Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Buổi Tiệc Trà Kì Bí

Đầu năm mới, Kyoto khoác lên mình dáng vẻ vô cùng nhộn nhịp. Cô bé Mashiro Aoi đang làm thêm ở cửa hàng đồ cổ “Kura” trong khu phố Teramachi Sanjo cùng cháu trai ông chủ là Yagashira Kiyotaka được mời tới tham dự buổi “tiệc đọc sách” của tác giả thể loại văn học kì bí nổi tiếng, Aigasa Kurisu. Sự kiện ấy được tổ chức tại Sơn trang Yoshida vào buổi tối ngày Valentine. Trong buổi “tiệc đọc sách”, biên tập viên phụ trách và bạn bè thân thiết của Kurisu cũng được mời đến. Tại đó, em gái Kurisu đã yêu cầu Kiyotaka tìm ra thủ phạm định giết chị gái mình ba tháng trước… Đây là tập bốn của loạt tiểu thuyết kì bí thành công vang dội! * Holmes ở Kyoto là bộ tiểu thuyết kì bí nhẹ nhàng cực kì nổi tiếng, không chỉ tạo cơ hội cho độc giả làm quen với những nét đẹp văn hoá của mảnh đất Kyoto mà còn giới thiệu về muôn vàn món cổ vật nổi tiếng ở khắp nơi trên thế giới. Và rồi, mỗi món cổ vật đều cất giữ câu chuyện của riêng mình. *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** Một nhành dương liễu được tô điểm bằng những chiếc bánh mochi hồng và trắng. Mỗi khi năm mới đến, người ta sẽ lại bắt gặp món đồ trang trí dễ thương này. Nếu tôi không nhầm thì mochibana-shidare[1] là tên gọi của nó. Đồ trang trí trong dịp Tết có rất nhiều loại, nhưng tôi thích nhất là mochibana-shidare. Tôi, Mashiro Aoi, đang ngồi trên một chuyến xe buýt chật ních người. Vừa lắc lư theo chiếc xe, tôi vừa nhìn ra ngoài cửa sổ và nhoẻn miệng cười. Mùng ba tháng Giêng. Cả Kyoto đang tràn ngập niềm vui đón năm mới. Khắp nơi được trang hoàng lộng lẫy với shime-kazari[2], nebiki-matsu[3], mochibana-shidare, và những chiếc quạt giấy mạ vàng. Già trẻ gái trai trong trang phục truyền thống đi lại trên đường đông như mắc cửi. Ngỡ là toàn bộ thành phố đang trong mùa lễ hội rộn ràng. Tôi dám chắc những người đang đi lại trên phố này đa phần là khách du lịch. Có lẽ họ đến từ các tỉnh thành khác, muốn được tận hưởng dịp Tết ở một nơi “đậm chất Nhật Bản” như Kyoto, nên mới tới đây thăm thú đền chùa và xin lộc đầu năm. Và biết đâu, người ngoài trông thấy tôi lúc này cũng sẽ tưởng tôi là khách du lịch. Nhìn bộ dạng của bản thân hiện tại, tôi bẽn lẽn thu mình. Chiếc xe vừa dừng lại trước toà thị chính, tôi đã hấp tập nhảy xuống. Từ đường Oike, tôi đi xuyên qua biển người để tìm đến phố mua sắm Teramachi, Khu phố thương mại lợp mái vòm hôm nay còn náo nhiệt hơn thường ngày. Phần lớn những cửa hàng được xây kề nhau trong khu phố đã bắt đầu mở cửa từ mùng hai; chỗ thì chuẩn bị sẵn túi may mắn[4] chỗ lại phát rượu khai vị đầu năm[5]. Tất cả đều chìm trong bầu không khí hân hoan vui vẻ. Phố mua sắm Teramachi lúc này tấp nập ngang ngửa dịp cuối năm, nhưng cảm giác bề bộn, hối hả khi ấy đã không còn. Dù tính ra cũng mới có vài ngày kể từ khi năm cũ khép lại. Tới tận ngày ba mươi mốt tháng Mười Hai, tôi vẫn còn làm thêm ở đây. Vậy mà kì lạ thay, chỉ cần “sang năm mới” là tôi đã có cảm tưởng như lâu lắm mới được đặt chân đến nơi này. Nhịp bước nhún nhảy của tôi liệu có phải do tâm trạng phấn chấn trong không khí Tết? Cuối cùng thì ngày làm việc đầu tiên trong năm cũng đã đến. Phải, tiệm đồ cổ “Kura” nơi tôi làm thêm sẽ chính thức hoạt động trở lại vào hôm nay, mùng ba tháng Một. Ông chủ tiệm là ông Yagashira Seiji đã đề xuất rằng, “Vào ngày làm việc đầu tiên, tất cả đều phải có mặt nghen,” cho nên kể cả đứa làm thêm như tôi cũng được gọi đến. Ngoài việc trong cửa hàng ra, tôi tự thấy mình chẳng giúp được gì nhiều. Ấy vậy mà ông chủ vẫn mời tôi đến dự buổi gặp mặt đầu năm, khiến tôi vô cùng hạnh phúc. Cảm giác như mọi người đã thật sự công nhận tôi là một phần của tiệm “Kura”. Tôi tự nhủ mình phải vững vàng lên, mắt nhìn thẳng về phía trước và bước đi mạnh mẽ. Chẳng mấy chốc, tấm biển của cửa hàng đồ cổ “Kura” đã hiện ra trong tầm mắt. Bề ngoài của nó vẫn như mọi khi, giống một quán cà phê hơn là tiệm đồ cổ. Tiệm “Kura” hôm nay cũng đã chuyển sang “chế độ mừng năm mới”, với mặt tiền được trang hoàng bởi kadomatsu[6], shime-kazari, và cả mochibana-shidare. “Cháu chào mọi người ạ.” Khi tôi đẩy cửa bước vào, tiếng chuông cửa quen thuộc lại reo lên leng keng. “Ồ, Aoi đó hả?” Người vừa cất giọng sang sảng và ngoảnh lại nhìn tôi là ông chủ cửa hàng này, ông Yagashira Seiji, năm nay bảy mươi bảy tuổi. Ông là một người chuyên giám định đồ cổ nổi tiếng mang danh hiệu “Chuyên gia giám định cấp quốc gia” được đông đảo cư dân ở vùng Kansai này biết đến. Thường ngày, ông chủ hay ăn vận theo phong cách kinagashi phóng khoáng, nhưng hôm nay đã đổi sang lễ phục đầy đủ quần hakama[7] và áo khoác haori[8] cho đúng tinh thần lễ tết, cảm giác trịnh trọng và uy nghiêm hơn bội phần. Đứng cạnh ông chủ là con trai ông, bác quản lí Takeshi. Gọi là quản lí nhưng nghề nghiệp chính của bác ấy là nhà văn, chuyên sáng tác tiểu thuyết lịch sử với bối cảnh thời phong kiến. Bác gắn liền với hình ảnh vừa trông cửa hàng vừa cặm cụi cày bản thảo ở “Kura”. Hôm nay bác mặc một bộ kimono màu chàm. Đứng bên còn lại của ông chủ là một chàng thanh niên cao ráo với gương mặt khôi ngô đang nhoẻn miệng cười dịu dàng. Đó là cháu nội kiêm đệ tử của ông, anh Kiyotaka, hay còn gọi là anh Holmes, một sinh viên cao học đang làm giám định viên tập sự. Anh là người có đầu óc nhạy bén, được đặt biệt danh là Holmes nhờ vào khả năng quan sát và mắt thẩm định tinh tường hiếm thấy, cùng cái họ “Yagashira”. Anh Holmes lúc này cũng đang khoác trên mình một bộ kimono giống ông chủ và bác quản lí, nhưng màu mực tàu. Ở phía sau lưng họ có một người phụ nữ xinh đẹp. Cô là Takiyama Yoshie, đang điều hành một công ty chuyên tư vấn tổ chức những sự kiện liên quan đến mĩ thuật, đồng thời cũng là bạn gái của ông chủ. Cô có ngoại hình hết sức trẻ trung, tưởng như mới ngoài ba mươi, nhưng thực ra là một mĩ nhân đứng tuổi đã ngoại tứ tuần. Bộ hōmongi[9] xanh lục sáng như màu cỏ non hôm nay hoà hợp với cô một cách hoàn hảo. Đúng vậy, hôm nay, ngày làm việc đầu tiên của năm đã được quy ước là ngày “mặc kimono đi làm” nên tất cả chúng tôi đều diện trang phục truyền thống. “Chúc mừng năm mới Aoi nhé.” Được mọi người đồng thanh gửi lời chúc, tôi rụt rè cúi đầu. “Ch-Chúc mừng năm mới cả nhà mình ạ. Dù đã biết hôm nay sẽ như thế, nhưng nhìn mọi người đồng loạt mặc kimono thế này vẫn làm cháu hơi choáng ngợp.” “Tết là mặc kimono”, rất đúng kiểu của “Kura”. “Vậy nhưng, ở đây chỉ có một mình anh là mặc kiểu kinagashi thôi này.” Kinagashi là cách mặc trang phục truyền thống giản lược, không cần áo khoác haori hay quần hakama mà chỉ có kimonothắt obi. “Em thấy anh mặc đẹp lắm ạ.” Tôi có cảm giác là kiểu mặc kinagashi thanh thoát, không cầu kì sẽ hợp với anh Holmes hơn lễ phục cứng nhắc với đầy đủ haori và hakama. Mái tóc đen nhánh kết hợp với bộ kimonomàu mực tàu làm nổi bật lên làn da trắng trẻo của anh ấy, trông thật là quyến rũ. “Cảm ơn Aoi. Bộ komon ấy cũng rất hợp với em,” anh Holmes mỉm cười đáp. “Công nhận, cháu đáng yêu lắm.” “Phải đấy, trông rất xinh.” Cô Yoshie và bác quản lí cũng chêm vào. “... Ch-Cháu cảm ơn ạ,” tôi xấu hổ lí nhí. Đúng vậy, hôm nay tôi cũng mặc kimono. Gọi vậy thôi chứ nó không phải furisode mà là komon, loại kimono với hoa văn nhỏ phủ khắp thân áo. Những đoá hoa phớt hồng rải rác trên nền vải màu kem. Obi cũng có màu hồng nhạt tương tự, mặt trước trông như một bông hoa to sắp nở, tổng thể nhìn chung là hết sức dễ thương. Tôi ưng bộ kimono này vì nó trông không đến nỗi quá thường, nhưng vẫn nhẹ nhàng đủ để có thể thoải mái ra phố dạo chơi. “Bộ komon này có phải em mua ở ‘Kobo-san’ hồi trước không?” Anh Holmes hỏi, vẻ như muốn xác nhận lại. Tôi ngẩng lên nhìn anh và gật đầu đáp, “Vâng.” “Kobo-san” là tên thường gọi của hội chợ được tổ chức tại chùa To-ji vào ngày hai mươi mốt hằng tháng. Nó giống như một buổi chợ trời lớn song song với lễ hội. Vào ngày này, người ta sẽ mở sạp hàng kinh doanh đủ thứ trong khuôn viên chùa To-ji, từ quầy ăn uống, trò chơi, đồ cổ cho đến tạp hoá, quần áo cũ, kimono, thực phẩm. Trước đây, tôi đã có lần cùng anh Holmes đến đó, quy mô còn lớn hơn cả chợ hàng thủ công ở Hyakumanben Chion-ji. Nhân tiện thì ở Kyoto có ba hội chợ lớn được mở hằng tháng: chợ hàng thủ công tại chùa Hyakumanben Chion-ji vào ngày mười lăm, chợ Kobo-san tại chùa To-ji vào ngày hai mươi mốt, còn ngày hai mươi lăm là chợ Tenjin-san ở đền Kitano Tenmangu. Tôi tìm thấy bộ kimono này vào dịp cuối năm, trong lần đầu tiên đến chợ Kobo-san cùng cô bạn Miyashita Kaori. Khi cầm bộ kimono nằm trong xe chở hàng lên, Kaori đã bảo tôi rằng, “Chỗ này toàn món hời đó nha.” Nhà Kaori là một cửa hàng trang phục truyền thống danh tiếng với lịch sử lâu đời. Nghe được nhận xét của cậu ấy nên tôi cũng có thể yên tâm mua món hàng này. Kimono thường gắn liền với hình ảnh của một loại trang phục đắt đỏ, không dễ gì mua được, nhưng những bộ được bày bán ở hội chợ lại rẻ hơn tôi nghĩ, chỉ với khoản lương làm thêm của tôi cũng dư sức trả rồi. Nghĩ lại thì trước khi chuyển đến sống ở Kyoto, việc bỏ tiền túi ra mua một bộ kimono với tôi là chuyện không tưởng. Thực ra obi là đồ có sẵn ở nhà, còn cách mặc thì tôi phải nhờ bà giúp. Tôi chạm tay vào obi, trong lòng mong mỏi một ngày nào đó mình có thể tự mặc kimono. “Mọi người tập hợp đồng đủ rồi, giờ ta cụng ly khích lệ tinh thần làm việc đầu năm nhé.” “Của Aoi là amazake[10] nhỉ.” Anh Holmes rót sake và amazake vào chén, sau đó đưa rượu cho từng người theo thứ tự tuổi từ thấp đến cao, bắt đầu từ tôi, cô Yoshie, quản lí, và cuối cùng là ông chủ kèm câu: “Mời ông ạ.” Chẳng biết có phải do trang phục truyền thống hay không, mà mỗi động tác của anh Holmes đều quyến rũ hơn bình thường, khiến tôi không tài nào nhìn thẳng được. “E-Em cảm ơn ạ,” tôi nhận lấy chén rượu và e lệ cụp mắt xuống. Đúng lúc mọi người đang chuẩn bị nâng ly, tiếng chuông leng keng vang lên ngoài cửa, và anh Akihito hớt hải xông vào, “Xin lỗi cả nhà, cháu đến muộn! Năm mới vui vẻ ạ!” Anh ấy cũng đóng bộ chỉnh tề với hakama và haori có màu xanh chủ đạo. Mái tóc sáng màu nhìn qua tưởng chừng không ăn nhập với phục trang, thế mà lại hoà hợp đến bất ngờ. Hiện nay, anh Akihito đang được công chúng khen ngợi là một “diễn viên điển trai”. Chắc nhờ thường xuyên mặc trang phục truyền thống trên chương trình giới thiệu Kyoto “Tiết trời Cố đô” nên anh ấy đã quen với kimono rồi. “‘Xin lỗi cả nhà’ gì chứ, có ai mời anh đâu nhỉ?” “Bậy nào.” Bị anh Holmes ném cho một cái nhìn lạnh tanh, anh Akihito lắc đầu nguầy nguậy. “Hôm mở tiệc giao thừa, ông chủ đã dặn tôi rằng: ‘Mồng ba tiệm bắt đầu mở cửa trở lại, cậu hổng mắc việc gì thì nhớ ghé qua nghen. Có cậu Akihito tới bao giờ cũng vui.’ Tôi được ông chủ chiếu cố bấy lâu nay, nghe thế sao có thể không đến được.” Anh Akihito vừa cười vừa tét một phát vào cánh tay anh Holmes. Đối nghịch lại, anh Holmes xoa xoa chỗ tay bị tét với ánh mắt lạnh lùng. Hai con người này mới đầu năm đã thế, chẳng thay đổi gì. “Vậy là cậu Akihito cũng tới rồi.” Ông chủ đích thân rót sake vào chén và trao cho anh Akihito. Anh Akihito nhận lấy với vẻ trân trọng. “Nào, Takeshi, Kiyotaka, Yoshie, bé Aoi, cậu Akihito. Năm nay vẫn lại tiếp tục chiếu cố nhau nghen” Ông chủ cao giọng hô: “Cụng ly!”, chúng tôi cũng đồng loạt nâng chén và nói: “Cụng ly!” rồi uống một hơi cạn chén. Có lẽ do tôi đã thấm mệt vì không quen mặc kimono, lại phải đi từ nhà đến tận đây, nên ngụm amazake thanh mát ấy cảm giác ngon vô cùng. “Ơ, Aoi cũng uống sake à?” “Dạ không, mình em uống amazake ạ.” “À ừ, em vẫn còn vị thành niên nhỉ. Lớp Mười Một đúng không?” “Vâng, em sẽ lên lớp Mười Hai vào mùa xuân ạ.” “Phải rồi Aoi, nói đến mùa xuân thì xuân năm nay đứa con trai đang đi du học của cô sẽ về nước đấy. Mong cháu giúp đỡ thằng bé nhé,” cô Yoshie chêm vào một câu như thể vừa sực nhớ ra. Tôi bị bất ngờ, nhưng vẫn gật đầu đáp: “V-Vâng ạ.” Nhắc mới nhớ, Cô Yoshie có một đứa con trai. Nếu tôi không nhầm thì cậu ấy đang học lớp Mười, nghĩa là nhỏ hơn tới một tuổi. Con của cô Yoshie thì hẳn phải đẹp trai lắm. Trong lúc mọi người đang sôi nổi trò chuyện, ông chủ nhìn đồng hồ rồi chậm rãi đứng dậy. “Thôi, bọn ta đi trước nghen.” “Vậy bố cũng...” “Khoan.” Thấy ông chủ và quản lí lại chuẩn bị đi đâu đó, anh Holmes vội lên tiếng. “Ông và bố có thể nán lại một chút rồi mới đi có được không ạ? Hôm nay dù sao cũng là ngày mở hàng, con muốn dẫn Aoi đến thăm Yata Jizo-son.” Nghe anh Holmes nói, tôi nghiêng đầu thắc mắc: “Yata Jizo-son ấy ạ?” “Là ngôi chùa Địa Tạng ở ngay gần đây. Ngày làm việc đầu tiên nên anh nghĩ cũng nên đến chào hỏi chút.” “À, chỗ bên cạnh đồn cảnh sát phải không ạ?” Tôi vỗ hai tay vào nhau. Hôm nào đi làm tôi cũng trông thấy nơi đó, nhưng không mấy để tâm nên đến tên cũng chẳng biết. Tôi tự dưng thấy có lỗi vì sự thiếu lễ độ của mình. “Cũng được, mà đi lẹ lẹ nha. Ta hổng có đợi được lâu đâu,” ông chủ ngúng nguẩy quay đi. “Nói gì thì đây vẫn là cửa hàng của ông đấy ạ. Ông định trốn việc đi chơi mà sao còn giở giọng hách dịch với con cháu thế?” “Ta còn nhiệm vụ đi chúc Tết rất quan trọng đó. Đã thế thì bây làm thay ta đi nhá?”   Mời các bạn mượn đọc sách Buổi Tiệc Trà Kì Bí của tác giả Mai Mochizuki & Dương Dương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vị Bá Tước Thứ Năm Của Giòng Họ Hauberk - Aldous Leonard Huxley
Aldous Leonard Huxley sinh năm 1894 trong một gia đình nhiều đời làm công tác khoa học: ông nội và bố là những nhà sinh học lớn của nước Anh. "Tuổi trẻ thất trận" (The Defaith of Youth - 1918) mở đầu sáng tác của ông, cũng là mở đầu cho "Thế kỷ đen" ở Anh. Loạt sáng tác kế tiếp trong nhiều năm vẫn nằm trong dòng tư tưởng bi quan: liệu những người tự cho là có trách nhiệm bảo vệ giá trị tinh thần và vật chất của loài người, họ có làm tròn nhiệm vụ không, hay ngược lại họ đang phá hỏng cái gia tài chung ấy? Ông không tin ở những món quà thế kỷ 20 mang tới. "Vàng mạ kền" (Crome Yellow - 1921) "Phản bác" (Point Counter Point -1928): những bức tranh châm biếm cái xã hội tứ chiếng, phè phỡn của châu Ảu những năm 20. "Thế giới mới dũng cảm" (Brave New World - 1932) chỉ giễu tham vọng Mỹ hóa thế giới của các trùm tài phiệt và trùm văn hóa Mỹ. "Bình yên dưới đáy sâu" (1945) phê phán nếp sống gấp... (Jouvence - tên tác phẩm của tập này) ra đời năm 1954. Bằng nhận thức sắc sảo, trí tuệ Aldous Huxley nhìn ra cái thế giới của Con Bò Vàng, ông mất năm 1963 ở California - Mỹ. *** Tại vùng ngoại ô một thành phố miền Nam California, có một tòa lâu đài kỳ dị, cao đến 24 tầng, xây dựng trên đỉnh đồi. Bao quanh khu nhà là hai lớp tường, rồi một hào nước sâu, ra vào bằng một cái cầu treo kiểu trung cổ. Đó là trụ sở một siêu công ty kinh doanh từ xăng dầu, hầm mỏ, ngân hàng tới nghĩa trang, mồ mả. Tòa nhà có đủ cơ quan và phương tiện tối tân, có cả nhà thương làm phúc cho trẻ, thảo cầm viên, một viện nghiên cứu khoa học với các chuyên viên cực giỏi. Phần trên dành riêng cho chủ nhàn và cô nhân tình với một bể bơi hiện đại cách một đất trên 200 mét. Nơi đây đã xảy ra một vụ án tình, kẻ giết người chính là Stoyte. Tỷ phú Stoyte có quá nhiều thú vui nên chỉ có một mơ ước: tìm ra phương thuốc trường sinh. Một học giả Anh có trong tay tài liệu của dòng họ Hauberk ở Anh từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17 về phương thuốc. Vị Bá tước thứ năm của dòng họ này, cách đây trên trăm năm đã ứng dụng và ghi chép kỹ diễn biến trên cơ thể ông và một người tình cùng dùng thuốc với ông cho đến năm ông gần trăm tuổi. Có chứng cứ nói rằng hai người cho đến nay vẫn còn sống dưới hầm bí mật của một tòa lâu đài cổ đâu đó ở Bắc Anh. Stoyte đang thất tình, đang bê bối trong vụ án bèn cùng với cô nhân tình và nhà khoa học tới nước Anh truy tìm hai con người bất tử kia. Họ còn sống hay đã chết? Câu trả lời phải dành cho ngòi bút trào lộng mà cay đắng của Huxley. Mời các bạn đón đọc Vị Bá Tước Thứ Năm Của Giòng Họ Hauberk của tác giả Aldous Leonard Huxley.
Ông Cố Vấn: Hồ Sơ Một Điệp Viên - Hữu Mai
Ông cố vấn: Hồ sơ một điệp viên là một tiểu thuyết của nhà văn Hữu Mai, viết về cuộc đời hoạt động của nhà tình báo Việt Nam Vũ Ngọc Nhạ trong khoảng thời gian từ năm 1958 đến năm 1975. Tác phẩm được xuất bản lần đầu vào năm 1987, bao gồm 3 tập, và được tái bản nhiều lần. Lần tái bản gần nhất vào năm 2002, khi đó tác phẩm đã được chỉnh, hiệu đính và gom lại thành 2 tập. Tiểu thuyết kể về cuộc đời hoạt động của nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ và mạng lưới tình báo A.22. Bằng tài năng của mình, Vũ Ngọc Nhạ đã trở thành “Ông Cố vấn” đáng tin cậy trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa, cung cấp cho Hà Nội những thông tin tình báo quan trọng, góp phần vào chiến thắng cuối cùng giải phóng đất nước. *** CUỐI năm 1969, cả Sài Gòn xôn xao vì mới tìm ra một lưới tình báo quân sự của Việt Cộng nằm ngay trong những cơ quan đầu não của chính quyền Việt Nam cộng hòa. Báo chí đưa tin bằng những hàng tít lớn: “Vụ án gián điệp lớn nhất thời đại”[1], “Vụ án chính trị của thế kỷ”[2]. Các bị cáo đều là những nhân vật quan yếu trong chính phủ Sài Gòn: người là cố vấn đặc biệt của tổng thống, người là cấp bộ trưởng, người là tham chánh văn phòng bộ chiêu hồi... Có nhà bình luận còn nói trong số những người bị đưa ra xét xử, có người được coi là ứng cử viên tổng thống nhiệm kỳ sắp tới. Những cơ quan thông tin đại chúng nước ngoài, đặc biệt là của Mỹ, đã đưa nhiều tin tức về vụ án. Năm 1983 trong cuốn hồi ký của mình[3], Ralph McGehee, một nhân vật CIA kỳ cựu, đã nhận chính CIA dã làm áp lực mạnh mẽ với tổng thống Thiệu để tiến hành chiến dịch phá lưới gián điệp này. Vì nội vụ đề cập tới những nhân vật quan yếu trong chính phủ, những nhà hoạt động chính trị xã hội có uy tín rộng rãi trong quần chúng, nên người phúc trình tin tức đã được chính Dale Waites kiểm tra bằng máy dò sự thật (Polygraph Tost). Cuối cùng, ngày 28-11-1969, chính quyền Sài Gòn đã cho mở phiên tòa quân sự tại Sài Gòn để xét xử những bị can. Trên một trăm ký giả trong và ngoài nước đã có mặt tại Nha Quân pháp ở đại lộ Bạch Đằng chật ních người đến theo dõi vụ án. Bản cáo trạng dài 23 trang, đọc hết một tiếng rưỡi đồng hồ. Theo tường thuật trên báo chí, “Vụ án này rất căng thẳng và quan trọng, vì qua hồ sơ không có một đảng phái chính trị nào, một nhân vật chính trị nào mà không có liên quan ít nhiều đến vụ án. Xếp hồ sơ đó nặng gấp 200 lần so với bản cáo trạng đã đọc...”[4]. Sau ngày giải phóng Sài Gòn, chúng ta đã tìm được toàn bộ những hồ sơ đó tại Nha Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia của chính quyền Sài Gòn. Trong tập 1 của hồ sơ, có thể trích ra vài nhận xét sau đây: “Từ trước đến nay, ngoại trừ những giai thoại giả tưởng trong tiểu thuyết trinh thám, chưa bao giờ có những tổ điệp báo thành công đến như thế. (...) Cụm A.22 hoạt động và phát triển đều đặn và đã thi thố nhiều thủ đoạn mà chúng ta phải nhìn nhận là huyền diệu và xuất sắc... Cụm đã phát triển một hệ thống diệp vụ vô cùng quan trọng và đã len lỏi vào được nhiều cơ quan đầu não của Việt Nam cộng hòa (...) Những tin tức chiến lược mà Cảnh sát Quốc gia biết họ đã cung cấp, đều có giá trị giúp cho Hà Nội có được những dữ kiện chắc chắn khi ấn định chính sách của họ đối với cuộc chiến tranh hiện nay. (...) Các dự án quốc gia đều được Cụm A.22 thu thập và phúc trình và nhờ cụm tình báo chiến lược mà các cấp lãnh đạo Hà Nội biết nhiều điều cơ mật mà chính các Tổng Bộ trưởng Sài Gòn không biết. (...) Họ đã tiếp xúc được với các yếu nhân Việt Nam và cũng gặp gỡ đàm luận dễ dàng với các yếu nhân Mỹ như CONLON, HEAVNER, SMITH, COLBY, BURGER...”[5]. Các báo chí Sài Gòn đều ghi nhận “tất cả bị can đều có nét mặt tươi cười và rất tự nhiên”, “như đi dự đám cưới”, “tất cả cũng vẫn có vẻ đẹp trai”... Hơn hai mươi luật sư biện bộ, trong đó có những người danh tiếng nhất, đứng sau lưng họ. Phiên tòa trở thành diễn đàn vạch rõ những mâu thuẫn trầm trọng của chế độ Sài Gòn, giữa chính quyền với các đảng phái, tôn giáo, đồng minh chiến lược Hoa Kỳ, giữa những cá nhân trong những tổ chức nảy, với những bằng chứng cụ thể không thể bác bỏ, và công khai tuyên truyền cho đường lối hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc. Một luật sư đã nói: “Là người biện hộ trong vụ án, tôi như ếch ngồi đáy giếng mà miệng giếng đã bị tổng thống Thiệu đậy lại rồi...”. Vũ Ngọc Nhạ, người bị tố cáo cầm đầu lưới gián điệp, xuất hiện trước tòa với bộ áo trắng, quần đen, cravat nâu, ung dung cầm một xấp giấy trắng, miệng luôn luôn tươi cười. Riêng anh từ chối nhờ luật sư biện hộ cho mình và cũng không tự bào chữa. Anh tuyên bố những việc mình đã làm chỉ có lịch sử phán xét. Tất cả những bị can không ai có một lời đề nghị được khoan hồng. Nhạ và hai đồng đội chính của anh đã bị án chung thân khổ sai. “Lần đầu trong một vụ án quan trọng và trước những bản án nặng nề, người ta không hề ghi nhận một tiếng khóc nào và chỉ thấy những gương mặt vui thân và nghe những tiếng cười...”[6]. Trước rất đông công chúng tụ tập ở cửa tòa án, vây quanh chiếc xe bịt bùng đưa những người vừa bị kết án về trại giam, Nhạ nói với mọi người: “Các bạn cứ chờ xem, một trang sử mới sắp lật qua. Không còn bao lâu nữa đâu!”. Anh và các bạn hướng về những máy ghi âm, ống kính truyền hình, máy ảnh của những ký giả nước ngoài chõ về phía họ, nói bằng tiếng Pháp và tiếng Anh: “Cuộc đấu tranh chưa kết thúc, đến đây chỉ mới tạm dừng. Chúng tôi ra đi nhưng nhất định chúng tôi sẽ trở về...” Họ đã giữ đúng lời hứa. Ba năm sau đó, họ lại xuất hiện ở Sài Gòn, tiếp tục cuộc chiến đấu trên mặt trận thầm lặng cùng với bao nhiêu đồng chí khác, trong đó có nhiều người dã lập nên những kỳ tích mà chúng ta còn chưa biết tới. Vụ án trở thành một vấn đề thời sự sôi nổi. Dư luận cho là nó còn chứa đựng nhiều nghi vấn. Theo nguồn tin từ dinh Độc Lập, tổng thống Thiệu trong những cuộc trao đổi riêng tư đã nói đây là một việc làm xấu xa của CIA nhằm bôi nhọ uy tín cá nhân mình. Sau đó lại có tin tỉnh trưởng Côn Sơn (Côn Đảo) đã bị thay. Người ta nói tổng thống đưa người của mình ra nắm quyền hành ở Côn Sơn, để chăm sóc ông cố vấn vừa ra đó bắt đầu cuộc sống lưu đày. Giáo hoàng Paul VI cũng gửi tới Côn Sơn tặng ông nguyên cố vấn huy chương “Vì Hòa bình” với một bức thư tỏ lòng ngưỡng mộ người chiến sĩ Công giáo đã cống hiến nhiều cho hòa bình vì lý tưởng thiêng liêng của Chúa. Cho đến những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn tháng 4-1975, Nguyễn Văn Thiệu vẫn giữ quan hệ với người cố vấn cũ của mình, coi đây là một mối quan hệ tốt đẹp trong suốt cuộc đời chấp chính. Tập hồ sơ sau đây sẽ đưa ra ánh sáng những vấn đề đến nay còn chưa rõ ràng chung quanh vụ nghi án. Nó được trình bày dưới dạng tiểu thuyết để cho về hình thức đỡ khô khan. Tuy nhiên, điều mong mỏi chủ yếu của tác giả là được chuyển tới bạn đọc những sự kiện, những chi tiết chân xác, với những con người thật. Bạn đọc có thể gặp nhiều nhân vật của cuốn sách này đang tiếp tục cuộc sống bình dị của họ sau những biến cố lịch sử ở nước ta, cũng như ở đâu đó một số nước ngoài. Nếu có những điều sai sót về họ, tác giả rất mong sẽ được chính họ góp ý kiến để bổ cứu cho lần in sau nếu cuốn sách có được may mắn đó. HỮU MAI Mời các bạn đón đọc Ông Cố Vấn: Hồ Sơ Một Điệp Viên của tác giả Hữu Mai.
Mưu Sát - Tử Kim Trần
Sách Nói Mưu Sát Từ Sách tốt nghiệp tiến sĩ ngành Tâm lý học ở trường Đại học California của Mỹ. Người mẹ đơn thân của anh bị chết trong vụ phá dỡ nhà của Ban Cải tạo khu vực cũ. Anh ta từ Mỹ trở về để báo thù cho mẹ. Đầu tiên, anh ta giết hại Phó Giám đốc Sở Công An huyện, gây rúng động cả huyện, khiến Cao Đông, người bạn học cũ của Từ Sách, là cảnh sát hình sự tài giỏi phải vào cuộc để phá án.Từ Sách đã dàn dựng nên kế hoạch trả thù vô cùng hoàn mỹ, liệu Cao Đông có thể ngăn chặn được sự trả thù này hay không? *** “Đây là một tác phẩm không dùng nhiều chiêu trò thủ đoạn mà thực tế hiếm có. Hãy tin tôi, bạn nhất định không được bỏ qua nó.” – Chu Hạo Huy “Tử Kim Trần đã hòa trộn một số vấn đề nghiêm trọng của xã hội hiện nay vào trong tác phẩm. Thông qua việc khắc họa tâm lý của kẻ tội phạm, khiến chúng ta đứng từ một góc độ khác để suy nghĩ và tìm hiểu một cách nghiêm túc về công bằng trong thể chế xử phạt của pháp luật.” – Lôi Mễ *** Bước vào tháng 12, sau mấy đợt không khí lạnh tràn tới, nhiệt độ đột ngột hạ xuống thấp, mùa đông hình như đã đến thật rồi. Mặt trời dần ngả về phía tây, Từ Sách mặc một chiếc áo khoác rộng, khẽ khom lưng trong cơn gió lạnh, xách theo túi đồ và bước chậm rãi men theo đường Duyên Hải Nam đi về phía tây. Ở ngã tư có đèn xanh đèn đỏ, anh ta ko dừng lại, mà rẽ sang phải đi về hướng bắc tiến vào đường Phong Tây. Ko ngẩng đầu, nhưng đôi mắt anh ta lại một lần nữa quan sát một lượt máy quay camera trên đỉnh đầu. Vị trí của máy quay nằm ở trên đèn xanh đèn đỏ, cách mặt đất khoảng 8m, phương hướng nhắm về phía đường Duyên Hải Nam, dùng để ghi lại những chiếc xe vượt đèn đỏ. Qua mấy lần quan sát, anh ta phán đoán, đây chắc là máy camera cố định, ko chuyển động, chắc ko thể nào quay được đến cảnh ở đường Phong Tây. Nhưng đây chỉ là có lẽ, anh bắt buộc cần phải đảm bảo chắc chắn không có chút sơ sẩy, bóp chết tất cả những nhân tố tiềm ẩn có thể dẫn đến sự thất bại. Được rồi, cần phải nghĩ kỹ về các chi tiết nữa. ... Mời các bạn đón đọc Mưu Sát của tác giả Tử Kim Trần.
Cái Hôn Của Tử Thần - Ira Levin
TÌNH YÊU – THAM VỌNG – TỘI ÁC là ba phạm trù xoắn tít nhau tạo nên nhân vật "hắn". Hắn là ai? - Là người chúng ta bắt gặp trên đường phố, trong công viên, trong quán ăn, trong rạp hát, trong nhà trường...trong xã hội đó – Xã hội mà nhà văn nổi tiếng của Mỹ, ATR BUCHW ALD gọi là Xã Hội Vĩ Đại. Vĩ đại là vì nó đã sản sinh ra những đứa con sẵn sàng thản-nhiên-đến-lạnh-lùng gây tội ác để thực hiện những ước mơ, tham vọng cuồng điên. Hắn là ai? - Là một sinh viên hai mươi bốn tuổi đã khiến chúng ta phải rùng mình ghê sợ trước cái vẻ lì lợm, trâng tráo và tính tàn ác độc địa của hắn, là người vẫn còn bình tĩnh tự đánh giá về mình ngay sau khi đã phạm tội ác tầy đình: "Mày là một thằng điên!... Nhưng thực sự thì không bao giờ hắn gán cho mình là một thằng điên cả. Hắn nghĩ hắn là một thằng thông minh, gan da, anh hùng và liều lĩnh". Đấy! Hắn đấy – sản phẩm của một nền giáo dục bị tha hóa bởi sự sùng bái Danh Vọng và Tiền Tài Vật Chất. *** Kế hoạch của hắn đang tiến hành thông suốt thì giờ đây nàng lại làm hỏng đi. Một nỗi căm giận bùng lên phủ chụp xuống người hắn khiến khuôn mặt hắn trở nên méo mó một cách thảm hại. Cũng may đèn lúc này tắt. Còn nàng đang nằm trong bóng tối, úp mặt trên chiếc ngực trần của hắn khóc rấm rứt. Hơi thở của nàng phả ra nóng bỏng. Hắn muốn đẩy nàng ra. Nét mặt hắn dần dần dịu lại. Hắn choàng tay qua ôm và nhẹ xoa tấm lưng trần của nàng. Cái lưng hâm hấp nóng hay tại vì bàn tay hắn giá lạnh? Đôi chân hắn cựa quậy mãi như mỗi khi có điều gì làm hắn điên tiết lên hoặc khiến hắn không tiên liệu được. Hắn nằm yên lặng một chốc, đợi cho cơn giận lắng xuống. Hắn với tay kéo cái mền đắp lên đôi vai tròn trĩnh của nàng. - Khóc chẳng làm được cái quái gì cả – Hắn nói nhỏ. Ngoan ngoãn nghe lời hắn, nàng cố ngăn chặn tiếng nấc, lấy cái lai mền đã sờn lau nước mắt. - Em biết từ lâu, đã mấy tuần qua… nhưng em không dám nói, đợi xem chắc chắn… Bàn tay trên lưng nàng bỗng nóng rực hơn. - Em có nhầm lẫn không? – Hắn thấp giọng dù căn phòng vắng vẻ. - Không - Bao lâu rồi? - Khoảng hai tháng. Nàng ngẩng đầu lên. Trong bóng tối hắn nhìn thấy đôi mắt nàng đang nhìn hắn chăm chú. - Mình làm gì bây giờ hả anh? - Em không nói tên thật cho bác sĩ biết chứ? - Không, nhưng bác sĩ biết em nói dối. Thật khó… nếu ba em hay được… - Nàng lại ngã đầu lên ngực hắn. Hắn khẽ nhấc thân hình, một phần như để nhấn mạnh điều hắn sắp nói, một phần muốn đẩy nàng ra vì sức nặng đè nặng trên ngực làm hắn khó chịu. - Dorrie, nghe anh nói. Anh biết em muốn anh phải nói rằng chúng ta sẽ làm đám cưới vào ngày mai – cưới ngay! Em muốn anh phải nói rằng anh rất muốn lấy em làm vợ – Hắn ngừng, tìm lời. Thân hình nàng xoăn vào hắn, đợi chờ – Nhưng nếu ta cưới nhau theo kiểu này, bản thân anh trước đây chưa từng gặp ba em, vài tháng sau đứa bé lại chào đời… Em hẳn rõ ba em sẽ làm gì rồi. - Ba em không làm gì được – Nàng phản đối – Ba em chẳng làm gì được. - Anh không có ý nói đến việc hủy bỏ đám cưới hay đại loại việc gì như thế. - Vậy anh muốn đến cái gì? – Nàng sẵng giọng. - Vấn đề tiền bạc – Hắn trả lời – Dorrie, em biết ba em thuộc hạng người như thế nào không? Em đã kể cho anh nghe về ba em và thứ đạo đức thánh thiện của ông rồi. Mẹ em chỉ một phút lầm lỡ; tám năm sau ông phát hiện được và đã ly dị mẹ em không một chút thương tiếc, bất kể đến em, bất kể đến chị em của em, bất kể đến sức khỏe suy yếu của mẹ em. Nào, em thử nghĩ ba em sẽ đối xử với em ra sao? Ông sẽ không còn biết em có mặt trên cõi đời này nữa đâu. Em sẽ không đụng được đến một hào nào của ông hết. - Em không cần – Nàng sôi nổi nói – Anh tưởng em cần tiền đó lắm à? - Em không cần nhưng anh cần – Bàn tay hắn nhè nhẹ mơn trớn lưng nàng – Không phải cần cho riêng anh, anh thề có trời đất chứng giám. Anh chỉ nghĩ đến em. Chuyện gì sẽ xảy ra cho chúng ta? Cả anh lẫn em đều phải thôi học. Em chăm sóc con. Anh đi làm. Anh sẽ làm gì? Một gã chỉ có hai năm đại học, không một mảnh bằng, sẽ làm cái nghề ngỗng gì đây hử? Một chân thư ký quèn? Một thợ vô dầu mỡ tại một nhà máy dệt? Hoặc là gì gì đó nữa? - Không quan trọng… - Sao lại không? Em có hiểu là nó cực kỳ quan trọng không? Em mới mười chín tuổi và lâu nay trong tay em luôn luôn có sẵn tiền. Thử hỏi em sẽ sống ra sao nếu em không có một đồng xu teng nào cả? Bản thân anh thì quá rõ điều này. Chúng ta suốt năm sẽ cấu xé nhau không biết mệt. - Không, không bao giờ có chuyện ấy. - Em cho rằng ta yêu nhau thì không thể có chuyện như thế xảy ra phải không? Em nghĩ chúng ta sẽ ở đâu? Ở trong một phòng trọ rẻ tiền? Aên mãi một món xpagéti suốt tuần suốt tháng? Nếu anh thấy em sống trong điều kiện như vậy và biết là lỗi tại anh nên mới ra cớ sự… - Hắn ngừng một lúc rồi hạ giọng nói tiếp – Anh sẽ đi bảo hiểm sinh mạng, sau đó lao mình vào mũi xe ô tô. Nàng lại bắt đầu thút thít khóc. Hắn nhắm mắt, mơ màng, giọng quyến rũ: - Anh đã vẽ ra trong óc một chương trình tuyệt đẹp. Vào dịp hè này chẳng hạn, em đưa anh lên New York giới thiệu với ba em. Chắc chắn ba em sẽ thích anh. Ba em để tâm đến cái gì, thích cái gì, ghét cái gì, anh đều biết. – Hắn ngừng lại – Và sau khi tốt nghiệp, mình sẽ làm lễ kết hôn, hoặc ngay vào dịp hè này luôn. Chúng ta sẽ trở lại đây vào tháng chín, chuẩn bị cho hai năm đại học cuối cùng. Và một căn nhà nho nhỏ gần khu đại học… Nàng ngẩng đầu dậy. - Anh định làm cái trò gì thế? – Nàng gằn giọng – Tại sao anh lại nói đến những chuyện này chứ? - Em nghĩ xem lúc đó em đẹp biết dường nào! Em thấy không? - Anh tưởng anh biết thôi à? – Giọng nàng nghẹn lại vì khóc – Nhưng bây giờ em đang có thai. Hai tháng rồi, anh biết không? – Một sự im lặng bỗng sụp xuống như thể tiếng động cơ ô tô bất chợt chết máy – Anh đang lẩn tránh sự thật này phải không? Anh muốn bỏ rơi em phải không? Anh muốn thế chứ gì? - Ồ, không có chuyện đó đâu em – Hắn bấu vai nàng, kéo khuôn mặt nàng lại sát mặt hắn – Không có chuyện ấy đâu, Dorrie. - Vậy anh sẽ làm gì cho em? Mình phải làm đám cưới ngay. Không còn sự lựa chọn nào khác. - Có chứ, Dorrie – Hắn nói cảm thấy tấm thân tê dại của nàng đang ép chặt vào người hắn. Nàng thì thào hốt hoảng: - Anh, đừng làm thế,anh ơi! – Nàng vùng vẫy, lắc đầu vẻ sợ hãi. ... Mời các bạn đón đọc Cái Hôn Của Tử Thần của tác giả Ira Levin.