Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Mùa Đông Ở Stockholm

Đã bao giờ trong cuộc sống này, chúng ta muốn bật ra một câu hỏi tan nát cõi lòng rằng, vì sao chúng ta không được yêu thương như tình yêu chúng ta đã cho đi? Có thể là câu hỏi ấu trĩ, ích kỷ, trẻ con, nông cạn, quá xấu hổ để thốt ra nhưng có lẽ nó thật sự tan nát cõi lòng khi buộc phải vang lên. Trong Một mùa đông ở Stockholm, Agneta Pleijel có đưa ra một trích đoạn: “NÀNG CÔNG CHÚA bị giam trên chòi cao, nàng công chúa trên quả núi thủy tinh của mình, bị vua cha yểm bùa. Không một kẻ cầu hôn nào tìm ra lời giải cho câu đố, không một ai trong số bọn họ đưa nổi con ngựa của mình tới đỉnh những thành vách trơn nhẫy. Đó là điều mà câu chuyện kể khẳng định. Nhưng có phải nàng công chúa đã bị vua cha yểm bùa hay không? Chị không nghĩ như vậy. Cha chị là một con người tốt bụng và hiểu biết lẽ phải.” Một câu chuyện cổ quen thuộc. Rapunzel? Cha? Hay là mẹ? Có lời yểm bùa nào cản ngăn hạnh phúc? Hay là chính chúng ta? Khi gấp lại trang cuối cùng của Một mùa đông ở Stockholm, tôi chợt nhận ra trong cơn xao động dữ dội của lòng mình, tôi không những không rơi nước mắt mà còn mỉm cười. Tôi đã muốn kể ngay lập tức về quyển sách này cho một số người thân quen, báo cho họ biết sự tồn tại của câu chuyện trên trang giấy, những dòng chữ bộc bạch chân thành mà một phụ nữ khác đã viết nên: một vài người chị, một vài người em gái và có lẽ cả một vài người bạn gái nữa. Bởi vì họ – tất cả những người phụ nữ dịu dàng ấy – đã bị nghiền vụn trước một thế giới mà tình yêu thương giống như “thế giới bơi trong đàn cá y như đàn cá bơi trong đại dương”. Một cuốn sách tràn đầy tính nữ. Tính nữ chảy tràn như cách Agneta Pleijei viết về nước tuyết tan tù đọng dưới những bước chân lữ khách của một mùa đông vùng cực bắc lạnh giá. Tinh khiết nhưng lần hồi bị vấy bẩn, bị khuấy lên dữ dội và tung toé nhưng chậm rãi lắng lại trong sự tĩnh lặng soi bóng bầu trời. Những người phụ nữ đã vỡ tan thành từng mảnh từ thẳm sâu đáy lòng nhưng cũng như một trò chơi xếp hình nếu nhìn quá gần hay quá xa đều không thể dễ dàng nhận ra những khớp nối hay mép viền. Mà chúng thì luôn tồn tại. Một mùa đông ở Stockholm cũng là một tác phẩm có cấu trúc phân mảnh như vậy. Cuốn này là những mảnh vỡ, giống như pha lê, như bụi lân tinh, như những cánh hoa hồng rơi rụng, như những bông tuyết trắng rất mềm rất nhẹ. Tác phẩm đa dạng đến nỗi dưới con mắt nghiên cứu người ta có thể khảo sát nó từ nhiều góc độ phê bình khác nhau, từ phân tâm với những giấc mơ tràn đầy hình ảnh, tái dựng huyền thoại với các biểu tượng kinh điển, những câu chuyện cổ tích, v.v… đến phê bình nữ quyền với quá nhiều những thăm dò tinh tế vào địa hạt của mối quan hệ về giới. Một quyển sách mỏng giống như cánh cửa nhỏ mở vào một thế giới nội tâm trùng điệp, như chiếc hang thỏ đã dẫn bước Alice đến với Wonderland. Nhưng từ một cách tiếp cận gần gũi hơn, đây là lời tự thuật của nhân vật nữ chính – một nhà trí thức, một giáo sư thành đạt ở độ tuổi trung niên – người đã ly hôn hai lần và có mối quan hệ tình ái với một người đàn ông đã có vợ. Cô kể về tất cả những gì cô có thể kể, dường như không theo một trật tự nào ngoài sự phức tạp ngẫu nhiên của hồi ức. Chính từ các dữ kiện và sự ngẫu nhiên sắc sảo ấy, Một mùa đông ở Stockholm vì vậy không chỉ là câu chuyện tuyến tính giả lập về một đời người. Nó chính là bản vẽ về nội hàm bên trong toà thành của một người phụ nữ. Hay nói cách khác, nó chính là chân dung đa chiều của một người nữ. Chúng ta sẽ không chỉ thấy Agneta Pleijei tạo nên một bức tranh sống động từ câu chữ. Thay vào đó, bà đổ xuống trang giấy một làn nước lấp lánh, uốn lượn và mềm mại như cực quang Bắc cực. Làn nước ấy vừa sâu hun hút, vừa dịu dàng, ngây thơ lại có lúc hoang dại, bén nhọn, kiến tạo nên sự sống và cũng hàm chứa sức mạnh hủy hoại chính bản thân mình. Thật hiếm có một cuốn sách nào có thể đem đến nhiều sự chia sẻ chân thành đến vậy dành cho phái nữ với những đối thoại thẳng thắn về mối quan hệ trong gia đình, về cách tìm kiếm tình yêu thương. Sự thật cay đắng nhưng sự thật cần được nói ra, để hiểu với nhau rằng, chẳng có ai đơn độc. Cũng chẳng ai là có lỗi. “MỘT TRUYỆN CỔ TÍCH Một đứa trẻ khi mới ra đời là một cái bánh xe quay tít. Khi mọi người chất lên nó những gánh nặng, đứa bé trở thành một con lạc đà. Nó đi vào sa mạc. Ở đó nó gặp sự giận dữ của nó: đó là con sư tử. Lạc đà và sư tử giao chiến với nhau. Lạc đà chiến thắng. Đúng lúc ấy, nó bị biến trở lại thành đứa bé. Và đứa bé trở thành một cái bánh xe, xoay tròn lăn đi, tự do, trong thế giới.” Tôi đã tự hỏi, nếu con sư tử chiến thắng thì sao? Nhưng rồi tôi đã hiểu, chiến thắng đi kèm thất bại và thất bại cũng quan trọng như chiến thắng vậy, bởi vì đó chính là kết quả. Cuộc sống này quan trọng chính vì nó sẽ có và cần có điểm kết thúc. Chúng ta, là những con lạc đà, khuân trên lưng nỗi đau của tình thương, một món nợ truyền đời, chạy qua chạy lại trên sa mạc, đánh nhau với sư tử, “dọn cho mọi người thịt của chính mình để cho họ ăn chán ăn chê”. Nhưng “nỗi đau là cá thể”. Và rốt cuộc thì, người ta phải học cách thua trước cuộc đời để được tự do. Chiễm Phong (c) ReadingCafe.wordpress.com *** Nguyên Nguyên's review Dec 09, 2016 Một quyển nhật ký, chính xác là vậy. Tôi vẫn chưa định hình hoàn toàn cảm xúc của mình sau khi đọc về cuộc đời người phụ nữ ấy.  Những câu chữ nhẹ nhàng, lơ lửng, trôi đi nhanh chóng như 1 dòng nước uốn lượn, quanh co có khi rối tung ở 1 chỗ, tưởng như phập, lụa đứt. Một mùa đông u ám ở Stockholm, cùng với 1 nỗi lòng cũng đầy rẫy những vết nứt tưởng chừng chẳng bao giờ có thể lấp lại. "Một đứa trẻ khi mới ra đời là một cái bánh xe quay tít. Khi mọi người chất lên nó những gánh nặng, đứa bé trở thành một con lạc đà. Nó đi vào sa mạc. Ở đó nó gặp sự giận dữ của nó: đó là con sư tử. Lạc đà và sư tử giao chiến với nhau. Lạc đà chiến thắng. Đúng lúc ấy, nó bị biến trở lại thành đứa bé. Và đứa bé trở thành một cái bánh xe, xoay tròn lăn đi, tự do, trong thế giới.” Đứa trẻ ấy bị đè lên vai với cảm xúc của quá nhiều người, oằn mình chịu đựng làm sao cho vừa lòng tất cả. Một gia đình tan vỡ, những vết nứt sâu không thấy đáy. Mà họ, lại đổ nỗi đau ấy lên 1 đứa bé quá đỗi tinh linh. Một đứa bé mang trong mình tình thương vô tận, để rồi nó cứ đi phân phát chỉ hi vọng cũng nhận lấy 1 chút gì đó yêu thương. Nhưng cuối cùng nhận lại, là sự phản bội, khinh thường, giận dữ, xấu xa.  Tôi lúc trước, vẫn luôn sợ hãi cái cảm giác mình cho đi quá nhiều nhưng người khác lại không thật lòng với mình. Đó là 1 sự đáng sợ, sợ hãi lòng tin bị vùi dập, sợ hãi không vừa lòng, sợ bản thân mình là 1 cái gì đó sai trái. ừ, chị ấy cũng vậy, cũng phải chịu sự đè nén tâm hồn như vậy. Tôi cứ nghĩ cái kết sẽ khác. Nhưng không, kết rẽ theo chiều hướng bất ngờ. Nhưng mà nghĩ lại, chính như thế mới đúng, tự do lòng, tự do thân thể, mới là hạnh phúc đích thực. *** Cái tên ấy nghe thật khác lạ ở miệng anh: êm ái hơn, nhẵn nhụi hơn. Lưỡi anh trượt qua những phụ âm chướng ngại, quyện các nguyên âm lại với nhau, trơn tuột như gió lùa qua các cây hạt dẻ. Sau này, khi còn một mình, chị thử lặp lại cách anh đọc tên thành phố đó mà không được. Cả cái tên lẫn thành phố làm chị sợ: SARAJEVO Xe buýt ở Stockholm phô ra ghê sợ hình ảnh những đàn ông đàn bà trong cảnh cùng quẫn, những đứa trẻ với ánh mắt tố cáo, và bên dưới là một tài khoản ngân hàng viết bằng những con số lớn, đen sẫm: đó là lời kêu gọi cứu trợ. Hai người đi sang bên kia đường; anh đưa tay che mặt. Anh bảo không thể tưởng tượng được là những hình ảnh nói lên sự khủng khiếp của nạn đói trong thế giới thứ ba kia lại là đến từ chính nước anh. Anh đã nói như vậy: “Đất nước tôi”. Tháng Mười một, tuyết trên hè tan ra bẩn thỉu, xe buýt làm bắn nước lên gấu quần, lên giày khách qua đường. Hai người đi đến chân ngôi nhà nơi anh vẫn ngồi viết, nằm trong khu Vasastan, mé thành phố mà chị rất ít khi lui tới. Gian phòng lạnh lẽo. Mùi khói thuốc phảng phất, lửng lơ, đọng lại. Bên cạnh ghế là một lò sưởi điện. Trên bàn, một chiếc máy xử lý văn bản anh mượn của ai đó, một máy in và một máy fax kiểu cổ. Trên gờ cửa sổ, một chiếc máy cát-xét nhỏ và tiếng đàn viôlôngxen. Nhạc Bach qua tiếng đàn Pablo Casals. Những cát-xét này anh mang từ nhà đến: tôi cần nghe thứ nhạc này khi suy nghĩ. Dải giấy từ chiếc máy in chạy ra. Anh đi lại trong phòng, tay đút túi, vẻ bồn chồn, chị cảm thấy thế. Vậy là chị đã khá hiểu anh để có thể cảm thấy nỗi lo âu đó. STOCKHOLM THÁNG MƯỜI MỘT: Một thành phố bắc cực trôi giạt, bầu trời xám nâu, những ngôi nhà nghiêng ngả từ từ lún xuống và mất hút dưới mặt đất. Một vầng đỏ lựng loé lên nhoáng một cái trong cái hẽm giữa mầu đen của mặt đất và mầu đen của bầu trời. Ánh đèn nê-ông nhợt nhạt bên kia cửa kính xe buýt như những lời kêu cứu bi ai. Stockholm tháng Mười một thật khó tả, một tấm khăn liệm quắng vào mùa đông. I HAVE BEEN CALLING FOR MORE THAN ANHOUR…[1] Điện thoại chắc đã đổ chuông lâu rồi chị mới nghe thấy và chạy vội đến trả lời, vấp cả vào dây cắm của chiếc máy hút bụi, rồi vào mấy thùng bìa, chồng sách, đôi ván trượt tuyết, gậy hốc-cây, những quả bóng đá, chồng đĩa hát, túi quần áo, đống báo, tất cả những thứ lỉnh kỉnh chị đã lôi ra từ trong tủ, mắc áo, ngăn kéo. Chị rủa to. Bên ngoài, trời đen kịt. Nhưng căn phòng tràn ngập ánh sáng. Thế lại tốt. Rất sáng, các ngọn đèn đều được bật lên hết. Thoạt tiên, chị không nhận ra ai gọi. Một giọng lạ. BUT IT’S ME! [2] Chị lấy chân đẩy một thùng bìa sang một bên, lấy ra từ đống lộn xộn một chiếc ghế đẩu rồi ngồi xuống. Nhận được một cuộc điện thoại của ai đó sau bao nhiêu năm trời không gặp mặt. Ai đó mà ta không còn nghĩ được nghe lại tiếng nói trên cõi đời này. Đúng thế, chị đã nói chuyện điện thoại lâu, dễ đến một tiếng đồng hồ. Sau đấy, chị cho chạy máy hút bụi. Anh làm gì ở Stockholm, anh đã nhập cư rồi ư? Anh giễu cợt sự bối rối của chị. Không đâu, anh không nhập cư vào đây. Mấy gã kiểm tra hộ chiếu đã rất cảnh giác khi anh đặt chân tới Thụy Điển, họ đã xem xét giấy tờ của anh rất kỹ và hỏi anh rất nhiều. Trong khi anh nói, chị thấy gương mặt anh hiện lên dần dần, như một bức ảnh hiện dần lên trong khay thuốc hiện hình: đôi mắt trong, có lẽ là mầu xám, chị không nhớ nữa, vành môi sắc nét, khóe miệng nhục cảm hoặc giễu cợt; chị đã sống qua một đêm với người đàn ông này, lâu lắm rồi. Từ bao nhiêu năm nay rồi? Mười một năm, anh nói thế. PHI TRƯỜNG SKOPJE. Có ai đó, một trong những người chủ trì hội nghị, đã đưa chị ra đấy, hôn lên má chị và trao cho chị một món quà kỷ niệm: một chiếc lọ gốm nhỏ quai khum khum. Qua cửa kiểm soát hộ chiếu xong, chị dựa lưng vào tường nhìn những hành khách khác, khuỷu tay tì lên lan can sắt chạy xung quanh phòng đợi. Nóng ngột ngạt. Nhiều người lao động nhập cư trở lại sau một chuyến về thăm quê hương; hành lý gồm nào là túi xách, thùng bìa, một số ngồi bệt xuống đất, ghế nào cũng có người ngồi cả rồi. Bên kia những tấm kính bụi bậm, có thể thấy cây cối khô cằn, kiệt quệ vì nóng, rễ cây khẳng khiu. Skopje đấy: chị còn nhớ những bài báo đăng sau ngày động đất năm 1963, hình ảnh những đống gạch đổ nát, những con người vô gia cư, những xác chết. Thành phố bị tàn phá trong vài giây đồng hồ. Giờ đây, người ta đã xây dựng lại rồi. Hiện đại, với những khu chung cư rẻ tiền sơn trắng kiểu trại lính. Chị đến từ Struga, nơi diễn ra hội nghị: một khách sạn rộng mênh mông; các nhà thơ từ khắp thế giới đến ngâm thơ vào ban tối, giữa quầng sáng của những ngọn đèn rọi, trên một chiếc cầu bắc ngang giữa sông. Người dân trong vùng, đàn ông lẫn đàn bà, đến nghe thơ, nằm ngồi ngoài bãi cỏ trên bờ sông cao trong đêm tối. Chị cũng vậy, ngồi trên một mảnh báo gấp lại, hai tay bó lấy gối, nghe được cả tiếng nước róc rách, để mặc cho ý nghĩ lang thang và thử nghe hiểu mấy từ tiếng nước ngoài trong lúc lời dịch song song vang lên trong loa phóng thanh. MƯỜI MỘT NĂM TRƯỚC. Tuy mọi người có hơi bị mê muội vì cái nóng và rượu vang, người ta vẫn nói chuyện không ngớt xung quanh những chiếc bàn gỗ dưới những vòm cây lớn; tiếng nói cứ rì rào, bay lên trời. Những ngôn ngữ thiểu số là những cái túi ký ức của nhân loại, một vị giáo sư ở Ljublijana đã nói vậy khi so sánh một cách bóng bẩy với đặc điểm địa lý của nơi họ đang ở, cách hồ Ohrid không xa, một trong những vùng trũng nhất thế giới, dấu vết của biển Egée từ thế mioxen muộn, với những chi lưu ngầm trong lòng đất và hệ động vật biển duy nhất của nó: một cái nôi cho những mô hình tiếp hợp nguyên thủy của tự nhiên. Một hôm, cảm thấy cần yên tĩnh, chị đã trốn đi và một mình đi xe ô tô đến tận Ohrid, một thành phố đẹp mà chị nghĩ có lẽ chị sẽ muốn trở lại sau này; những bậc thang dốc đứng bằng đá, những ngôi nhà trắng nhỏ xíu nằm giữa những bụi cây nhỏ tỏa hương từ những bông hoa đỏ và trắng, và ở mé dưới rất xa là mặt hồ xanh thẳm lặng như tờ. Chị đã đến thăm một bảo tàng sàn nhà đen xỉn, trên tường trang trí đầy tranh và tượng thánh: những con mắt u tối với cái nhìn soi mói, bàn tay giơ lên trong một động tác tiêu biểu, ngón giữa và ngón cái chạm vào nhau; có một con bướm vàng bay lạc vào giữa những bức tranh, ở mảnh sân có những chiếc bàn trống trơ, trước một bục biểu diễn bỏ không, chị đã uống một ly rượu vang trắng. Trời ngả về chiều, bóng đổ dài. Vài ba đứa trẻ chơi đá bóng, gió nhè nhẹ thổi, thật dễ chịu. ... Mời các bạn đón đọc Một Mùa Đông Ở Stockholm của tác giả Agneta Pleijel & Hoàng Cường (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Chết của Ivan Ilich - Lev Tolstoy
Ivan Illich tuyệt vọng vì thấy cuộc đời mình đang chấm dứt. Trong thâm tâm, ông biết mình sắp chết. Ý tưởng ấy hoàn toàn xa lạ đối với ông. Ông không hiểu nó, hoàn toàn không thể hiểu được nó. Ông đã được học trong sách Luận Lý của Kizeveter một thí dụ của tam đoạn luận như sau : "Caius là một con người, mọi con người đều phải chết, nên Caius phải chết". Lý luận trên rất đúng khi nó được áp dụng cho Caius, nhưng không thể là sự thực khi nó được áp dụng cho ông. Khi nói đến Caius, hay con người nói chung, thì sự chết là tự nhiên, nhưng ông, ông không phải là Caius, cũng không phải là con người nói chung. Ông là một con người đặc thù, cá biệt, là Vania của bố, của mẹ, của Mitia và Volodia, với những đồ chơi, người đánh xe, chị giúp việc, và Katenka … với bao niềm vui, nỗi buồn, bao sự phấn khởi, say mê, của tuổi thơ, của lúc dậy thì và thời xuân trẻ. Caius có bao giờ ngửi thấy mùi thơm của quả bóng da mà Vania vô cùng yêu thích? Caius có bao giờ hôn bàn tay mẹ? Có bao giờ nghe tấm váy lụa của bà kêu sột soạt? Có phải ngày kia Caius đã gây bao ồn ào trong trường học, chỉ vì mấy cái bánh ngọt? Caius có từng yêu? Có từng chủ trì một cách thần tình những phiên tòa phức tạp (Ivan là một quan tòa cao cấp - NHV)? Caius phải chết, và cái chết của hắn là tự nhiên. Nhưng tôi, Vania, Ivan Illich, với tất cả những cảm xúc, trí tuệ, của riêng tôi, không liên hệ gì đến hắn. Cái chết của tôi là một nghịch lý, là phản tự nhiên một cách khủng khiếp. Ivan Illich tự nói với mình :  "Nếu tôi phải chết như Caius, thì tôi đã biết, một tiếng nói nội tâm nào đó đã báo cho tôi điều ấy. Nhưng tôi không hề nghe thấy gì về chuyện này. Tôi và các bạn tôi đều biết rất rõ là giữa chúng tôi và Caius có một sự khác biệt rất lớn.  Và, bây giờ, chuyện ấy lại xảy đến ! Không ! Không thể được ! Hoàn toàn không thể được ! Nhưng, nó vẫn đang xảy đến … Làm sao, làm sao hiểu được điều này?  Quả thật, ông không thể hiểu nổi, và cố sức gạt bỏ cái tư tưởng thường tình, sai lạc, bất công, bệnh hoạn ấy, để thay thế nó bởi những tư tưởng lành mạnh hơn, hợp lý hơn. Tuy nhiên, tư tưởng kia luôn quay lại, sừng sững trước mặt ông, không phải như một tư tưởng, mà như một thực tế" *** “Bá tước” Lev Nikolayevich Tolstoy sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828 tại điền trang Yasnaya Polyana thuộc tỉnh Tula. Yasnaya Polyana là nơi Tolstoy khởi đầu sự sống của mình, là nơi khơi nguồn sáng tạo nghệ thuật, là nơi chứng kiến những tìm tòi, những biến chuyển trong nghệ thuật cũng như trong những tư tưởng triết lý, đạo đức của ông, và đó cũng là nơi mà vào đêm 28 tháng 10 năm 1910 ông đã chạy trốn khỏi, từ bỏ tất cả: gia đình, tài sản... để đi trên con tàu vô định đến cái chết khi đã ở tuổi 82 với tên tuổi đã nổi tiếng trên thế giới. Tác phẩm tiêu biểu Dịch thuật Một chuyến đi đầy xúc cảm qua Pháp và Ý Bút ký Những mẩu chuyện Sevastopol Một người cần bao nhiêu ruộng đất ? Tôn giáo của tôi Vương quốc của Chúa là ở bên trong bạn Tóm tắt Phúc âm   Truyện ngắn Bản sonata Kreytser (bản in năm 1901) Một lịch sử của ngày hôm qua (1851) Lucerne (1857) Ba cái chết Kholstomer Một cuộc xưng tội Hadji Murat Cái chết của Ivan Ilyich Đức cha Sergy (1898)   Tiểu thuyết Thời thơ ấu (1852) Thời niên thiếu (1855) Thời thanh niên (1856) Người Kazak (1963) Chiến tranh và Hòa bình (1865) Anna Karenina (1877) Con người sống bằng gì (1881) Bản sonata Kreytser (1889) Phục sinh (1899) *** Từ phút đó bắt đầu cuộc kêu rên liên tục suốt ba ngày, tiếng kêu rên khủng khiếp đến nỗi cách hai lần cửa, khi nghe thấy, người ta vẫn thấy khiếp sợ. Vào giây phút khi ông trả lời vợ, ông biết rằng ông đã đi đứt rồi, không cứu vãn được, thế là hết rồi, hết hẳn rồi, còn mối hoài nghi thế là đã không được giải quyết và vẫn sẽ cứ là một mối hoài nghi. - U! U-u! U! – ông kêu là bằng các giọng điệu khác nhau. Ông bắt đầu kêu: “Tôi không muốn!” – và cứ thế tiếp tục kêu theo âm “uốn”. Trong suốt ba ngày, ông không nhận ra thời gian, ông giãy giụa trong chiếc túi đen ngòm mà một sức mạnh vô hình không cưỡng lại được đã ném ông vào đó. Ông giãy giụa như kẻ bị án tử hình giãy giụa trong tay đao phủ, biết rằng mình không thể thoát được. Và cứ mỗi phút ông lại cảm thấy rằng bất chấp mọi nỗ lực đấu tranh, ông đang đi ngày càng gần tới chỗ ông khiếp sợ. Ông cảm thấy nỗi đau đớn giày vò ông cả ở chỗ ông đang bị cuốn vào cái lỗ đen ngòm đó và ông càng bị giày vò đau đớn hơn nữa, vì ông không thể lọt qua cái lỗ đó được. Cái ý nghĩ cho rằng cuộc sống của ông là tốt đẹp đã ngăn trở không cho ông chui lọt qua lỗ đó. Chính sự bào chữa cho cuộc sống của mình đã bám chặt, không thả cho ông lăn đi và nó làm cho ông đau đớn nhiều hơn cả. Bỗng nhiên, một sức mạnh nào đó thúc vào ngực, vào sườn ông, ông càng thấy nghẹt thở hơn, ông lăn xuống cái lỗ và ở đấy, tại đáy lỗ có cái gì sáng lóe lên. Tình hình xảy ra với ông cũng giống như khi ông ngồi trên một toa xe lửa: ông tưởng tàu sẽ chạy về phía trước, nhưng nó lại chạy về phía sau, và ông bỗng nhiên nhận ra hướng đi thật của con tàu. ... Mời các bạn đón đọc Cái Chết của Ivan Ilich của tác giả Lev Tolstoy.
Trong Gia Đình - Hector Malot
Trong Gia Đình là một câu chuyện đẹp dành cho những em thiếu nhi và những ai đã trưởng thành. Đến với Trong Gia Đình chúng ta sẽ thấy được rằng nghịch cảnh có khó khăn đến mấy thì chỉ cần chúng ta có niềm lạc quan và biết lao động chăm chỉ thì cũng có thể vượt qua. Cách hành văn của Hector Malot có đôi chút hóm hỉnh, trong sáng, cách xây dựng nhân vật có cá tính rất riêng đã mang đến cho Trong Gia Đình một hơi thở độc đáo và tuyệt vời. Cùng với Không Gia Đình, Trong Gia Đình là một tròng hai tác phẩm nổi triếng nhất cuat Hector Malot và đã từng đoạt giải thưởng của viện hàng lâm văn học Pháp. *** Hector Malot (20 tháng 5, 1830 – 17 tháng 7, 1907) là nhà văn nổi tiếng người Pháp, các tiểu thuyết của ông được nhiều thế hệ độc giả trên thế giới yêu mến. Ông sinh năm 1830 tại La Bouille, miền Bắc nước Pháp. Tác phẩm đầu tay Những người tình (Les Amants) của ông xuất bản năm 1859 đã gây được tiếng vang lớn. Trong sự nghiệp của mình ông đă viết trên 70 tác phẩm. Các tác phẩm Romain Kalbris (1869), Trong gia đình (En Famille 1893) và đặc biệt là Không gia đình (Sans Famille 1878) được các độc giả nhỏ tuổi yêu thích. Ông mất năm 1907 tại Fontenay sous Bois.  *** - Phabry về đó! Ông Vunphran nói bằng một giọng khác thường, trong đó có sự lo ngại chen lẫn với sung sướng nữa. Đúng thế! Phabry đi nhanh vào trong buồng giấy. Ông ấy cũng thế, hình như đang ở trong một trạng thái lạ lùng! Ông ta đưa mắt nhìn Perin trước làm em bối rối, mà chẳng hiểu vì sao. - Xe hỏng máy nên tôi về chậm. – Ông nói. - Anh về, đó mới là cái chính! - Tôi đã đánh điện báo cho ông. - Bức điện của anh ngắn và lờ mờ quá. Khó đem hy vọng lại cho tôi. Cái tôi cần là những khẳng định chắc nịch kia! - Tôi có được phép báo cáo trước mặt cô? - Được chứ, nếu những tin ấy vẫn như anh đã nói. Đây là lần đầu, Phabry báo cáo một nhiệm vụ đặc biệt, mà lại hỏi ông chủ, có thể làm việc ấy khi có mặt Perin không? Em đang bối rối, thì câu chuyện giữa ông Vunphran và Phabry, qua giọng nói cảm động, dáng điệu khác thường của họ chỉ làm tăng thêm nỗi lo lắng cho em. - Như lời dự đoán của vị thám tử của ông, - Phabry nói, và không nhìn Perin. – Cái con người nhiều lần không để lại dấu vết, đã đến Paris. Tại đây, trong lúc đọc cái bản khai tử, người ta đã tìm thấy vào tháng sáu năm ngoái, một bản mang tên Mari Đôrétsany, quả phụ của Étmông Vunphran Panhđavoan. Đây là một bản sao. ... Mời các bạn đón đọc Trong Gia Đình của tác giả Hector Malot.
Một Đứa Con Đã Khôn Ngoan - Nguyễn Công Hoan
Trong truyện Một đứa con đã khôn ngoan, nhà văn giáo dục trẻ em đức tính yêu lấy tiếng Việt. "Ta có tiếng nói riêng. Bổn phận ta là phải giữ lấy tiếng ta, vì tiếng ta tức là tinh thần nước ta". Cậu bé Chỉ trong truyện này chỉ mê tiếng Pháp và cho rằng tiếng Việt không đủ để diễn tả hết mọi suy nghĩ và sự vật. Ngay cả lúc viết thư cho bạn, cậu cũng phải dùng thêm tiếng Pháp. Cậu (bố) của cậu bé Chỉ không đồng ý và phân tích cho cậu rằng: "Con thấy thiếu chứ tiếng ta không thiếu. Nếu thiếu chăng, thì nó thiếu ở ý mới, vật mới xưa kia không có. Còn những ý cũ vật cũ thì tiếng nước ta vẫn đủ như thường. Xem ngay như về gia đình, ta có biết bao nhiêu tiếng: kỵ, cụ, ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, chắt, chút, bác, cậu, mợ, dì, cô, thím, âu yếm, thân, hiếu, đễ, từ và biết bao nhiêu tiếng nữa. Lại nói như cách mang đồ đạc, ta có đội, gánh, xách, vác, cầm, khênh, ôm, cõng, bẽ, tải, cắp, khuân, bế, mỗi tiếng một nghĩa riêng" và "Cậu dám đánh cược với ông cử, ông nghè Tây dùng tiếng Pháp mà dịch nổi tiếng "lôi thôi" của ta đấy". Dù được phân tích thấu đáo như thế nhưng cậu bé Chỉ vẫn không tin. Và cậu chỉ thật sự tin khi mợ (mẹ) của cậu bị ốm và nhờ cậu đọc giùm tiểu thuyết tiếng Việt. Cậu bất ngờ là không ngờ nó lại hay đến thế! "Truyện Tây cũng đến thế là cùng". Thật bùi ngùi khi đọc lại những lời của người mẹ nói với con: "Mợ mua sách Quốc văn, được sách hay đã đành, dù phải sách dở mợ cũng vui lòng. Mình không có tài làm cho Quốc văn hay đẹp hơn lên, thì phải có chút khuyến khích những người có công quý hóa ấy vậy". *** Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903, tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là tỉnh Hải Hưng, trong một gia đình Nho học. Chính nơi sinh cũng là quê hương ông. Ông bắt đầu viết văn rất sớm, ngay từ khi còn đương học ở trường Bưởi. Tập truyện ngắn đầu tiên của ông là Kiếp hồng nhan xuất hiện năm 1923, khi ông tròn hai mươi tuổi. Từ đó ông viết nhiều truyện ngắn và truyện dài đăng trên các báo đương thời. Năm 1932 ông bắt đầu được bạn đọc chú ý khi cuốn truyện dài Những cảnh khốn nạn ra đời và nổi tiếng sau khi ra tập Kép Tư Bền (1935). Ông viết văn vừa dạy học cho đến Cách mạng tháng Tám. Do tham gia hoạt động trong phong trào Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học rồi Đảng xã hội Pháp, và bắt liên lạc được với những người cộng sản Đông Dương, ông luôn luôn bị Sở mật thám theo dõi. Hai lần ông bị bắt giữ rồi lại được thả vì không đủ chứng cớ kết tội. Lần cuối cùng, ông bị Nhật bắt giam cho đến ngày khởi nghĩa tháng Tám. *** Một buổi sáng, Tâm vừa ngủ dậy, chợt có hai người bịt mặt, lại gần Tâm. Một người giơ lưỡi dao sáng quắc, nói: — Hễ nói, ta đâm chết. Tâm sợ hết hồn, không dám nhúc nhích. Tức thì một người lại ôm lấy Tâm, lấy khăn buộc ngang mắt. Thế là Tâm không trông thấy gì nữa. Tâm hiểu biết rằng lần này ông Bẩy sai đem Tâm đi một nơi khác, mà không muốn cho Tâm biết đường. Tâm im lặng, thì thấy một người lấy cái gậy, gõ vào đầu Tâm, nghiến răng nói: — Bé mà bé hạt tiêu, liệu hồn! Đau nhưng Tâm không dám kêu. Một lát, Tâm ra dáng hiền lành, hỏi: — Các ông định đưa cháu đi đâu? Khốn nạn, Tâm chẳng được một câu trả lời; trái lại, một cái tay có năm ngón như năm quả chuối ngự đã tát mạnh vào má Tâm, khiến Tâm điếng người đi. Một người đắc chí, cười khanh khách, nói: — Rồi cháu đi đâu, cháu khắc biết. Cháu định đưa các ông đi chỗ nào, thì các ông cũng đưa cháu đi chỗ ấy. Tâm vơ vẩn nghĩ mãi câu ấy mà không hiểu. Nào Tâm có định đưa đảng Rổ Bẫy đi đâu đâu. Một người nói: — Kẻo rồi lại hiện làm ma về kêu oán nhé. Tâm giật nẩy mình. Rồi họ nói chuyện cùng nhau: — Tôi đã bảo cứ bẻ cổ nó đi có hơn là dìm xuống sông không? Tâm hết hồn. Đích là họ giết Tâm rồi. Tâm sực nhớ lại ngày trước ông Bẩy có giao hẹn với Tâm. Thì ra nay ông định cho Tâm chết, chứ không phải ông chỉ cho Tâm đi chỗ khác mà thôi. Bỗng Tâm rớt nước mắt, thút thít khóc, thì thình lình một cái bạt tai thật mạnh làm Tâm ngã dúi dụi. Nhưng may quá, Tâm đã nghe rõ ràng tiếng ông Bẩy quát: — Không được thế. Rồi ông Bẩy lại, nắm lấy tay Tâm, dắt đến ghế ngựa, bảo Tâm ngồi đó, rồi hỏi: — Con có oán gì thày không? Tâm không đáp, vì cho là đáp cũng vô ích. — Bất đắc dĩ thày mới xử con tàn nhẫn, con đừng oán thày nhé. Tâm cũng chẳng đáp, bởi vì Tâm cho rằng đến nông nỗi này thì còn mong gì sống nữa. Tâm có mỗi một mình, lại là trẻ con. Đảng Rổ Bẫy làm gì chẳng nổi. Thôi đành vậy, biết làm thế nào? Một lát, Tâm ngửi thấy mùi đồ ăn thơm ngào ngạt. Rồi dễ đến năm bảy người kéo nhau tới. Họ mời nhau ăn uống no say. ... Mời các bạn đón đọc Một Đứa Con Đã Khôn Ngoan của tác giả Nguyễn Công Hoan.
Địa Ngục hay Thiên Đường - Mark Twain
Gia đình bà góa Margaret, đứa con gái Helen, cùng hai người dì Hester và Hannah Gray luôn tôn sùng sự trung thực. Dù chỉ một lần nói dối rồi thú nhận ngay lập tức của Helen cũng đủ khiến hai người dì thấy hổ thẹn. Nhưng để Margaret khỏi chịu thêm đau khổ vì bệnh tật đau đớn, hai người dì đã nói dối Margaret về tình trạng sức khỏe của con gái bà - Helen. Và sau sự ra đi của hai mẹ con Margaret, một thiên thần đã xuất hiện hỏi tội hai người dì. Thiên đường hay địa ngục đang chờ đợi cả hai? *** Samuel Langhorne Clemens, thường được biết tới với bút danh Mark Twain (30/11/1835 – 21/4/1910) được vinh danh là nhà văn khôi hài vĩ đại nhất nước Mĩ – từ lời khuyên bỗ bã dành cho các bé gái, lập trường quái gở về sự sáng tạo và kiệt tác của ông xoay quanh vấn đề thủ dâm. Nhưng đằng sau sự hài hước đầy quyến rũ ấy là sự chiêm nghiệm sâu sắc về tinh thần con người cùng với những rối rắm của nó. Trong The Autobiography of Mark Twain: Volume 1 (tạm dịch: Cuốn tự truyện của Mark Twain: tập 1) (public library) – nơi Twain bàn về sự tương phản, kiềm hãm lẫn nhau của hai khía cạnh đạo đức và trí tuệ – ta bắt gặp câu chuyện cảm động về cách mà mẹ ông đã dạy ông về tầm quan trọng của lòng vị tha. Nếu bạn chưa từng đọc The Autobiography of Mark Twain (tạm dịch: Cuốn tự chuyện của Mark Twain), thì xin hãy cân nhắc – Twain đã dành nhiều thập kỷ để viết nó, nhưng tác phẩm chưa bao giờ được hoàn tất và ông đã cấm con cháu của mình xuất bản bản thảo cho đến 100 năm sau ngày ông mất. Một thế kỉ chờ đợi cũng đáng lắm cho một tác phẩm như vây. *** N ửa đêm, hai bà lão còn ngồi bên nhau, than khóc thì họ tưởng chừng trông thấy một thiên thần hiện ra giữa vầng hào quang chói loà. Thiên thần bảo hai bà: — Những kẻ nói dối sẽ bị đày xuống hoả ngục đời đời. Hai người hãy hối cải đi! Hai bà lão quỳ xuống dưới chân thiên thần và cúi đầu, tỏ lòng tôn kính. Nhưng lưỡi của hai bà cứng lại nên họ đành ngậm câm. — Nói đi, - thiên thần bảo, - nói lên để cho ta có thể mang lời giải đáp ra trước toà án của Thiên Chúa và mang lại cho hai người phán quyết tối hậu. Hai bà vẫn quỳ, hai mái đầu bạc vẫn cúi rập xuống, một người nói — Tội chúng tôi lớn lắm, và chúng tôi rất nhục nhã, tủi hổ. Chỉ có một sự ăn năn, hối cải triệt để mới cứu rỗi được chúng tôi. Chúng tôi là những kẻ khốn khổ đã biết rõ sự yếu đuối của loài người là vô hạn và chúng tôi biết nếu chúng tôi còn bị đẩy vào những tình thế nghiệt ngã thì chúng tôi cũng sẽ phạm tội như trước. Những người cương nghị có thể chống chọi và được cứu rỗi, còn chúng tôi, chúng tôi sẽ sa ngã và đánh mất linh hồn. Hai bà lão ngẩng đầu lên để van xin. Nhưng thiên thần đã biến mất. Trong lúc họ ngạc nhiên và than khóc, thiên thần trở lại và cúi xuống hai bà, nói nhỏ phán quyết. Mời các bạn đón đọc Địa Ngục hay Thiên Đường của tác giả Mark Twain.