Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trại Súc Vật

Đối với một số bạn đọc Việt Nam cái tên George Orwell có lẽ khá xa lạ vì sau 1975 hình như không có cuốn nào của tác giả này được xuất bản, tuy nhiên với một lượng người đọc khác, đây là một cái tên cực kì quen thuộc và nổi tiếng, đặc biệt là với các kiệt tác 1984 hay Trại súc vật,v.v… Ở đây tôi sẽ chỉ nói tới Trại súc vật (Animal Farm). Trại súc vật là một tác phẩm hầu như luôn có tên trong nhiều bảng xếp hạng sách từ các trang uy tín trên thế giới, thật ra đó là một cuốn sách nhỏ, tôi đọc nó chỉ trong vòng vài giờ. Câu chuyện bắt đầu ở Điền Trang của ông Jones, một ngày kia con lợn già mang tên Thủ Lĩnh quyết định kể cho mọi loài vật có mặt trong trang trại về một giấc mơ của nó. Giấc mơ ấy kể về một thế giới không có loài người, nơi đó chỉ có các loài gia súc, gia cầm cùng nhau chăm chỉ làm việc và hưởng thụ thành quả lao động của mình trong một sự bình đẳng tuyệt đối. Sau khi con lợn này chết đi, lũ lợn còn lại (được xem là giống loài thông minh) đã cùng các loài thú khác như ngựa Chiến sĩ, ngựa Bà Mập, con dê Muriel, lũ chó, mèo, … soạn ra cương lĩnh họat động, tiến đến khởi nghĩa “vũ trang”, sử dụng bạo lực cách mạng lật đổ ách thống trị của ông chủ. Thời cơ đến, khởi nghĩa thắng lợi vang dội, ông Jones cùng những người làm công bị đánh đuổi khỏi trang trại. Từ đây, những con vật dưới sự dẫn đường của lũ lợn bắt đầu thời kì tự do với Bảy điều răn được dùng làm cương lĩnh hoạt động : BẢY ĐIỀU RĂN 1. Tất cả các loài hai chân đều là kẻ thù. 2. Tất cả các loài bốn chân hoặc có cánh đều là bạn. 3. Không con vật nào được mặc quần áo. 4. Không con vật nào được ngủ trên giường. 5. Không con vật nào được uống rượu. 6. Loài vật không được giết hại lẫn nhau. 7. Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng. Với một tư tưởng tiến bộ như vậy, Điền Trang được đổi tên thành Trại súc vật (Animal farm), mọi loài vật đều ra sức làm việc gấp bội lần hơn trước vì từ đây là chúng lao động cho bản thân, cho con cái mình chứ không còn vì loài người tham lam, không biết làm chỉ biết hưởng. Nhưng, tất cả không chỉ dừng ở đó. Thời gian qua đi, nhiều, nhiều chuyển biến diễn ra, tưởng như thảy đều hợp lý, đều vì lý tưởng ban đầu, đều vì lợi ích chung của muôn loài. Cho đến khi hết truyện, người đọc cũng như các con vật “thường dân” trong truyện đều không khỏi ngỡ ngàng khi bảy điều răn năm xưa giờ đây chỉ còn một điều duy nhất : “MỌI CON VẬT SINH RA ĐỀU BÌNH ĐẲNG, NHƯNG CÓ MỘT SỐ CON BÌNH ĐẲNG HƠN NHỮNG CON KHÁC.” Đây là một tác phẩm chứa nhiều tầng nghĩa của George Orwell, với lối văn phong tự nhiên giản dị. Chuyện chỉ xảy ra trong phạm vi một trang trại nước Anh với nhân vật là các thứ lợn, bò, ngựa, chim chóc, cừu, dê… thế nhưng tác phẩm lại phản ánh thực tế một cách sâu sắc. Trong suốt câu chuyện, tác giả không lần nào áp đặt suy nghĩ của mình lên người đọc nhưng tự bản thân Trại súc vật, như bất kì tác phẩm văn học xuất sắc nào khác, tự thân nó đã có thể thể hiện rõ thông điệp của mình. Trại súc vật kết thúc với một câu văn rất thú vị : “Chúng (bọn súc vật) nhìn lợn rồi lại nhìn người, nhìn người rồi lại nhìn lợn, một lúc sau thì chúng chịu, không thể phân biệt được đâu là người, đâu là lợn nữa.” Và một chi tiết khác làm nên giá trị của Trại súc vật chính là tính tiên đoán của nó thể hiện sự tinh tường hiếm có của George Orwell đối với đời sống chính trị xã hội. Đọc cuốn sách này tôi có thể tin chắc rằng những người đọc Việt Nam sẽ cảm thấy vô cùng, vô cùng thú vị, cho dù, nó được viết từ năm 1944, cách đây đã hơn 60 năm. Các bạn có thể tin rằng, không phải tự nhiên mà hàng loạt bảng xếp hạng uy tín về sách lại chọn Trại súc vật là một trong những cuốn sách nên đọc của mọi thời đại. *** Hỡi các đồng chí, đoán xem trong tiếng Việt có bao nhiêu bản dịch cuốn “Animal Farm” của George Orwell? Hôm nay nhà Z xin có một bài tổng hợp liệt kê các bản. Những thông tin và ảnh bìa dùng cho bài viết này, được lấy từ sachxua.net, và được các anh VHT, NTT, NH… cho biết thêm. Xin đội ơn các anh. Hôm nay nhà Z mò lên goodreads mới biết hóa ra “Animal Farm” lại hot đến vậy, gần 2 triệu lượt ratings. Từng và luôn được coi là một ví dụ kinh điển cho thứ nghệ thuật phương Tây chống Cộng, George Orwell bị chính thức cấm ở Việt Nam suốt từ 1975 tới tận hiện nay (hẳn nhiên ông cùng nằm trong danh sách đen của chính phủ cùng với Arthur Koestler và Aleksandr Solzhenitsyn cùng nhiều đồng chí khác nữa). Chỉ một lần duy nhất trong suốt bao năm tháng đằng đẵng ấy, Orwell xuất hiện chớp nhoáng với một bản in chính thức hồi 2013. Còn lại toàn bộ thời thanh xuân của chàng ở Việt Nam nằm ở dạng xuất bản ngầm. Và xin trả lời cho câu hỏi trên, có tổng cộng 6 bản dịch “Animal Farm” trong tiếng Việt. Cuộc cách mạng trong trại súc vật Người dịch: không ghi NXB: không ghi Tít phụ của sách: Trích trong truyện Thần-thoại của George Orwell Bản dịch tác phẩm của Orwell đến Việt Nam sớm hơn chúng ta tưởng rất rất nhiều. Khoảng cách giữa năm xuất bản bản gốc tiếng Anh “Animal Farm” vào năm 1945 và bản dịch đầu tiên ở ta là Bản dịch đầu tiên này xuất hiện vô cùng bí hiểm với các thông tin về người dịch và nhà xuất bản đều bị lược bỏ. Nó xuất hiện vào năm nào cũng không ai hay. Nhưng bên trong sách có một lời đề tặng, Xuân Nhâm Thìn 52, vậy chứng tỏ nó đã được dịch và xuất bản trước năm 1952. Chỉ có một thông tin duy nhất về nhà in cuốn sách này: nhà in I.D.E.O: IMPRIMERIE D’EXTREME-ORIENT, 1 Rudyard-Kipling SAIGON. Nhà in Viễn Đông đặt trụ ở đường Nguyễn Siêu Sài Gòn khi đó, có trụ sở chính ở Hà Nội, tọa lạc ngay chính tòa nhà 6 tầng từng là trụ sở của báo Nhân Dân mà nay là Trung tâm văn hóa Pháp L’escape ở Tràng Tiền. Nào, thế ai đã tiến hình dịch và in cuốn sách này? Hẳn nhiên là ai mà biết được, và nếu có thì chỉ là giả thuyết, không thể chứng minh. Tuy nhiên, càng đọc bản dịch “Cuộc cách mạng trong trại súc vật,” càng có cảm giác nó được dịch ra với một mục đích hẳn hòi: tuyên truyền chống phá ???? Phải nói ngay và luôn, đây là một bản dịch tuyệt vời: mình đã đọc tổng cộng 3 bản dịch “Animal Farm” thì đây là bản uyển chuyển, tự nhiên, đâu ra đấy nhất. Dịch giả đã kể lại câu chuyện “thần thoại” của Orwell bằng thứ tiếng Việt giàu có, và rất phù hợp với những năm 1950 của thế kỷ trước, nhưng rất nhiều chi tiết đã bị lược bỏ, nhằm tạo ra hiệu ứng: một câu chuyện thần thoại gắn liền với dân tộc và đất nước Việt Nam. Cụ thể như sau: nếu ai đọc các bản dịch của Phạm Nguyên Trường và An Lý, đều biết câu chuyện này xảy ra ở Nông trang ở nước Anh. Từ tên các địa danh, các nhân vật, các lời kêu gọi, đều là hướng tới “Súc vật Anh” và các chi tiết liên quan tới toàn cõi Anh. Bản dịch đầu tiên đều lần lượt lược bỏ các từ chỉ định ấy, và Việt hóa hoàn toàn các tên riêng sang tiếng Việt, cũng như những thứ cần thiết khác. Chẳng hạn: Thay vì có chủ trại Jones ở Nông trang thì ta có ông chủ Dương Lâm ở trại Mai Nương, thay vì có Thủ Lĩnh hay Trưỡng Lão (Old Major) con lợn già đầu tiên kể về giấc mơ của mình, ta có cụ Mạc Niên, thay vì Tuyết Cầu và Nã Phá Luân (Snowball- Tuyết Tròn và Napoleon) ta có Minh Chư và Xích Chư… Quan trọng hơn, không một chi tiết nào trong bản dịch khiến người đọc có thể thấy được đây là nước Anh mà toàn bộ chỉ là đất nước, là toàn quốc: thay vì vào làng Willingdon, ông chủ đi ra TỈNH LỴ. Không gian địa lý được thay đổi hoàn toàn, câu chuyện thần thuộc ấy xảy ra ở một nông trang được tạo ấn tượng như ở Việt Nam, và các không gian ngoài kia đều được coi là đi ra ngoài tỉnh. Chính vì thế, bài hát đầu tiên các con vật hát không phải là “Cầm thú Anh Quốc” mà là “Súc vật Toàn Quốc”, và lời hiệu triệu các con vật là lời hiệu triệu “Toàn Quốc”, nước Anh trở thành “đất nước chúng ta”. Những chi tiết nhỏ nhặt được thay đổi như vậy, là một cách Việt hóa tương đối quen thuộc, được thực hiện một cách hệ thống trên toàn bản dịch. Thay vì xây cối xay gió, toàn bộ súc vật ở trại xay nhà máy xay lúa chạy bằng sức gió, huân chương trao cho các con vật tên là “Anh hùng súc vật thượng đẳng BỘI TINH”, và cái ngày khởi nghĩa của trại được cho vào luôn Tết Đoan Ngọ, thay vì uýt ki thì các anh lợn uống rượu trắng, và nấu rượu nếp… Ngoài những chỗ thuần Việt về văn hóa khi chuyển dịch như vậy thì bản 1952 là một bản dịch bám sát, và những bài hát của Trại Súc Vật được dịch vô cùng nhịp nhàng bằng thể lục bát trứ danh. Và chính ở bản đầu tiên này, khi đổi tên trại, dịch giả đã chuyển thành “Trại Súc Vật”. Đây cũng chính là bản dịch có những minh họa tuyệt đẹp cho vài phân cảnh quan trọng trong truyện. Nhà Z đoán là đã nhà in đã sử dụng lại bản minh họa của sách nước ngoài, nhưng không biết từ bản nào. Nông trại Súc Vật Người dịch Đỗ Khánh Hoan Xuất bản: 1975 Bản dịch thứ 2 của “Animal Farm” do Đỗ Khánh Hoan dịch, theo như chính dịch giả cho biết thì đã được in 3000 bản hồi đầu 1975, chưa kịp phát hành thì 30-4 xảy ra. Dễ đoán biết số phận của những bản in ấy sau 1975, phần đa đã bị thiêu rụi. Đỗ Khánh Hoan có mang theo bản dịch khi sang nước ngoài và sau đó có tự tổ chức in lại, cụ thể là cuốn bìa màu xanh (hoặc có khi bìa màu tím) ở trên, in ở Canada, NXB Nắng Mới Books hồi 1989. Rất tiếc nhà Z chưa có cơ hội để đọc bản dịch này. Trại Súc Vật Bản dịch thứ 3, do Đỗ Cẩm Sơn chuyển ngữ in ở Mỹ, có bìa con lợn leo thang như trên. Trại Súc Vật Người dịch: Phạm Nguyên Trường, NXB Giấy Vụn. Theo blog của dịch giả Phạm Nguyên Trường thì bản dịch của ông đã được thực hiện lần đầu tháng 12 năm 2003, nhân dịp kỷ niệm 100 năm sinh của Orwell. Rất nhanh chóng, chỉ vài tháng sau, bản dịch được đăng trên talawas làm 5 kỳ vào năm 2004, và được phổ biến rộng rãi tới độc giả Việt Nam nhờ internet. Có thể nói đây là bản dịch tới được tay độc giả ở ta nhiều nhất cho đến thời điểm này. Thay vì dấm dúi chuyền tay nhau bản in lậu samizdat như ở Nga và Đông Âu ngày xưa, độc giả những năm 2000 trở về sau đã có thể thoải mái đọc Orwell và bàn luận. Dịch giả Phạm Nguyên Trường cũng là người đã dịch 1984 (với bút danh Phạm Minh Ngọc) sang tiếng Việt. Hẳn nhiên đây là một bản dịch chất lượng, không cắt xén, đầy đủ và bám sát. Đến năm 2010, NXB ngầm, Giấy Vụn, đã in cuốn “Trại Súc Vật” của Phạm Nguyên Trường, và đến 2016, bản này lại được một NXB ngầm khác là Vô Danh in lại có kèm cả bản gốc tiếng Anh. NXB Vô Danh cũng chính là nơi in lại bản 1984. Chuyện ở Nông Trại Người dịch: An Lý Nhã Nam và NXB Hội Nhà Văn xuất bản. Một bản dịch âm thầm ra đời vào năm 2013 khiến cả đất nước ngỡ ngàng, là bản dịch thứ 5 trong tiếng Việt. Không ai biết từ đâu nhờ ai vào lúc nào một ngày “Câu chuyện nông trang” lừng lững xuất hiện ở quầy sách khắp nơi trong cả nước, và chỉ trong một thời gian ngắn tạo ra một cơn bão (trong tách trà ????), khi đến cả báo quân đội cũng đưa tin về nó. Nhìn lại những ngày tháng ấy nhà Z vẫn còn chút ngỡ ngàng vì không khí sục sôi bạo liệt của đồng bào, và mọi thứ nhanh chóng rơi vào im lặng khi bản in chính thức một lần và mãi mãi ấy ngừng ấn bản. Bản dịch An Lý là một bản dịch tốt, bám sát. Và khi so với bản dịch đầu tiên và bản của Phạm Nguyên Trường, có một đặc điểm rõ ràng dễ nhận thấy, chính là ngôn ngữ ở những thuật ngữ đặc biệt, được điều chỉnh để mang tính ám chỉ rõ rệt hơn cả, những thuật ngữ cực quen thuộc với những người đã sống trong xã hội chủ nghĩa hơn nửa thế kỷ, chứ không phải chỉ vừa mới mấy chục năm như hồi đồng bào đọc bản dịch đầu tiên những năm 1950. Chẳng hạn, ta có thể tìm thấy cụm: độc tài cai trị, có thể tìm thấy từ “Đại hội” để chỉ những buổi họp của các con vật ở trong kho, có thể tìm thấy từ “nghị quyết” để chỉ những quyết định đầu tiên từ ngày khởi nghĩa của toàn trại, những “làm theo năng lực,” “phần tử nguy hiểm gây tác động xấu”, “Cha già”. Đặc biệt bài thơ ca ngợi Nã Phá Luân thì chắc ai cũng thấy là nhại rõ rệt bài Khóc Stalin của Tố Hữu và đặc biệt có âm hưởng giống hệt bài thơ lục bát của bản 1950 đầu tiên. 6. Nhờ comment của bạn Trang Nguyen, bản dịch này tên là “Muông cầm trại”, do Hà Minh Thọ dịch, xuất bản ở Đông Âu Tiệp Khắc từ hồi những năm 1990. Độc giả chắc đã biết đến sự tồn tại của bộ phim hoạt hình “Animal Farm” do chính CIA tài trợ, và nếu đọc sâu hơn nữa, chẳng hạn về sự ra đời của cuốn Bác sĩ Zhivago ở Nga (có cả một cuốn sách về câu chuyện này), nhờ sự tài trợ và xúc tiến của CIA, khi in bản tiếng Nga Bác sĩ Zhivago để tìm mọi cách tuồn vào nước Nga trong thời Chiến tranh lạnh, khi mà cuốn sách bị cấm xuất bản, và thậm chí có cả lời đồn thổi Ủy ban trao đổi Nobel đã trao cho Boris Pasternak dưới sự tác động của CIA, thì việc ra đời của bản dịch “Animal Farm” ở Việt Nam, trở thành cực kỳ hấp dẫn. Dĩ nhiên tất cả chỉ là giả thuyết. Mời các bạn đón đọc Trại Súc Vật của tác giả George Orwell & Phạm Minh Ngọc (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Nửa Đại Đội - Đỗ Kim Cuông
Sở chỉ huy tác chiến của tiểu đoàn đặt trong một vạt mả rộng nằm chếch về phía bắc thôn Văn Xá chừng hai cây số. Có đến hàng chục ngôi mộ to có thành gạch xây bao chung quanh tạo thành một thứ công sự vững chãi, tránh được đạn thẳng và mảnh pháo. Tiểu đội trinh sát chiếm lĩnh từ chập tối. Bây giờ, từng tổ quay trở lại đón các bộ phận vào vị trí. Cách khu mộ chưa đầy hai trăm mét đã là hàng rào ngoài cùng của khu căn cứ quân sự Tứ Hạ. Ở đây có sân bay, có trận địa pháo và khu kho tàng, tiếp vận quân cụ, súng đạn cho các đơn vị tiền phương thuộc vùng I chiến thuật, tuyến phía Bắc sông Bồ kéo dài ra thấu Đông Hà, Quảng Trị. Một tiểu đoàn xe tăng M113 nằm thường trực chi viện cho các đơn vị lính của sư đoàn 1 khi đi càn quét các làng vùng Phong - Quảng Điền. Số lượng trực thăng chiến đấu nằm trong các hầm chứa máy bay và tại đường băng có khi lên tới ba chục chiếc. Trước Mậu Thân 1968, căn cứ Tứ Hạ nhỏ, nó chỉ được phình to mở rộng sau Mậu Thân. Hàng chục ấp chung quanh Tứ Hạ bị quét sạch xuống phía đông đường quốc lộ, để lấy chỗ lập hàng rào, vọng gác phòng thủ. Bảy lớp hàng rào bùng nhùng, hàng rào mái nhà xen kẽ với các bãi mìn gài chết. Tứ Hạ trở thành một căn cứ hỏa lực mạnh: chi viện tích cực cho các trung đoàn, sư đoàn ngụy, Mỹ phối hợp lên càn miền Tây. Pháo Tứ Hạ có thể bắn lên được tới bờ nam sông Bồ. Chưa một lần Tứ Hạ bị trầy vi tróc vảy. Với khả năng tấn công của Việt cộng ở đồng bằng, hai năm trở lại đây theo dõi trực tiếp những trận đánh xảy ra ở các thôn ấp, vùng ven giáp ranh, những tên phái viên trong ban tham mưu tác chiến của Bộ chỉ huy tiền phương ngụy vùng I chiến thuật rút ra kết luận: Việt cộng không đủ sức để chạm vào hàng rào lông nhím Tứ Hạ. *** Nhà văn Đỗ Kim Cuông sinh ngày 25 tháng 4 năm 1951, quê quán phường Hồng Phong, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, ông gia nhập quân đội, tham gia từ cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968, tại chiến trường Trị Thiên Huế với tư cách là một người lính bộ binh, trực tiếp chiến đấu cho đến Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất.  Năm 1976, Đỗ Kim Cuông được trở lại giảng đường Đại học tại Khoa Ngữ văn Viện đại học Huế. Sau khi tốt nghiệp, ông về giảng dạy tại Trường cao đẳng sư phạm Nha Trang - Khánh Hoà. Ông nguyên là Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh Khánh Hoà, kiêm Tổng Biên tập tạp chí Văn Nghệ Nha Trang, đại diện tuần báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) tại Nam Trung Bộ.  Đỗ Kim Cuông đã từng giữ chức Vụ trưởng Vụ Văn hoá văn nghệ Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch thường trực Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (2010 - 2021), sống và làm việc tại Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.  Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1990), Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam.  Tác phẩm đã xuất bản: - Người đàn bà đi trong mưa (tiểu thuyết, 1987); - Một nửa đại đội (tiểu thuyết, 1989); - Hai người còn lại (tiểu thuyết, 1989); - Thung lũng tử thần (tiểu thuyết, 1990); - Miền hoang dã (tiểu thuyết, 1991); - Mảnh sân sau u ám (tiểu thuyết, 1993); - Vùng trời ảo mộng (tiểu thuyết, 1993); - Tự thú của người gác rừng (tập truyện ngắn, 1996); - Đêm ngâu (tập truyện ngắn, 1999); - Cát trắng (tiểu thuyết, 1997); - Người dị hình (tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn, 2000); - Thủ lĩnh vùng sông Tô (tiểu thuyết, NXB Công an Nhân dân, 2001); - Phòng tuyến Sông Bồ (tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn 2009); - Lỗi hẹn với Sê pôn (tiểu thuyết, 2011); - Chớp biển (tập truyện ngắn, 2010); - Lời hẹn với Sê pôn (tập truyện ngắn, 2012); - Gió rừng (tập truyện ngắn, 2012); - Trang trại Hoa Hồng (tiểu thuyết, 2014). Mời các bạn đón đọc Một Nửa Đại Đội của tác giả Đỗ Kim Cuông.
Nước Mắt Đỏ Và Những Truyện Khác - Trần Huy Quang
 Cuốn "Nước Mắt Đỏ Và Những Truyện Khác" của Trần Quang Huy do nhà xuất bản Văn Học phát hành, được in từ nhiều chuyện ngắn hay khác nhau như: nước mắt đỏ, em là hoa thủy tiên... Cuốn sách "Nước Mắt Đỏ Và Những Truyện Khác" giới thiệu những nội dung: Tiểu thuyết: Nước mắt đỏ. Truyện ngắn: Em là hoa thủy tiên. Đạo của tình yêu. Giấc mơ. Cuộc chia ly trong chiến tranh. Giọt mưa trên lá. *** Trần Huy Quang, Sinh ở Nghệ An, nguyên là chiến sỹ pháo binh, , đã tốt nghiệp khoa Sử trường đại học Tổng hợp Hà nội ; anh nổi lên trên văn đàn bằng một loạt bài ký mà tiêu biểu là bài Câu chuyện về ông vua Lốp(I985),tác phẩm này đã đoạt giải nhất cuộc thi của báo Văn Nghê..  Anh đã có những cuốn tiểu thuyết : Ngọn khói (NXB Nghệ Tĩnh) ; Ngày mai (NXB Quân đội nhân dân) ; Nước mắt đỏ (NXB Lao động) ; Mối tình hoang dã (NXB Lao động) và tập truyện ngắn Người làm chứng (NXB Lao động).    Mời các bạn đón đọc Nước Mắt Đỏ Và Những Truyện Khác của tác giả Trần Huy Quang.
Hồn Bướm Mơ Tiên - Nửa Chừng Xuân - Khái Hưng & Nhất Linh
Quyển Hồn bướm mơ tiên là quyển truyện thứ nhất của Tự lực văn đoàn và là quyển truyện thứ nhất của ông Khái Hưng.  Lối viết truyện này có hai đặc sắc, khác với những lối viết truyện xưa nay.  Tác giả không tả cảnh rườm rà, chỉ một vài nét chấm phá thanh đạm như những bức thủy họa của Tàu; cảnh trong truyện nhiễm vẻ nào là tùy theo tâm hồn của người trong truyện; cảnh đối với người có liên lạc nhịp nhàng và linh động.  Tác giả không bàn luận lôi thôi, ông khéo đem một vài nhận xét tinh vi một vài việc xảy ra thích đáng để phô diễn tâm lý những nhân vật trong truyện. Vì hai lẽ đó nên truyện Hồn bướm mơ tiên có vẻ hoạt động, xem ham mê từ đầu tới cuối: độc giả tưởng như được cùng với người trong truyện cùng sống quãng đời diễn ra trong truyện.  Hồn bướm mơ tiên là một truyện tình dưới bóng Từ bi, một truyện tình cao thượng và trong sạch của đôi thanh niên yêu nhau, "yêu nhau trong linh hồn, trong lý tưởng" như lời tác giả nói. Tác giả đặt câu chuyện vào trong một cảnh chùa ở miền trung du Bắc Việt và khéo phô diễn những vẻ đẹp thiên nhiên của miền ấy khiến ta đem lòng yêu những cảnh đồi núi non khác hẳn cái cảnh "bùn lầy nước đọng" miền hạ du phẳng lỳ và buồn tẻ. Lại thêm được lối văn giản dị, nhanh nhẹn, tuy vui vẻ mà làm cho người ta cảm động vô ngần. Cái cảm ấy là một cái cảm nhẹ nhàng, phảng phất vui buồn tựa như những ngày thu nắng nhạt điểm mưa thưa. *** Hồn bướm mơ tiên – Nửa chừng xuân hai cuốn tiểu thuyết của Khái Hưng với hai truyện tình. Một truyện tình được miêu tả trong sự đối lập giữa tình yêu tự do và khoái cảm hạnh phúc đời thường với sự gò bó và hà khắc giáo lý tôn giáo. Một truyện tình có sự xung đột giữa cái cũ và cái mới và nhân vật chính trong truyện là nạn nhân của sự xung đột này. Tuy nhiên họ đã tìm ra lối thoát nhờ đủ nghị lực hướng tới xây dựng tương lai và “vì người khác mà hi sinh ái tình cùng hạnh phúc”  Hồn bướm mơ tiên - Câu chuyện giản dị, không có gì ly kỳ gay cấn. Tác giả củng không diễn tả, phân tích tình yêu phức tạp, éo le như ta thường thấy trong các tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn và các tiểu thuyết đương thời. Cả cái mô-tip: xung đột ái tình - tôn giáo cũng không được khai thác triệt để nhằm thu hút hứng thú của độc giả. Đọc tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên, ta cảm nhận rõ ràng Khái Hưng mượn câu chuyện để nói về đạo Phật, để trình bày cái nhìn của ông đối với đạo Phật.  Nửa chừng xuân -  Với một kết thúc lý. Ở đó, tình yêu được thăng hoa, nhân vật chính biến thành thánh thiện. Khái Hưng đã dùng những chi tiết hy sinh, thủ tiết, nhan sắc lộng lẫy… để mô tả Mai. Mai là phụ nữ hiếm có trong buổi giao thời, giàu tấm lòng vị tha, với khuôn mẫu đủ cả công, dung, ngôn, hạnh, với nghị lực chấp nhận khó khăn và vượt trở lực trên đường đời. Cả đời nàng chỉ biết thờ hai chữ hy sinh, hy sinh cho em, cho con và cho cả mối tình đầu trước mọi cám dỗ và thử thách mặc dù hạnh phúc lứa đôi đã chấm dứt ở tuổi nửa chừng xuân.  Giới thiệu hai tiểu thuyết của tác giả Khái Hưng, Trí Việt Books mang đến cho độc giả một cuốn sách đầy thi vị ngọt ngào, dễ đọc, dễ thấm, dễ hiểu cùng khung bìa bắt mắt. *** *** Khái Hưng (1896 - 1947) là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng. Cùng với Nhất Linh, ông là cây bút chính của Tự Lực Văn Đoàn. Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư. Bút danh Khái Hưng của ông được ghép từ các chữ cái của tên Khánh Giư. Ông sinh năm 1896, xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. Một số tài liệu ghi ông sinh năm 1897.[1]. Cha ông giữ chức Tuần phủ. Cha vợ ông là Lê Văn Đinh cũng giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh. Em ruột ông là nhà văn Trần Tiêu. Khái Hưng đi học ở trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, vì không muốn làm công chức, ông về Ninh Giang mở đại lý bán dầu hỏa. Được một thời gian Khái Hưng lên Hà Nội dạy ở trường Tư thục Thăng Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932, Nhất Linh từ Pháp về nước và cũng dạy tại trường này. Khái Hưng đã quen Nhất Linh ở đó và họ trở thành một cặp tác giả nổi tiếng. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là người bước vào văn đàn sau nên được gọi Nhị Linh. Khái Hưng tham gia Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh thành lập. Văn đoàn này bắt đầu xuất hiện công khai từ 1932, và đến đầu năm 1933 thì tuyên bố chính thức thành lập với ba thành viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo. Tác phẩm Tiểu thuyết: Hồn bướm mơ tiên (1933) Đời mưa gió (cùng Nhất Linh, 1933) Nửa chừng xuân (1934) Gánh hàng hoa (cùng Nhất Linh, 1934) Trống mái (1936) Gia đình (1936) Tiêu Sơn tráng sĩ (1937) Thoát ly (1938) Hạnh (1938) Đẹp (1940) Thanh Đức (1942) Băn khoăn Tập truyện ngắn: Anh phải sống (cùng Nhất Linh, 1934) Tiếng suối reo (1935) Đợi chờ (1940) Cái ve (1944) Mời các bạn đón đọc Hồn Bướm Mơ Tiên - Nửa Chừng Xuân của tác giả Khái Hưng
Gia Đình Má Bảy - Phan Tứ
Trong Gia Đình Má Bảy, cốt chuyện rộng rãi, tác giả đặt những vấn đề lớn, ví dụ như vấn đề công bằng xã hội trong lịch sử dân tộc: “Bởi sống nửa đời trong bung lầy như bị vùi đến nửa thân, má hiểu lắm  cái phận tá điền sinh ra để cày ruộng người, kiếp trước truyền cho kiếp sau chỉ một túp lều rách. Người xưa đã dẹp hết các thứ giặc từ ngoài đến mà không trị nổi bọn giặc trong làng. Con trâu đủ sức giết cọp mà không tự tháo gỡ được con đỉa hút máu ở cổ, đành chịu vậy đến khi ngã quỵ” Những trang cảm động nhất của Gia Đình Má Bảy có thể là những trang đẹp nhất trong văn nghệ Miền Nam, là những trang mô tả những hy sinh thầm lặng của người phụ nữ Miền Nam trong hai cuộc kháng chiến. *** Phan Tứ tên thật là Lê Khâm, ông sinh ngày 20-12-1930 tại thị xã Quy Nhơn; nguyên quán xã Quế Châu, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình trí thức yêu nước. Phan Tứ tham gia cách mạng từ năm mười lăm tuổi, làm liên lạc chuyển tài liệu, báo chí bí mật. Năm 1950, ông nhập ngũ tại Hà Tĩnh, tốt nghiệp Trường Lục quân ở Thanh Hóa rồi sang Lào chiến đấu trong quân tình nguyện Việt Nam. Năm 1954, Phan Tứ tập kết ra Bắc rồi theo học khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1958, ông cho xuất bản tiểu thuyết Bên kia biên giới. Năm 1960, ông cho xuất bản tập truyện ngắn Trở về Hà Nội và tiểu thuyết Trước giờ nổ súng. Năm 1961, ông trở về công tác tại chiến trường miền Nam, làm phái viên ban Tuyên huấn Khu ủy Liên khu V, lấy bút danh là Phan Tứ. Năm 1966, Phan Tứ trở ra Bắc, công tác tại Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, làm quyền Tổng biên tập Nhà xuất bản Giải phóng. Năm 1968, ông xuất bản tiểu thuyết Gia đình má Bảy, tập truyện ngắn Trong đám nứa. Năm 1970 ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ ủy viên Ban chấp hành, ủy viên Ban thư ký của Hội và lần lượt cho xuất bản: bút ký Măng mọc trong lửa; tiểu thuyết Mẫn và tôi năm 1972, tiểu thuyết Trại S.T.18 vào năm 1974. Năm 1975, Phan Tứ được nhận Giải thưởng ba mươi năm (1945-1975) của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Sau kháng chiến chống Mỹ, Phan Tứ giữ chức vụ Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, rồi Đại biểu Quốc hội khóa VIII, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba. Thời gian này ông cho xuất bản hồi ký Trong mưa núi và ba tập tiểu thuyết Người cùng quê (1985). Ông mất ngày 17 tháng 4 năm 1995 do hậu quả chất độc màu da cam. Năm 1995, Phan Tứ được nhận Giải thưởng Văn học loại A mười năm (1985-1995) của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Ông còn được nhận Giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu. Năm 2000, Phan Tứ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật cho các tác phẩm: Trước giờ nổ súng, Gia đình má Bảy, Mẫn và tôi, Về làng. Năm 2002, Toàn tập Phan Tứ (4 tập) được Nhà xuất bản Văn học xuất bản. Mời các bạn đón đọc Gia Đình Má Bảy của tác giả Phan Tứ.