Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuồng Vọng

Vật lạ đến từ một nơi nào đó trong không gian. Đó là một khối tinh vân rắn - một đám mây khổng lồ do nhiều khối băng, đá, bụi bặm và các loại khí kết tụ lại - có mặt cùng lúc với sự hình thành của vũ trụ, khi những hành tinh trong hệ thống mặt trời xuất hiện từ bốn tỉ sáu trăm triệu năm trước. Ngay sau khi những hạt li ti rời rạc của nó đông lại thành một khối cứng rắn có đường kính rộng một dặm, nó bắt đầu lặng lẽ di chuyển cực nhanh qua không gian trống trải, mênh mông, trên một quĩ đạo quanh mặt trời và những ngôi sao gần nhất, một hành tinh kéo dài nhiều ngàn năm từ lúc khởi đầu đến khi chấm dứt... *** Clive Cussler sinh năm 1931 tại bang Illinois (Mỹ) nhưng tuổi thơ và quá trình trưởng thành lại gắn liền với vùng đất California. Ông từng là thợ máy phục vụ trong Không quân Mỹ suốt thời kỳ Chiến tranh Triều Tiên. Năm 1973, tác phẩm đầu tay của ông được phát hành. Sau đó, tên tuổi của Cussler nhanh chóng được khẳng định khi cho ra mắt cuốn "Raise the Titanic!" vào năm 1976, số lượng phát hành cuốn sách này cùng cuốn "Sahara" lên tới hàng chục triệu bản và được coi là tác giả của những tiểu thuyết bán chạy nhất nước Mỹ. Theo New York Times, Cussler sở hữu khối tài sản lên tới 80 triệu USD. Có thể thấy, trong sự nghiệp sáng tác của mình, Cussler đã phát hành hơn 80 cuốn sách trong đó phần lớn mang đề tài bí hiểm và những tác phẩm của ông được phát hành ở hơn 100 nước trên thế giới, đồng thời được dịch ra khoảng 40 thứ tiếng. Bên cạnh công việc tiểu thuyết gia, Clive Cussler còn sở hữu và điều hành Cơ quan Hàng hải và dưới nước quốc gia Mỹ - một tổ chức phi lợi nhuận, phát hiện hơn 60 xác tàu, thuyền dưới lòng đại dương. Đặc biệt, Cussler chính là người đã là tìm ra con tàu Carpathia – con tàu tham gia giải cứu những người sống sót trong vụ đắm tàu Tinanic lịch sử. Các tác phẩm được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Thác Lũ Cuồng Vọng Bí Ẩn Titanic Sóng Dữ Hoang Mạc Băng Cháy ... *** SỰ VA CHẠM KHỦNG KHIẾP   Năm 7.120 trước Công nguyên sự va chạm đã tạo ra Vịnh Hudson tại Canada ngày nay.   Vật lạ đến từ một nơi nào đó trong không gian. Đó là một khối tinh vân rắn - một đám mây khổng lồ do nhiều khối băng, đá, bụi bặm và các loại khí kết tụ lại - có mặt cùng lúc với sự hình thành của vũ trụ, khi những hành tinh trong hệ thống mặt trời xuất hiện từ bốn tỉ sáu trăm triệu năm trước. Ngay sau khi những hạt li ti rời rạc của nó đông lại thành một khối cứng rắn có đường kính rộng một dặm, nó bắt đầu lặng lẽ di chuyển cực nhanh qua không gian trống trải, mênh mông, trên một quĩ đạo quanh mặt trời và những ngôi sao gần nhất, một hành tinh kéo dàỉ nhiều ngàn năm từ lúc khởi đầu đến khi chấm dứt. Phần lõi của sao chổi, còn gọi là hạt nhân, là một khối kết hợp gồm hơi nước đông đặc, carbon monoxỉde, khí mê tan và những tảng đá kim loại vỡ nát. Có thể mô tả chính xác nó là một quả bóng tuyết bẩn thỉu bị ném mạnh qua không gian của hệ thống mặt trời, hoặc sự bức xạ của mặt trời phản ứng lại với nhân của nó và xảy ra sự biến đổi hình dạng. Một con vịt con xấu xí nhanh chóng trở thành một vật xinh đẹp. Khi nó bắt đầu hấp thụ nhiệt lượng và tia tử ngoại của mặt trời, một vệt dài hình thành và chậm chạp phát triển thành một cái đuôi lóng lánh khổng lồ, cong và trải rộng ra phía sau cái lõi với một chiều dài đến chín mươi triệu dặm. Một cái đuôi ngắn hơn, màu trắng, do bụi tạo thành rộng hơn một triệu dặm cũng hình thành và nằm cong theo cái đuôi lớn giống như những cái vây trên mình một con cá. Mỗi lần sao chổi đi qua mặt trời, nó mất đi một phần khối băng của nó và lõi cũng giảm bớt. Sau cùng, trong một thời gian hai trăm triệu năm, nó mất hết khối băng và vỡ vụn thành một khối mây bụi gồm vô số thiên thạch nhỏ. Tuy nhiên, sao chổi này không bao giờ lệch khỏi quĩ đạo của nó trong hệ thống mặt trời hoặc đi qua quanh mặt trời một lần nữa. Nó không được phép chết một cách chậm chạp và lạnh lẽo tại một nơi xa thẳm nào đó trong không gian tối tăm. Chỉ trong vài phút ngắn ngủi, sự sống của nó vụt tắt. Nhưng trên quĩ đạo cuối cùng của nó, sao chổi vẫn đi qua chín trăm ngàn dặm của sao Mộc, và trọng lực rất lớn của sao này làm nó đổi chiều sang một hành trình khác và chạm mạnh vào một hành tinh thứ ba trong hệ thống mặt trời, một hành tinh mà cư dân của nó gọi là Trái Đất. Lao vào bầu khí quyển của Trái Đất với vận tốc một trăm ba mươi ngàn dặm mỗi giờ theo một góc bốn mươi lăm độ, vận tốc của nó càng tăng thêm vì sức hút của trọng lực, sao chổi gây ra sự va chạm khủng khiếp và phát sáng với kích thước rộng mười dặm, và sức nặng bốn tỉ tấn của nó vỡ vụn vào lúc đó. Bảy giây sau, khối sao chổi méo mó trở thành một quả cầu lửa sáng rực, đập vỡ bề mặt Trái Đất với một sức công phá không thể tưởng tượng. Hậu quả tức thì từ vụ nổ làm thoát ra những năng lượng phá hủy khoét sâu vào vỏ Trái Đất tạo thành một lòng chảo rộng bằng hai lần diện tích đảo Hawaii khi nó bốc hơi và chiếm chỗ một khối khổng lồ gồm nước và đất đá. Toàn bộ Trái Đất rung chuyển do sự va chạm, tạo ra một vụ động đất lên tới mười hai độ rít-te. Hàng triệu tấn nước các loại trầm tích và các thứ đổ nát bị tống vào bầu khí quyển phía trên chỗ va chạm và xâm nhập vào tầng bình lưu, cùng với khối bụi nước khổng lồ bị phá hủy, khối đá bị cháy đỏ thoát ra và lao vào những quĩ đạo chung quanh trước khi rơi xuống lại trên mặt đất như những thiên thạch cháy sáng. Những trận bão lửa thiêu rụi những khu rừng trên khắp mặt đất. Những núi lửa đã ngủ yên hàng ngàn năm đột nhiên hoạt động trở lại, tống vào các đại dương những dung nham lỏng lan rộng trên một triệu dặm vuông, phủ lên mặt đất một lớp dày đến trên một ngàn bộ. Vô số khói và bụi bị tống vào tầng khí quyển, sau đó bị những trận gió khủng khiếp từ mặt trời thổi đến từng ngõ ngách trên Trái Đất và biến nó thành một nơi tối tăm kéo dài gần một năm. Khí hậu của Trái Đất đột ngột thay đổi khủng khiếp. Nhiệt độ trên những vùng băng tuyết mênh mông và những băng hà hoặc băng trôi ở phía bắc tăng lên cho tới khi chúng đạt đến chín mươi và một trăm độ Fahrenheit, gây ra sự bốc hơi nhanh chóng. Các chủng động vật từng quen với khí hậu nhiệt đới và những vùng ôn đới trở nên bị tuyệt chủng chỉ trong một đêm. Nhiều chủng loại như loài voi ma-mút có lông chết nhanh chóng đến nỗi cỏ và hoa trong dạ dày chúng vẫn chưa tiêu hóa kịp. Cây cối cùng với lá và trái của chúng nhanh chóng chín muồi. Chỉ vài ngày, cá trong các sông ngòi hồ ao đều nằm phơi bụng. Những đợt sóng cao từ năm đến mười dặm tràn lên các lục địa, tàn phá tất cả những gì cản đường chúng. Nước tràn qua những bình nguyên thấp dọc bờ biển, cuốn đi hàng trăm dặm vào trong đất liền. Vô số những trầm tích và các thứ cặn bã từ đáy những đại dương trải rộng trên những vùng đất thấp. Chỉ đến khi đợt trào dâng kinh khủng này đập vào chân những ngọn núi, dội lại và bắt đầu chậm chạp rút lui sau khi đã làm thay đổi dòng chảy những con sông, lấp đầy những chỗ trũng trên mặt đất - nơi trước kia không có sự sống - biến đổi những hồ ao rộng lớn thành những sa mạc. Chuỗi phản ứng này có vẻ kéo dài bất tận. Với những tiếng động ì ầm phát triển thành tiếng gầm rú liên tục như tiếng sấm, những ngọn núi bắt đầu lắc lư như những cây cọ dưới một làn gió nhẹ. Những sa mạc và những đồng cỏ nhấp nhô khi những đợt tấn công dữ dội từ các đại dương lại tràn lên đất liền. Sự chấn động từ vụ va chạm của sao chổi đã tạo ra sự thay đổi vị trí hoàn toàn và nhanh chóng trên lớp vỏ mỏng của Trái Đất. Lớp ngoài cùng, dày chưa tới bốn mươi dặm, và mặt đất bao bọc cái lõi nóng chảy của Trái Đất trở nên vặn vẹo như lớp vỏ của một trái táo bị bóc ra rồi ráp lại để nó có thể chuyển động quanh cái lõi của trái táo bên trong. Như được kiểm soát bởi một bàn tay vô hình, toàn bộ lớp vỏ Trái Đất chuyển động như một bộ phận duy nhất. Toàn bộ các lục địa trôi nổi đến những vị trí mới. Những ngọn đồi nhô cao thành núi hoa. Những hòn đảo khắp Thái Bình Dương biến mất, trong lúc những đảo khác trồi lên lần đầu tiên. Nam Cực, về phía tây Chi Lê, trượt dài hơn hai ngàn dặm về phía nam, tại đây nó nhanh chóng bị chôn vùi dưới những lớp băng mới thành hình. Khối băng khổng lồ từng trôi nổi trên Ấn Độ Dương và phía tây Úc châu giờ đây lạc lõng tại vùng ôn đới và nhanh chóng bắt đầu bốc hơi. Tình trạng đó cũng xảy ra tại nơi trước kia là Bắc Cực, lan rộng tới vùng bắc Canada. Địa cực mới nhanh chóng sản xuất ra một khối băng dày giữa một nơi trước kia là một đại dương rộng lớn. Sự tàn phá thật khắc nghiệt. Sự chấn động và đổ nát tiếp tục xảy ra như thể chúng sẽ không bao giờ chấm dứt. Đó là lúc lớp vỏ mỏng của Trái Đất chồng chất hết biến động này tới biến động khác. Sự bốc hơi đột ngột của những khối băng trước kia kết hợp với các băng hà và băng trôi bao phủ khắp các đại dương đột ngột trôi vào hoặc gần những vùng nhiệt đới, làm cho các đại dương dâng cao tới bốn trăm bộ, nhấn chìm những vùng đất đã bị tàn phá với những đợt sóng thủy triều khổng lồ phát sinh từ vụ va chạm của sao chổi. Chỉ trong một ngày, nước Anh, từng nối liền với phần còn lại của lục địa châu Âu bởi một bình nguyên khô ráo, lúc này biến thành một hòn đảo, trong lúc một sa mạc bị nhận chìm trở thành vịnh Ba Tư. Sông Nil từng chảy vào một thung lũng phì nhiêu mênh mông rồi đổ ra một đại dương ở phía tây lúc này lại kết thúc dòng chảy của nó tại một nơi đột ngột biến thành Địa Trung Hải. Kỷ nguyên băng hà rộng lớn cuối cùng chấm dứt về mặt địa chất chỉ trong nháy mắt. Sự thay đổi ngoạn mục trong các đại dương và sự lưu thông của chúng quanh Trái Đất làm cho các địa cực di chuyển, quấy nhiễu dữ dội sự quân bình cố hữu của Trái Đất. Trục Trái Đất tạm thời bị lệch hai độ, khi Bắc Cực và Nam Cực bị đổi chỗ đến những vùng địa lý mới, làm biến đổi lực hướng tâm quanh mặt ngoài của địa cầu. Vì chúng là lưu chất, các đại dương thay hình đổi dạng trước khi các địa cực ngừng rung lắc và trở nên ổn định quanh cái trục mới của chúng. Trong thời gian đó, mực nước biển cũng trở nên ổn định, cho phép nhiều bờ biển mới được hình thành trong khi những điều kiện khí hậu kỳ quặc tiếp tục được điều chỉnh dần. Những thay đổi trở nên thường xuyên. Thời gian nối tiếp giữa ngày và đêm thay đổi khi số ngày trong một năm giảm còn một nửa. Từ trường của Trái Đất cùng bị ảnh hưởng và di chuyển về hướng tây bắc hơn một trăm dặm. Hàng trăm, có lẽ hàng ngàn những loài động vật và cá khác nhau nhanh chóng bị tuyệt chủng. Tại châu Mỹ, loài lạc đà một bướu, loài voi ma-mút, loài ngựa của kỷ nguyên băng hà và loài cu-li khổng lồ, tất cả đều biến mất. Loài cọp răng kiếm, loài chim khổng lồ với sải cánh dài đến hai mươi lăm bộ và nhiều loài thú khác có trọng lượng nặng cả trăm cân Anh hoặc hơn, phần lớn chết ngạt vì khói và các loại khí độc từ núi lửa thoát ra. Các chủng loại thực vật trên mặt đất cũng không thoát khỏi thảm họa. Đời sống của thảo mộc nếu không biến thành tro thì cũng chết vì thiếu ánh sáng mặt trời, kể cả các loài rong tảo trong nước. Cuôi cùng, trên tám mươi lăm phần trăm sự sống trên Trái Đất đều chết vì lụt lội, lửa, bão táp, tuyết lở, chất độc từ bầu khí quyển và thậm chí vì nạn đói. Các xã hội loài người, đa số đã hoàn toàn tiến triển và vô số nền văn hoá đang trên ngưỡng cửa của một thời đại tiến hóa vàng son bỗng chốc đã bị tiêu hủy chỉ trong một ngày đêm. Hàng triệu đàn ông, phụ nữ và trẻ con trên Trái Đất đã chết một cách khủng khiếp. Mọi dấu vết về những nền văn minh đều tuyệt tích, và một số ít những kẻ sống sót sau thảm họa chẳng còn gì ngoài mớ ký ức u ám về quá khứ. Cỗ quan tài đã nằm trên sự tiến hóa to lớn nhất và không hề gián đoạn của nhân loại, kết thúc một chuyến hành trình dài mười ngàn năm từ những người Cro-Magnon hoang dã cho đến các bậc vua chúa, các kiến trúc sư, những thợ điêu khắc đá, những nghệ sĩ và chiến sĩ. Những công trình của họ và những tồn tại chết chóc của họ đều bị chôn sâu dưới các đại dương và những biển mới, chỉ còn lưu lại một ít mẫu vật và những mảnh vụn của một nền văn hóa tiến bộ cổ đại. Nhiều quốc gia và thành phố chỉ đứng được vài giờ trước khi biến mất không để lại một dấu vết. Biến cố khủng khiếp này hầu như không lưu lại một bằng chứng nào về những nền văn minh ưu việt trước đó. Trong số rất ít những người sống sót, hầu hết đều sống tại những vùng núi cao, họ có thể trú ẩn trong những hang động để trốn tránh những cơn giận của sự hỗn loạn. Không giống những người trong thời kỳ Đồ Đồng tiến hóa hơn, có khuynh hướng tập trung lại và xây dựng trên những bình nguyên thấp gần những con sông và bờ biển, những cư dân sống tại những vùng núi cao đều là dân du mục trong thời kỳ Đồ Đá. Những người tài giỏi nhất của họ về những ngành khác nhau trong kỷ nguyên của họ - những Leonardo da Vinci, những Picasso và những Einstein - đều bốc hơi không lưu lại vết tích. Chỉ còn lại trên mặt đất những kẻ săn bắn du mục, một hiện tượng tương tự như những gì đã xảy ra dành cho sự vinh quang của Hy Lạp và La Mã sau khi sự vinh quang đó bị ném sang một bên, trải qua những thế kỷ chỉ có sự ngu dốt và mê muội. Một thời kỳ Đồ Đá mới đen tối đã che giấu những nền văn minh có văn hóa cao từng có mặt trên Trái Đất, kỷ nguyên đen tối này kéo dài đến hai ngàn năm. Rất chậm chạp, sau cùng nhân loại cũng bước ra khỏi tình trạng đen tối đó để bắt đầu xây dựng và kiến tạo lại những thành phố và những nền văn minh tại Mesopotamia và Ai Cập. Đáng tiếc, rất ít những nhà xây dựng có thực tài và những người có đâu óc sáng tạo còn sống sót từ những nền văn hóa bị thất lạc đạt tới trình độ cao. Nhận thấy nền văn minh của mình đã mất và không bao giờ phục hồi được, họ bắt đầu tìm tòi trong nhiều thế kỷ, để xây dựng những lăng mộ và những ngôi mộ đá huyền bí với những khối đá đồ sộ dựng đứng được tìm thấy trong nhiều vùng tại châu Âu, châu Á, tại quần đảo Pacific đến tận phía nam châu Mỹ. Về sau, ký ức về những ưu thế rực rỡ do tiền nhân để lại trở nên lu mờ dần và trở thành huyền thoại, những kỷ niệm về sự tàn phá và chết chóc vẫn là những cảnh báo về sự hủy diệt các thế hệ trong tương lai. Nhưng trong một thiên niên kỷ, con cháu họ dần dà quên hết những hoạt động xưa kia của tổ tiên để dung nạp kiểu sống của những bộ lạc du mục và chẳng còn biết gì về quá khứ văn minh của họ. Nhiều thế kỷ sau vụ va chạm khủng khiếp đó, nhân loại vẫn còn sợ hãi, không dám mạo hiểm lìa bỏ vùng núi non để xuống sinh sống tại những vùng đất thấp và dọc bờ biển. Những xứ sở có kỹ thuật vượt trội về chuyện đi lại trên biển chỉ còn những ý niệm mơ hồ về quá khứ gần của họ. Kỹ thuật đóng tàu và vượt biển đã thất lạc, và phải đợi đến nhiều thế hệ sau đó mới xuất hiện trở lại. Sự chết chóc và tàn phá này phát sinh do một khối băng bẩn thỉu không lớn hơn một thảo nguyên trung bình. Sao chổi đã tàn phá mọi thứ không chút xót thương. Trái Đất chưa từng bị tàn phá dữ dội như thế từ khi một thiên thạch đâm vào nó sáu mươi lăm triệu năm trước đó trong một thảm họa đã hủy diệt loài khủng long. Nhiều ngàn năm sau vụ va chạm, sao chổi được gắn kết với mê tín dị đoan về những sự cố gây tai họa và được xem như những điềm xấu báo trước những thảm kịch trong tương lai. Chúng bị kết tội đã gây ra chiến tranh và những đại dịch gây chết chóc và hủy diệt. Mãi cho tới lịch sử cận đại, sao chổi mới được xem như những hiện tượng lạ của thiên nhiên, như vẻ đẹp chói lọi của cầu vồng hoặc những đám mây được mạ vàng lúc mặt trời lặn. Sự kiện đại hồng thủy được ghi lại trong Kinh Thánh và những truyền thuyết về các tai họa khác, tất cả đều gắn liền vào thảm kịch này. Những nền văn minh cổ đại của người Olmac, Maya và Aztec tại Trung Mỹ có nhiều truyền thống liên hệ tới một sự cố thảm họa xa xưa. Những bộ lạc người Da Đỏ Indian khắp Hoa Kỳ có truyền thuyết với những câu chuyện về nước lụt tràn ngập xứ sở của họ. Người Trung Hoa, người Polynesian và người Phi châu, tất cả đều nói về một thảm họa đã tàn sát phần lớn tổ tiên của họ. Nhưng một truyền thuyết đã xuất hiện và phát triển qua nhiều thế kỷ, gợi ra sự huyền bí và gây ảnh hưởng nhiều nhất, đó là sự biến mất của lục địa và nền văn minh Atlantis. Mời các bạn đón đọc Cuồng Vọng của tác giả Clive Cussler & Phạm Đăng Phụng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phút Tráng Lệ Cuối Đời - Michael Kumpfmuller
Michael Kumpfmüller viết "Phút tráng lệ cuối đời" dựa trên câu chuyện tình cuối đời đầy ám ảnh của thiên tài kì dị Frank Kafka và cô gái mang tên Dora Diamant. Mùa hè năm 1923, Franz Kafka, thiên tài văn chương của thế kỷ XX, gặp Dora Diamant, bên bờ biển Baltic, khi cô 25 tuổi thanh xuân, còn ông thì đang kiệt quệ vì bệnh lao. Dora nhanh chóng si mê ông, và Kafka, có lẽ cũng không thể lý giải được, tại sao bản thân lại cảm thấy gắn kết với cô gái mới vừa nhìn thấy, mới vừa đi dạo cùng nhau vài lần. Cảm tưởng như, Dora ấy, cô đã kéo người đàn ông này vào một bể ái tình đầy mê đắm, khi ông vẫn nhút nhát, sợ sệt, đầy âu lo, đầy mâu thuẫn. Người đọc được biết trước đây là câu chuyện tình của Kafka, nhưng khi Micheal viết Phút tráng lệ cuối cùng, không có một lần nào cái tên Kafka được nhắc đến. Ông xuất hiện bằng ba từ ông tiến sĩ, và sau ấy, khi ở bên cạnh Dora, ông được gọi bằng Franz.   Ông là một cây đại thụ văn học, là người khiến cả thế giới, dù thích hay không thích văn chương của ông cũng đều nghiêng mình ngưỡng mộ, nhưng ở Phút tráng lệ cuối cùng, ông tuyệt đối không phải là một Kafka của Lâu đài, của Vụ án, hay Hóa thân. Ông là chỉ là Franz, là Franz vô cùng yếu đuối, từ tốn, nhân hậu, dịu dàng của Dora. *** Tối muộn ông tiến sĩ mới đến, vào một ngày thứ Sáu của tháng Bảy. Đoạn đường sau chót trên xe mui trần đi từ ga về tựa như vô tận, trời vẫn nực lắm, ông mệt rũ, nhưng giờ thì ông tới nơi rồi. Elli và lũ trẻ đợi ông ở phòng khách. Ông hầu như chưa kịp đặt hành lý xuống, Felix và Gerti đã chạy xổ ra kể chuyện ào ào. Chúng ở ngoài biển từ sáng tinh mơ, chỉ muốn quay lại đó ngay để khoe với ông chúng đã đắp được những gì. Một ngôi thành cát khổng lồ. Bãi biển đầy những ngôi thành như thế. Để cho bác thở đã, Elli nhắc, bồng con bé Hanna ngái ngủ trên tay, nhưng lũ trẻ vẫn không dứt được câu chuyện về ngày hôm nay. Elli hỏi: Chuyến đi thế nào? Anh có muốn ăn chút gì không? Ông tiến sĩ ngẫm nghĩ xem có nên ăn gì không, vì ông không thấy ngon miệng. Ông rảo chân lên tầng trên của ngôi nhà nghỉ hè, lũ trẻ chỉ cho ông chỗ chúng ngủ, hai đứa mười một và mười hai tuổi, và chúng tìm ra trăm nghìn lý do để chưa phải lên giường. Cô hầu phòng đã chuẩn bị một đĩa hạt dẻ và hoa quả, bình nước có sẵn, ông uống nước rồi nói với em gái rằng ông rất biết ơn cô, vì trong ba tuần tới ông sẽ ăn ở tại đây, họ sẽ có nhiều thì giờ bên nhau, tuy về lâu về dài mới biết, liệu ông có thích vậy không. Ông tiến sĩ không mong đợi gì nhiều ở kỳ nghỉ này. Mấy tháng vừa qua thật tệ, ông không muốn ở chỗ cha mẹ lâu thêm nữa, vì vậy lời mời ra biển Baltic đến thật đúng lúc. Em gái ông tìm được nhà trọ này trên báo, mẩu quảng cáo hứa có giường đệm tử tế và giá cũng phải chăng. Lại còn thêm bao lơn, hàng hiên, vị trí ngay sát bìa rừng và tầm nhìn ra biển thật hoành tráng. Phòng ông nằm cuối hành lang. Gọi là rộng rãi thì không phải, nhưng có bàn viết, nệm cứng, ngoài ra còn có một bao lơn hẹp trông ra rừng, hứa hẹn bầu không khí yên tĩnh, mặc dù từ ngôi nhà gần đó lao xao tiếng trẻ con. Ông soạn hành lý, vài bộ đồ lớn, quần áo, sách để đọc, giấy viết. Lẽ ra ông có thể kể cho Max biết kết quả các cuộc thương thảo ở nhà xuất bản mới, nhưng chuyện đó lui lại vài hôm nữa cũng được. Kể cũng lạ, sau chừng ấy năm ông lại có dịp đến Berlin, rồi chỉ hai tư tiếng sau đã tới Müritz, trong một ngôi nhà mang tên May mắn. Elli đã đùa cợt về cái tên đó, cô hy vọng ông sẽ tăng vài cân nhờ không khí vùng biển, mặc dù cả hai đều biết chuyện đó rất khó xảy ra. Mọi thứ cứ lặp đi lặp lại, ông nghĩ, từ nhiều năm nay, mùa hè thì ở các khách sạn hay an dưỡng đường nào đó, sau đó đến mùa đông lê thê trong thành phố, đôi khi mấy tuần liền ông không rời giường. Vui mừng vì được ở một mình, ông ra bao lơn ngồi một lát, vẫn nghe tiếng người lao xao, rồi ông lên giường và nhẹ nhàng trôi vào giấc ngủ. Khi thức dậy vào sáng hôm sau, ông đã ngủ được hơn tám tiếng. Ông biết ngay mình đang ở đâu, ông ở gần biển, trong căn phòng này, xa lắc tất cả những gì mà ông quen thuộc đến phát ngán. Tiếng trẻ con hôm qua theo ông vào giấc ngủ, giờ lại vang lên, chúng đang hát, một bài hát tiếng Hebrew(1), không khó để nhận ra. Bọn trẻ đến từ miền Đông, ông nghĩ, có loại nhà nghỉ hè dành cho bọn trẻ ấy, trước đây hai hôm, ở Berlin, Puah, cô giáo tiếng Hebrew của ông có nhắc rằng ở Müritz cũng có một nhà nghỉ hè như thế. Ông bước ra bao lơn và ngó về phía lũ trẻ. Chúng đã hát xong, giờ chúng ngồi dọc một cái bàn dài kê trước nhà, ăn sáng, ầm ĩ và vui vẻ. Trước đây một năm ở Planá ông ghét tiếng ồn ào ấy, nhưng hôm nay gần như ông vui sướng khi nghe những tiếng bi bô như thế. Ông hỏi cô em gái có biết gì về lũ trẻ ấy không, nhưng Elli chẳng biết gì và có vẻ ngạc nhiên khi thấy ông đột nhiên phấn khích, cô hỏi ông ngủ ra sao, có hài lòng với căn phòng không, có chứ, ông hài lòng, ông đang mong ra biển. ... Mời các bạn đón đọc Phút Tráng Lệ Cuối Đời của tác giả Michael Kumpfmuller.
Kiếp Người - W. Somerset Maugham
Cuốn tiểu thuyết nửa tự thuật của Somerset Maugham thể hiện tính trung thực đầy hoang dại và tài năng kể chuyện đỉnh cao của tác giả. Trong Aspects of the Novel (tạm dịch: Những mặt của văn chương), EM Foster viết: “Bước kiểm tra cuối cùng cho một tác phẩm là tình cảm của ta dành cho nó, cũng như là cách ta kiểm tra bạn bè, hay bất kì điều gì ta không thể lý giải.” Có lẽ là ông đang viết về kiệt tác của Somerset Maugham, tác phẩm Kiếp người. Đối với các độc giả Anh Quốc, đó là một Bildungsroman1 chúng ta thường bắt gặp khi còn là thiếu niên. Nó nằm trong danh sách này bởi sự cần kiệm đầy sắc sảo những lời tường thuật tối tăm, hay đôi khi là tàn nhẫn hơn bởi phong cách (ở mức bình thường) hoặc bởi tính nhân văn (sự đau khổ). Bức phác họa đáng nhớ của Maugham về Philip Carey là một hình ảnh mà các thiếu niên thông thường sẽ thấm nhuần như bị nghiện, quan trọng bởi Maugham đưa rất nhiều điều về bản thân vào cốt truyện và bởi nhân vật chính mà họ có thể đồng cảm một cách kì lạ. Có lẽ kể từ thời David Copperfield (thứ 15 trong danh sách) mới có một nhà văn người Anh khai thác cuộc sống của bản thân một cách đầy đủ hay một cách liên tục như vậy. Philip Carey là một đứa trẻ mồ côi khao khát tình yêu và trải nghiệm. Cũng như Maugham, một người đồng tính với tật nói lắp tồi tệ, cậu bé là một người tàn tật với bàn chân khoèo. Được nuôi dưỡng bởi một người chú là mục sư, cậu bé bị giam cầm trong cuộc sống tại nhà xứ cuối thời Victoria, mơ ước về việc thoát khỏi ràng buộc và cầu nguyện đến vị chúa trời thờ ơ để mong dị tật của mình được chữa khỏi. Sau khi quan sát kĩ con đường đi qua trường nội trú, Philip trốn đến học tai Heidelberg, tận hưởng một khoảng thời gian ngắn với tư cách một nghệ sĩ khó khăn nhưng thất bại tại Paris, rồi trở về nhà. Tại đây bắt đầu những dòng sầu thảm và đáng nhớ nhất của cuốn tiểu thuyết, quan hệ tình cảm vô vọng của Carey với cô hầu bàn Mildred.      Maugham là một người đồng tính tự ghét bỏ bản thân mình, và bức phác họa Mildred của ông với tư cách là đối tượng yêu của Philip phản ánh những thử nghiệm của một chàng trai đồng tính trẻ tuổi sau hậu quả của trường hợp Oscar Wilde. Mildred giống như một chàng trai, khiếm nhã và coi thường người tình tàn tật của cô. Cô thường phản bội anh, đi chơi với những người bạn trai của anh, ăn trộm của anh, và khinh miệt bản năng giới tính của anh. Mối quan hệ của họ đầy đau buồn và thất thường, là khoảng thời gian cô có thai với người đàn ông khác, khi mà Philip vẫn yêu một cách đầy ám ảnh. Cuối cùng, sau một cơn khủng hoảng vô cùng khi Mildred phá hỏng căn hộ và đập nát tủ đồ của anh, cô rời đi rồi trở thành gái gọi ở đại lộ Shaftesbury. Chỉ khi đó Philip mới nhận ra anh không còn yêu cô nữa. Anh trốn thoát khỏi bùa mê của cô để lấy lại chính bản thân, và cưới một cô gái tên là Sally, một kết thúc đầy tình cảm không làm nổi bật tính trung thực hoang dại thấm sâu vào trái tim cuốn tiểu thuyết. Ghi chú về tác phẩm  Kiếp người ban đầu được gọi là The Artistic Temperament of Stephen Carey (tạm dịch: Khí chất nghệ sĩ của Stephen Carey), sau đó là Beauty from the Ashes (tạm dịch: Vẻ đẹp từ tro bụi), một trích dẫn từ Isaiah. Khi Maugham phát hiện ra rằng tiêu đề đó đã được sử dụng, ông lấy tựa đề cuối cùng từ một trong những cuốn sách trong bộ Ethics của Spinoza. Tiểu thuyết được xuất bản tại Anh bởi William Heinemann vào ngày 13 tháng Tám năm 1915, một năm đáng nhớ của văn học Anh. Danh sách này đã đề cập đến The Good Soldier, The Thirty-Nine Steps và The Rainbow.  Trong danh sách dài những cuốn sách xuất bản năm đó, tôi cũng đã loại trừ một vài tên tuổi lớn: The Voyage Out của Woolf, Psmith Journalist của Wodehouse’s, và Victory của Conrad. Lịch sử của cuốn sách rất thú vị. Maugham lần đầu viết bản thảo cho Kiếp người năm 23 tuổi, khi mới lấy bằng y khoa sau năm năm học tại St Thomas. Ông gửi bản thảo đến Fisher Unwin, nơi mà khi ông vẫn còn là một sinh viên ngành y, đã xuất bản cuốn tiểu tuyết đầu tiên của ông Liza of Lambeth và nhận được một số lời khen ngợi. Maugham yêu cầu được ứng trước 100 Bảng nhưng bị từ chối. “Bị khước từ”, sau đó ông viết, “tôi đã vứt bỏ bản thảo.” Ông chuyển sang viết cho các sân khấu, nơi mà ông có được thành công đáng kể. “Ngay khi được chính thức công nhận là nhà viết kịch nổi tiếng nhất khi đó,” ông viết, “thì tôi một lần nữa lại bắt đầu bị ám ảnh bởi những kỉ niệm đầy ắp trong quá khứ.” Vậy nhưng, Maugham cố gắng nhấn mạnh rằng đó “không phải là một cuốn tự truyện, mà là một cuốn tiểu thuyết có yếu tố tự truyện.”  Nói ngắn gọn, đó là sự kết hợp giữa sự thật và tưởng tượng, được thêm thắt những cảm xúc cá nhân, kể cả khi một vài tình tiết được mượn từ đâu đó. Dù cho quá trình sáng tác thế nào đi nữa thì nó cũng đã làm hài lòng nhà văn. “Tôi thấy bản thân thoát khỏi những nỗi đau và kí ức bất hạnh đã từng dày vò tôi,” ông viết. Maugham luôn tự phê bình bản thân một cách dữ dội. “Tôi biết tôi không có tài năng về ngôn từ,” ông viết. “Tôi có vốn từ vựng eo hẹp và không có nỗ lực nào mà tôi có thể làm để mở rộng nó giúp ích cho tôi. Tôi hầu như không có khả năng ẩn dụ; sự ví von ấn tượng và độc đáo hiếm khi xảy ra với tôi.”  Nhưng ông có khả năng kể chuyện mang tính bản năng. Nhiều người sẽ nói rằng những chuyện ngắn của ông là hiện thân cho những tác phẩm tốt nhất của ông, và ông giữ vai trò là một cây bút quan trọng trong nền văn chương đầu thế kỉ 20. Dù rằng danh tiếng trước đây của Maugham đã có phần mờ dần đi thì Kiếp người vẫn được coi là kiệt tác của ông, một tác phẩm tiếng Anh kinh điển của thế kỉ 20 với những người hết lòng ủng hộ. Ba tác phẩm khác của Somerset Maugham The Moon and Sixpence (1919); Cakes and Ale (1930); The Razor’s Edge (1944). Thảo Hiếu (bookaholic.vn - theo Guardian) *** William Somerset Maugham là nhà văn Anh, sinh năm 1874 và sống ở Pháp cho đến khi lên mười. Học xong đại học ở Anh, ông làm thầy thuốc tại bệnh viện. Có khiếu văn chương, ông sớm bắt đầu viết tiểu thuyết và thành công với vài tác phẩm đầu tay, rồi chuyển hẳn sang sáng tác văn học. Ông nổi tiếng với hai truyện dài Kiếp người (Of Human Bondage) (1914) và Mặt trăng và đồng sáu xu (The Moon and sixpence) (1919). Trong số sách được xuất bản sau đó có: Bức Bình phong (The Painted Veil) (1925), Quý Ngài trong phòng khách (The Gentleman in the Parlour) (1930), Don Fernando (1935), Lưỡi dao cạo (The Razor’s Edge) (1944), Sổ tay nhà văn (A Writer’ Notebook) (1949), Cách nhìn thiên vị (Points of View) (1958), …   W.S. Maugham đồng thời còn là một nhà soạn kịch trứ danh với những sáng tác như: Phu nhân Frederick (Lady Frederick) (1907), Smith (1909), Đất hứa (The Land of Promise) (1913).   Ông cũng là tác giả nhiều truyện ngắn rất được hoan nghênh. Toàn tập truyện ngắn của ông được tái bản nhiều lần với số lượng mấy trăm nghìn bản, ví dụ như Mưa.   Mời các bạn đón đọc Kiếp Người của tác giả W. Somerset Maugham.
Hè Của Cô Bé Mất Gốc - Dương Thụy
Bắt đầu viết văn từ năm mười lăm tuổi, tôi tự nhủ “Mình sẽ trở thành nhà văn kiếm được rất nhiều tiền”. Tuy nhiên, khi truyện ngắn đầu tiên được đăng báo, tôi không còn quan tâm đến tiền bạc nữa. Lúc này, văn chương mang một ý nghĩa khác “cao thượng” hơn giá trị vật chất. Đó là niềm vui được chia sẻ cuộc sống hồn nhiên của mình cùng các bạn đồng trang lứa, là hạnh phúc được độc giả viết thư khen ngợi, là niềm hân hoan thấy truyện của mình làm độc giả có động lực hơn trong cuộc sống. Dù cuộc sống trở nên bận rộn hơn, tôi luôn cố gắng sắp xếp thời gian để tiếp tục viết. Và dù đã qua thời học trò, qua thời cắp sách đến trường, qua thời “sáng nắng chiều mưa” của tuổi teen, tôi nhận ra rằng: tôi thành công nhất khi viết về lứa tuổi đẹp này. Thông qua những truyện ngắn của mình, tôi muốn truyền đến các độc giả nhỏ tuổi một cuộc sống hồn nhiên vô tư lự, một bến bờ hạnh phúc vì được gia đình che chở, một hy vọng lớn lao vì thầy cô luôn ủng hộ. Có thể đâu đó trong những câu chuyện của tôi, vẫn có những nốt nhạc buồn, những ánh mắt thất vọng, những tiếng thở dài day dứt. Nhưng tôi muốn độc giả hiểu rằng cuộc đời là một món quà, chúng ta hãy trân trọng và tận hưởng mọi cơ hội cuộc đời đưa đến. Hoặc nếu ai đó than phiền “Tôi nhận quà không xứng đáng”, hãy tự tạo cơ hội cho chính mình thông qua các hành động tích cực. Truyện của tôi luôn có kết thúc đẹp, và độc giả sẽ nhận ra: chúng ta làm chủ cuộc đời mình. *** Hè Của Cô Bé Mất Gốc gồm có: Con Gái Sài Gòn Mưa Phùn Cắt Đuôi Con Quỷ Nhỏ Hai Người Đến Từ Phương Xa Thực Tập Trường Đời Người Anh Việt Kiều Những Con Cọp Trong Gia Đình Người Mẫu Về Hưu Con Gái Việt Nam Gái Hôm Rằm Hương Đầu Mùa Yêu Và Quý Ông Nhỏ Công Tử Bạc Liêu Lòng Hâm Mộ Hạnh Ngộ Đầu Xuân Viên Đạn Thứ Tư Mây Trắng Colette Củ Khoai Lang Sống Nửa Cuộc Đời Ngôi Sao Của Tôi Một Ca Cấp Cứu Hè Của Cô Bé Mất Gốc *** Dương Thụy có lẽ là một cái tên không còn xa lạ đối với nhiều độc giả trẻ. Nữ nhà văn sinh năm 1975 này được biết đến khá sớm qua những bài viết trên báo Hoa Học Trò và Sinh viên Việt Nam.  Cô tên thật là Dương Thụy Phương Khanh, được coi là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ trẻ "100% tp. Hồ Chí Minh" bởi cô sinh ra đúng năm Sài Gòn giải phóng.   Dương Thụy đã từng học qua các trường: Trung học Lê Quý Đôn, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM (Cử nhân văn chương Pháp), Trung tâm văn hóa Pháp - Việt đào tạo quản lý (Thạc sĩ Quản trị), Đại học Liège - Vương Quốc Bỉ (Thạc sĩ quản trị kinh doanh).   Công việc hiện nay của cô là làm giám đốc Truyền thông - Đối ngoại của tập đoàn dược phẩm Sanofi - Avenis tại Việt Nam   Dương Thụy có điều kiện tham dự các khóa du học dài hạn và ngắn hạn tại Bỉ, Anh, Pháp bởi vậy cô không chỉ là cây bút trẻ có vốn tri thức dày dặn mà còn đủ vốn sống về mảng đề tài mà các nhà văn trong nước rất khó đụng đen: cuộc sống của giới sinh viên Việt ở châu Âu.   Các cuốn sách đã xuất bản Năm 1997: Dấu lặng trong điệp khúc Năm 1999: Người thổi kèn  Năm 2002: Hai người đến từ phương xa  Năm 2003: Con gái Sài Gòn  Năm 2004: Cắt đuôi Năm 2004: Bồ câu chung mái vòm  Năm 2005: Hành trình của những người trẻ  Năm 2007: Oxford thương yêu  Năm 2008: Cáo già, gái già và tiểu thuyết diễm tình Năm 2009: Venise và những cuộc tình Gondola  Năm 2010: Nhắm mắt thấy Paris Năm 2010: Hè của cô bé mất gốc Năm 2011: Trả lại nụ hôn  Năm 2011: Oxford thương yêu Mời các bạn đón đọc Hè Của Cô Bé Mất Gốc của tác giả Dương Thụy.
Hai Người Đến Từ Phương Xa - Dương Thụy
“Quê hương mỗi người chỉ một  Như là chỉ một mẹ thôi  Quê hương nếu ai không nhớ  Sẽ không lớn nổi thành người” Vâng! Hai tiếng “quê hương” rất thân thương và gần gũi. Cho nên dù đi đâu, ở đâu và làm gì không một ai có thể quên đi nguồn cội của mình. Mang dòng máu Việt Nam sinh sống và học tập trên khắp các nước trên thế giới, nhưng ngôn ngữ, những phong tục tập quán cùng những nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc không thể xóa nhòa trong trái tim Việt. Việc tôn trọng, lưu giữ qua các thế hệ và giới thiệu cho bè bạn năm châu biết những giá trị tinh thần cao đẹp đó cũng chính là tôn vinh văn hóa cá nhân của mỗi người… Dẫu cách biệt không gian và thời gian, dẫu phải trên đường mưu sinh nơi đất khách nhưng phải làm sao để đất nước Việt Nam mãi là một đất nước với sự thân thiện, hiếu khách. Mỗi câu chuyện như một gói hành trang nhỏ cho những người xa quê hương, nhất là các bạn trẻ. Và, Hai người đến từ phương xa, dù cách xa địa lý nhưng tâm hồn sẽ không còn cách xa… *** Mọi người trong lớp gọi tôi là “bà lớn” chẳng phải vì tôi có tướng tá phì nhiêu hay có chức tước gì quan trọng mà đơn giản họ gọi thế để ghép đôi tôi với “ông lớn”. “Ông lớn” thì quả là lớn về mọi mặt. Đó là thầy Christophe dạy chúng tôi môn Poésie. Thầy bệ vệ cao một mét tám và nặng cỡ ba ông con trai “cò ma” lớp tôi cột lại bỏ lên cân. Vì mỗi lần đọc tên thầy khó khăn quá, phải uốn lưỡi thật cong nên chúng tôi làm biếng gọi là “ông lớn” cho dễ phát âm, lại mang tính tượng hình. Còn việc mọi người xúm lại gọi tôi là “bà lớn” thì cũng chả có gì éo le. Sinh viên! Chỉ cần tôi bưng cho thầy ly nước theo nhiệm vụ lớp trưởng và thầy cười rạng rỡ cảm ơn là họ đã có đủ bằng chứng để chuyện nhỏ xé to, đồn ùm lên và đặt biệt danh cho tôi từ đó. “Ông lớn” hoàn toàn không biết rằng trên đời này tồn tại một “bà lớn” mảnh mai, mỗi buổi học hay tận tụy chăm sóc mình bằng những chai Tribeco. Ông chỉ biết hồn nhiên đón nhận một cách vui vẻ và nhiệt tình uống đến giọt cuối cùng để không phụ lòng cô sinh viên bé nhỏ. Về phần “bà lớn”, dẫu biết rằng mình chỉ “có tiếng” mà không “có miếng”, bà vẫn vui lòng tiếp tục nhiệm vụ cao cả vào mỗi buổi học và kiêu hãnh đem danh “bà lớn” ra hù dọa mấy tên con trai có ý đồ mờ ám. - Ê! Hoài ơi! - Tôi hổn hển gọi với theo - Xách cặp giùm Phương coi. Mệt quá! - Đưa đây! Anh chàng bí thư chi đoàn đưa tay đỡ chiếc cặp to đùng đựng đủ thứ đồ của tôi, cảm thấy hơi xấu hổ vì không tự nguyện hỏi giúp tôi trước khi tôi mở miệng nhờ. Con trai Việt Nam dở ẹc! Tuy vậy, một khi anh ta đã ra tay giúp đỡ rồi thì tôi cũng không tiếc gì một lời cảm ơn. - Cảm ơn nhe! Học chi mà lên tận trời xanh ba bốn tầng lầu. Mệt đứt hơi! - Tội nghiệp Phương - Hoài nghiêng đầu ngó tôi cười thông cảm - Ai biểu xách chi cái cặp nặng dữ vậy? - Tại đựng đủ thứ đồ nghề cho lớp mình nè: phấn, khăn trải bàn, sổ điểm, hai ba xấp bài photo bài tập - Tôi thở ra mệt mỏi rồi tự an ủi - mà tụi mình được vinh hạnh ngồi trên đầu trên cổ thiên hạ nên phải chịu cực leo cầu thang chút đỉnh! - Phương lúc nào cũng nói chuyện nghe phách lối - Hoài cau mày - Làm “bà lớn” riết rồi quen thói! Tôi định xạc anh chàng cao kều cái tội dám lên lớp phu nhân của “ông lớn” như mọi lần có ai làm chọc nọc tôi nhưng chúng tôi đã lên đến nơi và đụng đầu nhiều người trong lớp đang đứng nói chuyện. - Trời ơi! Coi thằng Hoài xách cặp giùm “bà lớn” kìa! ... Mời các bạn đón đọc Hai Người Đến Từ Phương Xa của tác giả Dương Thụy.