Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thế Gian Này, Nếu Chẳng Còn Mèo

Tôi là một kẻ khá thích thú với văn hóa Nhật, cho nên phim ảnh, âm nhạc hay văn học Nhật Bản tôi tìm hiểu khá nhiều, và trong một lần tình cờ ngồi tìm phim của diễn viên Satoh Takeru, tôi đã biết đến bộ phim với tiêu đề "Thế gian này, nếu chẳng còn mèo". Bộ phim đã khiến tôi cảm thấy thực xúc động và có chút đồng cảm với nội dung đầy tính nhân văn pha chút đau buồn và day dứt. Tôi có thói quen nếu gặp một bộ phim nào thấy ưng ý, và nhiều ý nghĩa thì sẽ ngay lập tức tìm kiếm những câu nói, trích dẫn từ bộ phim đó. Và thật bất ngờ bộ phim này được chuyển thể từ cuốn sách cùng tên. Là một kẻ thích đọc sách, chẳng có lý do gì khiến tôi lại không tìm kiếm và đọc ngay cuốn sách giàu cảm xúc này. "Thế gian này nếu chẳng còn mèo" kể về một anh bưu tá đột nhiên nhận được tin mình bị ung thư và chỉ còn vài ngày để sống. Rồi đột nhiên từ đâu đó xuất hiện một kẻ tự nhận mình là một con quỷ, mang lại cho anh cơ hội để tiếp tục sống. Cứ mỗi ngày, con quỷ yêu cầu anh xóa đi một thứ để đổi lại một ngày sống. Điện thoại, phim ảnh, đồng hồ lần lượt được con quỷ xóa mất khỏi thế giới hiện tại giúp anh chàng có thêm những ngày sống, tận hưởng và tìm ra những điều đẹp đẽ của cuộc sống. Nhưng rồi, khi tới lượt lựa chọn việc cho loài mèo bị biến mất hoặc chính bản thân biến mất anh đã nhận ra rằng cái chết đôi khi không quá đáng sợ, không phải là bất hạnh. Cái chết mang màu sắc ra sao tùy thuộc vào cách ta sống thế nào. Trong chúng ta luôn có những con quỷ khiến chúng ta lựa chọn sai lầm, hành động thiếu suy nghĩ gây ra những hậu quả đáng tiếc. Tuy nhiên chúng ta nên trân trọng những sai lầm mà ta mắc phải, học hỏi bài học từ chúng như cách nhân vật chính đã làm. Anh xóa bỏ điện thoại để nhận ra rằng tình yêu mà anh đã có vốn dĩ chẳng cần tới thứ phương tiện nhỏ bé nằm gọn trong lòng bàn tay. Anh xóa bỏ phim ảnh để hiểu rằng người bạn anh nên trân trọng lúc cuối cùng là ai. Anh xóa bỏ đồng hồ để cuối cùng biết rằng gia đình là nơi bình yên nhất anh có được. Và cuối cùng, thay vì xóa bỏ loài mèo để có thêm một ngày sống, anh quyết định xóa bỏ bản thân để giữ lại những điều quan trọng vốn dĩ được xây dựng bằng tình cảm, cảm xúc. "Chỉ sống thôi thì có ý nghĩa gì? Ý nghĩa nằm ở chỗ mình sống thế nào chứ, đúng không?" Cuộc sống là một chuỗi những biến cố mà chúng ta không thể nào đoán trước được. Hôm nay chúng ta vui, ngày mai chúng ta buồn. Hôm nay chúng ta nghèo đói, ngày mai chúng ta lại trở lên giàu có. Hôm nay chúng ta sống vui vẻ nhưng ngài mai, biết đâu chúng ta ra đi mãi mãi. Nhưng nếu chúng ta sống có ý nghĩa, thì chúng ta sẽ mãi không hối tiếc. *** Chỉ sống thôi thì có ý nghĩa gì? Ý nghĩa nằm ở chỗ mình sống thế nào chứ, đúng không? Chuyện là, đang sống một cuộc đời đều đều ổn định, anh bưu tá nọ phát hiện mình đã ung thư giai đoạn cuối. Ngày mai phải chết. Anh ta liền rơi vào trầm cảm, suy sụp, loạn trí, tự hành hạ...? Không đâu! Lúc biết tin, anh ta hết sức điềm tĩnh. Chỉ ngất đi thôi. Tỉnh dậy thì ác quỷ đã ngồi sẵn bên cạnh, nhưng thay vì tiễn anh ta xuống địa ngục luôn, nó đề nghị một giao dịch: Nếu bằng lòng hi sinh một thứ trên đời, anh ta sẽ thêm được một ngày sống. Cứ thế, điện thoại, phim ảnh, đồng hồ... nối đuôi nhau tan vào hư không, đổi lại số ngày sống tương ứng cho anh bưu tá. Rồi một ngày nọ, đến lượt loài mèo được đưa vào danh sách biến mất, bao gồm cả con mèo yêu dấu của anh ta... Và đây là lúc phải lựa chọn. Trên đời, có quá nhiều thứ lặng lẽ tồn tại xung quanh, nhưng dường như ta không hề để tâm đến hoặc nghĩ rằng có cũng được, không cũng chẳng sao. Để rồi lúc mất đi mới nhận ra được tầm quan trọng của chúng đối với đời mình. Khi đồng ý xóa bỏ những thứ mà ác quỷ đã lựa chọn, mối liên hệ giữa anh bưu tá với gia đình, người yêu, bạn bè, đồng nghiệp… cũng biến mất. Thế chỗ chúng, những kỉ niệm quý giá, hồi ức về hạnh phúc và mất mát, những hiểu lầm, những lỡ làng lũ lượt quay về thức tỉnh trong anh. Sống ngắn ngủi mà đầy ắp yêu thương và chấp nhận cả đớn đau, đầy ắp thành công mà chịu đựng cả thất bại… hay là sống vĩnh hằng, không hề vấp ngã nhưng quá khứ trắng tinh, hiện tại trơ lì và tương lai trống rỗng? Đây đúng là lúc thực sự phải lựa chọn. *** Nếu thế gian này bỗng chẳng còn mèo, thì nó sẽ đổi thay thế nào, cuộc đời tôi thay đổi ra sao? Nếu thế gian này bỗng chẳng còn tôi, thì nó vẫn bất biến, vẫn đón ngày mai như mọi hôm?   Có thể bạn nghĩ, tưởng tượng vớ vẩn, nhưng tôi vẫn muốn bạn tin. Bởi vì những điều tôi sắp viết, chính là trải nghiệm của tôi suốt bảy ngày qua. Bảy ngày kỳ lạ.   Chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ rời bỏ cõi trần.   Tại sao lại nói như vậy? Tôi sắp trình bày lý do ngay đây. Chắc hẳn sẽ là một lá thư dài, nhưng mong bạn đọc cho đến hết.   Đây là lá thư đầu tiên, cũng là cuối cùng, tôi gửi tới bạn. Đây là di thư của tôi.   *** Thứ Hai Ác quỷ đến   Danh sách những việc muốn làm trước khi chết của tôi không tới mười mục. Trong một bộ phim tôi xem ngày xưa, nữ chính đã lập ra danh sách mười điều muốn làm trước khi chết. Nghe rõ xàm xí! Thật ra dùng từ “xàm xí” không chính xác mấy, nhưng chí ít những điều liệt kê trong danh sách ấy cũng chẳng phải việc ghê gớm gì. Hả, tại sao tôi lại nghĩ vậy ư? Phải nói thế nào nhỉ? Kể cũng hơi xấu hổ, nhưng tôi muốn thử lập danh sách mười điều ấy một lần.   Chuyện xảy ra bảy ngày trước. Tôi ốm suốt một thời gian dài nhưng hằng ngày vẫn cần mẫn với công việc của một bưu tá. Cơn sốt chẳng hề dứt, nửa đầu bên phải cứ ong ong. Thuốc bán ngoài hiệu như lừa đảo. Các bạn biết đấy, tôi cực ghét bác sĩ. Nhưng sau hai tuần bệnh tình không thuyên giảm, tôi quyết định tới bệnh viện. Đến rồi mới biết ấy chẳng phải cảm cúm thông thường.   Não tôi có một khối u giai đoạn bốn. Đó là kết quả chẩn đoán mà bác sĩ thông báo cho tôi. Thời gian còn lại hên thì nửa năm, xui thì một tuần. Họ đưa ra rất nhiều phương án như xạ trị, sử dụng thuốc chống ung thư, chăm sóc giảm nhẹ, nhưng không một điều nào lọt tai tôi. Hồi nhỏ, mùa hè tôi thường tới bể bơi. Làn nước vừa xanh vừa lạnh, tôi nhảy tùm xuống. Bong bóng ùng ục nổi. Thân thể tôi chìm dần. “Phải khởi động trước khi xuống nước chứ con!” Tiếng nhắc nhở của mẹ vang lên. Qua làn nước, nó trở nên xa xôi khiến tôi không sao nghe rõ. Vậy mà giờ đây, âm thanh đã lãng quên trong ký ức ấy lại vọng về. Cuộc khám bệnh lâu lắc kết thúc. Bác sĩ vừa dứt lời, tôi đã vứt bịch cặp xách xuống sàn, lảo đảo rời phòng khám. Không buồn nghe tiếng gọi giật lại của bác sĩ, tôi gào lên thật to rồi lao ra khỏi bệnh viện. Tôi va vào người đi đường, ngã bổ chừng xong lại chồm dậy, tay chân quýnh quíu bỏ chạy. Tôi cứ chạy, chạy mãi đến chân cầu thì không chạy nổi nữa, phủ phục xuống đất khóc rống lên… Bốc phét đấy! Những lúc thế này, con người ta lại bình tĩnh đến lạ lùng.   Lúc ấy, đầu óc tôi nhớ ngay tới cái thẻ tích điểm của tiệm mát xa gần nhà, chỉ còn một dấu nữa thôi là sẽ được tặng một coupon miễn phí, nhớ cả chuyện mình vừa mua một lố giấy vệ sinh và bột giặt. Đấy, toàn những chuyện vớ vẩn như thế thôi.   Nhưng rồi nỗi buồn từ từ lan tỏa trong tôi. Tôi mới 30 tuổi, ừ thì đúng là sống lâu hơn Jimi Hendrix và Basquiat thật, nhưng tôi vẫn có cảm giác còn nhiều việc tôi chưa làm, những cống hiến cho thế gian mà chỉ mình tôi đảm đương được. Nhất định có những việc như thế. Nhưng rốt cuộc tôi chẳng nghĩ ra là việc gì, chỉ lững thững bước đi, đến nhà ga thì bắt gặp hai thanh niên đang ôm ghi ta thùng gân cổ hát. Rồi một ngày kia đời người chăm dứt, Trước khi thời khắc ấy đến, Hãy làm những việc mình muốn, làm đi, làm cho kỳ hết Rồi chào đón ngày mai. Lũ ngốc! Trí tưởng tượng nghèo nàn đến thế là cùng. Cứ bám lấy cửa ga mà hát hò cả đời đi. Tôi bỗng tức tối không biết làm sao cho thỏa, thành ra đứng đấy khá lâu mới chậm rãi mò về nhà. Tôi leo lên bậc cầu thang cũ kĩ kêu cót két. Lúc mở cánh cửa ọp ẹp, nhìn thấy căn hộ chật hẹp, cuối cùng tôi cũng bị nhấn chìm trong cơn tuyệt vọng. Đúng theo nghĩa đen của cụm từ “trước mắt tối sầm”, tôi ngất lịm đi.   Cứ thế chẳng biết lâu hay chóng, tôi tỉnh dậy ở tiền sảnh. Một cục tròn vo đan xen ba màu trắng, đen, xám xuất hiện trước mắt tôi. Cục tròn ấy kêu “meo” một tiếng, ra là con mèo. Con mèo yêu của tôi đấy. Chúng tôi sống cùng nhau đã bốn năm rồi. Con mèo lại gần tôi. Nó “meo” một tiếng đây lo lắng. Tạm thời mình chưa chết. Tôi cử động thân thể. Cơn sốt vẫn chưa tan, đầu đau như búa bổ. Cái chết cứ như hiển hiện trước mắt. “Xin chào!” Giọng nói tươi vui thái quá từ trong nhà vọng ra. Tôi thử ngó vào, liền thấy mình ở đó. Không, tôi đang đứng đây kia mà! Nói đúng ra là một người khác có nhân dạng giống tôi ở đó. Tôi nghĩ ngay đến “doppelganger1”. Từ ấy được viết trong một cuốn sách tôi đọc dạo trước. Một bản ngã khác xuất hiện lúc mình sắp chết. Rốt cuộc đầu tôi đang bị ảo giác hay người ta đến đón tôi đi thật? Dù sắp ngất đến nơi nhưng bằng cách nào đó tôi vẫn trụ lại. Và giờ đây tôi quyết định thẳng thắn đối mặt với tình huống này. Mời các bạn đón đọc Thế Gian Này, Nếu Chẳng Còn Mèo của tác giả Genki Kawamura.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Miền Đất Ấy - Antônio Torres
Antônio Torres sinh năm 1940 tại Junco, trong khu heo hút của vùng rừng gần như nguyên sinh của miền Bahia. Chúng ta có thể hiểu là: ông thuộc về thế hệ các nhà văn mới đã bén rễ trong vùng Nordeste[1] của quốc gia Brésil. Độc giả của Graciliano Ramos, của Jorge Amado hay Rachel de Queiroz, những bậc thầy của “tiểu thuyết xã hội xứ Nordeste” trong những năm ba mươi, sẽ nhận ra rằng miền đất dữ dội ấy không ngừng nuôi dưỡng sự tưởng tượng và sáng tạo nghệ thuật. Và những ai đã từng tin rằng dòng máu mang tính địa phương chủ nghĩa đã bị cạn kiệt cùng với sự thâm nhập tài tình của João Guimarães Rosa mà tác phẩm của ông đã biến hóa sự phong phú về chủ đề và ngôn ngữ địa phương bằng một tác phẩm cách tân mang tầm toàn cầu, sẽ nghe thấy những tiếng kêu với các trọng âm cấp thiết hơn của miền đất này mà hiện giờ đang trong cơn biến động. Junco không vang lên bên tai chúng ta như những cái tên khiến ta mê hoặc như Salvador, như Recife, Porto Seguro. Junco chẳng có gì khác biệt, không có gì đặc sắc, nó cũng tựa như hàng ngàn những ngôi làng bị hủy diệt bởi sự hoang tàn ù lì của sự đói nghèo và thi thoảng lại bị nạn hạn hán hoành hành. Và trên hết, Junco ngày nay là một vùng đất bị chính những đứa con mình bỏ rơi, những đứa con đó đã ra đi hoặc mơ mộng sẽ ra đi tới những thành phố của “phép mầu công nghiệp”, như Rio de Janeiro, Sao Paulo… Phải chăng sự phản bội ấy là nguyên nhân của tai họa mà nó hình như đè nặng lên những đứa con của vùng đất đã hy sinh vì sự tiến bộ? Mời các bạn đón đọc Miền Đất Ấy của tác giả Antônio Torres.
Mặt Trăng và Đồng Sáu Xu - William Somerset Maugham
MẶT TRĂNG VÀ ĐỒNG SÁU XU mượn một phần tiểu sử của danh họa người Pháp Paul Gauguin, một trong những họa sĩ tiên phong, một tên tuổi rất lớn và đầy sáng tạo của hội họa hiện đại, xuất hiện gần như đồng thời với sự ra đời lừng lẫy của các họa sĩ trường phái Ấn tượng. S. Maugham đã mượn câu chuyện nửa thực nửa hư về cuộc đời của nhà danh họa để trình bày những ý nghĩ của mình về Nghệ thuật, Tình yêu và Con người. Chắc hẳn ông có dựa vào quyển hồi ký của chính nhà danh họa, nhưng ở nhiều chỗ ông đã hư cấu với thủ pháp quen thuộc của mình. Ở đây chúng ta gặp lại Maugham với những chủ đề ta đã từng gặp trong hai tác phẩm kia: con người, dục vọng, nghệ thuật… Có thể nói trong cả ba tác phẩm nổi bật nhất này của mình, Maugham đều viết về sự ràng buộc mà cái bản năng lớn nhất của con người là Dục vọng (và dĩ nhiên theo nó là Tình Yêu) tác động lên nhân vật chính của tác phẩm, là những người đàn ông. Ở Of Human Bondage đó là sự ràng buộc, của dục vọng - tình yêu, trên một người bình thường. Ở The Radzor’s Edge là ràng buộc trên một người đi tìm sự giải thoát và ở The Moon and Sixpence là ràng buộc trên một nghệ sĩ thiên tài. Câu chuyện của 3 tác phẩm nói chung là mô tả cách những người đàn ông đó đã phản ứng lại sự ràng buộc kia… Khoảng năm 1972 - 1973 ở Sài gòn xuất hiện bản dịch The Moon and Sixpence dưới cái tên “Đời nghệ sĩ” (nxb Ca dao). Một nhà phê bình khó tính đã than trời về bản dịch này. Tôi tình cờ kiếm được nguyên tác ở chợ sách son trên hè phố Sài Gòn và đã kiểm chứng được lời than phiền này. Quả là một bản dịch quá tệ, tôi thử so vài trang để sửa và kết quả là mỗi trang của bản dịch được tôi sửa chi chít đen kịt, đó chỉ là với khả năng của một người có vỏn vẹn ít năm học tiếng Anh ở trường trung học. Tình cờ ít năm sau đó cũng trên hè phố bán son, tôi lại “vớ” được quyển nhật ký của Paul Gauguin dịch ra tiếng Anh với cái nhan đề The Intimate Journal. Kể cũng là duyên phận. Sách in lại nhiều bức tranh của Gauguin để minh họa. *** William Somerset Maugham là nhà văn Anh, sinh năm 1874 và sống ở Pháp cho đến khi lên mười. Học xong đại học ở Anh, ông làm thầy thuốc tại bệnh viện. Có khiếu văn chương, ông sớm bắt đầu viết tiểu thuyết và thành công với vài tác phẩm đầu tay, rồi chuyển hẳn sang sáng tác văn học. Ông nổi tiếng với hai truyện dài Kiếp người (Of Human Bondage) (1914) và Mặt trăng và đồng sáu xu(The Moon and sixpence) (1919). Trong số sách được xuất bản sau đó có: (Bức Bình phong (The Painted Veil) (1925),Quý Ngài trong phòng khách (The Gentleman in the Parlour) (1930), Don Fernando (1935), Lưỡi dao cạo (The Razor’s Edge) (1944), Sổ tay nhà văn (A Writer’s Notebook)(1949), Cách nhìn thiên vị (Points of View) (1958),… W.S. Maugham đồng thời còn là một nhà soạn kịch trứ danh với những sáng tác như: Phu nhân Frederick (Lady Frederick) (1907), Smith (1909), Đất hứa (The Land of Promise) (1913). Ông cũng là tác giả nhiều truyện ngắn rất được hoan nghênh. Toàn tập truyện ngắn của ông được tái bản nhiều lần với số lượng mấy trăm nghìn bản, ví dụ như Mưa. Trong Mặt trăng và đồng sáu xu, tác giả kể lại cuộc đời một nhà buôn cổ phần chứng khoán trở thanh họa sĩ thiên tài mà người đương thời chưa đánh giá đúng giá trị tác phẩm cho tới khi ông qua đời một cách thê thảm ở nơi đất khách quê người. Kinh doanh thành đạt, sống sung túc, được vợ con hết lòng yêu mến, Charles Strickland bất thình lình bỏ gia đình ra đi, không còn quan hệ với cái xã hội ông đã từng sống, quyết tâm hiến cả đời mình cho hội họa. Ông sống gian khổ trong nhiều năm phấn đấu không thành công ở Paris. Hoàn cảnh xui khiến, ông đi tìm môi trường sáng tác mới ở một nơi xa xôi ở cái tuổi gần năm mươi. Trên đảo Tahiti, trong một gian nhà nhỏ ở một vùng hẻo lánh, được chăm sóc bởi người vợ trẻ, ông miệt mài vẽ cho đến ngày chết vì bệnh hủi, mù cả hai mắt. Tác phẩm cuối cùng của ông là những bức tranh vẽ trên vách và trần nhà mà người được may mắn nhìn thấy đánh giá là kiệt xuất. Với tính khí khác thường vốn có, ông yêu cầu vợ đốt căn nhà, nhưng những bức tranh vẽ trên vải không đóng khung vứt lung tung trong nhà đủ cho những ai hiểu biết hội họa coi ông là một thiên tài. Mời các bạn đón đọc Mặt Trăng và Đồng Sáu Xu của tác giả William Somerset Maugham.
Gánh Hàng Hoa
Tác phẩm miêu tả cuộc sống của tầng lớp trí thức nghèo tại Hà Nội trong những năm 30 của thế kỷ 19. Chàng thư sinh tên Minh có vợ là một cô gái xinh đẹp, duyên dáng, người làng Ngọc Hà, làm nghề trồng hoa và bán hoa. Cuộc sống vợ chồng tuy vất vả nhưng vui vẻ và hạnh phúc. Vợ Minh, Liên, là bạn của anh từ thuở nhỏ, vô cùng yêu chồng, hết lòng kiếm tiền nuôi chồng ăn học để mong chồng đỗ đạt. Nhưng rồi Minh vì tính đa nghi ghen tuông lại nghĩ sai về tình cảm tốt đẹp của người bạn học với mình, anh Văn và Liên. Từ sau cuộc nhậu ở nhà Văn, Minh ngã bị thương vào mắt và tạm thời không thấy ánh sáng trong một khoảng thời gian, anh sinh ra tiêu cực, chán nản, càng đa nghi. Tuy vậy, chính Minh sau khi khỏi mắt cũng bị sắc đẹp của người con gái khác làm cho xao lòng, bỏ nhà ra đi.. *** Gánh Hàng Hoa gồm có: Hy Vọng Hạnh Phúc Sau Ngày Vui Hương Và Sắc Sáng Và Tối Hy Sinh Viết Báo Trong Vườn Bách Thảo Ánh Sáng Khủng Hoảng Hai Cảnh Mộng Con Đường Cũ Đời Vẫn Vui, Vẫn Đẹp Mời các bạn đón đọc Gánh Hàng Hoa của hai tác giả Khái Hưng & Nhất Linh.
Bông Huệ Đỏ - Anatole France
“Một trong những tác phẩm viết về tình yêu hay nhất của nền văn học Pháp”. Sự đánh giá ấy đối với cuốn tiểu thuyết Bông huệ đỏ đã có từ lâu, và gần như được công nhận hoàn toàn trong đông đảo người đọc, cũng như trong giới phê bình Pháp.   Hay nhất, không phải vì nội dung tác phẩm, số phận nhân vật và tình yêu của họ đã vượt ra ngoài tầm cỡ con người bình thường, mà trái lại, là một bước dấn sâu hơn vào thế giới nội tâm phong phú phức tạp của những con người bình thường. Ba người ấy, nàng Thérèse diễm lệ và đa tình, chàng Le Ménil, rồi chàng Decharre, hoàn toàn không phải là những “siêu nhân”. Họ trần tục như hết thảy những người trần tục nhất. Họ đến với nhau, hòa quyện vào nhau, thiêu đốt nhau trong ngọn lửa đắm say cực kỳ mãnh liệt, để rồi cùng chính lúc ấy, họ gieo mầm khổ ải cho nhau bởi sự ham hố bất tận, tính ích kỷ và sự ghen tuông. Tình yêu là hạnh phúc, nhưng tình yêu cũng là khổ đau? Hạnh phúc trong khổ đau? Hay khổ đau trong hạnh phúc? Con người không phải không luôn luôn tự đặt ra những câu hỏi như vậy. Nhưng kết cục con người vẫn không thoát khỏi nỗi đam mê mà tấm lưới tình yêu đã giăng sẵn để đón chờ họ.   Bông huệ đỏ được viết sau hàng loạt các tác phẩm lừng danh của Anatole France, ghi nhận một bước chuyển khá quan trọng trong sự nghiệp sáng tạo của ông. Nếu như trong các tiểu thuyết Ðảo chim cụt, Thiên thần nổi loạn, Thais, v. v.., nhân vật của ông là những trí thức khép kín, mang nỗi đau khổ âm thầm của thời đại, thì trái lại, trong Bông huệ đỏ, Thérèse, Le Ménil, Decharre… đều bình thường, gần gũi. Có người cho rằng đó là sự phản ánh một phần tâm trạng thực của tác giả qua mối tình “hạnh phúc và đau khổ” của ông với bà Caillavel, người phụ nữ trí thức nổi tiếng thời bấy giờ.   NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ  ***   Anatole France (tên thật là François-Anatole Thibault, 16 tháng 4 năm 1844 – 13 tháng 10 năm 1924) sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học).   Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì “những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực”…   A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire. *** Tác phẩm chính:   - Những câu thơ vàng (Poèmes dorés, 1873), thơ.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, 1881), tiểu thuyết.  - Sách của bạn tôi (Le Livre de mon ami, 1885), hồi ký.  - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, 1894), tiểu thuyết.  - Vườn Epicure (Le jardin d'Epicure, 1894), tập cách ngôn.  - Lịch sử hiện đại (L'histoire contemporaine), gồm 4 tiểu thuyết:   + Cây du trên đường dạo chơi (L'orme du mail, 1897)  + Hình người bằng cây liễu (Le mannquin d'osier, 1897)  + Chiếc nhẫn tử thạch anh (L'anneau d'amethyste, 1899)  + Ông Bergeret ở Paris (Monsieur Bergeret à Paris, 1901)  - Hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, 1912), tiểu thuyết  - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, 1914), tiểu thuyết.    Những tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   - Quyển truyện của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Vũ Thị Hay và Lê Ngọc Trụ dịch, Trung tâm Học liệu xuất bản, 1962, tái bản 1972  - Sách của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Hướng Minh dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, 1988, tái bản 2009.  - Đảo Panhgoanh (L'Île des Pingouins tiểu thuyết), Nguyễn Văn Thường dịch, NXB Văn Học, 1982.  - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, tiểu thuyết), Đoàn Phú Tứ dịch, NXB Văn Học, 1987.  - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, tiểu thuyết), Nguyễn Trọng Định dịch, NXB Phụ Nữ, 1989.  - Các hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, tiểu thuyết), Trần Mai Châu dịch, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1990.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1996.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001.  - Thais- Vũ nữ thoát tục, (Thaïs, tiểu thuyết), Hoàng Minh Thức dịch, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1989.  - Mối tình người thợ gốm, (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, Hà Nội 1987.   Mời các bạn đón đọc Bông Huệ Đỏ của tác giả Anatole France.