Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đi Tìm Sylvie Lee

Đi tìm Sylvie Lee - cuốn sách đầy bất ngờ với những bí mật, sự lừa dối và những khúc quanh không thể lường trước. Đó là câu chuyện về mối quan hệ phức tạp giữa ba người phụ nữ, hai chị em và mẹ của họ trong một gia đình nhập cư gốc Trung Quốc, và khám phá những gì xảy ra khi con gái lớn của người chị biến mất, một loạt bí mật gia đình xuất hiện. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Về tác giả:  Jean Kwok là một cây bút của tờ New York Times và là tác giả có sách bán chạy nhất trên thế giới với tác phẩm Girl in Translation và Mambo in Chinatown. Cô được vinh danh với rất nhiều giải thưởng trong lĩnh vực viết lách. Cô đã nhận bằng cử nhân trường Đại học Havard và hoàn thành bằng Thạc sĩ Nghệ thuật lĩnh vực tiểu thuyết tại Đại học Columbia. Jean Kwok hiện sống tại Hà Lan. *** Amy Thứ hai, ngày 2 tháng 5 Tôi đang đứng bên bậu cửa sổ trong căn hộ nhỏ của chúng tôi trên phố Queens, nhìn bố và mẹ tất tả đi làm. Nửa khuất sau tấm rèm cũ rách mà mẹ tự khâu, tôi thấy họ đi cạnh nhau trên đường đến ga tàu điện. Ở lối vào, họ dừng lại và nhìn nhau một lúc. Những lúc như này, tôi thường nín thở, để đợi bố chạm vào gò má mẹ, hoặc chờ mẹ bật khóc, hoặc mong một trong hai người sẽ đưa ra dấu hiệu nào đó về mối quan hệ thật sự của họ. Thay vào đó, mẹ ngượng nghịu giơ tay vẫy, để lộ cánh tay gầy gò dưới nếp gấp của chiếc khăn choàng đen, còn bố thì xộc thật nhanh vào cửa nhà ga đang mở khi giao thông buổi sáng gầm rú trên con phố bận rộn. Sau đó, mẹ cúi đầu và tiếp tục cuốc bộ đến tiệm giặt ủi địa phương nơi bà làm việc. Tôi thở dài và rời khỏi cửa sổ. Tôi cần làm điều gì đó có ích hơn. Tại sao tôi lại cứ theo dõi bố mẹ? Bởi tôi đã lớn tồng ngồng nhưng vẫn ru rú trong nhà và vô công rỗi việc. Nếu sơ sảy, tôi rồi cũng sẽ như mẹ. Rụt rè, cam chịu, bán mình vào công việc chẳng đồng dư. Thế nhưng, tôi lại bắt gặp một ý niệm khác về bố và mẹ sau ngần ấy thời gian. Sự say sưa trên khuôn mặt mẹ khi bà đọc tiểu thuyết ngôn tình Trung Quốc trong đêm, thể loại mà bố coi thường. Cách mà bố cố với lấy khuỷu tay mẹ khi ông đi phía sau, rồi ông chợt nhận ra, và rụt tay lại. Tôi ngang qua tủ quần áo trong phòng ngủ của mình, và dừng mắt nơi tấm áp phích treo trên tường - gần như khuất sau mớ giấy tờ lộn xộn và đống giặt ủi. Đó là một câu nói của Willa Cather mà tôi luôn yêu thích: “Trái tim của một người luôn là một khu rừng tối, bất luận nó kề cận với chủ nhân như thế nào”. Tôi không chắc mình có tin vào xúc cảm nhưng những lời của bà ấy thì không bao giờ làm tôi thất vọng. Căn hộ chật chội của chúng tôi vẫn còn phảng phất hương trầm mẹ thắp sáng nay trên bàn thờ bà ngoại. Bà mất ở Amsterdam một tuần trước. Bà sống ở đó với gia đình Tan, gồm có chị họ của mẹ, dì Helena; chồng của dì, dượng Willem; và cậu con trai Lukas, ba mươi ba tuổi, bằng tuổi chị gái tôi, Sylvie. Tôi chưa gặp bà bao giờ nhưng nỗi đau buồn mà mẹ mang như một con thác đổ dồn lên lòng tôi đến ngập lụt. Quầng mắt mẹ tấy đỏ và buốt rát. Mấy đêm rồi, trong khi bố trốn trong phòng ngủ, tôi nắm chặt lấy tay mẹ khi bà nằm co ro trên ghế sofa, nén tiếng khóc, cố ngăn dòng lệ ào chảy bằng một miếng khăn giấy cũ nhàu. Hôm nay tôi cũng mặc đồ đen, vì mẹ, trong khi bố vẫn ăn vận như thường ngày. Không phải là ông không quan tâm. Chỉ là ông không thể để chúng tôi nhìn thấy cảm xúc ấy. Chị Sylvie sống cùng bà và gia đình dì Helena tại Hà Lan trong suốt chín năm đầu đời và chị vừa bay trở lại đó vào một tháng trước, ngay khi nghe tin bà ốm. Chị cũng đang quản lý một dự án tư vấn cho công ty của mình tại đó. Chị Sylvie rực rỡ, lớn hơn tôi bảy tuổi, đã kéo theo cuộc sống hào nhoáng ở châu Âu về tới căn hộ sặc mùi bắp cải của chúng tôi ở phố Queens khi tôi chỉ mới hai tuổi. Thường sẽ có một sự phân chia đều giữa các chị em gái về sự xinh đẹp và thông minh, nhưng trong gia đình tôi, cả hai phẩm chất ấy đều thuộc về chị. Và tôi, chỉ là một cái bóng, suy cho cùng, chỉ là một âm vọng nhạt nhẽo. Nếu tôi không yêu chị Sylvie rất nhiều, thì tôi hẳn sẽ rất ghét chị ấy. Làm thế nào mà một sinh vật xuất sắc như Sylvie lại được sinh ra từ những người trần tục như mẹ và bố? Cứ mỗi khi tôi học với bất kì giáo viên nào từng dạy chị Sylvie, họ đều thốt lên rằng, “Ah, em là em gái của Sylvie Lee đây mà” với đầy ắp những mong đợi. Và tôi sẽ dõi chờ khi những hy vọng cao ngút ấy của họ bỗng chốc biến thành sự hoang mang trước vẻ chậm chạp và đần độn mà tôi thể hiện. Tiếp đó họ sẽ thất vọng, và cuối cùng, là sự thờ ơ. Sylvie từng theo học tại Đại học Princeton, nhận bằng Cử nhân Kỹ thuật Hóa từ Viện Công nghệ Massachusetts, đi làm một vài năm, sau đó trở lại trường học để lấy tiếp bằng Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh từ Harvard. Bây giờ chị ấy là một chuyên gia tư vấn quản lý, một công việc mà tôi không bao giờ hiểu được dù cho chị có cố giải thích bao nhiêu lần. Cũng như tôi, Sylvie rất mê đồ ngọt, nhưng khác hẳn với tôi, chị ấy không bao giờ lên cân. Tôi đã từng trố mắt nhìn chị ăn lần lượt hết từng cái bánh trứng mà chẳng hề ảnh hưởng gì đến vòng eo thanh thoát, như thể nội lực mãnh liệt bên trong chị sẽ đốt cháy đám calo kia, tiêu hủy hết mọi thứ mà chị ấy nạp vào. Sylvie từng bị nhược thị khi còn nhỏ và đeo miếng che mắt trong nhiều năm. Giờ thì thứ duy nhất không hoàn hảo trên khuôn mặt đáng yêu của chị ấy là mắt phải có phần lác nhẹ khi chị ấy mệt mỏi. Hầu hết mọi người đều không nhận thấy, nhưng đôi khi tôi cũng tự an ủi mình với khiếm khuyết nhỏ này của Sylvie - Thấy chưa, chị ấy cũng không hẳn đã hoàn hảo. Tôi tiến đến hộc tủ gồ ghề, nơi tôi đã cẩn thận bọc và giấu một chùm lô quất nhỏ màu cam. Nếu tôi để chúng trên mặt bếp bằng nhựa vinyl và để bố bắt gặp một con ốc sên yếu ớt ẩn mình giữa những quả mọng này, bố chắc sẽ giết nó. Bố làm việc trong một chợ cá ở khu phố Tàu. Ông buộc phải trở nên vô cảm với cái chết - trước những con cá nằm ngoi ngóp trên mặt thớt gỗ cho đến khi ông kết liễu chúng bằng con dao pha trên tay mình. Con ốc nhỏ với lớp vỏ trong mờ vẫn còn lóp ngóp bò trên một trong những quả lô quất và trông nó có vẻ ổn. Bất cứ điều gì đủ mạnh để tồn tại trên hành trình gian nan từ Trung Quốc thì xứng đáng có cơ hội để sống tiếp. Tôi lấy một cái túi nhựa đã qua sử dụng, nhẹ nhàng bỏ quả lô quất và con ốc sên vào đó, rồi bước đến cửa. Tôi giũ nhẹ chiếc áo khoác mỏng và cầm lấy ví cùng điện thoại. Trước khi bước ra ngoài, tôi tháo cặp kính dày cộm màu tím và nhét chúng vào túi áo. Tôi cũng chẳng buồn đeo kính áp tròng. Sự hợm hĩnh và biếng nhác hòa vào cuộc sống trong thế giới mờ ảo của tôi gần như mọi lúc. Tôi lê bước qua vài tòa nhà tiến đến công viên nhỏ gần đó. Vẫn còn sớm, nên một số cửa hàng vẫn đóng cửa im lìm, và tôi rùng mình khi một làn gió lạnh buốt quét xuống vỉa hè bê tông. Một mùi hôi thối xộc lên từ nhựa đường quẩn quanh, dọc khắp các tòa nhà trống hoắc như hù dọa tôi. Một người mẹ đang kéo một đứa trẻ nhỏ bẩn thỉu đằng sau vội ngoảnh mặt khi đi ngang qua tôi. Không ai nhìn vào mắt ai nơi đông người, quạnh quẽ và tẻ nhạt này - không ai cả, ngoại trừ những kẻ đang cố gây sự. Lúc này, một nhóm người đang lang thang trước ô cửa sổ vỡ ở cửa hàng với tấm biển to oạch về thứ gì đó giảm giá năm mươi phần trăm. Không hơn không kém, họ chỉ như những vệt đen trong tầm nhìn hạn chế của tôi khi rú lên sau lưng tôi, “Nỉ-hào cô em! Có thể cho anh gửi cái“trứng cuốn” vào “miếng chả” của cô em không?” rồi phá lên bằng một tràng cười khản đặc. Họ phải nói mấy lời đần độn này mỗi ngày sao? Miễn là họ vẫn giữ khoảng cách, sự mờ ảo trong tầm nhìn khiến tôi thoải mái như trong một cái kén. Khi gần như mù, tôi có thể vờ như mình cũng bị cũng điếc. Một ngày nào đó, tôi sẽ tiếp tục chương trình học của mình tại Đại học Thành phố New York và hoàn thành chứng chỉ giảng dạy để tôi có thể thoát khỏi nơi này. Tôi sẽ rời xa cả mẹ và bố. Việc tôi đã bỏ học năm ngoái cũng chẳng đáng lo ngại. Tôi có thể làm được. Tôi đã có bằng cử nhân tiếng Anh. Tôi gần tới đích rồi. Tôi có thể thấy chính mình đang đứng trước một lớp học đầy những đứa trẻ. Chúng đang lắng nghe, cười vui trước những câu chuyện cười tôi kể, đôi mắt mở to trước sự rực rỡ của văn học mà chúng đang đọc, và tôi sẽ không bỏ sót bất cứ một từ nào. Tỉnh lại đi, Amy. Tất cả những gì mày có thể làm bây giờ là một vị cứu tinh ốc sên, đó cũng không hẳn là một biến chuyển tồi đâu. Sylvie và tôi đều theo đạo Phật, và một số ý niệm, như tất cả những gì trân quý trong cuộc sống, vẫn ở lại với chúng tôi. Khi còn nhỏ, chúng tôi thường rượt đuổi nhau quanh căn hộ với lưới bắt bướm, cố bắt ruồi và rồi lại thả chúng ra. Thế nhưng, như được chứng thực bởi bố và những-sinh-vật-biển- khác, tôn giáo chỉ tồn tại cho đến khi ta giáp mặt với sự khắc nghiệt của cuộc sống thường nhật. Công viên vẫn đang hồi sinh sau mùa đông khắc nghiệt và tôi vật vã tìm cho mình một vị trí đẹp rợp lá. Tôi rón rén gập người giữ con ốc giữa ngón trỏ và ngón cái khi điện thoại di động đổ chuông. Tôi nhảy lên và suýt thả rơi con ốc. Tôi đặt nó xuống, xoay xở để kéo điện thoại ra khỏi áo khoác, và nheo mắt để đọc số. Tôi vừa định trả lời thì người gọi đã cúp máy. Dãy số rất dài, bắt đầu với 31+. Tôi đã nhìn thấy đầu số này trước đây trên điện thoại của Sylvie. Là một người từ Hà Lan - có lẽ là anh họ xa của tôi, Lukas, bởi anh ấy không bao giờ gọi cho tôi. Anh ấy hay nói chuyện với chị Sylvie. Tôi dò thử phí cuộc gọi cho Lukas ở Amsterdam rồi lưỡng lự. Hy vọng anh ấy sẽ gọi lại. Tôi đi thẳng tới một tiệm đĩa. Tôi thích la cà ở một trong những chốt phát nhạc của họ nhưng hầu như chẳng mua thứ gì. Bụng tôi thắt lại khi nghĩ đến núi tiền vay sinh viên, chất chồng theo từng tấm bằng. Nhiều năm luẩn quẩn, cố gắng xác định những gì tôi muốn làm với cuộc đời mình trước khi quyết định chọn việc đi dạy - nhưng rồi, tật nói lắp lại trở lại khi tôi đứng trước nhóm thực tập. Dù tôi gần như đã bỏ được, nhưng nỗi sợ hãi về việc nói lắp đã chứng minh rằng nó luôn mạnh mẽ như nó vốn có: tất cả những khuôn mặt trống rỗng đó, sự hoảng loạn như một cái chăn dày khiến tôi nghẹt thở. Đôi lúc, tôi nghĩ, lẽ ra tôi nên an phận là một kẻ nhập cư thất học như mẹ và bố. Vài con chim non rời tổ và vút cao, như chị Sylvie, những con khác thì bối rối, và run rẩy, rồi rơi bổ xuống đất. Cuối cùng, tôi không thể đối diện với các bạn cùng lớp và giáo viên của mình nữa. Và chị Sylvie, tất nhiên, là người bảo lãnh cho tôi khi các khoản vay của tôi vượt quá thời gian gia hạn. Chị ấy đã thanh toán mà không nói một lời. Chị Sylvie, khá giả, ít nhất là so với tôi, nhưng chị ấy không giàu đến mức có thể gánh vác thêm một khoản chi phí mà không cảm thấy hề hấn gì. Chị và chồng chị, anh Jim, thậm chí còn đang nặng vai khoản vay sinh viên hơn cả tôi, anh Jim thì không kiếm được nhiều tiền từ công việc tư vấn hướng nghiệp tại một trường công lập ở Brooklyn. Mặc dù có tiền thừa kế, nhưng bố mẹ của anh cho rằng người trẻ nên tự kiếm tiền, thế nên anh ấy sẽ không nhận được một xu nào cho đến khi họ mất, ngoại trừ món quà khôi hài mà họ đã cho anh khi cưới chị Sylvie. Còn tôi, thay vì phụ giúp bố và mẹ, những người đã làm lụng vất vả nhiều năm trời, thì tôi lại đang sống trong căn hộ của họ và ăn bám họ hằng ngày. Tôi hiện tại vẫn lông bông, mặc dù khả năng đánh máy của tôi rất nhanh - cũng là kỹ năng duy nhất mà tôi có, nhưng công việc thì khan hiếm. Do kinh tế mà thôi, tôi phân bua với tất cả, nhưng tất nhiên là tôi rõ hơn ai hết, bởi chỉ có tôi mới hiểu rõ nhất về mình. Chị Sylvie nói rằng tôi không có đủ tiềm năng, tôi bực dọc và bảo chị ấy thôi đi, để cho tôi yên. Trong cửa hiệu, tôi đi đến quầy nhạc cổ điển và bắt đầu thư giãn ngay khi giọng hát mượt mà, êm ái của Anna Netrebko phát ra từ chiếc loa. Cô ấy hát bài Verdi. Các kệ đĩa CD nằm gọn gàng bên cạnh các bảng xếp hạng âm nhạc và những thùng đĩa nhựa nối tiếp nhau. Những cây guitar và vĩ cầm cũ xếp thẳng hàng trên tường. Tôi thật sự thích cái cách mùi giấy, đồ sơn mài và nước tẩy hương chanh tỏa hương. Zach, một anh chàng đáng yêu, đã đi làm trở lại. Ít nhất, tôi tin là anh ấy hấp dẫn. Rất khó để chắc chắn khi không có kính - thứ giúp tôi không bị “đứng hình” nếu đến gần anh ta. Đối với tôi, những đường nét trên khuôn mặt và cơ thể của anh ấy thật lôi cuốn, tôi yêu giọng nói của anh ấy - ấm áp, hào sảng và trong trẻo. Anh ấy luôn có vẻ như đang mỉm cười với tôi. “Này, Amy. Tuần này cậu muốn nghe gì?” Tôi cố gắng thể hiện sự thân thiện trên khuôn mặt mình nhưng dường như tôi đang biến nó trở nên nhăn nhó đến mức ngượng nghịu. “Anh có gợi ý nào không?” Anh ấy chỉ việc để cho khách hàng nghe thử các đĩa nhạc nhưng dường như chưa bao giờ lưu tâm đến những lần lượn lờ của tôi trong cửa hiệu. “Vậy, Joseph Szigeti thì sao?” Tôi hăng hái đến mức quên cả xấu hổ. “Tôi vừa đọc một bài báo về bản thu Prokofiev Concerto No.1 in D của anh ấy.” “Đang rất sốt đấy,” anh ấy nói và lấy ra một đĩa CD. “Anh ta là minh chứng rằng kỹ thuật hoàn hảo không phải là tất cả.” Ngay khi chúng tôi đi đến quầy nghe, điện thoại của tôi đổ chuông. “Xin lỗi”, tôi lí nhí nói. “Tôi phải nghe máy.” Tôi cúi đầu và rời cửa tiệm. Tôi bắt máy và ngay khoảnh khắc nghe thấy giọng anh Lukas, tôi biết có chuyện chẳng lành xảy ra. Đường truyền đầy nhiễu sóng, có thể do cuộc gọi xuyên Đại Tây Dương. Tôi lấy tay bịt tai bên kia lại để cố nghe rõ hơn. “Amy, anh cần nói chuyện với Sylvie ngay,” Lukas nói. Giọng anh ấy căng thẳng và đầy gấp gáp với ngữ điệu Hà Lan của anh nặng hơn là tôi nghĩ. Tôi nhíu mày. “Nhưng chị ấy đang ở Hà Lan chỗ anh mà.” Anh ấy thở mạnh đến mức tôi có thể nghe thấy nó qua điện thoại. “Sao cơ? Không có, cô ấy đã bay về đó vào thứ bảy. Giờ này phải đến nơi rồi chứ. Em không nghe tin gì từ chị em sao?” “Nhà em còn không biết là chị ấy đang về. Em mới nói chuyện với chị ấy sau đám tang của bà. Khi đó là khi nào nhỉ? Thứ năm, phải không? Em nghĩ chị ấy sẽ ở lại lâu hơn. Chị ấy cũng có nhắc đến dự án của chị ở đấy vẫn chưa xong.” “Sylvie vẫn không trả lời điện thoại. Anh rất muốn nói chuyện với cô ấy”. Rõ ràng, một người có trách nhiệm như chị Sylvie sẽ báo cho chúng tôi biết ngay nếu chị ấy quay lại. Chị ấy lẽ ra đã đến gặp mẹ và kể cho mẹ nghe về bà. Tim tôi bắt đầu đập mạnh như có một vết cắt dưới da. Phải có một vài lời giải thích đơn giản nào đó chứ. Tôi cố gắng trấn an: “Đừng lo lắng, em sẽ xem chuyện gì đang xảy ra.” “Uhm, làm ơn hãy tìm hiểu xem có chuyện gì nhé. Khi nào tìm thấy cô ấy, bảo Sylvie gọi cho anh, được chứ? Ngay lập tức nhé.” Một khoảng lặng rợn người. “Anh hy vọng cô ấy sẽ không có chuyện gì.” Tôi vội đeo kính và nhanh chóng đến tiệm giặt khô nơi mẹ làm việc. Mùi kinh khủng của hơi nước và hóa chất bao trùm lấy tôi khi tôi đẩy cánh cửa mở. Tôi thấy mẹ đang đứng sau một cái quầy dài, lí nhí một thứ tiếng Anh bập bẹ với một người phụ nữ ăn vận đẹp đẽ, mái tóc vàng óng ả sau lưng. “Chúng tôi rất bực khi một cái cúc áo đã bị long ra sau khi nhận lại mớ đồ này.” Bà khách vừa nói vừa đẩy về phía mẹ một chiếc áo sơ mi sọc của nam. “Vô cùng xin lỗi bà!”. Khuôn mặt nhỏ bé của mẹ dường như thêm gầy gò và xanh xao trong bộ quần áo đen, đôi mắt sưng lên vì khóc. “Tôi sẽ sửa nó”. Người phụ nữ gõ bộ móng tay được cắt tỉa cẩn thận lên mặt quầy. Giọng bà ta vừa cáu gắt vừa ra vẻ trịch thượng, như thể bà ấy đang nói chuyện với một đứa trẻ phạm lỗi. “Chất lượng dịch vụ thật sự không tốt như chúng tôi mong đợi, đặc biệt là sau khi lên giá đấy.” “Rất xin lỗi bà!”, mẹ lặp lại. Tôi nhìn trừng trừng về phía tấm lưng xương xẩu của bà ta. Tôi muốn nói với bà ấy rằng chủ cửa hiệu tăng giá chứ mẹ tôi chẳng được lợi gì trong đó. Mẹ thậm chí còn chưa được tăng lương trong suốt từng ấy năm làm việc ở đây - phải đứng suốt cả ngày, khiêng hàng đống quần áo nặng trịch, rồi giặt, ủi và sửa chúng. Nhưng miệng tôi cứ ngậm chặt. Tôi đợi cho đến khi bà khách mắng mỏ mẹ xong và rời đi. Mặc dù đang buồn, nhưng khi thấy tôi, nụ cười lại làm bừng sáng khuôn mặt mẹ. Tuy có thể hiểu một ít tiếng Hoa, nhưng tôi không bao giờ học nói cho đàng hoàng, vì vậy mẹ luôn nói chuyện với tôi bằng tiếng Anh. “Sao con lại ở đây, Amy?” Tôi đã định không làm mẹ lo lắng nhưng tôi nhận ra mình đang ghì chặt cổ tay bà, vò nát chiếc áo blouse vải polyester mỏng manh. “Anh họ Lukas vừa gọi cho con. Anh ấy nói, chị Sylvie đã bay về nhà vào cuối tuần trước, nhưng chị ấy không nhấc máy.” “Ay yah.” Mẹ thảng thốt lấy tay che miệng. Đôi mắt to đen của bà trợn trắng. “Nó không nói với chúng ta là nó về. Nó nhất định vẫn ổn. Chỉ là nhầm lẫn gì đó thôi. Con gọi anh Jim chưa?” “Con đã thử mọi cách nhưng anh ấy không trả lời. Không có vụ rơi máy bay hay chuyện gì xảy ra, phải không mẹ?” “Tất nhiên là không! Con đang nói bậy gì vậy!” Mẹ vuốt trán ba lần bằng bàn tay trái gầy guộc để xua đuổi những xui xẻo trong lời nói tôi vừa thốt ra. Mẹ nhìn chằm chằm tôi cho đến khi tôi cúi người để mẹ có thể làm điều tương tự với tôi. Tôi và mẹ có chiều cao gần như nhau và khi chợt nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của chúng tôi trong gương ở cửa hàng, tôi mới chợt nhớ rằng tôi trông giống bà đến mức nào - ngoại trừ việc tôi đeo một cặp kính dày và không thể nào so sánh với hình ảnh của mẹ khi còn trẻ. Mẹ từng là cô gái đáng yêu nhất trong làng chúng tôi ở Quảng Đông. Bây giờ ở độ tuổi 50, làn da của mẹ vẫn đẹp với một vài nếp nhăn mờ, lớp kem mềm mượt làm nổi bật đôi mắt ấm áp, và có gì đó dịu dàng nhưng hoang dã trong ánh mắt của bà, như một chú nai vàng trong rừng thông. “Con đi đến nhà chị đi. Xem chuyện gì xảy ra. Hãy lấy chìa khóa, trong lọ gừng khô ở nhà.” “Con có chìa khóa riêng. Chị Sylvie có đưa cho con trước khi chị ấy đi. Nhưng mẹ có chắc không, mẹ?” Tôi thấy ngại khi nghĩ đến việc vào nhà chị Sylvie mà không có sự cho phép. Tâm trí tôi rối loạn: Nếu anh Jim ở đó thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra đây? Và điều gì có thể xảy ra với chị Sylvie? “Chắc, chắc chắn mà,” mẹ khẳng định. “Con hãy đi ngay đi! Nhanh lên!” Mời các bạn đón đọc Đi Tìm Sylvie Lee của tác giả Jean Kwok & Liên Thảo (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hãy Đi Đặt Người Canh Gác
Xuất bản sau "Giết con chim nhại" nhiều năm nhưng thực chất "Hãy đi đặt người canh gác" mới là tác phẩm đầu tay của Harper Lee. Tháng 2/2015, Haper Lee chia sẻ với độc giả: “Vào giữa thập kỷ 1950, tôi hoàn thành một cuốn tiểu thuyết có tên Hãy đi đặt người canh gác. Trong đó xuất hiện nhân vật vẫn được biết đến dưới tên Scout, nay đã là một phụ nữ trưởng thành, và tôi nghĩ đó cũng là một sản phẩm khá tử tế. Biên tập viên của tôi thích thú với những đoạn hồi tưởng về thời ấu thơ của Scout, đã thuyết phục tôi viết một cuốn tiểu thuyết từ điểm nhìn của Scout hồi nhỏ. Tôi mới là một nhà văn tập sự, nên đã làm theo lời chỉ bảo. Tôi không hề biết cuốn sách ấy vẫn còn đến nay, và vừa ngạc nhiên vừa vui sướng khi bạn thân, luật sư của tôi là Tonja Carter phát hiện ra nó. Sau nhiều đắn đo suy nghĩ tôi đã đưa vài người tin cậy xem cuốn sách, và rất vui lòng được biết họ coi cuốn sách này đủ tư cách xuất bản. Tôi vừa hân hạnh, vừa kinh ngạc rằng cuốn sách này sắp được xuất bản sau bấy nhiêu năm." Với những nhân vật và bối cảnh quen thuộc, Hãy đi đặt người canh gác được kể từ góc nhìn của Jean Louise đã trưởng thành. Bên cạnh những bài học về thấu cảm và khoan dung như trong Giết con chim nhại, cuốn sách còn là hành trình phân định trắng – đen, tìm đường đi giữa những đúng sai trong một xã hội của những giá trị đối đầu.   Jean Louise Finch, một cô gái 26 tuổi sinh sống và làm việc tại New York, về thăm nhà tại Maycomb, một thị trấn nhỏ miền Nam nước Mỹ. Chờ đợi cô ở nhà là những người thân thuộc: Atticus, người bố luật sư đã về già hiện đang mắc bệnh, bác gái Alexandra với những quan điểm cổ hủ về đạo đức, và Henry Clinton, phụ tá cho Atticus, cũng là người bạn ấu thơ và người theo đuổi cô bấy lâu nay. Nhưng điều cô không ngờ đến là mâu thuẫn của thập kỷ ấy – phong trào đòi quyền công dân, bình đẳng cho người da đen – đã ngóc đầu dậy trong chính gia đình mình và khiến những người thân chợt trở nên xa lạ. Khi những tấm gương anh hùng thơ ấu của cô vai kề vai với những kẻ thù ghét “mọi đen”, cổ xúy phân biệt chủng tộc, Jean Louise sẽ phải nghĩ và làm gì? Hoàn thiện bản thảo vào năm 1957, cuốn sách là sự phản ứng trực diện trước những sự kiện đã gây sóng gió trong xã hội Mỹ thời bấy giờ: phán quyết của Tòa án tối cao Mỹ trong vụ Oliver Brown cùng các phụ huynh kiện Hội đồng giáo dục của thành phố Topeka, Kansas, kết luận luật các bang cho phép phân cách màu da ở các trường công là vi hiến (17/5/1954). Phán quyết này được coi là một bước ngoặt trong phong trào đấu tranh của người da đen, nhưng trái lại, khiến một bộ phận lớn người da trắng, đặc biệt là ở các bang cực Nam, phản ứng mãnh liệt. Sự ra đời các Hội đồng Công dân bảo vệ “quyền của người da trắng”, mà mô hình đầu tiên thành lập vào 11/7/1954, là một nội dung quan trọng trong tác phẩm đã khắc họa rất xác thực tư tưởng và ngôn ngữ kỳ thị người da màu. Hãy đi đặt người canh gác là bản thảo tiểu thuyết đầu tay mà Harper Lee gửi đi các nhà xuất bản vào năm 1957. Biên tập viên Tay Hohoff ở J. B. Lippincott & Co. đã nhìn thấy tiềm năng của bản thảo, nhất là trong một đoạn hồi ức thơ ấu của Jean Louise, và đã làm việc sát sao với Harper Lee để phát triển đoạn hồi ức này thành hẳn một câu chuyện mới. Sau ba năm, cuốn sách mới với cái tên Giết con chim nhại được xuất bản (1960) và nhanh chóng thành công vang dội, trở thành tác phẩm kinh điển của văn học Mỹ hiện đại, nhưng tiểu thuyết ban đầu bị coi là đã mất. Khi bản thảo của bà được tìm lại vào năm 2014, thông tin ấy đã gây xôn xao làng xuất bản thế giới. Phát hành ngày 14/7/2015, Hãy đi đặt người canh gác đã đứng đầu các bảng xếp hạng sách bán chạy suốt 3 tháng trước đó. Trong vòng một tuần, sách bán được 1,1 triệu bản ở Mỹ và Canada (cả sách in, sách điện tử và sách tiếng). Hình tượng mới về Atticus và Jean Louise cùng tranh cãi xung quanh việc phát hiện bản thảo tiểu thuyết đã làm dấy lên những bàn luận sôi nổi về sự chủ động của tác giả, về quá trình biên tập, và về cách hiểu nhân vật cũng như các tình tiết trong cuốn sách.   Trong Hãy đi đặt người canh gác, bạn đọc vẫn dễ dàng nhận thấy văn phong sắc sảo và sự đôn hậu đặc thù của Harper Lee. Lối kể chuyện hấp dẫn cùng tài nắm bắt đặc trưng của nhân vật hay cảnh vật chỉ qua một vài chi tiết chọn lọc của bà cũng được phát huy trong cuốn sách này. Tuy nhiên, ở Giết con chim nhại, người đọc được tiếp nhận một bài học đạo đức tương đối thuần khiết và trực tiếp. Còn trong Hãy đi đặt người canh gác, tác giả đã chuyển sang cuộc hành trình tìm kiếm bản thân của Jean Louise đang trưởng thành, khi trí óc phê phán của cô không chỉ nhằm vào xã hội mà vào cả bản thân mình, trên đường đi tìm một “người canh gác” cho bản thân. Trên tất thảy, cuốn tiểu thuyết mới là một cơ hội tuyệt vời cho người đọc làm quen và đánh giá lại Harper Lee, vượt ra ngoài hình dung về một “nhà văn viết cho thiếu nhi” tài năng như chúng ta từng được biết. *** “Một tác phẩm mới, một khoái cảm cho người đọc, một cuộc thiên khải, một sự kiện văn học thực sự” • THE GUARDIAN “Tiểu thuyết thứ hai của Harper Lee còn rọi sáng những vấn đề của thế giới chúng ta hơn nhiều cuốn trước.” • TIME “Như Faulkner thường nói, những câu chuyện hay duy nhất là những câu chuyện kể về trái tim con người mâu thuẫn với chính nó. Và đấy chính là lời miêu tả đích đáng cho Hãy đi đặt người canh gác.” • DAILY BEAST “Một trong những điểm chính mà mọi nhà phê bình đều đồng thuận, đó là cả người viết và người đọc đều có rất nhiều điều để học từ cuốn sách này.” • YULTURE *** Hiếm có tác giả nào như Harper Lee sống kín đáo và gần suốt cuộc đời chỉ xuất bản duy nhất một tác phẩm, nhưng đã đứng vào hàng tác phẩm được yêu mến nhất. Với Giết Con Chim Nhại, Harper Lee không chỉ có được giải Pulitzer và Huy chương tự do mà còn danh tiếng và lòng ngưỡng mộ của bạn đọc toàn cầu. Năm 2015, người đọc vui mừng được biết tới sự tồn tại của bản thảo Hãy Đi Đặt Người Canh Gác, tiền thân của Giết Con Chim Nhại. Đây không chỉ là dịp cho chúng ta lần nữa thưởng thức văn phong sắc sảo ý nhị đặc trưng và mãnh lực đạo đức của bà, mà còn là cơ hội hiếm có để hiểu về sự hình thành tác phẩm và công việc nhà văn. “Nước mỹ những năm 1950, làn sóng đòi quyền bình đẳng cho người da đen đang dâng trào cả nước. Trong vài tiểu bang miền Nam, người da trắng tập hợp để bảo vệ cái mà họ coi là bản sắc bị tước đoạt của mình… Trở về thăm nhà như lệ thường, Jean Louise Finch không ngờ mình sắp bước chân vào giữa cuộc chiến tư tưởng của thập kỷ. Cô sẽ ngỡ ngàng thấy người cha Atticus, vị anh hùng vì lẽ công bình của cô thuở bé, dường như đã đổi màu niềm tin; người thân, bạn bè lâu năm bỗng dưng trở nên xa lạ; thị trấn Maycomb quê hương và chính cô không còn nhận ra nhau. Công lý ở đâu, đúng sai là gì? Khi thành trì lương tâm tuổi thơ cô đã vụn vỡ từng viên đá một, Jean Louise bắt đầu đi tìm một sự thật của riêng mình.” Câu chuyện cổ tích trong Giết Con Chim Nhại đã nhuốm một màu sắc khác khi nhân vật đột ngột thức tỉnh trong “thế giới nơi ta là người lớn.” Trưởng thành hơn, day dứt hơn, tuy vẫn với chất uy mua[1] hồn hậu ấy, Hãy Đi Đặt Người Canh Gác càng thêm sắc bén với những người đọc thế kỷ 21, khi đang khẩn thiết đặt ra hơn bao giờ hết câu hỏi về khác biệt và khoan dung giữa người với người. Nhã Nam Mời các bạn đón đọc Hãy Đi Đặt Người Canh Gác của tác giả Harper Lee.
Đừng Để Chim Sẻ Non Gục Ngã
Từ lúc 16 tuổi Mary Bridget đã bỏ nhà ra đi cùng với Jonah làm nghề sản xuất và bán thuốc phiện. Nhưng, cuộc sống luôn bị cảnh sát truy đuổi, không ổn định, lại thêm mặc cảm tội lỗi với bà ngoại, với mẹ đã khiến Bridget quyết định tìm cơ hội ra đi. Những tưởng cuộc sống của cô sẽ tốt đẹp hơn ở một xứ sở khác, nào ngờ số tiền lấy được của Jonah đã bị đánh cắp. Cô trở nên trắng tay. Sau đó, cô đón chuyến xe tới thành phố Alexandria. Cô xin vào làm ở một cửa hàng thực phẩm với vị trí thu ngân. Rồi mọi chuyện thay đổi, khi một lần đi lễ trong nhà thờ Knox Presbyterian, cô bắt gặp những mẩu giấy cầu nguyện đức Chúa trời một cách khẩn thiết của một cô bé có gương mặt sầu não, đáng thương. Cô bé ấy chính là Samantha, nhà ở gần nhà thờ Knox Presbyterian. Cô bé có 3 người cô - hai người thì hay cáu gắt, bảo thủ; người còn lại thì hiền hậu, nhân từ. Cả 3 người đều là khách hàng thân thiết ở cửa hàng Bridget bán. Và một người cha - Alasdair Mac Pherson - là một người thuyết giảng trong nhà thờ. Alasdair có một diễn biến tâm lý bất thường từ sau khi vợ ông chết để lại cho ông 3 đứa con dại. Vì lẽ đó mà Samantha bị ảnh hưởng những sự cố ấy. Sự có mặt của Bridget trong vai trò là một cô giữ trẻ nhưng đã dần dần làm gia đình Mac Pherson có nhiều thay đổi, từ cách trang trí nhà cửa, các món ăn nhất định từ trước đến cách nhìn và suy nghĩ của cả những con người, trong đó có Samantha và nhất là Alasdair. Ông đã tìm thấy ở cô gái này một sự chia sẻ, cảm thông. Để rồi chính Bridget cũng không ngờ, cuộc đời nàng giờ đây có nhiều niềm vui và hạnh phúc trong một gia đình ấm cúng... *** Bà Hattie không biết chính xác bà đang cầu nguyện cho cái gì hoặc cho ai. Bà chỉ biết có cái gì đó đánh thức bà dậy, nó tựa như một cơn đau quặn thắt trong lồng ngực. Nếu là trước đây, chắc có lẽ bà sẽ bỏ qua và đi ngủ tiếp. Bà sẽ nghĩ chắc mình ăn phải cái gì đó làm cho bụng lộn xộn, hoặc giả bà đã có kinh nghiệm hơn rồi. Sau hơn 80 năm lắng nghe lời phán truyền của Chúa Trời, cuối cùng bà cũng quen với cách thức Chúa Trời phán bảo: Bà thì thầm: - Lạy chúa, có ai đó đang gặp rắc rối. Ngài biết đó là ai mà, Ngài biết họ cần gì mà. Bà tiếp tục cầu nguyện mãi cho đến khi bà cảm thấy tâm hồn mình thanh thản hơn thì cũng là lúc những ánh nắng yếu ớt của mùa đông xuyên qua những khe cửa và nằm vắt ngang trên giường của bà. Bà nghe tiếng loảng xoảng ở hướng nhà bếp rồi có tiếng kẹt cửa mở và tiếng cánh cửa đóng lại. - Bà Hattie là cháu đây. - Xin chào Martha - Bà Hattie đáp lời. Bà nghe những tấm gỗ lát sàn kêu két kẹt và bà thầm dõi theo những cử động của Martha trong tâm trí. Bà nghe tiếng Martha treo áo khoác, rồi nghe tiếng kim loại va vào nhau, đó là tiếng mở nắp bếp ga, sau đó là tiếng mấy tờ báo theo gió bay loạt xoạt và tiếng nồi kim loại đặt lên bếp khi Martha vừa bật bếp xong. Rồi sau đó nhiều hình ảnh tưởng tượng nữa, khuôn mặt Martha tươi cười hiện ra. Gò má của Martha cao như được tạc từ một tảng đá màu sậm. Khóe môi cô cong lên trong một nụ cười rạng rỡ. Cô gái xinh tươi và thông minh đủ để kiếm được một vị trí xứng đáng trong thế giới rộng lớn ngoài kia, và rất có thể làm nên chuyện thay vì cứ phải chăm sóc một bà lão già yếu. Bà Hattie tự hỏi liệu Martha có hài lòng khi đến nhà bà làm nhiệm vụ chăm sóc người ốm. Bà không bao giờ hỏi cô vì bà sợ mình sẽ là kẻ vẽ đường cho hươu chạy, để rồi một buổi sáng nào đó, một cô hộ lý đúng nghĩa sẽ suất hiện ở cửa thay vì Martha một người bạn tâm tình. Martha giúp bà Hattie mặc quần áo, đỡ bà lên xe lăn và đẩy bà ra ngoài nhà bếp và để cho xe ngay ngắn ngay trước bàn ăn. Bà Hattie nhìn Martha đi lại trong nhà bếp chuẩn bị bữa điểm tâm cho cả hai người. Cô gái đang hát, cũng như mọi khi thôi, bài hát hôm nay có tên Chúa Trời Luôn Dõi Mắt Đến Những Sinh Linh Nhỏ Bé Nhất. Cô gái chiên xúc xích rồi xúc mấy lon bột mỳ bỏ vào cái tô chuẩn bị nhào bột. - Ngày hôm nay chúng ta sẽ ăn bánh bột ngô thay vì ăn bánh biscuit như mọi khi, bà Hattie ạ. Tất nhiên là nếu bà cũng thích món này. - Thế thì ngon lắm. Bà Hattie trả lời, nhưng chỉ có một nửa tâm trí của bà là nghĩ tới nên ăn món gì. Còn nửa kia bà nghĩ tới những linh cảm đã đánh thức bà trong đêm tối. Bà nhắm mắt lại, những lời cầu xin từ tận đáy lòng thốt ra theo làn môi của bà. - Thưa Đức Chúa cha, kẻ thù muốn tiêu diệt một trong những đứa con của Người. Sinh linh nhỏ bé và tội nghiệp ấy đang đau khổ. Không ai có thể cứu giúp nó ngoài sự giúp đỡ của người! Bà nghe tiếng vỏ trứng đập vào cạnh chảo rồi nghe tiếng xèo xèo của trứng chiên trong mỡ nóng. Đứng cạnh bếp ga, Martha cũng kêu lên: - Xin hãy cho chúng con thấy quyền năng thiêng liêng của Người. Xin hãy cứu sinh linh nhỏ bé đang gặp nạn của Người. Bà Hattie mở bừng mắt. Martha lật trứng bỏ vào đĩa, mở lò nướng và mang bánh bột ngô đặt ra bàn. Hai người phụ nữ ngồi vào bàn cùng với cà phê nóng và bữa điểm tâm trước mặt họ. Mời các bạn đón đọc Đừng Để Chim Sẻ Non Gục Ngã của tác giả Linda Nichols.
Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân
Nhà xuất bản Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh đã cho ấn hành một trong những tác phẩm nổi tiếng của Pearl Buck đã được trao giải Nobel Văn Chương năm 1938 với tựa đề: Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Đã qua nửa đêm... Lương phu nhân hạ bút và gấp sổ thu chi lại. Ngôi nhà hoàn toàn im vắng. Tại tầng dưới, trong nhà hàng chỉ còn thưa thớt một vài thực khách đang ngồi nán lại. Ba xô ghế đứng dậy, chiếc ghế bành lớn bằng gỗ gụ, cùng bộ với cái bàn viết kiểu Trung Hoa nặng nề mà bà đã thừa hưởng của thân phụ, và mang từ quê nhà, tại một tỉnh xa đến đây. Bà đến bên cửa sổ, nhưng không vén mơ cánh rèm xa tanh màu đỏ. Mặc dầu được sống yên ổn, với tư cách là chủ nhân một nhà hàng đẹp nhất trong các khu tân tiến ở thành phố Thượng Hải, bà cũng không dại gì để bóng dáng mình in lên khuôn kính một căn phòng sáng trưng ánh đèn. Nào ai biết được kẻ thù đang ẩn nấp nơi đâu. Thiếu gì kẻ thấy bà nổi tiếng rồi ghen ghét. Chẳng ai biết bà đã xoay sở cách nào, để hàng ngày vẫn cung cấp được những món ăn thật đặc biệt, cho khách hàng là các nhân vật quan trọng trong chính giới, các đại thương gia tỷ phú, và các sĩ quan cao cấp trong quân đội. Hầu hết họ là bạn thân của bà. Bà ung dung đi đi lại lại trong nhà hàng, bề ngoài xem như chẳng quan tâm gì đến các sự lộn xộn chính trị. Chắc có nhiều kẻ ghen ghét, hậm hực với bà. Vì thế bà không vén rèm, mà chỉ luồn người ra ngoài để hé mở cửa sổ. Trong bầu không khí ấm áp của một buổi tối đầu hè, hương hoa nhài bay lên thoang thoảng. Ngôi nhà của bà trước kia là của một gia đình người Mỹ giàu có, bạn thân của bà. Sau khi có cuộc sung công các nghiệp vụ xuất nhập cảng tại Trung Hoa, gia đình này đã phải trở về nước. Lương phu nhân đã mua lại ngôi nhà này, cùng các khu vườn trong tô giới Anh cũ. Có rất nhiều người Mỹ cư ngụ trong tô giới Pháp và Anh, vì họ không có tô giới riêng. Trước khi Hồng Quân tiến chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, Lương phu nhân có nhiều bạn hữu trong đám người Mỹ này, vì vậy bà đã gởi ba ái nữ sang Hoa Kỳ du học. Giờ đây, dĩ nhiên là không còn một người Mỹ nào tại Trung quốc, nên cả một thế hệ thanh niên Trung Hoa, lớn lên mà chẳng biết mặt một người Mỹ nào, cũng như chẳng được nghe đến một tiếng Anh nào. Họ chỉ được nghe tiếng nói của hận thù đối với một dân tộc, mà riêng bà lại thấy là ít đáng hận thù hơn các người Tây phương khác. Người Mỹ là những người da trắng duy nhất không tàn ác, không cướp đất của người Trung Hoa. Bà thở dài nghĩ đến cái gia đình đầm ấm xưa kia đã cư ngụ dưới mái nhà này: Ông bà Brandon và năm người con. Họ yêu quí nước Trung Hoa biết dường nào. Họ yêu quí nước này đến nỗi đồ đạc trong nhà hoàn toàn theo kiểu Trung Quốc, với những bức tranh thủy mặc treo trên tường. Họ đã phải hấp tấp lìa bỏ tất cả, và Lương phu nhân đã lén bước sang nhà họ để tiễn chào vĩnh biệt. Bà Brandon đã tựa vào vai bà, khóc nức nở: - Ba Lương ơi: Sau này họ có cho chúng tôi trở lại nữa không? Bà xiết chặt người đàn bà Mỹ trong vòng tay mà chẳng trả lời. Làm sao ba có thể trả lời được rằng: “Bà sẽ không bao giờ được trở lại nữa”. Bởi vậy, tốt hơn là bà lặng thinh, và năm tháng cứ trôi qua trong khi đời sống càng ngày càng trở nên khó khăn hơn. Nhưng bà đã gởi mấy cô con gái của bà sang Hoa Kỳ sống với gia đình Brandon, và thỉnh thoảng... Mời các bạn đón đọc Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân của tác giả Pearl S. Buck.
Uyên Ương Gãy Cánh
"Với những trang sách chứa chan tình người, tràn ngập hình ảnh thơ mộng, sóng sánh chất thơ và bát ngát hương vị cảm xúc, Uyên Ương Gãy Cánh mang tình yêu xuống chiều sâu thẳm tận đáy hồn người với những lý luận ngọt ngào của trái tim, và nâng tình yêu lên độ cao nhất, bất diệt với thực tại siêu việt. Từ đó, người đang yêu đọc nó và mỗi sớm mai "được thức dậy lúc rạng đông với con tim chắp cánh, đưa lời cảm tạ vì có thêm một ngày yêu thương nữa." (Nguyễn Ước) *** Bản Việt ngữ này dịch từ cuốn The Broken Wings do Anthony R. Ferris dịch từ nguyên tác của Kahlil Gibran bằng tiếng Ả Rập sang Anh ngữ. Chúng tôi đã ngẫu cảm chuyển tựa đề Việt ngữ thành Uyên Ương Gẫy Cánh vì thấy nó rất phù hợp với những trang tình sử này. Người Đông phương đã đem vào huyền thoại loài chim Uyên ương sống từng đôi trống mái, mỗi con chỉ còn một cánh, phải chấp nhau mà bay cùng. Chúng ăn ở với nhau tình thâm nghĩa trọng đến nỗi nếu một trong đôi lứa có mệnh hệ nào thì con kia đành xếp cánh tuyệt vọng trước những từng trời thăm thẳm. Chim Uyên Kahlil Gibran đã nhỏ từng giọt máu trong tim chép lại chuyện tình của chính mình như một chúc thư cho những tình nhân mai sau. Mối tình đầu của con người tài hoa đa cảm đó cũng là mối tình không-thể-thay-thế của ông; sau khi bị quê hương hắt hủi lưu đày biệt xứ, tác giả suốt đời lang thang phiêu bạt và không bao giờ lập gia đình. Đủ thấy vết thương ở tim tác giả còn đau buốt mãi cho đến lúc vĩnh viễn nhắm mắt. Nhưng con chim Uyên cao thượng khác thường đó không phải chỉ biết cất tiếng hót sầu thảm để oán trách Trời Đất đã ghen với tài tử và hồng nhan. Cho nên người đời còn được đọc những tác phẩm hào sảng hùng tráng khác của Kahlil Gibran. Đó chính là nhờ ngọn lửa thiêng bất khả diệt trong tâm hồn tác giả. Và cũng nhờ sự hy sinh cao quý của chim Ương: tự mình cắt lìa chiếc cánh bị thương để chim Uyên có thể bay đi đem tiếng hót tặng cho đời... Người dịch mong mỏi rằng quý vị độc giả sẽ vì mủi lòng cho mối tình tan tác của hai tâm hồn u uất mà rộng lượng gạt đi những thành kiến, nhất là trong địa hạt tôn giáo, khi quý vị đọc bản chúc thư tình yêu này. Nghĩa cử đó sẽ muôn ngàn lần cao đẹp hơn là... nếu có dịp quý vị đặt những bó hoa lên mồ của những Uyên Ương gẫy cánh... Sau cùng, chúng tôi xin mạn phép tặng bản Việt dịch này cho một phụ nữ Việt Nam - chúng tôi không tiện nêu lên - đã can đảm sống theo một luân lý tự mình tìm ra, giữa một xã hội còn vương lại quá nhiều gông cùm của thành kiến và hủ bại. N. N. M.   *** Khalil Gibran (tên đầy đủ tiếng Ả Rập Khalil Gibran Gibran, đôi khi viết là Kahlil) (6/1/1883 - 10/4/1931) là một nghệ sĩ, nhà thơ và nhà văn Liban. Sinh ra tại thị trấn Bsharri ở phía bắc Liban ngày nay (lúc đó là một phần của Mount Lebanon Mutasarrifate, Đế quốc Ottoman), khi còn trẻ ông di cư cùng gia đình đến Hoa Kỳ, tại đó ông nghiên cứu nghệ thuật và bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình, viết bằng cả tiếng Anh và tiếng Ả Rập. Trong thế giới Ả Rập, Gibran được coi là một kẻ nổi loạn trong văn học và chính trị. Phong cách lãng mạn của ông là tâm điểm của sự phục hưng trong văn học tiếng Ả Rập hiện đại, đặc biệt là thơ văn xuôi, tách ra từ trường phái cổ điển. Tại Lebanon, ông được coi như một thiên tài văn học. Ông chủ yếu được biết đến trong thế giới nói tiếng Anh vì cuốn sách The Prophet (tiên tri) năm 1923 của ông, một ví dụ đầu tiên của tiểu thuyết truyền cảm hứng bao gồm một loạt các bài tiểu luận triết học được viết bằng thơ văn xuôi tiếng Anh. Cuốn sách bán rất chạy mặc dù bị chỉ trích lúc đầu. Nó được phổ biến trong những năm 1930 và một lần nữa trong những năm 1960 với nền văn học chống văn minh xã hội. Gibran là nhà thơ có sách bán chạy nhất thứ ba của mọi thời đại, sau Shakespeare và Lão Tử. Tác phẩm: Uyên ương gãy cánh Đóa Hoa Khát Vọng Ngôn Sứ (Kẻ Tiên Tri) Trầm Tưởng Tiếng vô thanh và người tình vĩnh cửu Giêsu Con của Con người Hoài vọng phương Đông Mật khải Tình yêu tận hiến Mây trên đỉnh núi và kẻ mộng du Nhà Tiên Tri ... Mời các bạn đón đọc Uyên Ương Gãy Cánh của tác giả Kahlil Gibran.