Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Hoa Tiêu trên Sông Danube - Jules Verne

  *** Jules Verne sinh ngày 8 tháng hai năm 1828 tại Nantes, mất ngày 24 tháng Ba năm 1905 tại Amiens (Pháp). Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, người đi tiên phong trong lịch sử thể loại Khoa học viễn tưởng. Năm 1863, cuốn tiểu thuyết đầu tay Năm tuần trên khinh khí cầu của Jules Verne được xuất bản tại nhà xuất bản Pierre- Jules hetzel, một trong những nhân vật quan trọng nhất trong ngành xuất bản Pháp thời bấy giờ và đã gặt hái thành công vang dội vượt ra ngoài biên giới nước Pháp. Sau thắng lợi đầu tiên đó, Jules Verne đã ký với hetzel hợp đồng 20 năm sáng tác các tiểu thuyết cho tờ Tạp chí giáo dục và giải trí chuyên dành cho giới trẻ. Trong vòng 40 năm, Jules Verne đã sáng tác loạt tiểu thuyết Những chuyến du hành kỳ thú (Voyages extraordinaires) bao gồm 62 tiểu thuyết và 18 truyện ngắn. Các tiểu thuyết của Jules Verne được đánh giá rất cao; chúng tiên đoán về cuộc sống hiện đại và các thành tựu khoa học kỹ thuật. Jules Verne đã viết về những chuyến du hành bằng máy bay hay tàu ngầm trong không gian, dưới lòng đất hay dưới nước... trước khi những phương tiện này được phát minh. Theo Index Translationum, ông là tác giả thứ hai được dịch nhiều nhất trên thế giới với tổng số 4.702 bản dịch các thứ tiếng, chỉ sau Agatha Christie. Năm 2011, ông là tác giả Pháp được dịch nhiều nhất trên thế giới. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày mất của tác giả, năm 2005 được gọi là “Năm Jules Verne”. *** Vào ngày đó, thứ bảy 5 tháng tám 1876, cả một đám đông người ồn ào tụ tập tại quán rượu “Cuộc gặp mặt của các ngư dân”. Những tiếng hát, tiếng ly tách, tiếng hoan nghênh, tiếng la hét trộn lẫn thành sự ồn ào kiinh khủng, chốc chốc lại bật lên những tiếng thét to: “Hô!” bộc lộ niềm vui tràn ứ. Những ô cửa sổ nhỏ của quán rượu trông thẳng ra sông Danube, ven sông là một thành phố nhỏ tuyệt diệu của Ditmaringen, thủ phủ cua triều đại Phổ, tọa lạc bên nguồn sông vĩ đại vùng Trung Âu. Sau khi đeo xong tấm biển, được kẻ bằng những kiểu chữ Gô-tích thật đẹp, treo trên cửa ra vào, các hội viên của “Hội vùng sông Danube” đi vào quán rượu. Đây là một hội quốc tế bao gồm những ngư dân thuộc nhiều quốc gia khác nhau nằm ở ven sông Danube. Nếu không có sự đánh chén thì cuộc nhóm họp nào cũng mất đi phần náo nhiệt vui tươi – thức uống phải ngon nhất hạng. Thế nên ở đây người ta uống bia Huyn-khen hảo hạng và rượu ngon Hungary – ly cốc nào cũng luôn đầy tràn. Họ phì phà thuốc lá và những ống điếu dài lúc nào cũng nhả khói thơm lựng ngập tràn cả gian phòng lớn mời tố. Nếu những người nói chuyện không nhìn thấy mặt nhau, ắt họ cũng nghe được tiếng nhau, nhất là đối với những người không bị nặng tai. Là những con người điềm tĩnh và lặng lẽ khi bắt tay vào việc, những ngư dân này sẽ hóa thành những người ồn ào nhất trên đời, khi họ đã xếp mọi dụng cụ đồ lề của mình sang một bên. Họ không chịu thua bọn thợ săn trong các câu chuyện về những chiến công vĩ đại, mà đây là điểm mạnh của cánh săn bắn. Đến lúc tàn tiệc sáng khá là ngon lành, mà tụ hội quanh những cái bàn là hàng trăm khách được mời đến – những dũng sĩ của cái cần câu, những người ủng hộ nhiệt tình con nước, những lẻ si mê cái móc câu. Khỏi phải nói, những chiến công giờ sáng này đã hong khô cổ họng của họ, cứ theo số lượng chai đặt ra trong phiên tráng miệng. Sau đó đến lượt hàng lố chai rượu mùi được quyết định dùng đồ uống thay cho cà phê. Đồng hồ gõ ba tiếng – khi khách khứa rời bàn. Thật tình mà nói, trong số họ đã có vài người loạng choạng và họ không thể cất bước nổi nếu không có tay dìu của bạn bè. Nhưng số đông vẫn còn cứng cựa, như những vị khách quen mắt dũng mãnh và bướng bỉnh của các phiên họp thần thánh kéo dài mà hàng năm đều tái diễn vài lần nhân các cuộc thi của “Hội vùng sông Danube”. Danh tiếng của những cuộc thi (đã chuyển thành những cuộc chè chén) này vang dội trên suốt chiều dài con sông trứ danh, không kém gì những âm điệu luân vũ của Strauss. Tụ hội lại đây là các đấu thủ từ công địa Bađanh, từ Vuốctemhéc, Bavaria, Áo, Hungary, từ Rumani, Xecbi và thậm chí từ những tỉnh thuộc Thổ - Bungary và Bexarabia. Hội đoàn này tồn tại đã năm năm. Dưới sự cai quản của vị chủ tích Micletxcô, người Hungary, hội đoàn rất phát đạt. Tài lực của Hội tăng tiến đã cho phép đưa ra những giải thưởng lớn tại các hội thi, và lá cờ của hội nổi bật lên nhờ vô số những huy chương giành được trong sự đấu tranh bền bỉ với các hội đoàn những người câu cá khác. Ban chấp hành các giám đốc của hội, những người rất am hiểu các đạo luật về sự câu cá trên các vùng sông, đã ủng hộ những người đồng chí khi thì chống lại nhà nước, lúc lại chống phía tư nhân và bảo vệ các quyền hạn, đặc lợi của họ bằng một sự kiên trì đáng kể, dám nói rằng, bằng một sự bướng bỉnh hết sức chuyên nghiệp, vốn là đặc tính của giống hai chân trội hẳn trong giống người đặc biệt say mê sự đánh bắt cá bằng cần câu. Cuộc thi vừa được diễn ra, đây là lần thứ hai trong năm 1876. Vào lúc 5 giờ sáng, những đối thủ đã rời khỏi thị trấn và tụ tập trên bờ trái sông Danube gần Ditmarigen. Họ thảy đều ăn bận theo đồng phục của hội đoàn: áo choàng ngắn không làm gò bó các cử động, quần dài được nhét ống vào đôi ủng đế cao, mũ với phần lưỡi trai lớn. Đương nhiên, họ có trong tay cả bộ các loại dụng cụ khác nhau mà đã được liệt kê trong “Sách chỉ nam của người câu cá”. Những cần câu, những vợt phụ, chỉ câu được bó lại trong các túi da nai, những cái phao đủ mọi độ sâu, những hạt chì đủ mọi kích thước cho hòn chì, những con ruồi nhân táo, những sợi dây nhỏ, dây gân Florentina. Sự câu cá được tự do, bất cứ con cáo nào câu được cũng được tính điểm, và mỗi người câu cá đều có thể cho nó ăn thêm gì cũng được. Khi đồng hồ điểm sáu giờ, chín mươi bảy đấu thủ đều vào chỗ với cần câu trên tay, chuẩn bị ném móc câu. Khi kèn trỗi nhạc hiệu, thí chín mươi bảy sợ chỉ câu đồng loạt vút lên trên mặt sông. Vài giải thưởng đã được công bố tại hội thi, hai giải đầu, mội người được 100 phloring, được quy định phát cho người câu cá câu được số cá nhiều nhất, và cho người câu được con cá lớn nhất. Hoàn toàn không có diễn biến gì xảy ra cho đến hồi kèn hiệu thứ hai. Hội thi kết thúc vào lúc 11g. Số cá câu được của mỗi người đều được giao lại cho ban giám khảo gồm chủ tịch Micletxco và bốn hội viên của “Hội vùng sông Danube”. Dù rằng những người đánh cá bằng cần câu là những người nóng nảy nhất trên đời, song hoàn toàn không có một ai nghi ngờ đến sự hết sức công bằng của những nhân vật cao cấp và có uy thế này, nên không có một sự phản kháng nào xảy ra. Chỉ phải trang bị bằng lòng kiên nhẫn để nhận biết kết quả của cuộc thẩm xét tận tâm: sự phân chia các giải thưởng khác nhau căn cứ theo số cân hay số lượng cần phải đươc giữ trong bí mật cho đến tận lúc phát giải mà trước đó là bữa tiệc hữu nghị giữa những người dự thi. Giờ ấy đã đến. Những người câu cá – đó là không nói đến những người Ditmaringen tò mò – ngồi yên lặng chờ đợi trước bục diễn đàn gồm vị chủ tịch và các hội viên khác của hội đoàn. Quả thật, nếu có đủ ghế tựa, ghế dài và ghế đẩu, thì sẽ có khá đủ những chiếc bàn, mà trên cac bàn đã bày ra những vại bia, những chai rượu đủ các loại, những ly, cốc đủ cỡ lớn và nhỏ. Khi mọi người đã yên vị, và các ống tẩu đã bắt đầu nhả khói, vị chủ tịch đứng lên. - Nghe nào! Nghe nào! Những tiếng hoan hô vang động. Ngài Micletxco uống cạn cốc bia, bọt bia vẫn còn lòng thòng trên ria mép ông ta. - Thưa các bạn đồng nghiệp – ông nói bằng tiếng Đức, thứ ngôn ngữ mà các hội viên đều biết; không phân biệt các dân tộc – các bạn đừng mong mỏi ở tôi lời lập luận cấu trúc theo cách cổ điển với lời vào đề, phần nội dung chính, rồi đến đoạn kết bài. Không, chúng ta có mặt ở đây không phải để thưởng thức những ngôn từ nghi thức trang trọng mà tôi sẽ chỉ nói đến các công việc nhỏ bé của chúng ta theo tình bằng hữu, thậm chí sẽ nói, theo tình anh em, nếu như cách diễn đạt như thế lại thích hợp hơn đối với một hội đoàn quốc tế. Đáp lại hai câu nói quá dài này – như thường lệ mỗi khi bắt đầu diễn từ, thậm chí khi người phát ngôn không muốn làm người lắm lời – là tràng vỗ tay đồng lòng vang lên kèm theo với hàng loạt những tiếng la “Hay lắm!”, “Hô!” bị đứt quãng bởi những tiếng nấc cục. Tiếp đó ngài chủ tịch nâng cốc và toàn bộ những cái cốc cùng cạn sạch. Tiếp tục bài diễn văn, ngài Micletxco đã sắp xếp những người đánh cá bằng cần câu lên hàng đầu của nhân loại. Ông ta nhấn mạnh tất cả những phẩm chất, tất cả những đức tính mà những người câu cá đã được thiên nhiên hào phóng ban cho, ông ta chỉ rõ ràng phải cần đến biết bao nhiêu là sự nhẫn nại chịu đựng, sự nhanh trí, tính lạnh lùng, trình độ trí thức cao, để đạt được thành tích trong nghệ thuật bắt cá, bởi lẽ đây là cái lớn hơn nghề nghiệp, đây chính là nghệ thuật, và nó còn cao hơn nhiều so với các chiến công mà những thợ săn đã huênh hoang một cách vô ích. - Có thể so sánh nghề đi săn với sự đánh bắt cá được hay sao? – ông ta lớn tiếng. - Không! Không! – những cử tọa đồng loạt ứng tiếng. - Công trạng như thế nào khi phải giết một chú gà gô hay một cô thỏ, khi các ngài nhìn thấy chúng trong tầm bắn và khi con chó – mà chẳng lẽ chúng ta có con chó? – đi tìm thú săn cho các ngài? Các ngài nhận định con thú săn ấy từ xa, các ngài không bắn ngay nó vội, và các ngài sẽ vãi ra một số lượng đạn chì không đếm xuể, phần lớn những viên đạn chì ấy bay đi một cách vô ích… Trái lại, để đánh bắt con cá thì các ngài sẽ không thể theo dõi bằng cái nhìn… con cá ẩn náu dưới mặt nước… Phải nhờ đến rất nhiều kỹ xảo, mưu mẹo, trí tuệ và sự lém lỉnh để buộc con cá phải cắn câu, để giật nó, để lôi nó lên khỏi mặt nước, lúc thì nó treo lơ lửng bất động trên đầu sợi cước, lúc thì rung rung giãu giụa tựa như đang hoan nghênh các ngài vì chiến thắng. Lời này, lời đáp lại là những tiếng hô muốn vỡ phòng: “Hoan hô!”. Nhất định la ngài chủ tịch biết làm rung nảy lên tình cảm của các hội viên. Hiểu rằng không thể đi quá xa trong những lời tán dương các bạn đồng nghiệp của mình, ông ta đã đánh bạo mà không sợ bị buộc tội cường điệu – đặt ra cho họ phần công việc tao nhã cao hơn mọi người khác, tâng bốc lên tận trời xanh các nghề đánh cá khoa học của những người nhiệt thành và thậm chí ông ta còn quay lại để tưởng nhớ vị nữ thần tuyệt vời được đưa lên hàng đầu bởi những người hâm một trẻ tuổi của cổ La Mã tại các kỳ hội lớn của những người đánh cá. Những điều ám chỉ này có hiểu ra được hay không? Có lẽ thế, bởi vì họ đã gây nên làn sóng phấn khởi thật tình. Sau đó, vừa lấy lại hơi thở và sau khi uống cạn thêm một cốc vại bia sủi bọt nữa. Ông ta tiếp tục; - Tôi chỉ còn một điều là chúc mừng các bạn nhân sự phát đạt của hội đoàn mà hang năm đều được bổ sung thêm nhiều hội viên mới và tiếng tăm của hội đã được lặp nên một cách vững chãi trên toàn Trung Âu. Tôi sẽ không nói với các bạn về thành tích của chúng ta. Các bạn đã biết rõ chúng, cac bạn đã tham gia làm nên chúng, và đó là vinh dự lớn để nhập cuộc thi. Báo cí Đức, Tiệp, Rumani đều không tiếc lời ca ngợi, đánh giá hết sức cao, và tôi xin nói thêm là, hết sức xứng đáng! Tôi xin nâng cốc chúc mừng, và xin các bạn hãy ủng hộ với tôi, các nhà báo đã hết sức tận tụy với công việc quốc tế của “Hội vùng sông Danube”! Tất nhiên, mọi người đồng thanh đáp lại lời của ngài chủ tích. Những chai rượu được dốc cạn vào các cốc, còn những cái cốc thì được lật úp vào những cái cổ họng cũng hết sức nhẹ nhàng như thế, như nước sông vĩ đại và ngọn nguồn của nó tuôn ra biển cả. Có thể chấm dứt được vào chỗ này, nếu như bài diễn văn của ngài chủ tịch đã được kết thúc bằng lời chúc rượu sau cùng. Nhưng những lời chúc rượu khác được tuôn ra có lẽ là rất ư hợp thời. ... Mời các bạn đón đọc Người Hoa Tiêu trên Sông Danube của tác giả Jules Verne.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mong Manh Tình Đầu - Born
Tình đầu, đẹp như một đóa hoa tầm xuân chớm nở vào một sớm cuối đông. Nhưng, chỉ một cơn gió nhẹ thôi cũng khiến những cánh hoa rụng rơi, tản mác. Thiên Vi và Duy Phong - hai trái tim thuần khiết thuở nào trước những con sóng dữ cuộc đời, không biết từ bao giờ đã chắp vá đầy những vết sẹo mãi chẳng lành. Quá khứ luôn không ngừng bị đào xới, sai lầm luôn không ngừng lặp lại và những vết cứa trong tim luôn không ngừng rỉ máu. Nhưng, còn rỉ máu nghĩa là còn ấm nóng, còn ấm nóng nghĩa là còn thương yêu. Là sẽ có một ngày sau cơn giông bão, bầu trời bỗng sáng trong và cõi lòng chợt bừng tỉnh. Thì ra, yêu thương vẫn ở ngay đó thôi. Thật gần! "Phía sau lưng họ là những cơn gió, thế nhưng chẳng ai thấy lạnh lẽo. Bầu trời sau cơn mưa xuất hiện một cầu vồng rực rỡ, đẹp như một giấc mơ." *** Nắng vàng rộn rã giữa sân trường, từng lớp từng lớp học sinh dắt xe ra khỏi cổng trường, ai nấy đều hớn hở. Trên bệ đá dưới tán cây bàng, một nữ sinh đang ngồi ngẩng đầu nhìn bầu trời đầy nắng qua kẽ lá. Đôi mắt trong trẻo, gương mặt ngây thơ của nữ sinh khiến khung cảnh xung quanh trở nên tươi đẹp lạ thường. Vẻ đẹp tinh khiết của cô khiến nhiều nữ sinh ghen tị, mấy bạn nam muốn đến bắt chuyện nhưng dường như chưa đủ dũng khí. Bỗng một nam sinh đến gần cô, tươi cười hỏi: - Đang chờ xe à? - Không. Mình đang chờ Dạ Thảo – Cô nhỏ nhẹ đáp lời. - Vậy mình về trước đây. Mai gặp nhé – Nam sinh vẫy tay tạm biệt rồi rời đi. Cô cũng mỉm cười vẫy tay với cậu bạn cùng lớp. Nụ cười của cô bạn khiến mấy nam sinh khác ngẩn ngơ. Phía sau mấy nam sinh bỗng vang lên tiếng nói nhẹ nhàng nhưng cũng đủ để khiến họ giật mình quay đầu nhìn lại. Một gương mặt tròn đang đanh lại, ánh mắt nhìn họ giễu cợt, giọng cao vút: - Cho qua coi. Vừa nói cô bạn mặt tròn vừa ung dung bước qua họ một cách kiêu căng, còn hất tung mái tóc dài cột đuôi gà của mình về phía sau. Đám con trai nghẹn họng, lặng lẽ bỏ đi. Thiên Vi đang định lấy sách ra đọc thì thấy bạn mình bước tới, vẻ mặt rõ là chảnh chọe. Cô phì cười, khẽ hỏi: - Sao thế? Trưng vẻ mặt này cho ai xem vậy? - Thì mấy cái tên lóc chóc đó chứ ai? – Dạ Thảo hí hửng đáp. - Ai? - Thiên Vi ngơ ngác nhìn quanh. - Mấy cái đuôi – Dạ Thảo hững hờ đáp. - Oa oa… Không ngờ đó nha – Thiên Vi reo lên – Đã chọn được anh nào chưa? Dạ Thảo khẽ lườm Thiên Vi rồi thở dài đáp: - Ai mà thèm ngó tới mình chứ?! - Sao lại nói thế? – Thiên Vi tròn mắt nhìn Dạ Thảo. - Mình như vầy thì… – Dạ Thảo nhìn lại bộ dạng tròn trịa béo tốt của mình, vẻ mặt càng buồn bã hơn. Thiên Vi thấy bạn tủi thân như vậy cũng buồn, Dạ Thảo hơi mập nhưng gương mặt tròn trịa của cô vẫn mang nét dễ thương đáng yêu, hơn nữa Dạ Thảo rất tốt bụng, chẳng ai trong lớp vì ngoại hình của cô mà chán ghét cô cả. ... Mời các bạn đón đọc Mong Manh Tình Đầu của tác giả Born.
Ngựa Chứng Đầu Xanh - S. E. Hinton
Ponyboy mười bốn tuổi, gai góc và hoang mang, nhưng đằng sau vẻ bất cần là một tâm hồn nhạy cảm. Theo Ponyboy, thế giới này chỉ có hai loại người, Mỡ và Soc – dân Soc có tiền, có thể thoát khỏi hầu như mọi tội, với thái độ ngạo mạn khó ưa; dân Mỡ, ngược lại, sống ở khu ổ chuột và luôn phải cẩn thận đề phòng. Ponyboy là Mỡ, luôn tự hào về điều đó – cho tới một đêm khủng khiếp khi Johnny giết chết một thằng Soc. Cơn ác mộng bạo lực bắt đầu, bạo liệt cuốn Ponyboy vào một vòng xoáy hỗn loạn của sự kiện và cảm xúc, khiến hình ảnh về thế giới hai cực trong mắt cậu tan rã như bụi tro. Và rồi, trước khi thời niên thiếu kết thúc, Ponyboy đã nhận ra: sự đau đớn luôn giống nhau, dù là với Soc hay Mỡ đi chăng nữa.   Câu chuyện đầy sức mạnh về những chú ngựa chứng trẻ tuổi này được viết khi tác giả mới 17 tuổi và kể từ lần xuất bản đầu tiên năm 1967, Ngựa chứng đầu xanh đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất lịch sử ngành xuất bản với 14 triệu bản tính đến 2005, và mỗi năm lại có nửa triệu bản nữa thêm vào con số đó. Một tác phẩm kinh điển dành cho tuổi thiếu niên. *** Khi từ bóng tối của rạp chiếu phim bước ra ngoài ánh nắng rực rỡ, tôi chỉ có hai thứ trong đầu: Paul Newman và một cuốc xe về nhà. Tôi ước gì mình trông giống Paul Newman - anh trông gai góc còn tôi thì không - nhưng tôi nghĩ bề ngoài của mình cũng chẳng đến nỗi nào. Tóc tôi màu nâu nhạt, hoe hoe đỏ còn mắt thì có màu xám ánh xanh lá. Tôi ước gì mắt mình xám hơn, vì tôi ghét hầu hết mấy gã mắt xanh lá, nhưng tôi phải bằng lòng với cái mình có thôi. Tóc tôi dài hơn tóc nhiều thằng con trai khác, cắt vuông vắn sau đầu, để dài phía trước và hai bên, nhưng tôi là một thằng Mỡ(1) và hầu hết hàng xóm tôi chẳng mấy khi nghĩ đến chuyện cắt tóc. Hơn nữa, tôi trông hay hơn khi để tóc dài. Tôi phải đi bộ về nhà một quãng dài mà không người đi cùng, nhưng dù gì thì tôi cũng thường đi một mình, chẳng vì lý do nào ngoại trừ vì thích được yên ổn xem phim, để có thể thả hồn vào trong bộ phim và sống với nó cùng diễn viên. Xem phim với một ai khác làm tôi có chút không thoải mái, cứ như có người nhìn qua vai khi ta đọc sách vậy. Tôi thì khác như vậy đó. Ý tôi là, anh ba tôi, Soda, mười sáu tuổi sắp lên mười bảy, chưa bao giờ giở lấy một cuốn sách, còn anh hai Darrel, mà bọn tôi gọi là Darry, làm việc muộn và vất vả đến độ chẳng còn đâu thời gian mà quan tâm đến đọc truyện hay vẽ tranh, vậy nên tôi chẳng giống hai anh. Và chẳng có đứa nào trong băng bọn tôi cảm hiểu phim ảnh và sách vở như tôi cả. Có lúc tôi đã nghĩ rằng mình là kẻ duy nhất trên đời này hiểu. Nên tôi làm việc đó một mình. Ít nhất Soda cũng cố hiểu, và cảm hiểu được nhiều hơn Darry. Nhưng nghĩ kỹ thì anh khác với bất cứ ai; anh hiểu mọi sự, gần như vậy. Ví dụ như anh chẳng bao giờ hò hét với tôi suốt như anh Darry, hay đối xử với tôi như thể một đứa lên sáu chứ không phải đã mười bốn tuổi rồi. Tôi quý Soda hơn bất cứ ai, kể cả là bố mẹ. Lúc nào anh cũng vô tư lự và cười toe toét, trong khi anh Darry lại nghiêm khắc, cương nghị và chẳng mấy khi nở miệng cười. Nhưng mặt khác, Darry đã trải qua rất nhiều thứ trong hai mươi năm cuộc đời, anh trưởng thành quá nhanh. Sodapop sẽ chẳng bao giờ chịu lớn cả. Tôi chẳng biết thế nào thì hay hơn nữa. Tôi sẽ sớm biết ra thôi. ... Mời các bạn đón Ngựa Chứng Đầu Xanh của tác giả S. E. Hinton.
Hôn Lễ Tháng 3 - Tào Đình
So với Nhặt Được Cô Vợ Nhỏ và Đánh Cắp Trái Tim thì Hôn Lễ Tháng Ba mang đến cho độc giả một câu chuyện nhẹ nhàng, một chuyện tình ngọt ngào giữa Ngọc Tây và Trần Hạ. Đọc truyện Hôn Lễ Tháng Ba người đọc sẽ cảm nhận sự thuần khiết và trong vắt trong lối sống, trong suy nghĩ lẫn hành động của nữ chính. Hơn hết, thay vì trong truyện ngôn tình luôn chen vào những tình khúc cao trào nhưng trong tác phẩm này, êm đềm nhưng không vô vị, vẫn đầy thu hút và thử thách. *** Khi bình minh hé rạng, hãy hôn người tình bên cạnh, bởi vì nàng không hiểu những bộc bạch không lời. Dẫu biết rằng nên tìm cho mình một lý do để ra đi, hoặc là nên trở dậy tự phục vụ một cốc cà phê với dáng điệu tự nhiên, ít nhất cũng không để lộ vẻ mặt tự nguyện và đắm đuối, nhưng tôi lại chẳng thể làm gì hết, ngoài việc lún sâu hơn nữa vào lớp nệm mềm mại của ghế sofa, ngây người bởi mùi thơm thoảng ra từ phòng tắm, nhìn chăm chăm lên chùm đèn trần hoa cúc, nơi có một con đom đóm bị ánh sáng thu hút, đang bay loạn xạ. Con đom đóm đó bay liệng quanh chùm đèn, không nhanh không chậm, thỉnh thoảng lại va vào chao đèn. Tôi không biết mình đang nghĩ gì, chỉ ngây nguời nhìn con đom đóm và ngọn đèn. Tôi buông mình trong sự thỏa mãn chán chường. Ngọc Tây bước ra khỏi phòng tắm trong bộ đồ ngủ rộng thùng thình, nước từ mái tóc nhỏ từng giọt xuống nền. Tôi có thể nghe thấy âm thanh từ giọt nước rơi và mường tượng ra mùi hương siêu nhiên của nó. Ngọc Tây đứng như vậy trước mặt tôi, chân trần, mê hoặc lòng người, giống như yêu nữ trong rừng sâu. Tôi quên ngay con đom đóm, quên ngay chùm đèn, mắt hướng vào đôi chân trần của nàng. Phát hiện chân nàng rất trắng, rất mịn. Tôi lại thấy nôn nao xúc động, bất lực trước vẻ đẹp của nàng, nhưng vẫn cố nặn ra một nụ cười lạnh nhạt bất cần. Tôi là đàn ông. Là đàn ông thì không nên căng thẳng. Tôi giả đò vô tình thay đổi tư thế của đôi chân, ngụ ý nói: Trần Hạ này không hề căng thẳng. Cảm thấy nên nói điều gì đó. “Anh không căng thẳng” ... Mời các bạn đón đọc Hôn Lễ Tháng 3 của tác giả Tào Đình.
Món Quà Tình Yêu - Julie Garwood
Nathan - Gã cướp biển khét tiếng dưới cái tên Pagan, đồng thời cũng là Hầu Tước St. James, bị nhà vua ép hôn năm mười bốn tuổi với Sara Winchester - khi đó mới chỉ lên bốn. Mười bốn năm trôi qua, Lady Sara lớn lên với lời hẹn ước rằng một ngày nào đó chồng cô sẽ trở lại Luân Đôn để đón cô. Cô thậm chí còn nuôi dưỡng tình yêu với anh dù chẳng nhớ mặt. Trong khi đó, Hầu Tước St. James đã dành tuổi trẻ của mình tạo ra một quá khứ oai hùng trên mặt biển cùng Colin - em trai công tước dòng họ Cainewood. Cho đến khi họ đã quá mệt mỏi với cuộc sống ngoài vòng pháp luật, họ thành lập công ty tàu biển Emerald. Đã đến lúc Nathan suy nghĩ về việc trở lại Luân Đôn đón vợ mình - để có được món quà kếch sù mà nhà vua ban tặng nếu Sara cho anh một người nối dõi. Nathan lập một kế hoạch để chịu đựng vợ, cũng như ruồng bỏ cô ta ở một vùng quê hẻo lánh nào đó ngay sau khi cô cho anh một người nối dõi. Kế hoạch của anh sẽ suôn sẻ nếu như Sara không hóa ra là một người quá xinh đẹp, quá quyến rũ, quá… ngây thơ. Cô phá tan mọi kế hoạch của anh trong sự tình cờ của số phận. Hàng loạt biến cố xảy ra quanh cuộc đời cô, và trong cuộc đào tẩu khỏi gia đình để giải cứu cho dì Nora, Sara đã giúp bà thoát khỏi những âm mưu hiểm độc của gia đình cô nhằm chiếm lấy khoản kế thừa mà Nora được nhận, Sara đã gặp lại chồng và bước lên con tàu Seahawk dưới sự bảo vệ của anh. Ba tháng lênh đênh trên biển với anh, Sara bằng tình yêu và sự chân thành, vị tha của mình, đã từng bước từng bước đi vào trái tim Nathan. Cô vụng về gây ra những vụ tai nạn nho nhỏ trên tàu, cô tuyệt vọng nấu một món súp để chuộc lỗi, cô vô tình làm đổ những cột buồm, ngẫu nhiên khiến con tàu của anh bốc cháy,  nhưng, cô cũng đã bằng lòng can đảm của mình để cứu chồng cô thoát khỏi những tên  cướp biển hung tợn. Nathan trong vô thức bao dung cô, bảo vệ cô, trong thức anh mong chờ những lời lẽ yêu đương từ cô. Cho đến ngày sự trung thành và lòng tin của cô bị chính chồng mình nghi ngờ, cô vội vã thoát khỏi cuộc đời anh trong sự đau đớn của trái tim cô. Nathan chợt nhận ra anh sắp mất cô, và anh thấy anh yêu cô nhiều đến thế nào, cần cô nhiều đến thế nào. Lời cầu hôn muộn màng của Nathan cùng một văn bản yêu cầu hủy bỏ hôn ước của nhà Vua, từ bỏ cả món quà kếch sù mà họ được nhận, là những gì Nathan đã làm để giữ lại tình yêu và niềm tin của vợ mình. Thế nhưng, những điều đó cần phải được thực hiện một cách đúng đắn, không, nó phải được thực hiện một cách hoàn hảo - dành cho cô. Anh tự nhủ. “Ta không cần bất cứ món quà nào khác, vì ta đã có được món quà quý giá nhất. Đó chính là em!” *** Nước Anh, năm 1802 Chuyện những vị khách trong lễ cưới chém giết lẫn nhau chỉ còn là vấn đề thời gian. Dĩ nhiên, Nam tước Oliver Lawrence phải tiến hành mọi biện pháp phòng ngừa trong khả năng của mình vì lâu đài này đã được Vua George chọn làm địa điểm tổ chức buổi lễ. Ông đang giữ vai trò của người chủ tiệc cho đến lúc Đức vua tới nơi – một nhiệm vụ được đón nhận với niềm hân hoan như thể bị tra tấn suốt ba ngày liền. Tuy nhiên, mệnh lệnh được đích thân Đức vua ban ra, cho nên Lawrence, một người luôn tuân mệnh và trung thành, lập tức tuân theo. Cả gia đình nhà Winchester và những kẻ nổi loạn của nhà St. Jame đều bày tỏ sự phản đối trước quyết định này bằng thái độ kịch liệt nhất. Nhưng sự ầm ĩ đó đều vô ích, bởi một khi Đức vua đã ra quyết định thì mệnh lệnh của ngài phải được thực hiện. Nam tước Lawrence hiểu lý do thật sự đằng sau hôn ước này. Thật không may, ông lại là người duy nhất còn sót lại ở đất nước này vẫn đủ thân thiện để nói chuyện với cả hai gia đình nhà cô dâu và nhà chú rể. Nam tước sẽ không thể lấy làm kiêu hãnh về sự thật này lâu hơn được nữa. Ông tin rằng thời gian mình tồn tại trên thế giới ngọt ngào này giờ đây chỉ còn tính bằng nhịp đập của trái tim. Đức vua thật sự tin rằng đám đông sẽ cư xử đúng mực khi buổi lễ được tổ chức tại một nơi trung lập. Lawrence hiểu rõ tình hình hơn thế. Những quý ngài xung quanh Nam tước Lawrence đang trong trạng thái sẵn sàng chém giết lẫn nhau. Chỉ cần một từ phát ra sai tông giọng, hay một hành động mang hơi hướng đe dọa, dù là nhỏ nhất, đều châm ngòi cho một cuộc tàn sát đẫm máu. Chỉ có Chúa mới biết họ đang ngứa ngáy muốn nhảy xổ vào nhau đến thế nào. Thậm chí cả vẻ mặt của họ cũng nói lên điều tương tự. ... Mời các bạn đón đọc Món Quà Tình Yêu của tác giả Julie Garwood.