Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cậu Con Trai Phố Pál

Trong cuộc đời, ai cũng có cho mình một mảnh đất thiêng liêng. Và những cậu con trai phố Pál cũng thế, các cậu có một mảnh đất dịu hiền mang tên Khu đất trống. Nơi ấy trong con mắt người lớn chỉ là miếng đất khô cằn, gồ ghề nằm trong thủ đô, bị thu hẹp bởi hai ngôi nhà cao lớn, nhưng với các cậu đó là “một vùng vô tận, là niềm tự do mà buổi sáng là đồng cỏ châu Mỹ, buổi chiều là bình nguyên Hung trong mưa, là biển mùa đông, là cực Bắc”. Ở nơi đó có trò bắn bi, chơi bóng, đánh trận giả; có pháo đài, hào lũy; có chủ tịch, đại tướng, thượng úy và độc nhất một “chú lính trơn”. Trong cái thế giới mà trẻ thơ nấn ná trên ngưỡng cửa trở thành người lớn ấy, các cậu con trai phố Pál đã chiến đấu với tất cả trí thông minh, lòng dũng cảm, vị tha và ngay thẳng để bảo vệ Khu đất trống khỏi bị xâm chiếm; biến trò chơi con trẻ thành bài học để trưởng thành. Với nội dung trong sáng, dung dị nhưng giàu ý nghĩa và tính hiện thực, Những cậu con trai phố Pál, tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn Hungary Molnár Ferenc, đã được đón nhận nồng nhiệt tại quê nhà. Tác phẩm được chuyển thể nhiều lần lên sân khấu kịch, màn ảnh nhỏ và màn ảnh rộng; được đưa vào chương trình học phổ thông và trở thành tựa sách thiếu nhi kinh điển ở nhiều nước như Nhật Bản, Italy, Israel... Tại Việt Nam, Những cậu con trai phố Pál được xuất bản lần đầu năm 1984, qua bản dịch trong sáng và trìu mến của dịch giả Vũ Ngọc Cân – người mang nặng tình cảm với đất nước Hungary. Sau gần bốn thập kỷ, nay một lần nữa Đông A đưa tác phẩm này trở lại với những độc giả đang và đã từng là trẻ thơ, bằng bản dịch đã gắn liền với các thế hệ và nhiều minh họa đẹp, gần gũi với thiếu nhi. Thông tin tác giả:  Molnár Ferenc là một nhà báo, nhà văn, nhà viết kịch Hungary gốc Do Thái – Đức. Từ khi còn trẻ, ông đã viết cho nhiều tờ báo danh tiếng rồi tiếp tục dấn thân làm phóng viên chiến trường trong Thế chiến I. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, sâu sắc kèm chút châm biếm, ông nhanh chóng chinh phục được độc giả, không những vậy, ông còn thể hiện sự đa tài ở nhiều lĩnh vực như kịch nghệ, văn chương. Vào cuối những năm 1930, chạy trốn khỏi sự hằn thù Do Thái của phát xít Đức, ông sang Pháp, Thụy Sỹ rồi định cư tại Mỹ. Trong hơn nửa thế kỷ sáng tác, mặc dù không chỉ một lần đối mặt với trầm cảm, ông vẫn miệt mài lao động nghệ thuật, gửi gắm sự thấu cảm sâu sắc nơi ngòi bút. Các tác phẩm của ông được yêu thích tại nhiều nước trên thế giới, trong đó nổi bật nhất là tiểu thuyết Những cậu con trai phố Pál (A Pál utcai fiúk, 1907), vở kịch Chàng Liliom (Liliom, 1909) và truyện ngắn Những kẻ ăn cắp than (Széntolvajok, 1918). Năm 1952, ông từ giã cõi đời vì căn bệnh ung thư. Thông tin dịch giả:  PGS.TS Vũ Ngọc Cân sinh tại Hà Nam, bút danh Vũ Thanh Xuân. Năm 1973, ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Eötvös Loránd (Hungary) ngành Ngữ văn Hung – Pháp, rồi trở thành giảng viên tiếng Hung, ngôn ngữ học, Việt ngữ học và lịch sử văn minh thế giới tại Đại học Ngoại ngữ (nay là Đại học Hà Nội). Từ đó, ông gắn bó với nghề giáo ở cả Việt Nam lẫn Hungary. Song song đó, ông còn là một dịch giả thành công trong việc chuyển ngữ nhiều tác phẩm tiếng Hung sang tiếng Việt và ngược lại. Các dịch phẩm tiêu biểu của ông như: Những cậu con trai phố Pál (1984, 2010), Cái chết của ông bác sỹ (1987), Dạ, thưa thầy (2010), Ba nhà thơ vĩ đại của Hungary (2010), 65 bài thơ tuyển đại thi hào Hungary Arany János (2017)… *** Sự trở lại của 'Những cậu con trai phố Pál' Không chỉ là cuốn sách dành cho trẻ em trai, tác phẩm còn là ký ức của những người đàn ông thực thụ. Là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng ở Hungary, cũng như toàn thế giới, Những cậu con trai phố Pál của Molnar Ferenc được xuất bản lần đầu năm 1907. Tác phẩm này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, trở thành sách giáo khoa của Hungary, đồng thời được chuyển thể thành phim và kịch nhiều lần ở nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, cuốn sách được ra mắt lần đầu tiên năm 1984, do PGS.TS Vũ Ngọc Cân (Vũ Thanh Xuân) chuyển ngữ. Năm nay, nó được Đông A cùng NXB Dân Trí tái bản với bìa cứng, tranh minh họa màu sinh động, mang tính mỹ thuật cao. Nội dung hấp dẫn và phi thời đại Cuốn truyện kể về cuộc chiến kịch tích giữa hai nhóm nam sinh thủ đô Budapest, Hungary: Phe phố Pál và phe Áo đỏ tranh giành chỗ chơi bóng ở một nơi gọi là "Khu đất trống giữa lòng thủ đô". Khu đất trống trong con mắt người lớn chỉ là miếng đất hoang ngổn ngang phế liệu. Nhưng trong mắt các cậu bé, đó là “một vùng vô tận, niềm tự do mà buổi sáng là đồng cỏ châu Mỹ, buổi chiều là bình nguyên Hung trong mưa, là biển mùa đông, là cực Bắc” với đầy đủ thế giới các trò chơi bi bóng, trận giả; đại úy và lính trơn; pháo đài, bom cát và hào lũy như Chiến tranh thế giới thứ nhất. Và như chiến tranh thực sự, nhiều tổn thương và mất mát xảy ra để bảo vệ cho điều mình yêu thương và tin tưởng. Trò chơi con trẻ đã thành bài học để trưởng thành. Nhóm trẻ phố Pál được ẩn dụ với màu sắc quốc gia của Hungary (lá cờ riêng màu đỏ, trắng, xanh lá cây) do Boka làm thủ lĩnh, đã tổ chức một “trận chiến” quy mô trên khu đất trước những kẻ xâm lăng Áo đỏ (vì chúng thần tượng Garibaldi - anh hùng dân tộc Italy) đứng đầu là Áts Feri. Cuốn sách được viết vào năm 1907, cách đây hơn một thế kỷ, nhưng vẫn luôn có giá trị phi thời gian, mặc dù Nemecseck về nhà bằng chiếc xe ngựa chạy quanh Budapest thay vì xe bus, hay những lọ mực kiểu cũ luôn bị đổ trong túi Boka. Hai nhóm nam sinh khi tuyên bố tiến hành "chiến tranh" đã sử dụng tất cả thuật ngữ của chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa dân tộc đầu thế kỷ 20. Cuốn sách cũng được xuất bản ngay trước khi Đảng Quốc xã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử ở Đức. Tuy nhiên, đây là một cuốn sách có giá trị phi thời đại. Dàn nhân vật nam đặc sắc Những cậu con trai phố Pál sở hữu một dàn nhân vật tuyệt vời, những cá tính đa dạng và phức tạp một cách đáng ngạc nhiên đối với cuốn sách cho trẻ em. Được coi là băng đảng “phản diện”, Áts Feri và chiến hữu của cậu ta không bị “xấu xa hóa”, họ đủ đàng hoàng. Cũng như các chàng trai phố Pal của chúng ta còn lâu mới được coi là hoàn hảo. Boka - chủ tịch khu đất trống - dũng cảm, sáng suốt, trung thực, đúng đắn, biết cách đưa ra quyết định, đúng mẫu “con đực đầu đàn”. Các cậu trai khác nhìn thấy ở Boka một hình mẫu đàn ông để noi theo. Nemecsek bé nhỏ, cậu lính trơn duy nhất của khu đất, lại là một định nghĩa khác của người đàn ông đích thực, tuy vụng về yếu ớt, thường bị bạn bè coi thường nhưng lại là người can đảm, hy sinh bản thân vì đồng đội, vì những giá trị thiêng liêng mà cậu coi trọng. Phía bên kia chiến tuyến, thủ lĩnh phe Áo đỏ Áts Feri cũng có nét tương đồng với Boka, mạnh mẽ, táo bạo, lại rất hào hoa đẹp trai. Hoàn toàn không phải là “phản diện” kinh điển, Feri tôn trọng kẻ thù, đánh giá cao sự dũng cảm của Nemecsek. Và sau đó là Gereb - một cậu bé phố Pál đầy tham vọng, đố kỵ với Boka, trở thành kẻ phản bội khi về phe Áo đỏ. Nhưng rồi cậu đã nhận ra sai lầm, cư xử tuyệt vời trong trận chiến, giành lại được tình bạn với Boka. Các nhân vật đều có đầy đủ tính khí trẻ con, nhưng đều sở hữu một loạt giá trị: Cao thượng, dũng cảm, ngay thẳng, tự trọng. Tất nhiên, có những nhân vật tiêu cực, nhưng họ cũng vẫn có phẩm giá và danh dự. Cũng có thể đó chính là điều tác giả muốn nói rằng, ở trẻ em, chúng ta có thể tìm thấy những phẩm chất mà chính chúng ta đã đánh mất khi lớn lên. Nỗi buồn làm nên sự trưởng thành trong cuộc sống Nếu là người lớn, việc đọc cuốn sách này có thể gợi những liên tưởng sâu xa hơn. Với bối cảnh vào đầu những năm 1900, khi châu Âu bị giằng xé và chia cắt bởi nhiều cường quốc, chúng ta có thể thấy sự tương đồng giữa việc bảo vệ sân chơi của trẻ em với việc bảo vệ tổ quốc của một dân tộc. Những ẩn dụ ấy thể hiện qua sự tổ chức quân đội quy củ của lũ trẻ, chủ nghĩa anh hùng và việc lên án hành động “phản quốc” của Gereb. Thông qua đó, người đọc mọi lứa tuổi sẽ có thể cảm nhận được một câu chuyện xúc động về tình chiến hữu và lòng trung thành, nỗi khát khao và trách nhiệm chiến đấu vì một mảnh đất nhỏ bé nhưng tự do - những giá trị rất cần đến tận ngày nay. Câu chuyện phố Pál cũng có thể được đọc như một sự tiếc thương cho chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu đầu thế kỷ 20 trước thềm Thế chiến thứ nhất, khi các chàng trai nhỏ đưa ra nhiều tuyên ngôn mang tính dân tộc, quyết liệt bảo vệ “quê hương” trước kẻ thù. Cuối cùng, “quê hương” của các chàng trai đã biến thành khu nhà cao tầng trong quá trình đô thị hóa, bất kể những hy sinh đã được thực hiện để cứu mảnh đất nhỏ bé. Một kết thúc nhiều đắng cay và đầy trăn trở nghẹn ngào. Cũng có một số ý kiến của các bậc cha mẹ cho rằng không thấy bóng dáng phụ huynh trong khi hai lũ trẻ đánh nhau kịch liệt, trong khi đáng lẽ chúng cần phải có sự trợ giúp của người lớn để tránh khi mọi việc vượt quá tầm kiểm soát. Boka đã rất tuyệt vọng, không chỉ vì những điều đã xảy ra với Nemecsek, mà còn vì ngay sau chiến thắng cậu phát hiện ra những điều mà những người trưởng thành đã làm ở khu đất trống thiêng liêng của lũ trẻ các cậu. Cậu hiểu rằng trận chiến của họ cuối cùng đã thành vô ích. Niềm an ủi duy nhất của Boka là biết rằng ít nhất Nemecsek sẽ không bao giờ phải biết tới điều đó. Ngoài đời, tác giả Molnár Ferenc từng là người ủng hộ Đế chế Áo - Hung với tư cách phóng viên chiến trường trong Thế chiến thứ nhất. Tuy nhiên, ông đã phải rời xa Budapest thân yêu, di cư đến Mỹ để thoát khỏi sự đàn áp người Do Thái Hungary trong Thế chiến thứ hai, rồi qua đời trong bệnh tật và trầm cảm. Tuy nhiên, ở Budapest, bức tượng tái hiện cảnh lũ trẻ phố Pál chơi đùa vẫn còn đó để tôn vinh một tác phẩm yêu thích của nhiều thế hệ, một niềm tự hào của nền văn học Hungary. *** Lời giới thiệu Molnár Ferenc sinh ngày 12 tháng 1 năm 1878 tại Budapest, trong một gia đình tư sản gốc Do Thái - Đức nhưng đã nhiều đời sống ở Hungary. Bố là bác sỹ Neumann Mór (1848 - 1907) làm việc tại một nhà máy lớn ở thủ đô. Thuở thiếu thời ông đã bộc lộ năng khiếu đặc biệt về văn học và báo chí. Cuối thời trung học ông đã tham gia viết báo và đổi họ cũ Neumann thành họ hoàn toàn như người Hung là Molnár. Năm 1896, sau khi tốt nghiệp trung học, do áp lực của gia đình ông theo học khoa luật của một trường đại học ở Genève, Thụy Sỹ. Được một năm thì ông bỏ về Tổ quốc học tiếp ở thủ đô Budapest. Tuy nhiên giữa chừng ông đi làm phóng viên cho tờ Nhật ký Budapest và nhiều tờ báo danh tiếng khác ở thủ đô. Nhà báo trẻ Molnár Ferenc nhanh chóng nổi tiếng với phong cách nhẹ nhàng, tài quan sát sắc sảo và giọng điệu khôi hài, châm biếm. Trong Thế chiến I (1914 - 1918) ông làm phóng viên mặt trận, tham gia viết bài từ chiến trường Galicia ở Tây Ban Nha. Những năm sau đó ông trở về nước và tiếp tục sáng tác. Năm 1922, ông lấy vợ lần thứ hai, nhưng cũng giống như cuộc hôn nhân lần thứ nhất vào năm 1906, họ mau chóng ly hôn. Những sáng tác của ông thời gian này tập trung vào thể loại kịch nhiều hơn. Năm 1937, ông đã cùng người vợ thứ ba chạy trốn khỏi sự hằn thù Do Thái của chủ nghĩa phát xít Đức, đầu tiên sang Pháp, rồi Thụy Sỹ, sau đó hai năm thì tìm cách sang New York (Mỹ) định cư và cũng qua đời tại đây vào năm 1952. Những tác phẩm văn xuôi đầu tiên mà Molnár Ferenc công bố là tập truyện ngắn Magdolna và những chuyện khác (1898) và Đêm của những cái hôn (1899), sau đó ông bắt đầu viết cả tiểu thuyết và kịch. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên ông cho in vào năm 1901 là Thành phố đói phơi bày những mâu thuẫn của thế giới tư sản bằng một giọng điệu trào phúng sâu cay. Năm sau, vở hài kịch Ngài đốc tờ nội dung đề cập đến mối quan hệ làm ăn phi pháp lố bịch giữa một luật sư với một băng đảng trộm cắp được đưa lên sân khấu biểu diễn, được hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đó ông liên tục - kể cả thời gian sinh sống ở Mỹ - cho ra mắt các tác phẩm xuất sắc của mình. Trong hơn nửa thế kỷ hoạt động văn học, ông đã cho in 13 tập truyện ngắn, 10 tiểu thuyết, 23 vở kịch và hàng trăm bài báo. Với nhiều tác phẩm được dịch ra các thứ tiếng nước ngoài, nhiều vở kịch hiện nay vẫn được công diễn ở nhiều quốc gia, ông đã trở thành một trong số các nhà văn Hungary nổi tiếng nhất cả trong nước lẫn trên thế giới. Ở các lĩnh vực văn xuôi khác nhau ông đều để lại những tác phẩm kiệt xuất như vở kịch Chàng Liliom(1909), truyện ngắn Những kẻ ăn cắp than (1918) và đặc biệt là tiểu thuyết Những cậu con trai phố Pál (1907) - một tác phẩm nằm trong chương trình học phổ thông của Hungary, một số nước Đông Âu và cả ở Nhật Bản. Ban đầu Molnár viết tác phẩm này theo yêu cầu của tờ tạp chí Báo Học trò, do thầy giáo ông là Rupp Kornél (1865-1900) sáng lập từ năm 1894. Năm 1905, ông bắt đầu cho đăng từng kỳ ở tạp chí này. Hằng ngày ông ngồi ở một góc quán cà phê gần nhà viết các chương tiếp theo và đăng đều đặn cho đến hết vào năm 1906. Năm sau, tác phẩm được in thành sách, rồi đến đầu những năm 1910 thì được dịch sang tiếng Anh, Đức, và từ đó đến nay sang rất nhiều thứ tiếng khác trên thế giới. Còn ở trong nước cho đến nay tác phẩm đã được tái bản gần 50 lần. Những cậu con trai phố Pál phản ánh cuộc sống của thiếu niên Hungary những năm 90 của thế kỷ 19. Truyện kể về hai nhóm trẻ sống ở Budapest, học ở hai trường khác nhau: bọn con trai do Áts Feri cầm đầu thì chiếm giữ Vườn cỏ, còn những cậu con trai phố Pál do Boka làm chủ tướng thì đóng đô ở Khu đất trống. Bọn Áts Feri rắp tâm đánh chiếm Khu đất trống để làm sân đá bóng. Những cậu con trai phố Pál thì dũng cảm chiến đấu bảo vệ Khu đất trống không khác gì bảo vệ Tổ quốc của mình. Thông qua cuộc chiến đó, tác phẩm đã phản ánh toàn bộ thế giới trẻ thơ, nói chính xác hơn là thế giới của tuổi dậy thì như ước muốn tự do, sự anh dũng quả cảm, lòng trung thành, sẵn sàng hy sinh… Bên cạnh những phẩm chất tốt đẹp đó, tác giả cũng khéo léo đề cập đến những cái xấu xa của con người như là sự phản bội, sự ghen ghét đố kỵ, tính ăn cắp, thói quan liêu cứng nhắc… Nói cách khác, Những cậu con trai phố Pál là cuốn sách có giá trị giáo dục nhẹ nhàng mà sâu sắc cho trẻ em, và đọng lại nhiều dư vị cho người lớn. Một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn, chân thật cho tác phẩm chính là bối cảnh, nhân vật được rút tỉa từ chính ký ức và đời sống của tác giả. Thế giới trong truyện là có thực. Đó là vùng phụ cận với nhà số 83 đại lộ József nơi nhà văn ở. Ba địa điểm xuyên suốt câu chuyện là trường học Lónyay, Vườn cỏ và đặc biệt là Khu đất trống. Ngày nay, Vườn cỏ vẫn còn giữ lại một phần của Khu Nhà thương trên đường Üllői; còn tòa nhà 3 tầng, mà cái nền của nó là Khu đất trống, vẫn nằm ở góc phố Mária và phố Pál. Phố Rákos thì không còn, nhưng ngôi nhà của gia đình Nemecsek trên đó thì có thể ở gần Viện bảo tàng Mỹ thuật Công nghiệp bây giờ. Các nhân vật trong truyện cũng là những con người có thật: đó là những bạn học, những thầy giáo của Molnár ở trường Trung học Cải lương Lónyay. Có thể nói, Những cậu con trai phố Pál không chỉ là một trong những cuốn sách hay nhất của nền văn học thiếu nhi Hungary mà còn của cả thế giới. Đây là một tác phẩm khó quên nếu không muốn nói là không thể quên với những ai đã từng đọc một lần. Sau khi đọc xong dòng cuối, từ từ gấp cuốn sách lại, độc giả không thể không dành tiếp thời gian luyến tiếc, khâm phục và bùi ngùi nhớ đến các nhân vật trong truyện. Khương Đình, đầu xuân năm Canh Tý 2020 PGS. TS. VŨ NGỌC CÂN Mời các bạn đón đọc Những Cậu Con Trai Phố Pál của tác giả Molnár Ferenc & Vũ Ngọc Cân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nếu Em Thấy Anh Bây Giờ - Cecelia Ahern
Những người như anh được gọi là người bạn tưởng tượng, người  bạn vô hình. Nhưng gọi như thế nào và tin hay không, điều đó không quan trọng. Thế giới Tỉn Phai của anh tồn tại không phải để người ta nói đến hay tán tụng, mà để đáp ứng nhu cầu của những ai cần đến nó. Và anh sẽ trở thành người thay đổi cuộc đời em… chỉ cần em nhìn thấy anh… Thế giới của em là những mảnh ước mơ tan vỡ. Em đã tự đóng cửa trái tim, tự giết chết những mơ mộng và chôn vùi hy vọng của chính mình. Tất cả những gì em có, lẽ ra chỉ là những vết thương mãi mãi không thể lành… nếu em không nhìn thấy anh… Gặp em, quen biết em, và hơn hết là yêu em… Nhìn thấy anh, tin anh, và hơn hết là yêu anh… Đó chính là bầu trời sau cơn mưa tươi sáng nhất… *** - “Độc đáo và quyến rũ trong sự hoà trộn ấn tượng giữa Harry Potter và những cuốn sách dành cho thiếu nữ” - Library Journal - “… Trong sáng, ấm áp và sâu sắc, cuốn tiểu thuyết thứ ba của Cecelia Ahern tràn ngập yêu thương, lãng mạn và sự diệu kỳ. Nếu em thấy anh bây giờ hiện đang được hãng Disney dựng thành him. Ahern cũng là người được Glamour, tờ báo hàng đầu tại Anh, trao tặng danh hiệu” – Nhà văn nữ của năm 2008 - “Ahern đang trong hành trình chinh phục các độc giả trung thành của Marian Keyes và Jane Green” – Library Journal - “Ahern đã xoa dịu những trái tìm tan vỡ bằng niềm hy vọng và sự hài hước trong câu chuyện xúc động và cuốn hút này” – Publishers Weekly - “Câu chuyện hấp dẫn và ấm áp về tình yêu và tình bạn” – Company *** Cecelia Ahern, sinh ngày 30-9-1981, là con gái của cựu Thủ tướng Bertie Ahern Ireland, bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2004. Ngoài ra, cô còn có nhiều truyện ngắn in trong các tuyển tập, mà tất cả nhuận bút đều được dành để làm từ thiện. Năm 2000, cô từng tham gia một ban nhạc về thứ ba trong cuộc thi nhạc pop toàn quốc để chọn ứng viên tham dự cuộc thi Eurovision Song. Trước khi bắt đầu viết văn, cô đã tốt nghiệp đại học ngành báo chí và truyền thông đại chúng. Năm 2002, Cecelia Ahern viết tiểu thuyết đầu tay, PS, I Love You, được xuất bản năm 2004, và sau đó trở thành sách bán chạy số 1 ở Ireland, Vương quốc Anh, Mỹ, Đức và Hà Lan. Nó cũng được bán ở hơn 40 nước khác. Cuốn sách cũng đã được chuyển thể thành phim và ra rạp năm 2007. Tiểu thuyết thứ hai của cô, Where Rainbows End (Nơi cuối cầu vồng), cũng là sách bán chạy số 1 ở Ireland và Vương quốc Anh, và giành giải CORINE của Đức năm 2005. Tiểu thuyết mới nhất của cô là 'The Gift' và đã được xuất bản cuối năm 2008. *** Tôi trở thành bạn thân của Luke vào một sáng thứ Sáu của tháng Sáu. Chính xác là chín giờ mười lăm phút sáng, và tôi biết đích xác thời gian là vì lúc ấy tôi nhìn đồng hồ. Chẳng hiểu vì sao tôi làm thế, vì tôi không cần phải có mặt ở bất kỳ nơi đâu vào bất kỳ thời điểm cụ thể nào. Song tôi tin điều gì cũng có lý do của nó, có lẽ vì vậy nên khi đó tôi xem đồng hồ chỉ là để sau này có thể kể lại cho các bạn nghe câu chuyện của mình một cách chính xác. Chẳng phải khi kể chuyện thì các chi tiết là rất quan trọng đó sao? Tôi mừng là đã gặp Luke sáng hôm đó vì tôi hơi buồn khi phải chia tay cậu bạn thân cũ, Barry. Cậu ấy không thể nhìn thấy tôi nữa. Nhưng điều đó phỏng có quan trọng gì, cái chính là giờ đây cậu ta thấy vui hơn, tôi cho đấy mới là điều quan trọng. Chia tay bạn thân là một phần công việc của tôi. Điều đó chẳng vui vẻ gì cho cam, nhưng tôi tin mọi thứ đều có mặt tích cực của nó, vì vậy tôi đã nhìn sự việc này theo chiều hướng là nếu mình không rời xa những người bạn thân, thì làm sao có những người bạn mới được. Mà kết bạn lại là phần công việc tôi thích nhất. Có lẽ đó là lý do tôi được đề nghị nhận công việc này. Chúng ta sẽ hiểu về công việc của tôi ngay thôi, nhưng trước hết tôi muốn kể cho các bạn nghe về buổi sáng đầu tiên tôi gặp cậu bạn thân Luke của mình. Tôi khép cánh cổng dẫn vào vườn trước nhà Barry và bước đi, rồi hoàn toàn chẳng vì lý do gì cả, tôi rẽ trái ở khúc ngoặt đầu tiên, rồi rẽ phải, rồi lại trái, đi thẳng một đoạn, lại rẽ phải và dừng lại bên cạnh một khu dân cư mang tên Fuchsia Lane(1). Hẳn cái tên đó bắt nguồn từ những cây hoa vân anh mọc khắp nơi này. Ở đây chúng mọc hoang dại. Xin lỗi, khi nói “đây” thì có nghĩa là tôi ám chỉ một thị trấn mang tên Baile na gCroíthe thuộc hạt Kerry. Nó nằm ở Ailen. Baile na gCroíthe từng được dịch ra tiếng Anh là Hartstown, tuy nhiên nếu dịch trực tiếp từ tiếng Ailen thì nó có nghĩa là Thị trấn của Trái tim. Theo tôi thì cái tên này nghe hay hơn. Tôi thấy mừng được trở lại đây; khi mới vào nghề tôi đã có vài việc ở đây, nhưng lâu rồi tôi chưa quay lại. Làm nghề này, tôi được đi khắp nước, thậm chí có lúc còn ra cả nước ngoài, khi bạn bè dẫn tôi theo đi nghỉ, những dịp chỉ chứng tỏ rằng dù ở bất cứ nơi đâu bạn cũng luôn cần một người bạn thân. Fuchsia Lane có mười hai ngôi nhà, mỗi bên sáu ngôi, và chẳng nhà nào giống nhà nào. Đoạn đường cụt này quả thực rất đông đúc người qua lại. Bạn hãy nhớ cho rằng đó là một buổi sáng thứ Sáu, và vào tháng Sáu nữa, nên trời nắng đẹp, sáng sủa, và tất cả mọi người đều phấn chấn. À, không phải tất cả mọi người. Rất đông trẻ con đang chơi đùa ngoài đường, đạp xe, đuổi bắt, chơi lò cò, ném lon và vô số trò khác. Bạn có thể nghe thấy tiếng chúng cười và la hét đầy phấn khích. Có lẽ chúng vui vì cũng được nghỉ học. Mặc dù trông đứa nào cũng hay nhưng tôi không bị thu hút. Chúng không liên quan đến công việc của tôi. Một người đàn ông đang cắt cỏ trong khu vườn trước nhà, một phụ nữ tay đeo đôi găng to xù lấm đất đang chăm sóc luống hoa. Mùi cỏ mới cắt tỏa ra ngai ngái, tiếng kéo cắt, cắt, xén, tỉa nghe như tiếng nhạc trong không trung. Ở khu vườn bên cạnh, một anh chàng đang huýt sáo một bản nhạc mà tôi không quen, tay cầm vòi phun nước rửa xe và ngắm những đám bọt xà phòng trôi xuống thành xe, để lộ lớp vỏ sạch bong. Thỉnh thoảng anh ta hướng vòi phun nước vào hai cô bé con mặc đồ bơi sọc đen vàng. Trông chúng như hai con ong nghệ khổng lồ. Tôi thích thú nghe tiếng chúng cười khúc khích. ... Mời các bạn đón đọc Nếu Em Thấy Anh Bây Giờ của tác giả Cecelia Ahern.
Mùa Lá Rụng Trong Vườn - Ma Văn Kháng
Mùa lá rụng trong vườn là một tiểu thuyết của nhà văn Ma Văn Kháng, hoàn thành vào tháng 12 năm 1982 và được xuất bản lần đầu vào năm 1985. Lấy bối cảnh một gia đình truyền thống vào những năm 80 của thế kỉ XX, khi đất nước bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ sau chiến tranh, gây ra nhiều thay đổi tốt có, xấu có; truyện đã phản ánh chân thực những biến động trong xã hội thời bấy giờ và những ảnh hưởng to lớn của nó tới gia đình - tế bào của xã hội. Truyện đã giành giải thưởng loại B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986. Mùa lá rụng trong vườn kể về gia đình ông Bằng, một nhân viên bưu điện đã nghỉ hưu tại Hà Nội. Ông Bằng có năm người con trai. Anh cả Tường đã hi sinh ngoài mặt trận, vợ anh là Hoài đã tái giá nhưng vẫn thường xuyên viết thư thăm hỏi gia đình. Đông là anh hai, trung tá đã xuất ngũ, sống cuộc sống đơn giản và thậm chí là hơi lười biếng với Lý, cô con dâu đảm đang, nhanh nhẹn. Con trai thứ ba của ông là Luận, một nhà báo có nhiều trăn trở, suy tư về cuộc sống. Vợ anh là Phượng, một người tốt bụng, luôn sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Trái ngược với các anh em, người con thứ tư - Cừ, lại hư hỏng, không nghe lời cha mẹ, đã từng bị đuổi khỏi quân đội. Cuối cùng, em út Cần đang đi học ở Liên Xô, sắp về nước. Ông Bằng cùng với gia đình Đông và Luận sống trong căn nhà đầu phố tĩnh mịch, cách khá xa sự ồn ào, hỗn loạn của chốn thị thành. Tuy nhiên, trong ngôi nhà yên tĩnh ấy, bi kịch ập tới khi Cừ bỏ việc ở xí nghiệp, trốn ra nước ngoài, bỏ lại vợ và hai con nhỏ. Đối với ông Bằng, người cha vốn rất nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái, vốn đề cao những giá trị tinh thần truyền thống, đề cao đạo đức thì đây là một cú sốc quá lớn. Sau khi trốn sang Canada, Cừ mới nhận ra lỗi lầm của mình thì đã muộn. Anh liền gửi bức thư cuối cùng về nhà trước khi uống thuốc tự tử. Nhận được thư, bệnh cao huyết áp của ông Bằng tái phát, khiến ông phải nhập viện, rồi qua đời. Đồng thời, vợ và hai con trai của Cừ vô cớ bị sa thải khỏi nông trường, phải đến ở nhờ nhà ông Bằng, rồi nhà chị Hoài. Trước tình cảnh khó khăn, Luận, Phượng và Hoài đã tỏ rõ mình là những người có tinh thần trách nhiệm cao đẹp, thương người như thể thương thân. Chuyện của Cừ chưa nguôi ngoai thì bi kịch khác lại đến. Lý cảm thấy quá mệt mỏi và chán chường khi sống cạnh Đông, người chồng lôi thôi, tối ngày chỉ biết đánh tổ tôm, không quan tâm tới vợ. Chị bị ông trưởng phòng vật tư ở cơ quan dụ dỗ. Vốn là con người ít học, nhiễm lối sống thị thành xô bồ từ nhỏ, Lý dần dần bị cám dỗ. Chị đã có lần đi công tác Sài Gòn gần tháng trời với ông ta, sống cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc, bỏ bê gia đình. Rồi cuối cùng chị bỏ chồng, theo ông ta vào Sài Gòn hẳn. Chỉ tới lúc đã đi khỏi nhà chị mới nhận ra lỗi sai của mình, viết thư tỏ ý muốn quay trở về. Câu chuyện kết thúc vào một đêm giáp Tết, khi mọi người nhận được thư của Lý. *** Nhà văn Ma Văn Kháng (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936 tại làng Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội) tên thật là Đinh Trọng Đoàn. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học trường Sư phạm Hà Nội. Ông từng là giáo viên cấp hai, dạy môn Văn và là hiệu trưởng trường cấp 3 thị xã Lao Cai nay là tỉnh Lào Cai. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1974. Từ năm 1976 đến nay ông công tác tại Hà Nội, đã từng là Tổng biên tập, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Lao động. Từ tháng 3 năm 1995 ông là Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã 8 lần đệ đơn xin thôi vị trí này. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ ***   Chợt có ngày hai mẹ con đang đi giữa phố cái Nga bỗng kêu: "Mẹ ơi, khói ở đâu ra thế này?" và cả hai mẹ con chìm trong một làn sương xám như bụi tro bay. Cái cảnh tượng như chỉ thấy ở miền núi vào những ngày mù sa làm cho con bé ngỡ ngàng. Nó ngỡ ngàng với tất cả. Kể cả việc nó được về thành phố ở với mẹ và bố. Phải mất gần một năm trời, mọi việc mới thu xếp xong, Phượng mới đưa được nó về đây. Con bé bị thiệt thòi nhiều quá. Nhưng nó đã được đền bù ngay: nó về đến thành phố thì cái Tết vừa chớm tới. Tết đang chầm chậm về, càng chầm chậm càng vui nôn nao. Cái Tết đến theo tiếng pháo dẫn đường. Thoạt đầu, pháo nổ đì đẹt, thưa thớt, ở xa lắc. Rồi gần dần, đặc dầy dần. Tới khi đường phố đã lấm tấm xác giấy hồng hồng và ở các cổng chợ, các ngã ba ngã tư, các quầy lá dong dựng lều bán mái thì đã là hăm ba tháng chạp - cái Tết thật sự đã có hình bóng. Cái văn phòng Xí nghiệp In có bà trưởng phòng tính nết thất thường của Phượng - cái thế giới sinh động vui vẻ ấy đón nhận cái Tết sớm hơn hẳn nơi khác. Vì cách đó mấy tuần, những tính toán chi tiêu sắm sửa cho cái Tết dân tộc đã lầm rầm chen lẫn vào công việc thường ngày, rồi mỗi ngày tiếng nó càng to, đến nỗi đã có lúc nó lấn át cả tiếng nói công việc. Và bà trưởng phòng, đã phải liên tục mở miệng quát tháo để giảm bớt sự nhiễu loạn và kéo sự chú ý của các cô vào công việc. Câu nói cửa miệng của bà lúc này là: "Tết với nhất, tốn tiền, mệt xác! Rồi lại còn dửng mỡ nữa chứ! Tôi yêu cầu! Tết năm nay cô nào còn đẻ nữa sẽ cắt thưởng. Sao mà ham đẻ thế!” Phượng bận rộn với công việc cuối năm. Hăm nhăm, hăm sáu Tết rồi vẫn còn hàng đống chứng từ hoá đơn chưa thanh toán, vào sổ. Còn quyết toán cả năm. Còn báo cáo tài chính với Liên hiệp xí nghiệp, với Ngân hàng. Năm nay xí nghiệp hoàn thành kế hoạch trước gần tháng, tiền thưởng khá to, nhưng làm cách nào rút được tiền mặt. Các cô đi qua, ghé lại bàn Phượng: "Chị Phượng ơi, Tết năm nay vợ chồng con cái em trông cậy cả vào chị đấy!” Và hình như chỉ chờ có vậy là bà trưởng phòng giật lên đùng đùng: - Hỏi cô thủ quỹ nhà các cô kia kìa! Bụng đã vượt mặt thế kia, còn có mà chạy được tiền mặt khối ra đấy! Tết năm nay cứ chuẩn bị mà treo niêu! Chửa với đẻ gì mà cứ như gà thế! Tháng trước xí nghiệp đã đứng ra làm lễ cưới cô thủ quỹ lấy ông Trưởng phòng Kỹ thuật. Giờ bụng cô đã to sề sệ. Rõ ràng là chửa trước ngày cưới chứ còn gì. Và Phượng thì bước đi đã thấy kềnh kệnh. Bà trưởng phòng nhằm vào hai cô tha hồ ngấm nguýt, móc máy, nhưng ngấm nguýt móc máy mà bà ngấm ngầm hả hê. Nhất là với cô thủ quỹ. Chửa đẻ thế, bị công luận coi thường là cái chắc, thì làm gì còn khả năng mà dám ganh với cái chức Trưởng phòng của bà. Một hôm bà đến bàn Phượng lúc cô đang bận làm quyết toán. Phượng nghĩ, chắc bà lại cự nự về việc mình trừ lương ông giám đốc từ tháng tới, hoặc là phàn nàn việc mình tự động lên gặp giám đốc đề nghị một số cải tiến trong việc kinh doanh của xí nghiệp hôm vừa rồi. Nhưng, không. Nghiêng nghiêng đầu, nhìn Phượng, mặt bà lồ lộ vẻ hí hửng rất trẻ con: - Này, đã có tin tức gì thằng Cừ chưa? Hơi bị bất ngờ, Phượng lắc đầu thật thà buồn rầu khe khẽ đáp: - Chú ấy không còn nữa, chị ạ. - Cái gì? Cậu nói cái gì! Nó có mà chết khối ra đấy! - Hai con mắt nổi phồng như mắt sư tử giấy, bà trưởng phòng, bỗng như nổi cơn hùng hổ, tiếp. - Này, nói để cô biết, phải cảnh giác nhé. Thằng Tàu nó bắt bọn di tản huấn luyện biệt kích rồi tung về ta làm gián điệp ối ra kia kìa. Quái, Cừ ở Canađa, chú ấy đã thất vọng và đã tự tử rồi. Sao bà lại nhằng chuyện nọ sang chuyện kia thế? Bà nói vậy là có ý gì? Đã tưởng bà đi, Phượng cúi xuống quay cái máy tính. Nhưng bà cũng lại cúi xuống theo và chống khuỷu tay lên mặt bàn Phượng, ghé sát vào mặt Phượng, toang toang như cố tình để người khác nghe thấy: - Này, thế bà vợ tay Đông ra sao rồi? Tớ biết ngay là con mẹ ấy nó sẽ bỏ lão Đông mà. Này, hồi nó viết thư đến xí nghiệp tố cáo cậu lăng nhăng với lão Đông, tớ mà không đứng ra bênh cậu thì còn lôi thôi to. Mụ ấy giờ ở đâu rồi? ... Mời các bạn đón đọc Mùa Lá Rụng Trong Vườn của tác giả Ma Văn Kháng.
Đám Cưới Không Có Giấy Giá Thú - Ma Văn Kháng
Đám cưới không có giấy giá thú là đứa con tinh thần mới của nhà văn Ma Văn Kháng. Cũng như những tác phẩm trước, Đám cưới không có giấy giá thú nhận được nhiều sự quan tâm không chỉ từ độc giả mà còn từ những nhà văn lớn khác của Việt Nam. *** Nhà văn Ma Văn Kháng (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936 tại làng Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội) tên thật là Đinh Trọng Đoàn. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học trường Sư phạm Hà Nội. Ông từng là giáo viên cấp hai, dạy môn Văn và là hiệu trưởng trường cấp 3 thị xã Lao Cai nay là tỉnh Lào Cai. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1974. Từ năm 1976 đến nay ông công tác tại Hà Nội, đã từng là Tổng biên tập, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Lao động. Từ tháng 3 năm 1995 ông là Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã 8 lần đệ đơn xin thôi vị trí này. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ *** Đám cưới không có giấy giá thú VĂN NGHỆ Số 6. 10/2/1990 Để triển khai kết quả của Đại hội nhà văn lần thứ IV, sáng ngày 11.1.1990, Tuần báo Van nghệ tổ chức một cuộc thảo luận về cuốn tiểu thuyết “Đám cưới không có giấy giá thú” của nhà văn Ma Văn Kháng. Đây là buổi họp, mở đầu cho những cuộc sinh hoạt phê bình dưới nhiều hình thức khác nhau sẽ thường xuyên được tổ chức trong thời gian tới nhằm nâng cao chất lượng trang phê bình trên mặt báo, góp phần đẩy mạnh việc đổi mới công tác lý luận phê bình chung của chúng ta. Tới dự cuộc thảo luận có các nhà văn, nhà phê bình quen biết: Xuân Cang, Nguyên Ngọc, Nguyễn Kiên, Xuân Thiều, Huy Phương, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Từ Sơn, Phan Hồng Giang - Đồng chí Lê Thanh Tùng, và đồng chí Xuân Du đại diện Nhà xuất bản Lao động cùng tới dự. Ban biên tập có gửi giấy mời nhà văn Bùi Hiển, nhưng đến phút cuối vì có việc bận đột xuất, nhà văn không đến dự được. Có mặt trong buổi họp còn có nhà văn Ma Văn Kháng, tác giả cuốn tiểu thuyết. Về phía chủ nhà, ngoài anh Hữu Thỉnh, nhà thơ, Tổng biên tập báo Văn nghệ, còn có các anh chị: Ngô Ngọc Bội, Nguyễn Vinh, Phạm Tiến Duật, Hoàng Minh Tường, Phạm Đình Ân, Thiếu Mai. Sau lời đề dẫn của anh Hữu Thỉnh, cuộc hội thảo bắt đầu. Sau đây là ý kiến của từng đồng chí. Xuân Cang: Tôi cùng với anh Lê Thanh Tùng và anh Xuân Du là những người chịu trách nhiệm chính trị về cuốn sách của anh Kháng. Thú thật là khi mới được đọc qua một lần, tôi hơi hoảng. Tất cả các đảng viên cộng sản trong cuốn sách là những con người tồi tệ - tồi tệ thực sự chứ không chỉ là suy thoái. Vậy có phải là cuốn sách phủ nhận những người cộng sản, phủ nhận Đảng không? Sau khi đọc kỹ hơn, bình tâm suy nghĩ, tôi khẳng định là không phải như vậy. Thái độ đối với các tác phẩm văn học, nhất là những tác phẩm đa dạng, đa nghĩa là một sự thử thách mới đối với người đọc. Trước đây khoảng chục năm, một cuốn sách như kiểu cuốn sách này ra đời quả là một sự gay go. Nhiều độc giả ở ngành giáo dục cũng chấp nhận tác phẩm này. Họ nói rằng cuốn sách đã nói đúng sự thật. Sự thật trong ngành giáo dục còn có những con người, những đơn vị suy thoái hơn nữa kia. Tuy vậy, họ tỏ ra băn khoăn, vì trong ngành còn có những nhân tố tích cực nữa. Miêu tả như thế này có phải là bôi bác không, có sợ người đọc hiểu nhầm ngành giáo dục Tôi nói với anh em là cuốn sách này viết về ngành giáo dục, nhưng không phải chỉ đề cập đến những vấn đề của giáo dục mà là những vấn đề nhức nhối chung của xã hội. Ở đây có cuộc hôn phối không đúng quy luật giữa chúng ta và chủ nghĩa xã hội. Các bạn ấy còn băn khoăn: Vậy vai trò giáo dục của văn học là ở đâu? Tôi nói văn học còn có chức năng cao cả là phát hiện, khám phá, dự báo, báo động nữa. Có thể khai thác vai trò giáo dục của nó ở đấy. Đọc cuốn sách của anh Kháng không thể đọc một mạch. Từng trang, từng trang, nó cho người đọc nhận thức dần những điều tác giả muốn gửi gắm. Tôi đồng ý với Phan Hồng Giang, Ngô Ngọc Bội trước đây người sáng tác còn phải che chắn, rào đón quá nhiều. Ví dụ khi muốn xây dựng một nhân vật cộng sản, nhà văn thường tự hạn chế mình nhân vật này “đại diện” cho xã hội mới, nếu có khuyết phải có ưu, ưu là cơ bản, xây dựng một nhân vật tiêu cực là chỉ dám xếp anh ta vào chức phó. Ở đây anh Kháng đã mạnh dạn đưa ra những nhân vật chịu trách nhiệm chính để người đọc phán xét một cách bình đẳng. Nếu đọc theo lối truyền thống thì khó chấp nhận. Riêng tôi, tôi tán thành sự chuyển hướng về phương pháp này, sắp tới, hội đồng văn học công nhân khi xem xét vệc tặng thưởng các tác phẩm văn học đề tài công nhân không thể không tính tới cuốn sách này. Vừa ra đời, có ý kiến này ý kiến nọ, nhưng rồi cuốn sách đã đứng được, điều đó nói lên rằng cuốn sách đáp ứng với tình hình của xã hội chúng ta trong thập kỷ này. Nhà văn đã góp những suy nghĩ nghiêm túc về những vấn đề bức thiết đang đặt ra trong xã hội hiện nay. Phan Cự Đệ: Trong tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú, nhà văn Ma Văn Kháng đã phản ánh được cái bi kịch của một nhà giáo, một tri thức: anh ta lúc thì đóng vai một nhà hiền triết, một nhân cách cao cả và thánh thiện nhưng lại bị ném vào một môi trường mà các giá trị tinh thần đang bị đảo lộn: một môi trường bị ô nhiễm, bị băng hoại về đạo đức và nhân phẩm: lúc thì hiện ra như một con người mơ mộng và lãng mạn, hay đỏ mặt vì mặc cảm và sĩ diện nhưng lại bị nhúng chìm trong cái biển đời thường dung tục, ở đó hàng ngày diễn ra cái cảnh chen lấn, cướp đoạt một cách trâng tráo, vô sỉ: lúc là một người say mê nghề nghiệp, nhiều hoài bão và khát vọng, muốn chiếm lĩnh các đỉnh cao khoa học nhưng lại bị vây bủa bởi một xã hội thực dụng và cơ hội, một xã hội tiêu thụ đang lên cơn sốt với những đam mê và khoái lạc, với khát vọng làm giàu, khát vọng chiếm đoạt quyền lực bằng bất cứ giá nào! Nhân vật anh giáo Tự phảng phất một mô-típ đã quen thuộc trong văn xuôi Việt Nam và thế giới: lúc là Đôn Ki-hô-tê một mình một dáo dũng cảm xông lên đánh nhau với lũ yêu quái, lúc lại là ông giáo Thứ đang sống mòn và chết mòn trong sạch một cách thụ động ở cái trường tư ngoại ô, lúc là một Hoàng thân Mưt-skin, một Pi-e Bô-du-khốp nhưng nhuốm màu sắc triết học phương Đông. Ma Văn Kháng đã viết về cái “bi kịch vỡ mộng” của một “bữa tiệc dang dở, một đám cưới không thành, một cuốn sách hay để lầm chỗ” đó một cách rất tâm huyết, với tất cả suy nghĩ và trăn trở, niềm khát vọng và nỗi đau của một nhà văn trước thời cuộc, trước tình trạng xuống cấp về trình độ tư duy và phẩm chất đạo đức ngay trong một số người tự cho mình là cán bộ lãnh đạo, là trí thức hoặc kỹ sư của tâm hồn. Ma Văn Kháng đã nói lên được cái tâm sự có thật của những trí thức có tâm huyết, có hoài bão. Cách lý giải có thể còn phải bàn cãi, nhưng điều đáng trân trọng là tấm lòng trung thực và trong sáng của người cầm bút, là những trang viết chân thành và xúc động. Cuốn tiểu thuyết cũng bộc lộ khá rõ một số nhược điểm. Trước đây ta hay lý tưởng hóa một chiều các nhân vật đảng viên hoặc cán bộ lãnh đạo, gần đây lại có khuynh hướng biến họ thành những con rối, thành con người máy hoặc con người của dục vọng tầm thường (Những thiên đường mù, Ly thân, Những mảnh đời đen trắng). Tác phẩm của Ma Văn Kháng không rơi vào hai thái độ cực đoan đó. Tuy nhiên, cách nhìn những “nhân vật tiêu cực” trong hàng ngũ lãnh đạo ở đây có lúc còn đơn giản và phiến diện, đôi khi biến họ thành nhân vật của hài kịch, thành những tính cách bị phóng đại trong nghệ thuật biếm họa. Tính khái quát của loại nhân vật này chưa cao. Trong số này ngoài đời tôi thấy có những người xấu nhưng biết ngụy trang một cách thâm hiểm hơn hoặc có người tốt, chân thành, ngay cả trong sự ấu trĩ, máy móc của họ. Tác phẩm có nhiều trang sinh động, hấp dẫn trong đối thoại, tranh luận hoặc dựng người, dựng cảnh nhưng cũng có nhiều trang chìm sâu một cách nặng nề vào những suy tư, vào những lời biện giải mang màu sắc duy lý của tiểu thuyết luận đề. Xuân Thiều: Nghe đồn cuốn sách “có vấn đề” tôi liền đọc ngay, hai đêm thì đọc xong. Và bây giờ, tôi sẵn sàng tranh luận với những ý kiến cho rằng cuốn sách “có vấn đề chính trị”, thậm chí tôi còn nghe có ý kiến nói cuốn sách “đi ngược lại nghị quyết 7” nữa kia. Theo tôi thì cuốn sách đã thể hiện được tâm huyết của tác giả, ấy là lòng tha thiết mong mỏi được sống trong một xã hội tốt đẹp lý tưởng. Thấy rõ nỗi đau đớn của tác giả: mình yêu chủ nghĩa xã hội như vậy mà sao trong thực tế xã hội lại có chiều ngược với suy nghĩ, mong ước của mình. Tôi khẳng định là tính tư tưởng của tác phẩm rất cao. Tính hiện thực cũng rất cao, vì tác giả đã mạnh dạn phơi bày không né tránh những vấn đề gay cấn nóng bỏng của xã hội. Trước đây dăm bảy năm, người viết chúng ta phải né tránh nhiều vấn đề, nhiều sự việc. Có muốn xây dựng nhân vật tiêu cực để phê phán thì cũng chỉ dám đưa ra anh “phó”: phó chủ tịch, phó chính ủy, phó bí thư huyện ủy... Tóm lại, anh phó lãnh đủ những đòn phê phán trong lúc anh chính bao giờ cũng nghiêm túc, sáng suốt, đúng đắn. Bởi vì nếu phê phán anh chính thị sợ bị hiểu lầm là nói xấu Đảng, thì chính mình sẽ bị đánh! Ở đây anh Ma Vãn Kháng đã gọi thẳng những người chịu trách nhiệm chính ở môi trường mà anh miêu tả: hiệu trưởng, bí thư chi bộ nhà trường, bí thư thị ủy. Tác giả đã nói thẳng sự thật mà không sợ bị hiểu là nói xấu Đảng. Dựng lên những nhân vật lãnh đạo dốt nát, thô thiển như vậy, anh tha thiết mong muốn những người lãnh đạo ở các ngành, các cấp có văn hóa hơn, trí tuệ hơn, sáng suốt, thông minh hơn. Đọc xong, ngẫm nghĩ về các nhân vật Dương, Cẩm, Lại, tôi lấy làm tiếc là các nhân vật này của anh còn giản đơn, chưa có chiều sâu. Chưa thấy bóng dáng của những nhân vật sai một cách chân thành, có ý đồ tốt, tưởng là đúng, là trung thành với lý tưởng cộng sản hóa ra lại sai lầm và mang lại những tác hại lớn cho xã hội. Nhân vật Tự là một người tri thức đầy bi kịch, suốt đời thất bại. Đáng buồn là nhân vật nàyquá yếu đuối, quá bất lực, suốt đời chịu đựng. Người như anh mà không tự sát là lạ! Đoạn viết về bộ đội có lẽ là chỗ yếu nhất, và hơi suy diễn đôi chút, chứng tỏ vốn hiểu biết về đời sống bộ đội của tác giả chưa nhiều và chưa sâu. Nói chung tôi thích cuốn sách này, một cuốn sách nhiều trăn trở ... Mời các bạn đón đọc Đám Cưới Không Có Giấy Giá Thú của tác giả Ma Văn Kháng.