh. Giờ tôi cũng chẳng biết đang ở đâu nữa. Ấy chết, tôi quên đóng cửa, xin lỗi.” Người lái xe cứ lẩm bẩm nói xin lỗi khi quay trở ra cửa, đóng lại, kéo mành. “Chắc tôi rẽ nhầm chỗ ở đâu đó,” ông ta giải thích. “Tôi cứ lái vòng vòng cả giờ đồng hồ rồi.” Không thấy tiếng trả lời, ông ta hỏi khi bước đến chỗ người ngồi xe lăn, “Ông ngủ đấy à?” Vẫn không thấy động tĩnh gì, người đàn ông liền lấy đèn soi vào mặt người ngồi xe, bất ngờ khựng lại. Người ngồi trên xe mắt không mở, cũng không cử động gì. Người khách không mời liền cúi xuống, đẩy nhẹ vào vai để đánh thức, lập tức người ngồi xe gục xuống. “Chúa ơi!” người khách kêu thất thanh. Sau khi cố gắng trấn tĩnh để quyết định phải làm gì tiếp, ông ta soi đèn quanh phòng, tìm thấy công tắc cạnh một cánh cửa phía đầu bên kia phòng, bước tới đó để bật đèn lên. Đèn bàn sáng lên, người khách cũng đặt đèn của mình lên bàn, rồi bước vòng quanh, chăm chú quan sát người ngồi trên xe lăn. Thấy có một cái cửa nữa, cạnh đó cũng có công tắc, người khách đi tới bật lên, thấy đèn trên hai cái bàn bố trí khéo léo quanh chiếc xe lăn sáng lên. Người khách vừa bước một bước về phía chiếc xe lăn thì giật mình kinh hãi khi nhận ra có mộ người đàn bà xinh đẹp, tóc vàng nhạt, tuổi chạc ba mươi, mặc váy dạ tiệc màu hợp với áo khoác bên ngoài, đang đứng ở đầu kia phòng cạnh giá sách. Hai tay người đàn bà dường như buông thõng hai bên. Bà ta không nói, cũng không cử động gì cả. Có vẻ như bà ta cũng không thở nữa. Hai người nhìn nhau chằm chằm trong yên lặng một vài giây rồi người khách cất tiếng nói, “Ông ấy - ông ấy chết rồi.” Dường như hoàn toàn vô cảm, người đàn bà trả lời, “Đúng vậy.” “Bà đã biết rồi ư?” người khách hỏi. “Đã biết.” Cẩn trọng bước tới bên xác người trên xe lăn, người khách nói, “Ông ấy bị bắn. Bắn vào đầu. Ai - ?” Người khách không nói dứt câu vì thấy người phụ nữ từ từ đưa tay phải lên từ phía sau các nếp gấp của váy. Tay bà ta cầm một khẩu súng lục. Người khách hít một hơi thật sâu. Chỉ đến khi thấy rằng người phụ nữ kia không đe dọa gì mình, ông ta bước đến rồi nhẹ nhàng lấy khẩu súng ra khỏi tay bà ta. “Bà bắn ông ấy à?” người khách hỏi. “Phải,” người phụ nữ trả lời sau một thoáng ngập ngừng. Người khách bước lùi lại, đặt khẩu súng lên bàn cạnh chiếc xe lăn. Ông ta đứng nhìn xác chết một lúc rồi quan sát căn phòng. “Điện thoại ở đằng kia,” người phụ nữ nói, hất đầu về phía chiếc bàn. “Điện thoại?” người khách hỏi lại, có vẻ như ngạc nhiên. “Nếu ông muốn báo cảnh sát,” người phụ nữ nói tiếp, vẫn bằng vẻ vô cảm từ nãy giờ. Người khách chăm chú nhìn bà ta, hình như không hiểu nổi, rồi nói, “Sớm hay muộn vài phút thì cũng có khác gì đâu. Cảnh sát mò qua được đám sương mù đến đây cũng mất nhiều công đấy. Tôi còn có điều muốn biết thêm - “ Ông ta dừng lời, nhìn cái xác. “Ông ta là ai?” “Là chồng tôi,” người phụ nữ đáp. Một lúc bà nói tiếp, “Tên ông ấy là Richard Warwick. Còn tôi là Laura Warwick.” Người khách mắt vẫn không rời người phụ nữ. “Ra vậy,” ông ta lẩm bẩm. “Có lẽ bà muốn… ngồi xuống?” Laura Warwick di chuyển từ từ, có vẻ như không vững, tới một chiếc trường kỷ. Người khách nhìn quanh ròi nói, “Hay tôi kiếm cái gì cho bà… uống cái gì nhé? Chắc bà đang bị sốc.” “Vì bắn chồng tôi ư?” Giọng bà ta đầy mỉa mai. Đã lấy được sự bình tĩnh cần thiết, người khách đáp trả người phụ nữ, “Tôi có nghĩ như vậy. Chẳng lẽ lại là vui hay đùa sao?” “Là vui đùa thật đấy,” Laura Warwick vừa lạnh lùng đáp vừa ngồi xuống ghế. Người khách cau màu, không hiểu rõ câu nói. “Nhưng… tôi cần uống gì đó,” bà ta nói tiếp. Người khách bỏ mũ, quăng lên một cái ghế bành rồi lấy một chai rượu mạnh trên giá cạnh bàn, gần xe lăn, rót ra cốc đưa cho bà chủ nhà. Bà ta uống, rồi người khách nói. “Giờ thì đến lúc bà nói đầu đuôi sự việc được rồi.” Laura Warwick nhìn ông ta trân trối, “Sao ông còn chưa gọi cảnh sát tới?” “Còn thời gian mà. Cứ nói chuyện một lúc cũng có sao đâu chứ?” Ông ta cởi găng tay, nhét vào trong túi áo khoác, cởi khuy áo khoác ngoài. Mời các bạn đón đọc Vị Khách Không Mời của tác giả Agatha Christie & Charles Osborne.