Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thuyết Tán Tỉnh Cậu

“Lăng nhăng như mày mà cũng muốn kết hôn hả?” “Thì tao hết lăng nhăng rồi nên mới muốn kết hôn, từ lúc đẻ ra đến giờ chưa kết hôn lần nào nên muốn thử. Mà đám cưới phải có cô dâu thiệt là dễ thương nè, tổ chức tiệc mời cả nghìn bàn luôn, nếu mời được Thủ tướng đến làm chủ hôn thì còn oách hơn nữa.” “Mày ảo tưởng nó vừa thôi.” “Không thích hả?” “Không.” “Thích đám cưới theo phong cách nào?” “Đơn giản, có lẽ chỉ tổ chức trong gia đình thôi?” “Ok, để tao gọi điện báo cho mẹ.” Bộ phim ăn khách Theory of Love đã làm mưa làm gió bao nhiêu trái tim người xem thì nay tiểu thuyết đã chính thức được ra mắt. Chàng trai ăn chơi cũng phải dừng lại trước người mà cậu yêu. Nhưng đó không phải chuyện dễ dàng. Yêu mà không biết mình yêu, thương mà cứ băn khoăn... *** Nói rằng yêu đơn phương là một loại hạnh phúc, đúng. Nhưng nói yêu đơn phương là đau khổ tột cùng, cũng chẳng sai. Đối với Third, đơn phương một người vừa là ngọt ngào cũng vừa là đắng cay. Được người ấy quan tâm là vui, biết người đã bên người khác là đau, và điều làm Third đau lòng hơn hết thảy là cậu lại mang thứ tình cảm ấy dành cho người không nên. Kai là tri kỷ, là bạn chung chí hướng, là người đã hứa cùng cậu thực hiện ước mơ và là người Third yêu đơn phương đã hơn hai năm. Đến khi vận mệnh giữa họ dịch chuyển, Third cũng biết rằng tình bạn giữa cậu và Kai không thể nào tiếp tục được nữa. Nếu một ngày người ta yêu cũng quay lại nhìn chúng ta như cách chúng ta mong muốn, liệu có thật là tốt?   “Xin chào, chúng ta lại gặp nhau vào tối thứ năm hàng tuần, đúng tám giờ tối không hơn không kém. Có lẽ nhiều người đã thắc mắc sao dạo này tôi ít trả lời tin nhắn trên fanpage, thật xin lỗi mọi người. Dạo gần đây việc học của tôi khá lu bu nhưng giờ thì dễ thở hơn rồi.” Giờ mới để ý, ống kính bị lệch. Nhưng lười xuống giường chỉnh lại mất thời gian nên thôi kệ, cứ để vậy đi. “Chúng ta bắt đầu thôi nào. Tuần trước, mấy em khóa dưới và cả bạn bè tôi đều đề cử cho tôi một bộ phim.” Tôi ngừng lại một lúc để tạo chút không khí hồi hộp cho khán giả. Tích tắc, tích tắc… “Đúng vậy, bộ phim này chính là… The girl that never stopped laughing 2 hay tựa đề Thái mà mọi người quen thuộc là Cô bé hay cườiphần hai.” Vỗ tay đi chứ, chết tiệt! Không thì nhạt chết. Mở màn câu view bằng cái ‘đầu voi’ rõ to rồi chết máy bằng cái cái ‘đuôi chuột’ đầy yên tĩnh và ngại ngùng, tôi đành nhanh chóng đổi chủ đề. “Ban đầu tôi cũng không có hứng thú với bộ này lắm, mà mọi người còn nói nội dung nó chẳng liên quan gì đến phần đầu, ủa, vậy làm phần tiếp theo làm gì không biết? Nhưng xem xong rồi mới hiểu. Phim kể về câu chuyện của một nữ sinh Trung học năm cuối tên Amy, cô bé mắc bệnh bẩm sinh, mỗi lần cười sẽ không ngừng lại được. Thật ra thì gọi nó là bệnh liên quan đến quai hàm cũng không sai. Nhưng tôi sẽ không tiết lộ nội dung đâu, mọi người phải tự mình trải nghiệm mới thấy thú vị chứ. Nào, giờ thì chúng ta cùng bàn luận về kịch bản, hình ảnh và nhạc phim nào…” Sau đó là một loạt nhận xét lan man không đầu không đuôi của tôi. À, chắc mọi người đang thắc mắc không biết là tôi là ai đúng không? Vậy để tôi nhắc lại lần nữa nhé. Tôi, “Third”, một Youtuber nghiệp dư. Nói là nghiệp dư thì cũng không đúng lắm, vì tôi đã tạo tài khoản này gần một năm rồi, coi như cũng có chút thành tựu với hơn ba mươi nghìn người xem. Fanpage mà tôi đã nhắc đến lúc trước hiện tại có chẵn ba mươi tư nghìn người theo dõi. Đúng là có cảm giác người nổi tiếng ghê luôn. Sau khi quay xong clip bàn luận về phim thì đến khâu chỉnh sửa, ghép lời, ghép nhạc rồi đăng tải lên Youtube, đây là sở thích của tôi. Và người quan trọng luôn có mặt giúp đỡ tôi lúc này chính là cậu ta, bạn thân của tôi… “Mày, clip trước có quá trời người xem luôn.” Hỏi xem nó giúp gì được cho tôi á, ừ thì tất cả đó, nhưng đa phần là ngồi nghe tôi lảm nhảm như hôm nay. “Ba trăm lượt xem.” “Hả?” “Ba trăm lượt xem, tao mới mở ra kiểm tra mười lăm phút trước.” “Youtube của mày chắc có vấn đề, thử vào lại xem.” “Tên kênh của mày nè, review phim Cô bé hay cười, lượng người xem hiện tại, ba trăm mười bốn là nhiều của mày đấy à?” Bố khỉ, tôi còn tưởng nó chưa bấm vào xem. “Nếu muốn có chục nghìn lượt xem thì lần sau mày phụ tao đi, lần nào mày xuất hiện là lần đó lượt xem tăng đột biến luôn.” Câu này thật sự luôn luôn đúng. Cả hai chúng tôi đều là sinh viên khoa Nghệ thuật truyền thông, chuyên ngành Điện ảnh, mọi người thường hay gọi chúng tôi là “nhóc phim”. Hiện giờ tôi đang học năm ba, vừa học vừa tham gia các hoạt động ngoại khóa, gần như không kiếm đâu ra thời gian rảnh, nhưng cũng lạ là… Dù bận cỡ nào, tôi với thằng bạn thân này luôn cùng nhau dành thời gian mua vé ra rạp xem phim. Ngồi xem đến hết cả phần danh đề, màn hình đổi màu đen xì một cục, hai đứa mới chịu rời khỏi rạp, cùng nhau bình luận, chia sẻ cảm nhận. Cũng chính vì thế nên tôi mới mở kênh youtube này, chủ yếu để trao đổi kinh nghiệm với người xem. Tôi chỉ muốn biết mọi người xem xong bộ phim đó có nghĩ giống tôi không, nghe thì hay đấy nhưng, ờ thì, lắm lúc cũng chẳng đâu vào đâu. Thường chẳng mấy ai quan tâm đến video của tôi, cái nào lắm lượt xem đều vì có sự góp mặt của thằng bạn. Hễ nó thò mặt vào cùng tôi review phim nào, lượt xem chắc chắn luôn vượt quá mười nghìn. “Kênh của mày, mày tự đi mà review đi chứ thằng quần.” “Thêm mày càng nổi chứ sao.” “Đừng lợi dụng mình để nổi tiếng nha bạn Third. Tao không phải anh chàng đẹp trai tốt bụng dành cho mày đâu.” Đầu tôi bị bàn tay lớn dúi mạnh một cái trước khi thằng bạn thân hùng hổ bước nhanh về phía hành lang làm tôi phải vội vàng chạy theo mới đuổi kịp nó. “Rồi mày đẹp trai với ai không biết.” “Đẹp trai với bạn gái tao chứ ai.” Hự? Một nhát xuyên tim, đau thấu trời xanh. “Rồi hôm nay mày rảnh không, đi xem phim không?” Tôi vội chuyển chủ đề ngay lập tức. “Không rảnh. Tao có hẹn đưa Jam đi ăn. Mày muốn xem phim gì thì đi xem trước đi.” Lạc lõng. Có lẽ đó là từ duy nhất có thể diễn tả tâm trạng tôi ngay lúc này. Đối với tôi, hai chữ ‘bạn thân’ này là cái tên tôi đặt cho bức tường dựng lên để che giấu tình cảm thực sự của mình. Kỳ thật là tôi ghét nó, ghét bức tường này, ước chi nó biến luôn khỏi thế giới này càng tốt. Bởi vì tôi… đang yêu đơn phương chính thằng bạn thân của mình. Mà nó cũng chẳng giống người bình thường, lắm điểm khác người và tôi cũng biết rõ tất cả mọi thứ liên quan đến nó. Thằng bạn thân này của tôi tên ‘Kai’, tên đầy đủ là Khunpol Krichpirom, sinh ngày thứ năm mùng bảy tháng chín. Năm sinh không cần quan tâm đâu nhưng năm mất chắc chắn là năm nay, vì tôi thề sẽ giết nó. Kai là một đứa vô cùng đáng ghét với vô số thói quen quái thai như phải ăn cơm vào đúng mười hai giờ trưa vì dạ dày nó là cơ quan hoạt động chính xác nhất thế giới này. “Ông chủ! Như cũ nhé.” “Kai, đợi chút, hôm nay đông khách.” “Bụng em réo ầm ĩ rồi, mười hai giờ rồi ông chủ ơi.” “Vậy hôm nay chú mày ăn quán khác đi, miễn chen ngang.” “Ông chủ còn thừa gì không? Kiểu mà bỏ vào chén được luôn khỏi cần xào nấu gì thêm cho mất thời gian ấy.” “Hơ…” “Có không ông chủ?” “Kimhuai, lấy cơm trắng chan nước mắm cho thằng Kai đi.” “Lại nữa hả, tháng này anh Kai ăn hết hai chai nước mắm rồi bố ơi.” Tôi nhìn nó ăn cơm chan nước mắm bao lần cũng chưa từng thấy nó than lấy một câu không ngon, chỉ toàn thấy nó bảo may còn được ăn cơm đúng giờ. Nói thật, tôi rất sợ, sợ nó hỏng thận chết sớm trước khi kịp chết già cùng tôi. Thằng Kai là hotboy. Dù chưa có bằng chứng nhận nhưng sự đào hoa cộng thêm cái mặt oppa khiến danh sách bạn gái của nó rải đều xuống gần như tất cả các khoa. “Mày, hỏi thật, từ lúc quen nhau đến giờ mày có bao giờ thử đếm xem từng có bao nhiêu cô bạn gái rồi không?” “Không, quá nhiều.” “Một chút cũng không nhớ?” “Rồi mày đi tọc mạch chuyện bồ tao làm cái gì hả thằng Third.” “Ơ, bạn thân như tao không có quyền biết à?” “Bố không nhớ.” “Hay thế này đi, tao nói tên khoa nào, mày nói xem đã có bạn gái ở khoa đó chưa, ok không?” Chẳng biết nó còn thậm thụt bồ bịch với ai không nữa. Hẹn hò công khai đã đếm không xuể rồi, thêm chỗ mập mập mờ mờ nữa chắc kín vài dãy phố. “Nói đi.” “Quản trị kinh doanh?” “Ba người, thích nhất Noina.” Tự dưng cảnh “Jeab, sao lại cắt dây thun của tớ?” lại hiện lên trong đầu. “Kiến trúc?” “Nhỏ AR, có cá tính mỗi tội hay dỗi, không thích.” “Giáo dục?” “Hoa khôi của khoa tên Poy đó.” “Vậy Nông nghiệp thì sao? Nông nghiệp đó.” Từ lúc quen biết nó đến giờ tôi chưa từng thấy nó hẹn hò với nữ sinh khoa này luôn. “Hoa hậu trồng trọt năm ngoái.” Hơ! Cỡ hoa hậu trồng trọt mà mày cũng cưa đổ được hả? “Vậy y khoa thì sao? Y khoa? Nha khoa? Khoa dược? Điều dưỡng? Y tá?” “Chắc là đủ hết rồi.” “Luật? Xã hội? Kỹ thuật? Khoa học?” “Ừm.” “Ừm là cái quái gì cơ.” “Từng hẹn hò qua hết rồi.” “Thằng Kai, mày muốn làm lâm tặc, cưa hết cả cái trường này hả đồ khốn?” “Nhưng có duy nhất một khoa và một ngành tao sẽ không bao giờ động đến nhé.” “Ngành nào?” Tôi vừa hỏi vừa hồi hộp, vì tôi thật sự hy vọng rằng nó không phải người tùy tiện hẹn hò với bất cứ ai… “Ngành Điện ảnh, quy tắc của tao là không hẹn hò với bạn bè cùng ngành, hiểu không?” Đối phương vỗ vỗ vai tôi cùng nụ cười quyến rũ như bao lần. Muốn hiểu gì đây? Hiểu rằng cho dù tình cảm đơn phương của tôi có cố trèo qua được bức tường “bạn thân” thì cũng chỉ toàn công dã tràng đó hả? Đau thật sự. Nhưng cũng chẳng thể làm gì ngoài gật đầu, tỏ vẻ thấu hiểu, trong nước mắt. Thằng Kai là người không biết giữ gìn đồ đạc, nhưng có một thứ nó vô cùng nâng niu, ngoài mấy cô bạn gái thì ai cũng không được đụng vào. Đó là chiếc BigBike KTM 1190 RC8, đứa con yêu quý của nó, tên Charl. “Rốt cuộc hôm nay có đi xem phim với tao không?” “Đi chứ.” “Đi xe ai đây?” “Mày lái xe mày, tao sẽ lái Chawee.” “Chawee nào?” “Chari là biệt danh, Chawee là tên thật.” “Mày đùa hả?” “Tao nghiêm túc mà.” “Tao ngồi sau Chawee nhà mày được không?” “Không được đâu, chỗ đó chỉ dành cho bạn gái thôi nhá, mày hiểu tao mà bạn hiền.” Ờ có vẻ hơi khó hiểu, mà tao cũng không muốn hiểu lắm đâu. Thằng Kai từng nói với tôi rằng trong tình yêu, nếu người đó thật sự thích mình thì họ nhất định sẽ đến tìm mình. Đây chính là lý do mà từ trước đến giờ, nó chưa bao giờ chủ động theo đuổi người khác, chỉ có đối phương tự chạy theo nó không ngớt mà thôi. “Vợ tao like bài, mày ạ.” “Like cái gì?” “Hình gái tao đang tán.” “Kìa, khung chat kìa. Trả lời đi.” Mint Supreeya: Anh, đây là ai thế? Like hết ảnh của anh, còn có bạn chung với anh nữa. Khunpol Krichpimon: À, anh cũng không biết. Thiên hạ đệ nhất dối trá, lươn lẹo, xảo trá là đây chứ đâu xa. Quan trọng, nó cũng là người rũ bỏ mọi thứ rất dễ dàng. Dễ dàng đến nỗi tôi nghĩ cả cái trường này, nó xưng thứ hai cũng không ai dám trèo lên đứng nhất. Rrrrr…! “Rồi, anh đang đi rồi đây.” Tiếng chuông điện thoại của thằng bạn thân kéo tôi khỏi mớ suy nghĩ xa xôi, trở về thực tại. Đúng vậy. Giờ chúng tôi đang đi trên đoạn hành lang nối dài, phía trước chừng mười mét là bãi đỗ xe. Tôi và Kai sẽ tách nhau ra, mỗi đứa một đường. “Jam, có chuyện gì không?” “…” “Thật không? Đừng có đùa.” “…” “Đừng cố tình gây sự nữa. Phiền lắm.” Ủa, rồi sao, cảnh này trông quen quen, diễn đi diễn lại không lệch đi đâu được. Chắc tôi phải chứng kiến cảnh này hơn chục lần rồi, mỗi lần “bấm máy” là thần thái của “diễn viên” Kai lại không chút sai biệt… “Lại dọa chia tay. Ờ, vậy luôn đi, anh không ý kiến.” Sau đó nó cúp máy. Giờ đến lượt tôi bước tới vỗ vai an ủi nó như mọi lần. “Mày, ổn không?” “Cũng không ổn lắm.” Giọng nó có vẻ buồn. Không sao đâu mày, tao vẫn ở đây, tao không đi đâu cả. Nếu mày không có ai thì vẫn còn tao luôn an ủi mày. Tao… Yêu… Mày. Ting! Tiếng tin nhắn Line vang lên. Đừng nha mày, đừng cầm điện thoại lên nha thằng bạn chết tiệt. Đừng! “Em Milk khoa Kế toán.” Giờ khỏi cần soi gương tôi cũng biết sắc mặt mình sượng hơn thằng Kai cả trăm lần, đến bàn tay an ủi đặt trên vai nó còn chưa kịp lấy xuống. “Rồi… rồi sao?” “Đang để ý.” “Nhưng mày vừa chia tay với Jam, đừng nói là…” “Nói trước là tao không bắt cá hai tay nha, còn chưa kịp tán em nó cơ mà. Nhưng giờ lại độc thân thì tán được rồi.” “…!” “Tao đi trước đây, theo đuổi tình yêu mới cái đã, sáng mai gặp. Mua giùm tao gói mì vị Tom Yum Kung nữa nhá. Tao yêu mày chết đi được.” “Khoan đã Kai, thằng khốn nạn.” Cuối cùng vẫn chỉ còn lại mình tôi. Tôi không nhớ nổi mình đã đối diện với tình huống thế này bao nhiêu lần. Trong suốt gần hơn hai năm thích nó, chưa lần nào nó quay lại nhìn tôi dù chỉ một lần. Có thể vì tôi chưa một lần đủ dũng khí thổ lộ, nên kết cục nào thì người duy nhất tổn thương cũng chỉ mình tôi. Ngày mai sẽ như mọi ngày, chỗ ngồi sau xe nó sẽ dành cho người mới. Ngày mai sẽ chỉ có tôi ôm đống đồ ăn nó thích, chủ động đi tìm nó, còn nó đến giờ vẫn chưa từng biết đến cảm nhận của tôi. Ngày mai bí mật vẫn là bí mật. Nếu không muốn mất nó, tôi sẽ phải tiếp tục vai diễn bạn hiền này, chôn giấu tình cảm đơn phương trong yên lặng. Buồn thật nhưng cũng chẳng thể làm gì khác, tôi chán nản quay về bãi đậu xe. Và mỗi lần cảm giác phiền muộn này tìm tới, tôi đều trở về phòng, mở cái laptop cũ, bật nhạc, sau đó đi thẳng vào phòng tắm. Hòa cùng tiếng nhạc buồn, tôi bật khóc, không đến nỗi nức nở nhưng đau lòng này là thật. Một tay đấm tường, tay còn lại vặn vòi hoa sen để cái lạnh xua bớt đi nỗi buồn. Âm nhạc cất lên! “Chết tiệt, mất nước!” Đúng cụt hứng mà. Tôi vội vàng chạy ra mở lại bản nhạc cũ rồi quay sang lấy chai nước trong tủ lạnh. Nước máy không chảy thì khui chai nước uống, dội xuống cho lòng này tan nát luôn đi. Ào!!! Thằng Kai, nhẽ ra mày phải biết vì mày mà tao tốn biết bao nước uống, lãng phí tài nguyên nhiều lắm, biết không… Mời các bạn đón đọc Thuyết Tán Tỉnh Cậu của tác giả Jittirain & Yang Yang (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiền - Thư Tuyệt Mệnh
Đúng như nhan đề, tác phẩm kinh điển ra đời năm 1984 này là câu chuyện về tiền, những kinh khủng mà tiền gây ra, những tai ương mà tiền mang lại. Nhân vật trung tâm là John Self, kẻ đã sống một đời không tiết chế. Qua lại giữa London và New York, hắn thương thảo hợp đồng, tiêu xài vung tay và thực hiện những thương vụ liều lĩnh trong thế giới phim ảnh, đồng thời quơ cào mọi thứ có thể để thỏa mãn cho khẩu vị vô độ của mình: rượu, thuốc lá, thuốc an thần, văn hóa phẩm đồi trụy, thức ăn nhanh cùng vô số thứ tàn hại sức khỏe. Được kể theo lối độc thoại và gần như không có cốt truyện, tác phẩm vẫn chiếm vị thế nổi bật bởi những phẩm chất không dễ gặp: sắc sảo lộng óc, khôi hài cùng cực và lạc quan sâu sắc. Martin Amis từng cho rằng thước đo duy nhất để xác định thành công của một nhà văn là họ có còn được đọc sau 50 năm hay không. Đến nay, 33 năm kể từ lần xuất bản đầu tiên, Tiền - Thư tuyệt mệnh vẫn chia sẻ với độc giả những mối quan ngại đương thời sâu xa. Từ thời điểm ra đời, tác phẩm được xếp vào top 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất kể từ năm 1923. *** Trong tiểu thuyết Tiền, Jonh Self là kẻ kể chuyện, chính xác là lảm nhảm những câu chuyện trời ơi đất hỡi của hắn với đầy đủ những trạng huống hỉ, nộ, ái, ố... đẩy người đọc vào một vòng tròn vòng vèo, xoay quanh cuộc di chuyển của hắn giữa London và New York. Trong Tiền, John Self là kẻ theo đuổi đam mê cá nhân với sự quan tâm thấp hoặc không hề có đối với cộng đồng rộng lớn, kéo mình qua một chu kỳ tích lũy, tiêu dùng và cuối cùng là sự thỏa mãn – mô hình hoàn hảo cho một người đàn ông trưởng thành trong thời buổi hàng hóa. Bản thân John Self là một người đàn ông được nuôi nấng trên nền văn hóa tiêu dùng, với những câu chuyện nhảy từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác một cách vô tội vạ, và anh ta dường như chính là kẻ có cách sống không có hệ tư tưởng nào.   Tiền là một cuốn sách châm biếm bậc thầy ở mọi thời đại, một cuốn sách hài hước tột bậc, thô tục khôn cùng, lấy cảm hứng từ một nghiên cứu tăm tối về sự cám dỗ của đồng tiền, với đầy những tham lam và phá hoại. Amis sở hữu một sự tinh tế thầm kín về ngôn ngữ. Thể hiện sự hâm mộ Nabokov một cách đầy tự tin, Amis chào Nabokov bằng một hệ thống tường thuật sự méo mó vô cùng đồ sộ và tinh xảo được tính toán rành mạch, thể hiện được phong cách làm chủ, đối thoại sắc bén và mạch lạc về ý nghĩa. Một cuốn sách đến hôm nay vẫn mang đậm hơi thở của thời đại, trong sự xoay sở trở mình vì tiền, loanh quanh những mối bận tâm vì tiền, sống chết vì tiền. Một cuốn sách vừa bủa vây, vừa thức tỉnh con người bởi vô vàn những lẫn lộn giữa thật giả xấu tốt. Tiền thành công không chỉ bởi đã tạo nên được một không khí xã hội luôn trong trạng thái thời thượng, mà hơn thế, Tiền còn giúp độc giả được thưởng thức một cuộc giao hoan chữ nghĩa, như một mê cung, để thỏa sức khám phá, để liên tục trải qua những cuộc sung sướng choáng ngợp mà chiêm ngưỡng tài năng của một bậc thầy ngôn ngữ. Nếu bạn yêu thích Nabokov, yêu thích dòng văn chương hậu hiện đại phá bỏ mọi nguyên lý cơ bản về câu chuyện, chấp nhận dấn thân vào một cuộc chơi đầy thách thức của từ ngữ, thì Tiền là cuốn sách không thể bỏ qua.  *** Martin Amis là một tiểu thuyết gia, nhà tiểu luận, người viết hồi ký và nhà biên kịch người Anh. Tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông là Tiền và Cánh đồng Luân Đôn. Ông đã nhận được Giải thưởng Tưởng niệm Đen James Tait cho Trải nghiệm hồi ký của mình và đã được liệt kê cho Giải thưởng Booker hai lần. Nhà văn Martin Amis, giống như Dostoevsky, quan tâm nhiều đến cách các nhân vật của ông nhìn thế giới như thế nào. Trong dòng chảy này, câu chuyện của Self phản ánh niêm tin của chính mình. John Self là cơ hội để tác giả tạo ra một cuộc đối thoại đa cấp với các quan điểm ý thức hệ khác nhau, được thể hiện trong chính độc thoại của nhân vật, hoặc giữa các cuộc đối thoại giữa các nhân vật.   Mời các bạn đón đọc Tiền - Thư Tuyệt Mệnh của tác giả Martin Amis.
Và Nơi Đây Bình Minh Yên Tĩnh - Boris Vasiliev
Và nơi đây bình minh yên tĩnh (tiếng Nga: А зори здесь тихие) là một tiểu thuyết Liên Xô của nhà văn Boris Vasilyev được xuất bản lần đầu năm 1969. Lấy bối cảnh Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại của Liên Xô, tác phẩm nói về cuộc chiến đấu ở hậu phương của một nhóm pháo thủ nữ Hồng quân nhằm ngăn cản âm mưu phá hoại của một tiểu đội lính dù Đức Quốc xã. Khi được tạp chí Thanh niên xuất bản vào năm 1969, tiểu thuyết đã ngay lập tức được độc giả đón nhận và trở thành một trong những tác phẩm văn học về đề tài chiến tranh nổi bật nhất thập niên 1960 và 1970 ở Liên Xô. Cùng với Tên anh không có trong danh sách, đây được coi là tiểu thuyết ngắn xuất sắc nhất của Boris Vasilyev nói về Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Bản dịch tiếng Việt của tiểu thuyết này được Nhà xuất bản Cầu vồng in chung cùng Tên anh chưa có trong danh sách với dịch giả Lê Đức Mẫn. Tác phẩm đã nhiều lần được chuyển thể thành phim điện ảnh, trong đó bộ phim cùng tên sản xuất năm 1972 đã được đại diện cho điện ảnh Liên Xô tranh Giải Oscar cho phim ngoại ngữ xuất sắc nhất. *** «… Bạn thân mến!   Ở đó bạn phải tất bật với công việc, còn chúng tôi lại ung dung đi câu cá ở một nơi thanh bình không vẩn một hạt bụi. Thực ra, tụi muỗi chết tiệt cũng có đốt, nhưng cuộc sống vẫn một màu tiên cảnh! Bạn hãy xin nghỉ phép và về đây với chúng tôi. Ở đây hoàn toàn không một bóng xe qua, một người đi lại. Mỗi tuần một lần chỉ có một chiếc xuồng máy chở bánh mì đến thôi, vì thế tha hồ mà rong chơi chả phải bận bịu gì đến quần áo. Phục vụ cho khách du ngoạn thì ở đây có hai hồ nước và một con sông đầy cá. Lại còn nấm mới nhiều nữa chứ!… À, hôm nay có một chiếc xuống máy chở đến một ông già vạm vỡ tóc bạc cụt tay và một đại uý bộ đội tên lửa. Người ta gọi đại uý là Anbert còn ông già thì đại uý gọi bằng bố. Họ đến tìm cái gì ở đây thì tôi cũng chẳng để tâm đến…   … Ngày hôm qua tôi không viết hết: sáng nay mới viết nốt. Thì ra ở đây trước kia cũng có chiến đấu… Chiến đấu khi tôi với anh còn chưa ra đời.   Anbert và người cha chở đến một tấm bia đá cẩm thạch. Chúng tôi tìm thấy một nấm mộ trong rừng bên kia sông. Bố ông đại uý nhận ra nhờ những dấu hiệu riêng. Tôi muốn giúp họ mang tấm bia vào tận nơi nhưng lại không dám.   Bình minh nơi đây thật là yên tĩnh, mãi hôm nay tôi mới nhìn ngắm kỹ càng». *** Boris Vasiliev sinh ngày 21/5/1924 ở Smolensk, Nga. Mùa hè năm 1941, ở tuổi 17, khi Đức quốc xã tấn công Liên bang Xô Viết, Vasiliev tham gia quân đội và đóng góp sức mình vào cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Những trải nghiệm từ chiến trường sau đó trở thành chất liệu cho các tác phẩm của Vasiliev.   Trong suốt sự nghiệp của mình, nhà văn đã xuất bản hơn 30 tiểu thuyết và truyện vừa. Các tác phẩm đều hướng tới việc kiếm tìm sự thật và ý nghĩa cuộc sống. Phần lớn tiểu thuyết, truyện ngắn của ông đều được chuyển thể thành phim hoặc lên sân khấu ở Nga và nước ngoài.   Tiểu thuyết ngắn “Và nơi đây bình minh yên tĩnh” (А зори здесь тихие) được xuất bản năm 1969 là một trong những tác phẩm về đề tài Chiến tranh Vệ quốc nổi bật nhất thập niên 1960 và 1970 ở Nga. Tiểu thuyết được coi là cách Vasiliev chiêu hồn cho tất cả phụ nữ Nga đã hy sinh trong Thế chiến hai. Tác phẩm chọn thời điểm năm 1941, khi viên sĩ quan Vaskov chỉ đạo một tiểu đội toàn nữ ở hậu phương chiến đấu bảo vệ bầu trời Karelia. Hàng ngày, họ sống với những trò đùa tinh quái của lũ con gái mười tám, đôi mươi trước viên sĩ quan trẻ - thành viên nam duy nhất trong đội. Các cô gái trẻ trung, hồn nhiên, giàu ước mơ và cũng nhiều khát khao hạnh phúc. Dưới cánh rừng xanh tốt, vẳng tiếng nói cười hồn nhiên, trong trẻo của những cô gái tiểu đội pháo cao xạ. Cuộc sống qua đi trong bình yên, cho đến một lần, tiểu đội đối mặt với một toán lính dù của Đức quốc xã. Trước kẻ thù được trang bị vũ khí tối tân cộng với những khắc nghiệt của cánh rừng già, những cô gái trong tiểu đội đã hy sinh. Họ vĩnh viễn để lại tuổi xuân trên cánh rừng, giữa đầm lầy để hai mươi năm sau, khi Vaskov đưa người con trai nuôi trở lại thăm chiến trường xưa, mọi dấu vết của chiến tranh dường như khép lại, trước mắt anh chỉ còn thấy “nơi đây bình minh yên tĩnh”.   Năm 1972, bộ phim cùng tên được chuyển thể từ tiểu thuyết của Boris Vasiliev đã nhận được đề cử Oscar cho Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất. Ngoài "Và nơi đây bình minh yên tĩnh", Boris Vasiliev còn nổi tiếng với truyện vừa "Tên anh không có trong danh sách" và nhiều tác phẩm khác.   Tại Việt Nam, tiểu thuyết này được Nhà xuất bản Cầu vồng in chung cùng “Tên anh không có trong danh sách” với bản dịch của Lê Đức Mẫn.   Mời các bạn đón đọc Và Nơi Đây Bình Minh Yên Tĩnh của tác giả Boris Vasiliev.
Trên Bờ Sông Hoang Vắng - Boris Polevoi
Từ “chặng đường đã qua”, ông đã rút ra những nguyên mẫu và những sự kiện cả cho tiểu thuyết “Trên bờ sông hoang vắng”, cuốn sách viết về những người công nhân xây dựng một nhà máy thủy điện có công suất lớn ở Xi-bê-ri. Hàng nghìn con người từ khắp mọi miền của đất nước đã đổ đến đây, đến bên bờ của con sông lớn, nơi thâm sơn cùng cốc của vùng rừng tai-ga này. Và mỗi người đều tìm ra “mảnh đất dụng võ” của mình. Nơi đây đã diễn ra một cuộc khảo sát cả về kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp của mọi người, và những khát vọng đạo đức và nhu cầu cá nhân của họ... *** Tác giả cuốn sách này - Bô-rít Pô-lê-vôi (1908 - 1981) - là một nhà văn Nga nổi tiếng, Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa, đã được tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết. Ông đã viết gần ba mươi tác phẩm, trong đó có cuốn “Truyện một người chân chính” mà cả thế giới đều biết.   Bô-rít Pô-lê-vôi không hề hư cấu các nhân vật chính, các sự kiện chủ chốt trong các tác phẩm của mình. Ông đã tìm chọn các nhân vật và các sự kiện như vậy từ thực tế cuộc sống. Chính ông, chứ, có lẽ không ai khác, có toàn quyền tuyên bố: “Tôi đã sống trọn cả cuộc đời văn học giữa các nhân vật của mình”. Luôn luôn tìm kiếm, luôn luôn đắm mình trong thực tế, Pô-lê-vôi đã tiếp xúc với rất nhiều con người tuyệt vời của thời đại chúng ta, ông đã viết về họ một cách đầy cảm phục và tự hào về tình bạn đối với họ. “Thật vui sướng biết bao nhiêu được sống giữa các nhân vật của mình, được trao đổi thư từ với họ, được theo dõi xem cuộc sống sẽ tiếp tục và phát triển một cách chính xác đến mức nào, hướng đi của các tính cách được miêu tả trong các cuốn sách, và phần kết của chúng, bạn, với tư cách là tác giả, đã đánh dấu chấm hết từ lâu”, - ông đã viết như vậy trong tập bút ký “Nhìn lại chặng đường đã qua”.  *** -... Mãi tối hôm đó, em mới làm cho cô ta tỉnh lại. Bọn em đã kiệt sức. Em không còn hy vọng nữa. Sau cùng, cô ấy lắc đầu và hé mở con mắt còn nguyên vẹn, - vài hôm sau, Đi-na kể cho Đi-u-giép. Họ ngồi trên đỉnh lèn Kỳ diệu, trên một chiếc ghế dưới gốc cây thông rậm lá. Một đêm màu lam, thơm ngát mùi hương, vi vo tiếng muỗi, trùm lên trên dòng sông bị chinh phục. Một đêm thanh khiết, đêm mùa hè ấy, ở giữa rừng tai-ga, mà những ánh sáng ở công trường và những ngọn lửa hàn lập lòe hầu như không thay đổi được màu sắc thiên nhiên của nó. Trước đây, lúc mới khởi công, những bàn tay thân thiết của những người nào đó đã làm nên chiếc ghế này trên cao nguyên thu nhỏ lại. Từ đó nó là nơi ẩn náu của những cặp tình nhân và những người mơ mộng. - Toàn thân cô ấy đều bị thương, ruột đứt, xương gãy. Tuy vậy, cô ấy vẫn cố nói điều gì đó, - Đi-na nói tiếp, mắt thẫn thờ. - Em cúi xuống và đoán ra hơn là nghe thấy những lời cô ấy thều thào: “Cháu bé, cháu bé...” Cô ấy lo cho con. Anh Pa-ven, thật là sung sướng biết bao được nói với cô ấy: “Cháu còn sống!” Em cho đem đến máu sinh mệnh bé tí bọc trong tã bông lấy trong lồng ấp trẻ sơ sinh ra. Pa-ven, anh sẽ không tin em, vì phải là phụ nữ mới tin được điều đó. Này nhé, con mắt nguyên vẹn trên bộ mặt sưng phù, đẫm máu ấy biểu lộ một niềm vui, vâng, một niềm vui. Một ảo ảnh, anh sẽ nói với em thế chứ gì? Ổ, không, không phải đâu anh ạ!. . Em vô cùng xúc động. Đi-na cắn môi. Chị nhìn mỏm Đầu bò ở bên kia sông, giống như vẽ bằng mực tẩu lên nền đêm màu xanh nhạt - Anh có biết Va-xi-li-xa ví Ma-ri-a với con gì không? Con tu hú. Lần này thì cô bé đã nhầm, phải không anh? Có thật người ta quyết định chôn cô ấy ở công viên Anh Hùng, bên cạnh những người du kích đưa từ rừng tai-ga về không? - Ông cụ bảo thế. - Có thật Ông cụ cử anh đến U-xchi-Tséc-na-va để chỉ huy chi nhánh của công trường không?   Mời các bạn đón đọc Trên Bờ Sông Hoang Vắng của tác giả Boris Polevoi.
Trần Trụi Giữa Bầy Sói - Bruno Apitz
Trần trụi giữa bầy sói là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai, được dịch ra hai mươi thứ tiếng và trở thành một sự kiện văn học. Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va ly cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xít sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Đây không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện đại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công. *** THƯ CỦA TÁC GIẢ GỬI ĐỘC GIẢ VIỆT NAM Cuốn sách của tôi kể lại cuộc đấu tranh của các tù nhân, trong trại tập trung Bukhânvan để cứu một đứa trẻ Ba Lan; đứa trẻ đó được đưa nào trong trại, bất chấp muôn ngàn nguy hiểm. Nhưng mục đích của cuốn sách còn nhằm xa hơn nữa: nó muốn nói lên cái đẹp về tinh thần của con người bênh vực cho con người và làm nổi bật sự vĩ đại của con người. Nó muốn ca ngợi tình đồng chí giữa những con người của bao nhiêu dân tộc châu Âu đằng sau những hàng rào dây thép gai mắc điện cao thế - tình đồng chí có một không hai trong lịch sử. Cuốn sách cũng muốn kể lại sự chiến thắng của con người đối với bản tính thú vật của bọn phát xít. Hạt mầm của lòng bác ái mà hàng triệu con người khi chết xuống đã vùi theo họ trong mảnh đất đẫm máu ở Bukhânvan, ngày nay lại bùng nổ lên trong cuộc chiến đấu của các dân tộc chống kẻ thù, những kẻ mang thảm họa tới cho nhân loại. Tôi chỉ là mật con người bình thường nên mục đích cuốn sách của tôi cũng bình thường: đó là Hòa bình và Hạnh phúc cho hết thảy mọi người. Đem dịch nó ra tiếng nước ngoài, cũng không cần phải có nghệ thuật lắm mới làm nổi, vì mọi người tất sẽ hiểu được nó. Berlin tháng 6 năm 1962 BRUNO APITZ *** TRẦN TRỤI GIỮA BẦY SÓI là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai. Xuất bản lần đầu tiên năm 1958 với 60 vạn cuốn ở Cộng hòa dân chủ Đức, cùng năm ấy tác phẩm này được Chính phủ Cộng hòa dân chủ Đức tặng giải thưởng Văn học Quốc gia, được tái bản liên tiếp ngay cả ở Tây Đức, được dịch ra hai mươi thứ tiếng rà trở thành một sự kiện văn học được nhiều người bàn đến ở châu Âu. Tác giả cuốn sách, Brunô Apitz (1900 - 1979), xuất thân từ một gia đình công nhân ở Laixich, một trung tâm công nghiệp lớn ở Đức. Con người ấy suốt đời là một chiến sĩ chống bọn gây chiến. Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, ông bị giam hai năm vì tuyên truyền hòa bình. Năm 1934 ông lại bị bọn Hítle bỏ tù vì hoạt động chống phát-xít. Ba năm sau ông là một trong những tù nhân đầu tiên bị bọn phát-xít đưa đến Bukhânvan[1] để xây dựng trại tập trung khổng lồ nhốt hàng vạn người. Ông đã ở đấy mãi cho đến khi Hồng quân đánh bại phát-xít Đức, và là một trong những tù nhân cuối cùng của địa ngục Bukhânvan. Phải có nước Cộng hòa dân chủ Đức, người công nhân đã hy sinh tất cả tuổi trẻ của mình trong các nhà tù ấy, mới thành một nhà văn. Ông viết báo, được cử làm chủ nhiệm một nhà hát của nước Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1950 ông làm biên tập cho hãng phim Đêfa và đã chuyển thể quyển tiểu thuyết này thành kịch bản để xây dựng thành phim. Từ mười mấy năm nay đã có rất nhiều tác phẩm viết về các trại tập trung của phát-xít Đức, nhưng không tác phẩm nào để lại cho độc giả ấn tượng mãnh liệt như Trần trụi giữa bầy sói. Điều đó có nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân chủ yếu là vì tác giả của quyển tiểu thuyết này là một chiến sĩ. Là một chiến sĩ nên đối với ông, Bukhânvan không phải chỉ có lò đốt xác, có boong-ke, trại giam, có tháp canh, hàng rào dây điện cao thế, có lũ phát-xít hoành hành bắn giết tra tấn và hàng vạn tù nhân đói khổ, đau ốm, chết chóc và nếu còn sống sót thì kiếp sống cũng chẳng hơn gì thú vật. Điều đó là hiển nhiên. Nhưng còn có điều quan trọng hơn, và là trung tâm sự chú ý của Brunô Apitz. Đó là sự vĩ đại của con người, tình đồng chí “có một không hai trong lịch sử” của hàng chục dân tộc. Con người ở đây “trần trụi” thực đấy, nhưng họ gắn bó với nhau, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đảng có mặt mọi nơi. Hơfen, một nhân vật trong chuyện, nói: “Nếu chúng mình sống sót ra khỏi nơi đây, tôi sẽ chịu trách nhiệm trước Đảng về việc ấy, anh có thể tin như vậy”. Thì Krêmơ nghiêm nghị nhìn vào mặt Hơfen: “Đảng ở ngay đây”. Đảng ở ngay đây, ở ngay Bukhânvan, đó mới là chủ đề của cuốn truyện, ở đây không phải chỉ có đàn sói mà còn có con người, tuy bên ngoài ai cũng như ai đều mặc áo tù kẻ sọc, nhưng bên trong, đó là những con người lớn, đoàn kết, kỷ luật, sáng suốt, kiên nhẫn, mạnh hơn cái chết. Nội dung Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va-li cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xit sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Thời gian trong Trần trụi giữa bầy sói là thời gian của một vở kịch. Tác giả miêu tả Bukhânvan trong những ngày cuối cùng của nó. Sự việc xảy ra trên dưới một tháng. Ở trang đầu là tháng ba năm 1945, quân Mỹ vượt qua sông Rainơ, biên giới Đức, ở quãng Rêmagân là Hồng quân ào ạt tiến vào đất Đức. Và cứ thể: Haau, Opênhaimơ, Katxen, Aidơnăc... rồi ngày 8 tháng 4 tới Ecfuôc, và cuối cùng quân đồng minh ở cách trại giam 12 cây số và cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Bukhânvan. vấn đề đối với trại Bukhânvan là làm sao theo dõi được tin tức bên ngoài và tìm cách giành giật từng giờ từng phút, vì tương lai thuộc về họ cho nên họ càng trì hoãn được phút nào là họ tiến gần đến thắng lợi phút ấy. Không khí do đó càng ngày càng nồng nặc mùi thuốc súng. Trong những giờ phút ấy, tất nhiên con người càng dễ lộ bản chất của mình. Bọn phát-xit càng điên cuồng, lồng lộn, tàn ác, tìm cái khoái trá trong việc tra tấn, kìm kẹp, bắn giết, nhưng lại càng hốt hoảng, nhớn nhác, tìm cách tháo thân. Đối lập với chúng, Đảng Cộng sản càng nêu cao tinh thần kỷ luật, kiên quyết, sáng suốt lợi dụng thời cơ, ráo riết chuẩn bị. Chính trong khoảng thời gian ấy, cơn lốc của cuộc sống lôi cuốn mọi sự việc diễn biến rất nhanh, khiến từng giờ từng phút phải đối phó, đặt kế hoạch, tranh cãi, quyết định. Người ta không còn thì giờ nghĩ đến quá khứ, không còn thì giờ để hồi tưởng, mơ màng. Toàn bộ tác phẩm chỉ có hai cảnh nhắc đến quá khứ, nhưng trong một trăm trang đầu đã có tới sáu mươi cảnh khác nhau, trong đó người ta phải vật lộn với những vấn đề trước mắt. Biến cố xảy ra dồn dập với tốc độ của tia chớp. Jankôpxki đưa đứa bé vào trại, Hơfen phát hiện, Pipich đem giấu, Rôsơ bắt gặp, Bôkhâu ra lệnh: nó phải ra khỏi trại, Hơfen băn khoăn… Thế rồi người giữ đứa bé lại, người tìm ra nó, người đem giấu nó... Biến cố này chưa hết, biến cố khác đã xảy tới, trong khi bên ngoài là máy bay oanh tạc ầm ầm, và xa hơn nữa, những đoàn quân đang rầm rộ tiến. Cuộc sống ở đây căng thẳng đến nỗi các đồng chí trong ủy ban quốc tế các trại tập trung (ILK) không nhớ đứa bé làm cả trại khốn đốn kia là con trai hay con gái nữa cũng như chúng ta dễ dàng quên rằng mụ Horten có cái bộ ngực núng nính là người đàn bà duy nhất trong truyện. Đọc Trần trụi giữa bầy sói, không ai có thể quên những con người bảo vệ danh dự cho dân tộc Đức, Hơfen, Suyp, Pipich, Krêmơ anh chàng Ba Lan Krôpinxki, và những người lãnh đạo ủy ban quốc tế các trại tập trung; Bôkhâu, Bôgoxki, Riômăng, Van Đalen, Kôđixec. Họ khác nhau về tính tình, có người nôn nóng, có người trầm lặng, có người bao giờ cũng bình tĩnh, có người vui vẻ, có người lạnh lùng. Nhưng tất cả đều mang trong người tình nhân đạo cao quý. Cái gì đã khiến Hơfen giữ đứa bé lại, cái gì bắt Krêmơ làm ngơ không kiểm soát công việc của Hơfen, cái gì làm Hơfen đau khổ hơn là bị tra tấn khủng khiếp, cái gì làm Pipich sung sướng khi sắp chết vì đã kịp thời giấu súng. Họ không phải không có khuyết điểm hưng họ vẫn là những hình ảnh đẹp vô cùng. Đó là bài ca về cái đẹp của con người. Càng về sau, tính chất anh hùng ca càng nổi bật. Nếu ở nửa đầu tác phẩm, chủ yếu là miêu tả tâm trạng của cá nhân, thì nữa sau dành cho việc miêu tả hành động của quần chúng. Quần chúng trì hoãn việc dời trại, quần chúng che giấu 46 “nạn nhân” của thần chết, quần chúng bảo vệ đứa bé khiến cho Kluttich tuy đứng trước mặt nó mà không dám làm gì, đành phải rút lui và cuối cùng quần chúng khởi nghĩa. Có thể nói ít người có được ngòi bút khách quan hơn Brunô Apitz trong việc miêu tả nhân vật và sự kiện. Khi nói đến bè lũ phát-xít, tác giả không có một nét nào là biếm họa. Ông cẩn thận cân nhắc trong việc miêu tả, chú ý đến dáng điệu, cử chỉ, thái độ của từng đứa, cũng với tất cả sự quan tâm như đối với những đồng chí của mình. Người ta thấy cái lưỡi thè lè của Xvailinh; cái vẻ lịch sự dịu dàng che giấu một sự đểu giả tàn ác của Rainơbôt, ngay trong lúc tra tấn tù nhân y vẫn còn giữ cái vẻ lịch sự mềm mại của những động tác thể thao; cái tên man rợ Mandrin chuyên việc tra tấn người, càng nốc rượu vào thì lại càng tàn ác và tìm thấy trong việc tra tấn một thú vui khủng khiếp. Tên Svan có cái cằm phình ra, hay đi quanh cái bàn giấy to tướng, mở miệng là nói giọng ngoại giao; tên Kluttich thô bạo mở miệng là đòi bắn giết v.v... Ngay trong ngôn ngữ tác giả cũng để cho chúng biểu hiện được rõ cá tính của chúng. Người ta thấy đằng sau thái độ khách quan ấy là cái nhìn rất sáu sắc của một người đã sống một phần lớn đời mình trong việc theo dõi những kẻ thù của nước Đức và của thế giới. Ngay đối với các bạn, tác giả cũng vẫn giữ cái nhìn nghiêm khắc khách quan ấy. Brunô Apitz không gượng nhẹ họ, nếu trong óc họ nẩy ra những ý nghĩ khủng khiểp... Để cho Bôkhâu nghĩ đến cái chết của Hơfen và Hơfen nghĩ đến việc mình khó lòng chịu đựng được cảnh tra tấn nữa, để cho những con người nhân đạo nhất trên đời phải thốt lên: “Tại sao đứa bé kia không chết quách đi cho rồi”, tác giả làm người ta liên tưởng đến bút pháp của Secxpia, vị thầy của nghệ thuật. Người ta khó lòng khắt khe đối với những con cưng của mình hơn Apitz, nhưng kết quả sẽ không phải là làm giảm giá trị nhân vật. Trái lại, từ đó sẽ toát lên cái người ta thường gọi là lôgic khách quan của cuộc sống, tất yếu khách quan của hoàn cảnh và càng làm nổi bật cái tất yếu khách quan ấy thì cái thực, cái giả mới xuất hiện rõ, cũng như vàng, thau, chỉ có thể phân biệt bằng lửa chứ không thể đoán bằng mắt. Cuộc sống những ngày cuối cùng ở Bukhânvan tự bản thân nó là lửa. Cho nên đã xuất hiện thứ vàng cao nhất. Đã xuất hiện: chàng thợ xếp chữ Pipích, có đôi chân khuỳnh khuỳnh, nhỏ bé nhưng đến lúc hiểu sự thật thì anh dũng tuyệt vời; Krêmơ với đôi vai rộng đủ sức che chở cho toàn trại, với đầu óc sáng suốt, thần kinh tốt đến nỗi không còn có sự đe dọa, lừa bịp, không một biến cố nào vật ngã nổi; Bôgoxki với nụ cười vui vẻ, cười trong những lúc khó khăn nhất, Bôkhâu, con người của nguyên tắc, của tổ chức, nhưng nặng nề khối óc mà nhẹ về trái tim; Pribula sôi nổi, nôn nóng, luôn luôn đòi bạo động; Hơfen, con người xứng dáng với lời khen đẹp nhất của Bôgoxki: “Nghi ngờ Hơfen hóa ra nghi ngờ mình sao?”, “Chúng ta phải khỏe như Hơfen” v.v... Đặc biệt, trong tác phẩm đã xuất hiện cả một khối quần chúng vĩ đại, với trực giác được rèn luyện lâu dài trong những năm tù tội, với lòng tin sắt đá vào tổ chức, vào Đảng, ngay khi đứng trước cái chết cũng vẫn là một đội quân vô cùng anh dũng. Chính nhờ bút pháp khách quan ấy đã giúp cho tác giả tận dụng được vốn sống dồi dào của mình và vẽ lên được, tuy chỉ một mảnh của Bukhânvan thôi, nhưng một mảnh nóng hổi sức sống như trái tim của con người. Đối với văn hoc hiện tại, Trần trụi giữa bầy sói không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện tại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công. Trong nhóm chúng tôi, một người đã được nhìn thấy tận mắt Bukhânvan năm 1956. Trại tập trung Bukhânvan hiện nay đã được cải tạo thành một khu lưu niệm trưng bày những vết tích cũ. Từ những lò đốt xác cho đến những mớ tóc, những mảnh quần áo của tù nhân còn được giữ lại, từ những hàng rào thép gai đến những căn hầm đào dưới đất để trốn tránh, tất cả đều gợi lên cảnh của địa ngục trần gian, mà lịch sử loài người cho đến đại chiến thứ hai chưa từng được chứng kiến. Nếu như mỗi hòn đất, mỗi ngọn cỏ nơi đây có thể nói lên được, chúng sẽ kể lại không biết bao nhiêu thảm cảnh khó tưởng tượng; nhưng cuốn sách này của tác giả, theo chúng tôi nghĩ, đã có thể xứng đáng thay mặt cho những vật lưu niệm kia mà tố cáo trước loài người tiến bộ những hành vô cùng dã man của bọn phát-xít, nhắc nhở cho những người còn sống thêm cảnh giác trước những âm mưu thâm độc của bọn khát máu, đồng thời cũng là một bản anh hùng ca nói lên tinh thần bất khuất của tất cả các tù nhân, không kể là thuộc dân tộc nào, đấu tranh giành lấy quyền sống của con người, và sau cùng nói lên vai trò không thể thiếu của Đảng, của giai cấp công nhân, giai cấp tổ chức và lãnh đạo mọi cuộc đấu tranh để giành lấy quyền sống thiêng liêng ấy. Những người dịch Mời các bạn đón đọc Trần Trụi Giữa Bầy Sói của tác giả Bruno Apitz.