Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kinh Doanh Trong Thời Đại 4.0

Nguyên tắc chung để "lột xác" doanh nghiệp "Gián đoạn” hay “chuyển đổi” đang là những chủ đề nóng trong giới kinh doanh, và quả đúng như vậy. Công nghệ kỹ thuật số đã mang lại thay đổi lớn, làm gián đoạn toàn bộ nhiều ngành công nghiệp đồng thời tạo thời cơ cho các công ty như Facebook hay Amazon tăng trưởng kỷ lục. Ai cũng thấy rằng các tập đoàn lâu đời đang phải chật vật, trong khi các công ty mới, nhỏ và linh hoạt hơn vì áp dụng những mô hình kinh doanh mới. Nhưng giữa những thay đổi này, còn một điều cần phải chỉ ra: dù thời đại kỹ thuật số đang và sẽ tiếp tục là thách thức với các ông lớn trong các ngành truyền thống, nhưng cơ hội dành cho họ vẫn rộng mở. Công ty dự báo thời tiết The Weather Company là một ví dụ điển hình. Người dùng đã chuyển từ TV sang di động, nhưng họ không dùng điện thoại đủ lâu để việc quảng cáo trên đó có lợi nhuận. Các lãnh đạo công ty này đã chuyển hướng và tạo ra dịch vụ WeatherFX, dùng dữ liệu giúp các nhà bán lẻ dự đoán thời tiết sẽ ảnh hưởng tới hành vi mua sắm như thế nào. Nhiều công ty khác cũng đang tìm ra giải pháp riêng. Đối mặt với lượng người đọc báo in cùng với doanh thu quảng cáo suy giảm, tờ báo New York Times đã xây dựng mô hình đọc báo trả tiền khá thành công với 2,5 triệu người đăng ký, và tờ nhật báo này dự kiến sẽ thu được 800 triệu đô-la doanh thu từ mảng trực tuyến vào năm 2020. Các công ty xe hơi như Cadillac đang thử nghiệm dịch vụ cho thuê xe hạng sang, còn Sephora và các nhà bán lẻ khác đang tạo ra ứng dụng để cải thiện trải nghiệm mua sắm trong cửa hàng. Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs cũng tạo ra một nền tảng trực tuyến (và còn mời các đối thủ cạnh tranh cùng tham gia). Là một lãnh đạo doanh nghiệp, chắc bạn đã nghĩ về “kỹ thuật số” từ lâu, và chắc bạn đã thử các dự án để “số hóa” hoạt động kinh doanh của mình. Một số dự án có thể đã đơm hoa kết trái. Giống như các giám đốc mà tôi đã tiếp xúc, có lẽ bạn đang muốn chuyển đổi mạnh mẽ hơn nữa. Nhưng làm cách nào? Nếu công ty của bạn thiếu đi tố chất kỹ thuật số và sự linh hoạt vốn là lợi thế của các công ty khởi nghiệp, làm thế nào để bạn tận dụng tất cả những cơ hội của thời đại số? Trong hơn 10 năm, là một giáo sư ở Trường Kinh doanh Harvard, tôi đã nghiên cứu chiến lược kỹ thuật số và tư vấn hàng tá các công ty đang thực hiện chuyển đổi kỹ thuật số (digital transformation). Nhờ đó, tôi đã tận mắt chứng kiến những thành công và thất bại, và tôi nhận ra những lãnh đạo chuyển đổi thành công đã dồn toàn lực vào quyết tâm số hóa. Nói cách khác, họ không tách biệt chiến lược kỹ thuật trong chiến lược tổng quát, mà biến kỹ thuật số thành ưu tiên hàng đầu và làm sao để công nghệ số chạm đến mọi ngóc ngách của doanh nghiệp. Chuyển đổi kỹ thuật số yêu cầu gia cố nền móng nhưng đồng thời xây dựng những cấu trúc mới. Cuốn sách này, qua hàng loạt ví dụ, sẽ dẫn đường cho bạn. Trong sách có các nghiên cứu trường hợp (case study) và những phương pháp tốt nhất (best practices) từ những doanh nghiệp đã hoàn toàn “lột xác”, cùng với các nguyên tắc chung sẽ giúp bạn vạch ra chiến lược số bao trùm và dẫn dắt doanh nghiệp qua quá trình chuyển đổi. CÁC THỬ NGHIỆM SAI LẦM Để tránh khỏi làn sóng gián đoạn của thời đại kỹ thuật số, đồng thời tìm kiếm cơ hội mới, các công ty thường đi theo 3 chiến lược: tạo ra các đơn vị nhỏ, độc lập hoặc các công ty khởi nghiệp trong lòng doanh nghiệp lớn; tiến hành một loạt các thử nghiệm ứng dụng kỹ thuật số; và cuối cùng là áp dụng công nghệ để giảm giá thành và tăng tính hiệu quả. Tuy nhiên, các nỗ lực đó chỉ đạt kết quả hạn chế. Hầu hết các tập đoàn lớn đã mở các đơn vị kỹ thuật số độc lập hoặc có văn phòng ở Silicon Valley, gửi gắm hi vọng đổi mới sáng tạo vào các doanh nhân trẻ. Chẳng hạn, gã khổng lồ viễn thông của Tây Bay Nha Telefónica thành lập đơn vị độc lập như vậy vào tháng 9 năm 2011, mang tên Telefónica Digital. Với trụ sở công ty mẹ đặt ở Madrid, đơn vị kỹ thuật số mới đặt ở London với giám đốc điều hành (CEO) riêng và ngân sách độc lập. Giống phần lớn các công ty viễn thông, Telefónica đã không hưởng lợi từ cuộc cách mạng di động. Thay vào đó, những đối thủ mới như Skype và WhatsApp đang thách thức mọi dịch vụ của họ. Lãnh đạo Telefónica hi vọng đơn vị số này sẽ sáng tạo những ý tưởng mới cho sản phẩm và dịch vụ tương lai của công ty. Với sự mệnh đầy tham vọng, quyền tự do hoạt động độc lập và ngân sách dồi dào, Telefónica Digital bắt đầu sáng tạo. Họ đưa ra nhiều ý tưởng khá mới mẻ đối với một công ty viễn thông thời bấy giờ. Sau khi phát triển thử nghiệm, nhóm này gửi các ý tưởng triển vọng về trụ sở ở Madrid để thực hiện toàn cầu. Tuy nhiên, có nhiều sự phản đối từ lãnh đạo công ty con ở các nước, những người không cảm thấy thuyết phục và cũng không có nguồn lực để thực hiện ý tưởng. Sau 3 năm, Telefónica đóng cửa đơn vị kỹ thuật số ở London và chuyển nó về Madrid. Tạo ra đơn vị độc lập giống như dùng xuồng cao tốc để chuyển hướng con tàu lớn. Thường thì xuồng cao tốc vẫn sẽ chạy, nhưng không có mấy tác động tới con tàu mẹ. Chiến lược thứ hai là khi các công ty làm nhiều thí nghiệm nhỏ hơn – điều khá hợp lý trong bối cảnh kinh doanh thay đổi liên tục và bất trắc. Hành trình này thường bắt đầu với một vài thử nghiệm mang tính ngắn hạn, thường ở phòng marketing, nơi các nhân viên thường xuyên dùng thử các giải pháp mới trên mạng xã hội hoặc di động. Khi sự phấn khởi về kỹ thuật số lan rộng, các dự án nở rộ khắp nơi trong doanh nghiệp. Năm 2012, Kasper Rorsted, CEO của tập đoàn Henkel (Đức) thời đó, nhận ra điều này khi ông yêu cầu một nhóm lãnh đạo cao cấp lập danh sách các dự án kỹ thuật số. Ông khá bất ngờ khi có hơn 150 dự án số riêng rẽ trong tập đoàn. Nhiều dự án bắt đầu là các thí nghiệm nhỏ để giải quyết một bài toán cụ thể trong một phòng ban hay một công ty con. Chẳng lâu sau, có thêm nhiều dự án số mới mọc lên ở khắp nơi trong tập đoàn, mà Rorsted gọi là “hàng trăm bông hoa”.1 Nhận ra các dự án như vậy không tạo ra sự hiệp lực (synergy), các công ty bắt đầu hợp nhất chúng lại. Một nhóm lãnh đạo lên danh sách các dự án số ở các phòng ban, nhãn hàng, đơn vị và khu vực khác nhau, và tìm cách phân chia, hợp nhất. Thông thường, một hội đồng quản lý được lập ra để xét duyệt các dự án số trong tương lai. Ở giai đoạn này, các dự án trước đó chỉ trong khu vực giờ trở thành toàn cầu, và các dự án dành cho một nhãn hàng sẽ phục vụ nhiều thương hiệu. Mỗi giai đoạn trong hành trình này đều có ích, thậm chí rất quan trọng, vào thời điểm đó. Các thử nghiệm giúp công ty khẳng định các ý tưởng mới và khám phá các xu hướng tương lai. Sự nở rộ các ý tưởng, dự án ở các đơn vị kinh doanh là chỉ dấu cho sự hào hứng cùng nhau xây dựng. Sự hợp nhất các dự án cũng cần thiết để phân phối nguồn lực một cách hiệu quả. Tuy nhiên, làm nhiều thí nghiệm mà không có chiến lược và phương hướng sẽ tạo ảo tưởng thành công trong ngắn hạn mà không tạo được thay đổi lâu dài. Các ý tưởng nở rộ nhưng không được hiện thực hóa trên quy mô lớn sẽ gây lãng phí thời gian và nguồn lực. Quan trọng hơn, cách tiếp cận từ dưới lên (bottom-up) như vậy thường mang tính tình thế, ngắn hạn, và không phải là câu trả lời căn bản cho chiến lược mà các doanh nghiệp nên bàn luận. Cách tiếp cận thứ 3 là tận dụng công nghệ để cắt giảm chi phí và tăng tính hiệu quả trong hoạt động. Ví dụ, các ngân hàng đóng cửa phòng giao dịch khi càng nhiều khách hàng dùng dịch vụ trực tuyến và di động. Các cửa hàng bán lẻ giảm diện tích và đóng cửa những địa điểm vắng khách. Các quy trình được số hóa và điều chỉnh để giảm chồng chéo, tăng hiệu quả. Nhiều tác vụ được thiết kế lại để khách hàng tự phục vụ (self-serve), giúp giảm chi phí nhân công. Tăng năng suất và giảm chi phí nên là các mục tiêu trong mọi doanh nghiệp. Nhưng nếu bạn chỉ hướng tới mục tiêu đó, bạn đang chấp nhận sẽ không để công nghệ thay đổi tận gốc doanh nghiệp của mình. Chẳng hạn, nếu chấp nhận như vậy thì các ngân hàng vẫn nên hoạt động như cũ và sẽ không bị ảnh hưởng nhiều từ các công ty công nghệ tài chính (fintech). (Tuy nhiên, thực tế lại không phải vậy. Chẳng hạn, quỹ đầu từ Yu’e Bao do Alibaba sở hữu mới hoạt động 4 năm, là quỹ gom tiền thừa trong tài khoản của khách hàng. Đây đã trở thành quỹ thị trường tiền tệ (money-market fund) lớn nhất thế giới, với 165,6 tỷ đô-la, vượt qua quỹ thị trường tiền tệ 150 tỷ đô-la của JPMorgan). Tóm lại, những cách để hướng tới công nghệ số như trên chỉ mang tính chắp vá, chứ không giải quyết các vấn đề ẩn sâu bên trong. Để thành công, bạn không thể chỉ tạo một đơn vị kỹ thuật số riêng, hoặc tiến hành các thử nghiệm, hoặc chỉ dự định dùng công nghệ để tăng năng suất. Thay vào đó, bạn phải biến kỹ thuật số thành chiến lược cốt lõi. Thay vì coi chiến lược số là nỗ lực riêng biệt, bạn phải để nó bao trùm lên mọi hoạt động, mọi bước đi trong doanh nghiệp của mình. TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC: NGUYÊN TẮC CHUNG ĐỂ ĐỔI MỚI DOANH NGHIỆP Dùng nhiều ví dụ ở nhiều ngành, cuốn sách này sẽ cho bạn các nguyên tắc chung để đổi mới doanh nghiệp, tận dụng các lợi thế sẵn có và nhìn ra những nguồn lực cần phải phát triển. Có 4 nguyên tắc căn bản: 1. Tái tư duy hướng kinh doanh 2. Tái đánh giá chuỗi giá trị 3. Tái kết nối với khách hàng 4. Tái cấu trúc doanh nghiệp Trong cuốn sách này, tôi sẽ bàn chi tiết các nguyên tắc trên. Bạn sẽ phải đối diện với chúng. Để thành công, bạn không thể bỏ qua nguyên tắc nào. Nhưng bạn sẽ nhận ra từ các nghiên cứu trường hợp rằng có nhiều hướng đi linh hoạt và rộng mở để chuyển đổi doanh nghiệp của mình. Vì biết rằng không có cây đũa thần duy nhất, cuốn sách này sẽ cố gắng đưa ra cách tiếp cận mang tính hệ thống cho việc chuyển đổi kỹ thuật số. Tái tư duy hướng kinh doanh Với những thay đổi chóng mặt của kỷ nguyên kỹ thuật số, bạn cần ngồi lại và suy ngẫm về bản chất của doanh nghiệp mình, tìm hiểu 3 yếu tố: phạm vi, mô hình kinh doanh và môi trường kinh doanh. Khi nghĩ về phạm vi, bạn sẽ phải tự hỏi: “Chúng ta sẽ hoạt động trong lĩnh vực nào?” Như Amazon, khởi đầu là một trang web bán hàng, nhưng giờ không giới hạn ở lĩnh vực bán lẻ. Năm 2017, Amazon dự kiến sẽ kiếm được 3,5 tỷ đô-la tiền quảng cáo, và đồ điện tử như Echo cũng đang tranh giành thị phần. Google cũng đang đầu tư vào xe tự lái, còn Apple, sau hàng thập kỷ là một công ty phần cứng, đang đầu tư mạnh mẽ vào mảng nội dung. Vậy bạn nên đầu tư vào đâu? Trong thời đại kỹ thuật số, các công ty thường rẽ ngang để cạnh tranh, và xác định lại phạm vi kinh doanh là chìa khóa của thành công. Cần phải cân bằng và thận trọng, vừa giữ vị trí sẵn có vừa mở rộng phạm vi kinh doanh. Chương 1 sẽ bàn về phạm vi kinh doanh và cho bạn thấy các quy luật của cuộc chơi đã thay đổi, và phải làm sao để tiếp tục cạnh tranh. Thay đổi công nghệ đòi hỏi xác định lại mô hình kinh doanh, cách bạn tạo ra giá trị và chiếm được vị trí trong chuỗi giá trị. Chẳng hạn, khi iTunes làm nghiêng ngả ngành công nghiệp đĩa hát, khiến doanh thu suy giảm, ngành này đã phải chuyển trọng tâm sang biểu diễn sân khấu làm nguồn thu chính. Ngành xuất bản và báo in, với doanh thu quảng cáo suy giảm, cũng buộc phải xem lại liệu có nên trông chờ một tương lai dựa vào quảng cáo hay không. Chương 2 bàn về các đổi mới sáng tạo mô hình kinh doanh và cách công ty của bạn có thể học hỏi. Khi các mô hình kinh doanh đều thay đổi và cạnh tranh càng gay gắt, có thể bạn sẽ nhận ra khó có thể thành công một mình. Có thể bạn sẽ phải biến thành một nền tảng (platform) nơi bạn phải hợp tác với một môi trường kinh doanh mới – cả đối tác lẫn đối thủ (frenemies). Nhiều công ty đã tạo ra các nền tảng và buộc phải thay đổi cách nhìn về cạnh tranh. Khi ngân hàng đầu tư Goldman Sachs khai trương mảng buôn bán trái phiếu cấu trúc (structured notes), còn có tên SIMON, họ đã làm mọi người kinh ngạc khi mời các đối thủ cùng lên nền tảng đó và bán sản phẩm. Chiến lược này đã khiến Goldman Sachs trở thành nhà phát hành trái phiếu cấu trúc lớn thứ 2 thế giới chỉ sau vài năm. Việc chuyển hướng từ bán sản phẩm sang quản lý một nền tảng cần chiến lược và suy nghĩ rất khác, như sẽ đề cập trong Chương 3. Đánh giá lại chuỗi giá trị Công nghệ kỹ thuật số có thể tăng hiệu quả và năng suất trong chuỗi giá trị của bạn, nhất là khi nhiều mô hình Nghiên cứu & Phát triển (R&D) và đổi mới được ứng dụng. Các công ty như GE, P&G và Siemens đã tận dụng khái niệm “sáng tạo mở” để tiếp cận R&D. Chương 4 sẽ phân tích tại sao và khi nào sáng tạo mở phát huy tác dụng, bạn nên thiết kế mô hình sáng tạo mở trong doanh nghiệp như thế nào, và làm sao để tránh các sai lầm. Công nghệ số đã mở ra kỷ nguyên Công nghiệp 4.0. Các đổi mới như sản xuất vận dụng kỹ thuật số, thực tế ảo và thực tế ảo tăng cường (virtual & augmented reality), công nghệ in 3-D, và chuỗi cung ứng kỹ thuật số đang tăng năng suất doanh nghiệp. Chương 5 sẽ bàn về cách các doanh nghiệp toàn thế giới đang vận dụng công nghệ để tạo lợi thế cạnh tranh. Những công ty mới đang áp dụng công nghệ số để làm gián đoạn chuỗi giá trị sẵn có, đặc biệt là mảng phân phối. Trong làn sóng Internet thời đầu, các công ty mới đã làm chao đảo nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như các đại lý du lịch. Quá trình này vẫn tiếp tục, và giờ đến lượt các đại lý xe hơi và nhà bán lẻ chịu sức ép, khi các nhà sản xuất tự mở các kênh phân phối trực tuyến của riêng mình. Thách thức với các nhà sản xuất là làm sao để phối hợp cả 2 kênh phân phối truyền thống lẫn trực tuyến, làm sao để tạo sức mạnh cộng hưởng, như Chương 6 sẽ đề cập. Tái kết nối với khách hàng Công nghệ số cũng thay đổi cách tìm mua hàng, và tạo điều kiện để thu thập thông tin về toàn bộ quá trình chọn mua hàng, mở ra hàng loạt các hướng tìm kiếm khách hàng mới. Trước khi mua xe, khách hàng sẽ tìm kiếm thông tin trên Google, và đó là cơ hội để các nhà sản xuất xe hơi tìm hiểu thị hiếu đồng thời tác động đến quyết định của họ. Các cảm biến gắn vào máy giặt có thể giúp hãng máy giặt Whirlpool ghi lại cách thức sử dụng của khách hàng, và thậm chí có thể cung cấp thông tin về loại bột giặt cho hãng P&G. Vì người tiêu dùng ngày càng dựa vào đánh giá từ bạn bè trên mạng, bạn có thể theo dõi mạng xã hội xem có thể biến ai thành “người ảnh hưởng” (brand advocates) có khả năng thuyết phục người khác. Chương 7 sẽ thảo luận cách công nghệ số mở ra nhiều hướng tìm kiếm khách hàng mới. Dù marketing kỹ thuật số đã qua nhiều năm phát triển, tỷ lệ người dùng nhấn chuột vào quảng cáo trực tuyến chỉ dưới 1%. Nhãn hàng nào cũng muốn lôi cuốn người tiêu dùng, nhưng người tiêu dùng sẽ không tự nhiên mà tìm hiểu về một bánh xà phòng, một lon nước ngọt hay một chai bia. Giữa vô số thông tin ồn ào trên mạng, làm thế nào để bạn được họ chú ý? Chương 8 sẽ cho thấy câu trả lời không chỉ nằm ở công nghệ và dữ liệu, mà nằm ở việc đưa ra các giá trị độc nhất vô nhị cho khách hàng, như các ví dụ mà Tesco đã làm ở Hàn Quốc, Unilever ở Ấn Độ, và MasterCard ở Singapore. Công nghệ số lẽ ra phải khiến việc đánh giá chiến dịch quảng cáo dễ dàng hơn. Nhưng việc đó vẫn khó khăn do nhiều thách thức, như việc phân bổ kết quả của chiến dịch marketing (attribution). Làm sao để bạn phân tích và tối ưu hóa chi phí tiếp thị? Chương 9 sẽ nói về các nghiên cứu giúp các công ty trong công đoạn quan trọng này. Tái cấu trúc doanh nghiệp Đưa doanh nghiệp qua chặng đường chuyển đổi kỹ thuật số không phải chuyện nhỏ. Khi vừa củng cố thế mạnh hiện tại, vừa xây dựng cho tương lai, bạn sẽ phải quản lý đồng thời 2 doanh nghiệp. Vì vậy, doanh thu và lợi nhuận sẽ giảm trong giai đoạn chuyển đổi, trước khi có thể tăng lên, và điều đó có thể làm một CEO tự tin nhất phải nao núng. Chương 10 sẽ bàn về thách thức khi chuyển đổi kỹ thuật số và nêu những ví dụ các công ty như Adobe đã trải qua quá trình này thành công. Nếu vậy, làm sao để chuẩn bị doanh nghiệp của bạn cho việc đổi mới sáng tạo? Như tôi đã nói trong phần trước, tạo ra một nhóm khởi nghiệp riêng biệt bên trong một doanh nghiệp truyền thống giống như dùng xuồng cao tốc để chuyển hướng con tàu mẹ. Do vậy thay vì dùng xuồng cao tốc, bạn hãy tạo ra một nơi neo đậu cho các dự án mới mà chúng ta đang gọi là xuồng cao tốc này, để rồi tận dụng sức mạnh của con tàu mẹ mà dần dần lái nó theo hướng khác. Chương 11 sẽ giải thích thêm. Dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, và máy học (machine learning) đã tự động hóa nhiều việc làm, thay đổi hoàn toàn các kỹ năng mà nhân lực của doanh nghiệp cần có. Công nghệ đã khiến việc quản lý nhân lực bớt tính chủ quan và phụ thuộc nhiều hơn vào dữ liệu. Các phương pháp mới để tuyển dụng, quản lý người tài đang được áp dụng. Chương 12 nói về các chủ đề này và mô tả cách mà Knack, một công ty ở San Francisco, Mỹ, dùng trò chơi trên di động để tuyển nhân tài. Mỗi trò chơi 10 phút cho Knack hàng ngàn kiểu dữ liệu về cách các ứng viên xử lý thông tin, đối phó với thử thách và học hỏi từ sai lầm. Sự sáng tạo này đã giúp Knack có được nhiều người ủng hộ và nhiều khách hàng lớn như AXA, BCG, Nestlé và Citigroup. Sau đây cuốn sách sẽ bàn về 4 nguyên tắc lớn của chuyển đổi kỹ thuật số được minh họa trong hình 1-1. Mỗi chương sẽ đi sâu vào 3 chủ đề nhỏ, nêu ra các cách thức tối ưu, và giải đáp những câu hỏi đặt ra ở trên. *** Phạm vi kinh doanh Năm 1960, Theodore Levitt, giáo sư Trường Kinh doanh Harvard, đăng bài viết gây tranh cãi trên Harvard Business Review, trong đó ông tranh luận rằng các công ty quá chú trọng vào sản phẩm mà không phải vào nhu cầu của khách hàng. Để giúp các nhà quản lý tránh điều này, ông đặt câu hỏi “Các bạn thực sự đang trong ngành kinh doanh nào?”1 Năm thập kỷ sau, câu hỏi căn bản đó càng trở nên quan trọng, khi các công ty chuyển từ sản phẩm sang nền tảng và ranh giới giữa các lĩnh vực ngày càng mờ nhạt. Nhưng ngay cả khi đa số doanh nghiệp đang cố gắng lấy khách hàng làm gốc, vẫn có nhiều giám đốc cao cấp từ các tập đoàn như General Motors hay Walmart chỉ nhìn vào sản phẩm để xác định mục tiêu hay lĩnh vực kinh doanh. Hãy cùng tìm hiểu xem Amazon đã vận dụng lời khuyên của Levitt như thế nào. AMAZON KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC NÀO? Khi Amazon mới khai trương website, vào tháng 7 năm 1995, nhà sáng lập Jeff Bezos muốn dùng Internet để bán sách với giá rẻ. Ông lập ra một hiệu sách ảo, với chi phí cố định thấp và nhiều đầu sách hơn so với một cửa hàng truyền thống. Khái niệm đó trở nên phổ biến, và Bezos nhận ra khách mua những mặt hàng khác cũng sẽ thích hình thức này. Ông bán thêm đĩa nhạc, đồ điện tử, đồ chơi, phần mềm, đồ gia dụng và nhiều mặt hàng khác. Giá cạnh tranh, chủng loại đa dạng và sự tiện dụng của Amazon thách thức các nhà bán lẻ truyền thống như Best Buy, Toys “R” Us, và Walmart. Năm năm sau, Amazon mở cửa trang web và mời các bên thứ 3 lên bán hàng, với điều kiện họ trả Amazon khoản phí nhỏ. Đôi bên cùng có lợi: hàng hóa trở nên đa dạng hơn mà Amazon không tốn một xu, còn các bên thứ 3 hưởng lợi từ lượng khách sẵn có trên Amazon. Việc mở cửa cho các bên thứ 3 biến Amazon từ nhà bán lẻ trực tuyến thành một nền tảng trực tuyến, buộc Amazon phải xây dựng những cái mới đồng thời phải mời gọi, hướng dẫn và quản trị mạng lưới người bán sao cho trải nghiệm của khách hàng vẫn được đảm bảo. Và phải cạnh tranh với một loạt đối thủ mới bao gồm eBay, Craigslist và các công ty khác. Các nhà bán lẻ trực tuyến khác, như Flipkart ở Ấn Độ, cũng đang chuyển đổi tương tự và nhận ra rằng chuyển từ mô hình bán lẻ sang mô hình chợ điện tử đòi hỏi thay đổi lớn về hoạt động cũng như nguồn lực.2 Sự ra đời của dịch vụ iTunes vào năm 2001 cho phép người dùng tải về nhạc kỹ thuật số thay vì mua đĩa CD từ cửa hàng. Nhận ra xu hướng này, Amazon ra mắt dịch vụ video theo yêu cầu, ban đầu với tên Unbox sau đổi thành Amazon Instant Video, gần một năm trước dịch vụ xem phim trực tuyến của Netflix. Amazon đã theo sát nhu cầu của người dùng và chuyển từ kinh doanh đĩa CD, DVD sang xem phim trực tuyến, và phải phát triển nguồn lực mới, cạnh tranh với các đối thủ mới như Apple hay Netflix. Năm 2011, hợp tác với công ty Warner Brothers, Amazon thành lập Amazon Studios chuyên sản xuất phim, và bỗng nhiên trở thành đối thủ của Hollywood. Vì lý do gì mà Amazon, ban đầu là nhà bán lẻ, lại đi theo hướng này? Bởi vì nội dung phim giúp Amazon biến người xem thành người mua hàng. Năm 2016 tại một hội thảo công nghệ gần Los Angeles, Jeff Bezos nói: “Nếu chúng tôi đạt giải Quả cầu vàng, chúng tôi sẽ bán được nhiều giày hơn”.3 Theo như Bezos, phim của Amazon Studios cũng khiến nhiều người đăng ký gói Prime gia hạn dịch vụ hơn, và “tỷ lệ dùng thử rồi đăng ký hẳn gói Prime cũng cao hơn ở những khách hàng có xem phim trực tuyến”.4 Ra mắt năm 2015, Prime miễn phí giao hàng trong vòng 2 ngày, với chi phí của gói ban đầu là 79 đô-la/năm sau tăng lên 99 đô-la/năm. Tới năm 2017, Amazon đã có gần 75 triệu người dùng Prime trên toàn thế giới.5 Phí đăng ký không chỉ mang về cho Amazon 7,5 tỷ đô-la mỗi năm, mà người dùng Prime còn là những người mua sắm nhiều gấp đôi.6 Các phim của Amazon vừa khiến người dùng trung thành hơn với Prime, vừa lôi cuốn khách hàng mới. Năm 2015, Giám đốc tài chính (CFO) của Amazon, Tom Szkutak, khen ngợi khoản đầu tư 1,3 tỷ đô-la của Amazon vào làm phim đã góp phần quan trọng trong việc thu hút khách hàng mới đến với dịch vụ của Amazon, bao gồm Prime.7 Năm 2017, Amazon chi 4,5 tỷ đô-la để làm phim mang thương hiệu riêng.8 Nhưng phạm vi kinh doanh của Amazon không dừng lại ở bán lẻ và làm phim. Năm 2007, Amazon tung ra thiết bị đọc sách Kindle, gần 3 năm trước iPad. Đến lúc này, Amazon, khởi đầu nhờ bán lẻ, đã xâm nhập lĩnh vực sản xuất thiết bị. Kindle được thiết kế để giúp bán sách điện tử (ebook) khi mà người đọc chuyển từ sách giấy sang sách kỹ thuật số. Phải nói rằng, chiến lược của Amazon cho Kindle khác so với chiến lược của Apple cho iPad. Apple nhận doanh thu hầu hết từ thiết bị, còn Amazon coi Kindle như “dao cạo”, bán với giá thấp (thậm chí không lãi) để kiếm nhiều tiền hơn nhờ bán sách điện tử, tức “lưỡi dao” (mô hình kinh doanh còn được gọi là “lưỡi và dao cạo”). Khi người dùng ngày càng dành nhiều thời gian trước màn hình di động, Amazon tung ra điện thoại Fire vào tháng 7 năm 2014. Fire không được ưa chuộng, nhưng liệu bước đi vào thị trường này có phải sai lầm? Cũng có thể. Nhưng kịch bản thành công nếu xảy ra sẽ đem lại lợi nhuận khổng lồ. Gần đây hơn, Amazon tung ra các thiết bị khác như nút bấm Amazon Dash, cho phép người dùng mua hàng từ hơn một trăm thương hiệu, và Echo, trợ lý ảo nhận biết giọng nói, có thể chơi nhạc trực tuyến, tìm kiếm thông tin, và tất nhiên đặt hàng từ trên Amazon một cách thuận tiện.9 Echo được tung ra vào tháng 11 năm 2014, và trong 2 năm đã bán được gần 11 triệu chiếc ở Mỹ, còn các lập trình viên đã tạo ra hơn 12.000 ứng dụng hay còn gọi là “kỹ năng” cho thiết bị này. Giọng nói ngày càng trở thành phương thức giao tiếp với thiết bị, và về mặt này, Amazon đã ở vị thế chắc chắn nhờ vào Echo. Amazon cũng thành lập mảng kinh doanh quảng cáo, cạnh tranh trực tiếp với Google. Với số lượng người dùng khổng lồ, Amazon biết thói quen tìm kiếm và mua hàng của họ, và dùng kho tàng dữ liệu phong phú đó để đặt quảng cáo có tác động nhiều nhất với người dùng. Trong khi Google chỉ biết người dùng có ý định mua hàng, Amazon biết được người đó có thực sự mua hay không, một thông tin hữu ích cho nhà sản xuất, những người đang chi ngày càng nhiều ngân sách quảng cáo trực tuyến trên Amazon. Sự thay đổi đó đã mang lại cho Amazon 3,5 tỷ đô-la doanh thu quảng cáo trong năm 2017.10Nhưng một mục tiêu lớn hơn với Amazon là thay thế Google làm cỗ máy tìm kiếm sản phẩm, sao cho người mua hàng sẽ bắt đầu tìm kiếm trên Amazon, chứ không phải trên Google. Như vậy, Amazon sẽ phải chi ít tiền hơn cho quảng cáo trên Google, và Amazon cũng sẽ kiểm soát thị trường nhiều hơn. Tháng 10 năm 2015, thăm dò 2.000 người tiêu dùng Mỹ cho thấy 44% trong số họ tìm trực tiếp trên Amazon, so với 34% dùng các trang tìm kiếm như Google hay Yahoo.11 Eric Schmidt, chủ tịch điều hành của Google, thừa nhận xu hướng này. “Mọi người không nghĩ Amazon là cỗ máy tìm kiếm”, Schmidt nói, “nhưng khi tìm mua thứ gì đó, thường là bạn lên tìm trên Amazon”.12 Có lẽ gây tranh cãi hơn cả là quyết định của Jeff Bezos tiến vào thị trường điện toán đám mây, với dịch vụ Amazon Web Services (AWS). Bỗng nhiên Amazon có hàng loạt đối thủ cạnh tranh khác, như IBM. Một nhà bán lẻ đang làm gì trong mảng điện toán đám mây? AWS giúp Amazon dễ dàng tăng quy mô hoạt động để đáp ứng tăng trưởng sau này, cho phép Amazon học hỏi từ các công ty thương mại điện tử khác cũng trên nền tảng AWS. Nó cũng cho phép Amazon biến các máy chủ web nhàn rỗi thành doanh thu. Như vậy , AWS vừa là cách để Amazon xây dựng tiềm lực công nghệ để trở thành gã khổng lồ trên Internet, đồng thời kiếm lời từ tiềm lực này.   Mời các bạn đón đọc Kinh Doanh Trong Thời Đại 4.0 của tác giả Sunil Gupta.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Thách Thức Của Quản Lý Trong Thế Kỷ 21 - Peter F. Drucker
Những thách thức của quản lý trong thế kỷ XXI là một trong những cuốn sách đột phá về các giả định trong quản lý của Peter F. Drucker. Cuốn sách đề cập một cách thẳng thắn, logic và sâu sắc tới các vấn đề quản lý vượt qua tầm nhìn của hiện tại, đưa ra những đề tài nóng bỏng của ngày mai. Cuốn sách không hẳn đưa ra các giải pháp cho tương lai mà tập trung đưa ra các vấn đề thực tế và đặt ra những câu hỏi nhằm giải quyết vấn đề đó. "Những thách thức của quản lý trong thế kỷ XXI - Là ý tưởng mới, mang tính cách mạng và có tầm nhìn về các vấn đề quản lý trọng tâm trong tương lai. Peter F. Drucker thể hiện là một nhà tư tưởng quản lý quan trọng nhất trong thời đại của chúng ta" (Warren Bennis). Một cách tổng quát, Peter F. Drucker đã trông vào những vấn đề của thế kỷ XX nhằm xác định, đánh giá và phân tích các vấn đề của thế kỷ XXI. Drucker chỉ ra rằng, những doanh nghiệp đã và đang làm việc trong những thách thức của ngày hôm nay sẽ trở thành người tiên phong và nắm giữ nền kinh tế của ngày mai. 5 hiện tượng nổi bật trên thế giới được Peter F. Drucker đưa vào như một yếu tố làm ảnh hưởng tới việc xây dựng chiến lược trong tương lai. Với cách tiếp cận xây dựng chiến lược mới và khá bất ngờ, Peter F. Drucker cho rằng: “Mọi chiến lược, tức là sự giao phó các nguồn lực của ngày hôm nay cho sự kỳ vọng trong tương lai, cần phải xuất phát từ yếu tố dân số học…” Theo ông, “trong vòng 20 hoặc 30 năm tới đây dân số học sẽ là vấn đề chính trị bao trùm tất cả các nước phát triển. Và điều không tránh khỏi là nó sẽ trở thành vấn đề bất ổn lớn về chính trị”. Các đảng phái chính trị sẽ phải liên kết với nhau để đối phó với vấn đề dân số học. Với ông, tương lai không còn là cuộc cách mạng về công nghệ (T) mà là cuộc cách mạng của thông tin (I) thông qua việc hình thành các “khái niệm mới”. Sự bất mãn của các nhà quản lý cấp cao đối với dữ liệu mà công nghệ thông tin đem lại đã kích hoạt một cuộc cách mạng thông tin mới tiếp theo. Một thách thức nữa là đội ngũ lao động trí thức, việc thoả mãn lao động trí thức không dừng lại ở tiền lương mà là những thách thức và môi trường làm việc. Họ làm chủ “phương tiện sản xuất” của mình - đó là tri thức. Do đó, họ rất cơ động có thể ra đi tuỳ ý. Bởi vậy họ cần phải được quản lý như những người tình nguyện. Ở đây tác giả đặt ra một câu hỏi “sự nổi lên của lao động trí thức và năng suất lao động tri thức có ý nghĩa gì đối với quyền điều khiển doanh nghiệp? Nó có ý nghĩa gì với tương lai và cấu trúc của hệ thống kinh tế?” Sự xuất hiện người lao động trí thức, người có thể và cần phải quản lý bản thân mình đang làm chuyển đổi mọi xã hội. "Các ý tưởng của Peter F. Drucker chứng minh sự xuất chúng của ông trong lĩnh vực quản lý. Không thể có những thấu hiểu về con người như vậy nếu không có quá trình tìm hiểu và học tập say mê" (Fortune Magazine). Không ai khác mà chính là Drucker đã đưa ra một khái niệm rất mới: “nửa cuộc đời còn lại”. Theo phân tích của ông, lần đầu tiên trong lịch sử loài người các cá nhân có thể sống lâu hơn các tổ chức nơi họ làm việc. Điều này sẽ đẫn đến một thách thức hoàn toàn mới mẻ: Bạn sẽ làm gì trong nửa cuộc đời còn lại của mình? Trong cuốn sách này, tác giả cố tình chỉ giới hạn trong phạm vi "những thách thức của quản lý". Nhưng ông cũng không hề bỏ qua quản lý cá nhân, tức người lao động trí thức. Những sự thay đổi nêu ra trong cuốn sách không những vượt xa phạm vi lĩnh vực quản lý, phạm vi cá nhân và nghề nghiệp của cá nhân mà đã đề cập đến một vấn đề nóng bỏng đó là: Với 6 chương sách tác giả đã đem lại cho chúng ta một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ vào xã hội tương lai, đồng thời đưa ra được một loạt các khái niệm mới với tầm quan trọng không thể chối cãi của nó. Tạp chí Business Week đánh giá Peter F. Drucker là một nhà lý luận sắc bén về thực hành quản lý và quản lý kinh tế xã hội. Vì lẽ đó, độc giả sẽ thấy rằng, cuốn sách này không đơn thuần chỉ là cung cấp thông tin và những phân tích khoa học, mà quan trọng hơn, nó còn kêu gọi hành động. Trong dòng chảy của thời đại, hiếm có ai dám đánh giá thấp những giá trị mà công nghệ thông tin mang lại cho cuộc sống. Nhưng một cuốn sách của một người được coi là bậc thầy của tư tưởng quản lý hiện đại, ngang hàng với những nhà tư tưởng hàng đầu thế giới trước đó về quản lý như Taylor, Henry Fayol, Mc. Gregor, hay William Ouchi… lại chứng minh một điều ngược lại: chỉ ra sự thất bại của công nghệ thông tin! Theo ông, giá trị gia tăng của thông tin không phải là công nghệ mà là những thông tin hữu ích trong kinh doanh, bao gồm cả những quyết định kinh doanh đúng đắn. Và đây chính là một trong nhiều điều thú vị bất ngờ mà Peter F. Drucker mang lại cho chúng ta trong cuốn sách cuối cùng của cuộc đời viết sách "Những thách thức của quản lý trong thế kỷ XXI". ***  Peter F. Drucker sinh ra tại Vienna (Áo) tháng 11/1909. Sau khi nhận bằng tiến sĩ luật quốc tế tại đại học Frankfurt Đức, ông nghiên cứu kinh tế học và làm báo tại Luân Đôn trước khi di cư sang Mỹ vào năm 1937. Là một nhà viết sách, nhà tư vấn quản lý và giáo sư đại học, Peter F. Drucker đã viết 35 cuốn sách với 15 cuốn về quản lý, 16 cuốn về các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, 2 cuốn tiểu thuyết và 1 cuốn tự truyện. Xuyên suốt sự nghiệp của mình, ông đã tư vấn cho rất nhiều các tổ chức, tập đoàn lớn nhất thế giới trong quá trình quản lý doanh nghiệp cũng như tham gia tư vấn quản lý các tổ chức phi chính phủ và các quốc gia và được các chuyên gia kinh tế ghi nhận như cha đẻ của học thuyết nghiên cứu về quản lý. Tác phẩm: Quản Trị Trong Thời Khủng Hoảng Nhà Quản Trị Thành Công Những Thách Thức Của Quản Lý Trong Thế Kỷ 21 Những Nguyên Lý Quản Trị Bất Biến Mọi Thời Đại Tinh Thần Doanh Nhân Khởi Nghiệp Và Sự Đổi Mới Tinh Hoa Quản Trị Của Drucker ... Mời các bạn đón đọc Những Thách Thức Của Quản Lý Trong Thế Kỷ 21 của tác giả Peter F. Drucker.
Tạo Lập Mô Hình Doanh Nghiệp Bất Bại
Phiên bản sách đáng mong đợi nhất theo sau hai tác phẩm bán chạy nhất thế giới, Tạo lập mô hình kinh doanh và Thiết kế giải pháp giá trị. Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại: ● Giúp các công ty lớn và nhỏ xây dựng chiến lược tăng trưởng thần tốc đồng thời quản lý hiệu quả hoạt động cốt lõi của họ ● Phân tích các mô hình kinh doanh đã và đang thành công nhất thế giới ● Cung cấp các công cụ để đánh giá mô hình kinh doanh, mức độ sẵn sàng đổi mới và mọi dự án đổi mới của bạn. Được trình bày với 4 màu nổi bật, cùng các hình ảnh và công cụ thiết thực, Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại xứng đáng là cẩm nang “gối đầu giường” của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, doanh nhân và các chuyên gia đổi mới. *** Bộ sách Binh Pháp Cho Doanh Nghiệp gồm có: Kiểm Chứng Ý Tưởng Kinh Doanh Tạo Lập Mô Hình Kinh Doanh Thiết Kế Giải Pháp Giá Trị Tạo Lập Mô Hình Doanh Nghiệp Bất Bại ------ Thông tin tác giả: Tiến sĩ Alexander Osterwalder (www.strategyzer.com) là tác giả chính của các cuốn sách bán chạy nhất thế giới, Tạo lập mô hình kinh doanh và Thiết kế giải pháp giá trị, đồng thời là doanh nhân, diễn giả đầy nhiệt huyết. Ông đồng sáng lập Strategyzer, công ty phần mềm chuyên về các công cụ và nội dung quản lý chiến lược và đổi mới. Tiến sĩ Osterwalder đã phát minh ra “Mô hình kinh doanh giản lược”, công cụ quản lý chiến lược để thiết kế, kiểm tra, xây dựng và quản lý các mô hình kinh doanh, được sử dụng bởi các công ty như Coca Cola, GE, P&G, Mastercard, Ericsson, LEGO hoặc 3M. Ông thường xuyên là diễn giả chính trong các tổ chức và các trường đại học hàng đầu trên thế giới, đồng thời là giáo sư thỉnh giảng năm 2018 tại Stanford. Yves Pigneur là đồng tác giả của Tạo lập mô hình kinh doanh và là giáo sư về quản lý và hệ thống thông tin tại Đại học Lausanne. Yves cũng là một diễn giả thường xuyên về các mô hình kinh doanh trong các trường đại học, các tập đoàn lớn, các sự kiện khởi nghiệp và hội nghị quốc tế. Alan Smith đã cùng tạo ra Khung đề xuất giá trị với Alex Osterwalder và Yves Pigneur, đồng thời là nhà thiết kế đột phá cho cuốn sách Tạo lập mô hình kinh doanh. Ông đồng sáng lập Strategyzer. *** [REVIEW] SÁCH TẠO LẬP MÔ HÌNH DOANH NGHIỆP BẤT BẠI: Liệu có công thức chung cho doanh nghiệp theo đuổi sự bất bại? Ý tưởng thành lập hoặc duy trì một công ty bất bại khiến ta phải suy ngẫm. Đúng thế, không có công ty nào có thể trường tồn mãi mãi. Ngay tại Mỹ, các báo cáo thống kê cho thấy độ tuổi trung bình của các doanh nghiệp đã giảm từ gần 60 tuổi trong những năm 1950 xuống con số 20 ở thời điểm hiện tại. Tuổi thọ của top Fortune 500 công ty lớn nhất hiện nay tại Mỹ là từ 40 đến 50 tuổi. Đặc biệt, gần 50% công ty thuộc top Fortune 500 vào năm 1999 đã biến mất chỉ 10 năm sau đó. Các công ty này đã bị mua lại, sáp nhập hoặc chia tách thành các công ty khác. Dù thực tế khắc nghiệt, nhưng vẫn có những công ty được coi là tiến gần đến sự bất bại. Họ liên tục tự làm mới mình trước những thanh đổi ngoạn mục của bối cảnh và sử hữu một danh mục mô hình kinh doanh liên tục được khai thác và cải tiến. Đồng thời, họ cũng quản lý và khai thác có hệ thống một doanh mục mô hình kinh doanh mới mẻ để tạo ra động lực tăng trưởng mới. Làm thế nào để trở thành một doanh nghiệp bất bại và trở nên giá trị hơn? Cuốn sách Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại sẽ là chiếc chìa khóa mở cánh cửa đến sự “bất bại” mà bạn kiếm tìm. Về cuốn sách Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại Kể từ khi các cuốn sách Tạo lập mô hình kinh doanh (Business Model Generation), Thiết kế giải pháp giá trị (Value Proposition Design) và Kiểm chứng ý tưởng kinh doanh (Testing Business Ideas) lần lượt được phát hành vào 2009, 2017 và 2019, tác giả Alex Osterwalder, Yves Pigneur cùng các đồng tác giả đã biến các khung mô hình trực quan của họ thành bộ công cụ kinh doanh phổ biến và hiệu quả dành cho những doanh nhân khởi nghiệp và các doanh nghiệp start-ups.  Nhưng làm thế nào công cụ này có thể hỗ trợ hàng triệu các doanh nghiệp hiện nay đang khẩn thiết cần đổi mới chính mình trước khi bị đối thủ cạnh tranh và những người mới gia nhập thị trường loại khỏi cuộc chơi? Và cuốn sách này, Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại, đã ra đời để trả lời câu hỏi đó. Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại là cuốn thứ tư trong loạt sách của Strategyzer, thuộc bộ sách “Binh pháp cho doanh nghiệp” do Alpha Books xuất bản. Nó bổ sung cho những cuốn sách trước đó và xác định một số vấn đề cần giải quyết cho các nhóm đổi mới sáng tạo, doanh nhân và lãnh đạo cấp cao quản lý toàn bộ tổ chức. Những nội dung trong sách dựa trên những gì nhóm tác giả đã tích lũy được khi làm việc với các tổ chức hàng đầu thế giới và từ việc nghiên cứu một số công ty bất bại trên toàn cầu. Bạn có thể tìm hiểu thêm về trọn bộ 4 cuốn sách “Binh pháp doanh nghiệp” tại đây. Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại có gì độc đáo và tại sao các doanh nhân nên đọc? Cuốn sách Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại đưa ra hai khái niệm hấp dẫn và vô cùng đơn giản: tìm kiếm và phát triển. Một công ty muốn tồn tại lâu dài và duy trì tính cạnh tranh cần đầu tư nhiều nguồn lực nhất có thể vào hành trình khám phá các mảng kinh doanh mới, đồng thời khai thác hiệu quả các mảng đang có.  Tại phần mở đầu, tác giả ngay lập tức đưa ra câu trả lời đơn giản cho câu hỏi “Làm thế nào để trở thành doanh nghiệp bất bại?” Liên tục làm mới mình: Để đi trước mọi người và đánh bại các rủi ro phá vỡ, bạn phải liên tục đổi mới bản thân. Các mô hình kinh doanh sớm trở nên lỗi thời cùng với đà suy giảm của chúng. Sự cạnh tranh ngày càng đến từ những bối cảnh khó đoán như các công ty khởi nghiệp mới nổi bên cạnh các đối thủ truyền thống. Các công ty bất bại liên tục làm mới mình theo các cách họ là ai, ở đâu, đặc biệt là cách họ cạnh tranh để duy trì sự phù hợp và dẫn đầu. Cạnh tranh dựa trên các mô hình kinh doanh ưu việt: Cuộc đua ngày càng gấp rút khi các thương hiệu gia tăng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, giá cả và công nghệ mới. Bỏ lại đối thủ cạnh tranh trong khi tận dụng tối đa các cơ hội thị trường, các nhu cầu khách hàng mới và các công nghệ mới bằng cách đưa chúng và các mô hình kinh doanh ưu việt. Thiết kế, thử nghiệm và kiến tạo các mô hình kinh doanh vượt trội có thể tạo hiệu ứng đổi mới phá vỡ những đối thủ khác trong khi bản thân các mô hình đó lại khó phá vỡ. Vượt ra khỏi ranh giới các ngành: Các tổ chức thành công nhất không bị ranh giới ngành hoặc các áp lực trong ngành định hình. Trên thực tế, họ thường phá vỡ các ranh giới ngành và tạo ra hiệu ứng đổi mới phá vỡ cách làm của tổ chức khác. Mô hình kinh doanh hoặc danh mục kinh doanh của họ không phải là kết quả của một tổ chức không ngừng khám phá những cách thức mới để tạo ra giá trị xoay quanh các cơ hội thị trường. Khác với những cuốn sách thông thường chỉ lật giở đọc từng trang, cuốn sách này độc đáo ở chỗ chỉ ra một “bản đồ” đọc tùy thuộc vào bạn là ai. Với từng vị trí “Nhà lãnh đạo cấp cao”, “nhà lãnh đạo và các đội nhóm đổi mới sáng tạo” hay “các doanh nhân” lại có những nội dung đặc biệt cần nghiên cứu kỹ ở các phần. Điều này giúp bạn tiết kiệm thời gian đọc, nghiên cứu và thực hành trong việc tạo ra một mô hình kinh doanh thích hợp. Cuốn sách được chia làm 05 phần, bên cạnh những chỉ dẫn cụ thể là hàng loạt case-study đắt giá của những doanh nghiệp thành công nhất hiện nay. Công cụ Phần này cung cấp cho bạn một công cụ đặc biệt: Bản đồ khám phá và khai thác. Các công ty bất khả chiến bại không ưu tiên khai thác hơn khám phá. Họ rất giỏi trong việc liên tục khám phá các mảng kinh doanh hiện hữu. Họ sở hữu văn hóa “ngày đầu tiên”, duy trì tinh thần khởi nghiệp trong khi quản lý hàng nghìn, hàng trăm nghìn người cùng các đơn vị kinh doanh trị giá nhiều tỷ đô-la. Khả năng quản lý khám phá và khai thác kiểu này không còn giới hạn ở các công ty quy mô lớn mà đã trở thành vấn đề sống còn đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, cùng các đơn vị khởi nghiệp với các mô hình kinh doanh có vòng đờn ngày càng ngắn xuyên suốt các ngành.  Quản lý Các công ty bất khả chiến bại triển khai các chiến lược chỉ dẫn, đa dạng hóa đo lường và hành động đồng thời trên 02 danh mục kinh doanh: hiện hữu và tiềm năng. - Chỉ dẫn: Cung cấp hướng dẫn về danh mục đầu tư chiến lược cần thiết nhằm làm rõ loại dự án, đổi mới sáng tạo, cải tiến hoặc hành động nào cần duy trì hoặc loại bỏ. - Đa dạng hóa: Tạo ra phễu đổi mới sáng tạo, phân tán rủi ro nhằm hạn chế tối đa rủi ro sáng tạo. Tạo điều kiện cho sự ra đời của những đội nhóm và dự án xuất sắc nhất. Tăng cường đầu tư cho các nhóm chứng minh được hiệu quả.  - Đo lường: Đo lường có hệ thống và trực quan hóa đổi mới và rủi ro sáng tạo của tất cả các mảng kinh doanh cũng như cơ hội đi kèm . Hiểu được tính phù hợp của danh mục đầu tư trong tương lai. - Hành động: Sử dụng một tập hợp hành động liên quan đến danh mục nhằm tối ưu chúng. Phát triển các mảng kinh doanh nội tại, mua lại và thoái vốn, hoặc thực hiện đồng thời cả hai tùy vào bối cảnh. Thư viện dạng thức sáng chế Các dạng thức mô hình kinh doanh có thể khởi nguồn từ giai đoạn Tiền kỳ (lấy khách hàng làm trọng tâm), giai đoạn Hậu kỳ (chú trọng vào nguồn lực) hay Công thức tạo lợi nhuận (tập trung vào tài chính) của một mô hình kinh doanh. Thư viện dạng thức cải tiến Các mô hình kinh doanh hiện hữu vốn dĩ thường sớm bị lỗi thời, suy giảm và cần cải tổ triệt để. Trong phần này, nhóm tác giả để cập để những công ty điển hình khởi điểm từ mô hình kinh doanh hiệu hữu, từ đó họ áp dụng 12 dạng thức chuyển đổi khác nhau để cải tiến, đồng thời gia tăng hiệu quả của mô hình kinh doanh hiện hữu. Các tác giả đặc biệt mô tả kỹ để bạn có thể sử dụng chúng như một “thư viện tham khảo”. Trong phần này đề cập đến 04 sự dịch chuyển: Dịch chuyển Đề xuất Giá trị, dịch chuyển do Tiền kỳ tác động, dịch chuyển do Hậu kỳ tác động và dịch chuyển do Công thức tạo lợi nhuận tác động. Văn hóa Để xây dựng một công ty bất bại, bạn cần phải tạo ra, quản lý và kết hợp hài hòa hai nền văn hóa hoàn toàn đối nghịch nhau dưới một mái nhà - cả hai đều có vai trò quan trọng. Bạn cần khám phá và khai thác đồng thời cả hai. Văn hóa khám phá nuôi dưỡng việc tạo ra, khám phá, xác thực và tăng tốc những ý tưởng hoàn toàn mới lạ đối với một tổ chức.  Văn hóa khai thác đề cao hoạt động quản lý, cải tiến hệ thống và tăng trưởng của các mảng kinh doanh hiện tại. Lời kết Một tổ chức phải liên tục đổi mới trước khi trở nên lỗi thời. Doanh nghiệp bất bại khám phá tương lai trong khi khai thác hiện tại một cách xuất sắc. Họ nuôi dưỡng nền văn hóa đổi mới sáng tạo và thực thi hòa hợp dưới cùng một mái nhà, đồng thời cạnh tranh dựa trên các mô hình kinh doanh ưu việt vượt qua ranh giới ngành truyền thống. Nếu doanh nghiệp bạn đang trên đà phục hồi sau đại dịch Covid, thì đây chắc chắn là thời điểm thích hợp để đọc và thực hành theo những gì “Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại” truyền tải, hãy tận dụng nó để tái tạo một mô hình bất bại cho doanh nghiệp bạn! Bạn có thể sở hữu cuốn sách Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại tại đây. Mời các bạn đón đọc Tạo Lập Mô Hình Doanh Nghiệp Bất Bại của tác giả Alexander Osterwalder & Yves Pigneur & Alan Smith & Đoàn Đức Thuận (dịch).   
Marketing Theo Phong Cách Sao Kim - Hermawan KartaJaya
Marketing tại Sao Kim là đầu sách, công trình nghiên cứ u chuyên sâu nhất về khai thác tính nữ trong mỗi khách hàng tiềm năng của chúng ta. Những hiểu biết, đúc kết của tác giả giúp đọc giả có được tầm nhìn của một chiếc máy bay trực thăng, để nắm được những giá trị tổng thể về khách hàng của mình trên hành tinh sao Kim. Để sự khôn khéo của các nhà tiếp thị ngày càng rộng lớn và sâu sắc hơn. Các nghiên cứu, câu chuyện về chinh phục thị trường ngoạn mục ở nhiều ngành hàng trong đầu sách cho thấy, hãy chinh phục trái tim của khách hàng thuộc cả hai giới bằng khả năng thấu cảm những thang bậc cảm xúc và mong muốn của khách hàng. Bằng những hiểu biết về tâm lý học, xã hội học, nhân chủng học và rất nhiều khoa học khác để làm giàu kiến thức cũng như cách nhìn của bạn về công nghệ tiếp thị bằng cảm xúc ! Về bản chất Tình cảm có sức lan tỏa, vì vậy các nhà tiếp thị hãy bước đi một cách thận trọng ! nhưng hãy lắng nghe, hãy tin vào bản năng, giác quan thứ 6 về sự từng trãi của mình để sáng tạo ra những giải pháp tiếp thị đột phá trong không gian và thế giới cảm xúc, tình cảm của khách hàng! Những người mang tính nữ luôn chú ý tới chi tiết! Khách hàng đang trở nên ngày càng phức tạp và đánh giá mọi thứ rất tỉ mỉ. Vì vậy, nếu không muốn làm khách hàng thất vọng, tác giả khuyến cáo chúng ta đừng bao giờ bỏ qua thứ gì bất kể nó nhỏ bé đến đâu. Bắt đầu từ chính sách của công ty cho tới các sản phẩm của bạn! Như vậy là bạn đã cung cấp cho khách hàng cả những lợi ích cảm xúc tích cực, hãy đảm bảo chắc chắn rằng bạn và cả tất cả các nhân viên của bạn cũng cảm thấy thoải mái để thực hiện chiến lược này…lấy lợi ích cảm xúc làm vũ khí mới để chiến thắng, chinh phục thị trường và thượng đế của bạn. Trong số những phương thức và giải pháp đề cập, tình Mẫu Tử, tình cảm, giá trị gia đình, tình yêu, tính nhân bản, ý thức trách nhiệm cộng đồng xã hội là những suối nguồn ý tưởng, cơ hội lớn để tạo sự khác biệt đột phá trong mục tiêu chinh phục thị trường và khách hàng của các thương hiệu. Tác giả cũng giới thiệu đem đến cho đọc giả những câu chuyện, công cụ để phát huy cao nhất khả năng quảng bá nhờ sử dụng công nghệ thông tin để truyền tải các  thông điệp cảm xúc tới khách hàng của bạn. Bằng cách này, họ sẽ có một mối liên hệ cũng như sự gắn kết, sức hút về tình cảm với công ty và thương hiệu của bạn. Hãy tiếp cận tình cảm của khách hàng bằng những thấu cảm và giải pháp cá thể hoá, thông điệp cá nhân, mọi chuyện sẽ trở nên dễ dàng hơn. Hermawan Kartajaya, chủ tịch Hiệp hội Tiếp thị Thế giới là một trong “50 chuyên gia hình thành nên tương lai của tiếp thị” do Viện Hiến Chương Tiếp thị - Vương quốc Anh (CIM-UK) bầu chọn. Ông là sự kết hợp độc đáo giữa một nhà nghiên cứu chiến lược kinh doanh, tư vấn cao cấp đặc biệt trong lĩnh vực tiếp thị. Đầu sách Marketing tại sao Kim của ông khái quát và đút kết 18 nguyên tắc giúp các nhà tiếp thị định hướng và tầm nhìn để xây dựng các chương trình kế hoạch tiếp thị một cách hiệu quả nhất trong không gian cảm xúc tinh tế và nhiều cung bậc này. Chúc các Bạn sẽ tiếp tục khám phá thêm nhiều điều thú vị đang chờ đợi trong những trang sách tiếp sau, chắc chắn rằng những hiểu biết mới này không chỉ giúp các nhà tiếp thị hoàn thiện công việc mà còn giúp mỗi người chúng ta thêm niềm vui, sự lãng mạn và thăng hoa trong cuộc sống, tình yêu và sự nghiệp của mình. TRẦN HOÀNG Chủ tịch Hội Marketing TP.HCM Chủ tịch VietnamMarcom  *** Hermawan Kartajaya, chủ tịch Hiệp hội Tiếp thị Thế giới là một trong “50 chuyên gia hình thành nên tương lai tiếp thị” do Viện Hiến Chương Tiếp thị - Vương quốc Anh (CIM-UK) bầu chọn. Ông là sự kết hợp độc đáo giữa một nhà nghiên cứu chiến lược kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực tiếp thị, với một nhà hoạt động. Ông gia nhập liên đoàn các chuyên gia tiếp thị quốc tế với mô hình được thừa nhận bởi giáo sư Philip Kotler, chuyên gia tiếp thị và giáo sư Warren J.Keegan, chuyên gia tiếp thị toàn cầu. Năm 1989, Hermawan Kartajaya thành lập MarkPlus&Co - hãng tư vấn tiếp thị hàng đầu ở Đông Nam Á. Áp dụng khung chiến lược tiếp thị của Hermawan Kartajaya, MarkPlus&Co đã đổi mới thành công chiến lược tiếp thị của nhiều công ty (công ty trong nước, khu vực và toàn cầu) và nâng cao đáng kể hoạt động của họ. Một số khách hàng chính của MarkPlus&Co như: Singapore Tourism Board, SembCorpParks Holdings, Hewlett-Packard, Microsoft, Yamaha, Goodyear, Indofood, United Tractors, Telkom Indonesia và Bank Rakyat Indonesia. Gần đây, MarkPlus&Co là một hiện tượng trong AsiaCase.com do Nanyang Business School và Ivey Business School thiết lập.  Hermawan Kartajaya là một diễn giả có uy tín quốc tế, đồng thời cũng là tác giả của nhiều cuốn sách trong lĩnh vực tiếp thị. Ông đã được mời với tư cách là diễn giả và giảng viên trong nhiều hội thảo, hội nghị quốc gia và quốc tế, và giảng ở nhiều trường đại học trên khắp thế giới từ châu Á đến châu Âu. Gần đây ông đã đi nhiều đến các nước Đông Nam Á và không ngừng cống hiến những hiểu biết của mình cho cộng đồng tiếp thị ASEAN. Ông đã viết nhiều cuốn sách và bài báo về tiếp thị đã xuất hiện trên rất nhiều ấn phẩm quốc tế. Ông là đồng tác giả với giáo sư Kotler cho ba cuốn sách: Attracting Investors: A Marketing Approach to Finding Funds for your Business (John Wiley & Sons, 2004) (tạm dịch: Thu Hút các Nhà Đầu Tư: Chiến Lược Tiếp thị nhằm Tìm Kiếm Nguồn Vốn cho Hoạt Động Kinh Doanh của Bạn), Rethinking Marketing: Sustainable Marketing Enterprise in Asia (Pearson Education Asia, 2002) (tạm dịch: Suy Nghĩ Lại về Tiếp thị: Doanh Nghiệp Tiếp thị Bền Vững ở Châu Á), Repositioning Asia: From Bubble to Sustainable Economy (John Wiley & Són, 2000) (tạm dịch: Tái Định Vị Châu Á: Từ Nền Kinh Tế Bong Bóng đến Kinh Tế Bền Vững). Ông cũng thường xuyên cộng tác với tạp chí Asia Inc. và Marketing của Singapore. Hermawan Kartajaya cũng tham gia vào nhiều hoạt động cộng đồng với Quỹ Nhi Đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), Tổ Chức Bảo Tồn Quốc Tế (Conservation International), Tổ chức Lãnh Đạo vì Môi Trường và Phát Triển Quốc Tế (Leadership for Environment and Development International). Mới đây ông còn tham gia sáng lập và tổ chức sự kiện Celebrities for Kid @ National Mother’s Day, 1 hoạt động từ thiện của UNICEF dành cho trẻ em tại Indonesia. Mời các bạn đón đọc Marketing Theo Phong Cách Sao Kim của tác giả Hermawan KartaJaya.
Các Nhà Sáng Lập - Maurice Baslé & Francoise Benhamon & Bernard Havance
Các nhà kinh tê học hiện nay đều có nguồn gốc của họ Kinh tế học là một khoa học trẻ tuổi. Những nhà sáng lập ra nó là nhhững người cận đại, việc dạy nó thành một môn chuyên nghiệp chỉ mới khioảng một thế kỷ nay.  Năm 1795, Quốc ước lập ra một chức giáo sư về kinh tế chính trị học ở Trường Sư phạm, chức đó được giao cho Alexandre Vandermonde. Nhưng theo một lời đồn về lịch sử, chính J-B. Say là người khai trương thật sự của việc giảng dạy kinh tế học ở Pháp với giáo trình của ông ở Athénee (A-v- tê-nê) năm 1815-1816, rồi ở Trường Đại học Quốc gia về kỷ thuật và nghề nghiệp năm 1819; Say còn được xác nhận năm 1831 với việc bổ nhiệm ông vào College de France. Chỉ dến năm 1877 nước Pháp mới mở rộng các chức giáo sư Kinh tế học ra tất cả các khoa Luật trong nước.  Không có sự nhập môn nào về kinh tế học tốt hơn việc lướt qua lịch sử các tư tưởng kinh tế. Cách đi ấy cho phép ngược lại nguồn gốc của các khái niệm; nó đem lại cho người ta cả nguồn gốc lẫn cách sử dụng các khái niệm đó. Bằng cách đó mỗi người có thể tìm thấy những nhà sáng lập ra dòng họ tư tưởng của mình. "Lịch sử kinh tế học chứng tỏ rằng các nhà kinh tế học, giống như mọi người khác, đều tưởng bong bóng là đèn lồng và tưởng mình nắm đưọc chân lý, nhưng thật ra tất cả những gì họ có đều dẫn tới cả một loạt những định nghĩa hay những phán xét phức tạp về giá trị được ngụy trang thành-những qui tắc khoa học. Không có cách trình bày nào khác hơn việc nghiên cửu lịch sử kinh tế học [ ] , nó đem lại phòng thí nghiệm rộng lớn nhất để có được một sự khiêm nhưòng cần thiết về phưong pháp luận đối với việc tìm hiểu những thành tựu thật sự của kinh tế hợc. Ngoài ra, đó còn là một phòng thí nghiệm mà mỗi nhà kinh tế học mang theo mình, dù có ý thức hay không ( ) Cần hiểu rõ những gì mình thừa kế được còn hơn là tưởng tượng ra một di sản bị giấu kín ỏ một góc tối nào đó và ở một thử tiếng nước ngoài nào đó".  M. Blaug, tư tưởng kinh tế, Económica, 1987.  Thứ tự xuất hiện của các nhà kinh tế học lớn là rất có ý nghĩa. Mỗi người có những quan hệ với những người đi trước nào đó, dưới dấu hiệu tiếp nối hay đoạn tuyệt Mancur Olson thừa nhận một cách rõ ràng món nợ trí tuệ của mình đối với những nhà lý luận đi trước :  "Tôi có thói quen dẫn lời Newton nói rằng nếu ông có thể nhìn thấy xa hơn những ngưòi khác, thì đó là vì ông đứng lên trên vai của những vị khổng lồ. Nếu Newton đã có thể nói như vậy vào thế kỷ XVII, thì chắc chắn nhà kinh tế học hôm nay cũng chỉ có thể tự coi mình đứng ở vị trí ấy, cho dù tầm hiểu biết cá nhân của mình rộng lớn tới mức nào. Thật ra, anh ta là kẻ kế thừa của một số nhà tư tưởng thiên tài được thừa nhận, như Smith, Ricardo, Mili, Marx, Walras, Wicksell , Marshall và Keynes, cũng như hàng trăm người thông minh, cả nam lẫn nữ, đã tạo ra một công trình quí giá. Trên thực tế, nếu các vị khổng lồ của kinh tế học đã tự mình đứng lên trên vai những ngưòi tiền bối của họ, thì nhà kinh tế học hôm nay cũng đứng trên đỉnh cao của một kim tự tháp mênh mông của những tài năng". Vinh quang và suy thoái của các dân tộc, Bonnel, 1983.  Các tư tưỏng kinh tế là những chân vòm ở trên hiện thực Các tư tưởng kinh tế của quá khứ không phải chỉ là để cho các nhà kinh tế học tương lai tập sự, chúng còn tác động tới hiện thực bằng hai kênh :  - Các tác nhân kinh tế thường xuyên có một tác động dự báo và tiên đoán. Chỉ cần một dự báo đáng lo ngại được đưa ra là các tác nhân kinh tế tác động dự báo theo đó, bằng cách ngăn cản nó xuất hiện hoặc, trái lại, tạo thuận lợi cho nó được thực hiện.  - Việc nghiên cứu những vận động của thị trường chứng khoán hay những cơ chế lạm phát cho thấy rằng các khoa học kinh tế phải tính đến những ý kiến kinh tế hàng ngày của các tác nhân Thông tin và những tri thức kinh tế có thật hay giả định tác động tới hiện thực như vậy - "Cai trị là lựa chọn" : những người cai trị phải có một thứ khuôn đọc về kinh tế để hành động : "Những tư tưởng đúng hay sai của các nhà kinh tế học và chính trị học có một tầm quan trọng lớn hơn điều ngưòi ta thường tưỏng. Nói đúng ra, thế giới gần như chỉ được hưóng dẫn bởi những tư tưỏng đó. Những người hành động nào tưởng mình thoát khỏi những ảnh hưởng của các học thuyết thường là những kẻ nô lệ của một vài nhà kinh tế học của quá khứ Những người cầm quyền sáng suốt tự cho mình noi theo những tiếng nói thương giới thật ra đều chắt lọc từ những không tưỏng nảy sinh trước đó vài năm trong đầu óc của một nhà soạn giáo án nào đó". J. M. Keynes, Lý luận chung về sử dụng lợi tức và tiền tệ, 1936. Mời các bạn đón đọc Các Nhà Sáng Lập của tác giả Maurice Baslé & Francoise Benhamon & Bernard Havance.