Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Orlando

"Tới đây Orlando thức giấc. Chàng duỗi dài người. Chàng ngồi dậy. Chàng đứng thẳng người, hoàn toàn trần trụi... Không một con người nào, kể từ thuở hồng hoang, trông mê hồn hơn thế. Cơ thể chàng hợp nhất sức mạnh của một gã đàn ông và sự thanh tú của một phụ nữ... Orlando đã trở thành phụ nữ - không thể phủ nhận điều đó... Orlando là một người đàn ông cho tới ba mươi tuổi, sau đó chàng trở thành một phụ nữ và vẫn giữ nguyên giới tính kể từ khi ấy..." (Trích nội dung tiểu thuyết Orlando) "Tràn ngập các trang sách là một không khí huyền thoại, thể hiện một dạng tồn tại được cách điệu và nâng cao, không phải cuộc sống thật sự chúng ta vẫn sống, mà giống như một ảo ánh hay một giấc mơ". TED GIOIA - Nhà phê bình Mỹ *** Orlando được đánh giá là “bức thư tình dài và quyến rũ nhất trong lịch sử văn học” mà Virginia Woolf dành cho người yêu đồng giới. Vita Sackville West là nhà thơ, cô có một cuộc hôn nhân dài và hạnh phúc với Harold Nicolson.  Trong khi đó Virginia và người chồng của mình, Leonard Woolf cũng có mối quan hệ vợ chồng khá hòa hợp, nhưng Virginia không có hứng thú tình dục với Leonard. Điều đó  cũng không phải bất ngờ, bởi thời đó, những cuộc hôn nhân không có tình dục cũng khá phổ biến. Virginia Woolf và Vita Sackville West đã tình cờ gặp nhau, và rồi nhanh chóng bị cuốn vào nhau, trở thành tình nhân. Vita là người khá phóng khoáng trong tình dục, và thường xuyên theo đuổi những người phụ nữ khác, nên giữa Woolf và Vita, có thể có một mối quan hệ tình dục say đắm. Nếu mối tình này không diễn ra, Orlando sẽ không được sáng tác. Sách đề tặng Vita Sackville West, người tình đồng giới Orlando được đánh giá là “bức thư tình dài và quyến rũ nhất trong lịch sử văn học” mà Virginia Woolf dành cho người yêu đồng giới. Cuốn sách đã nhanh chóng trở nên nổi tiếng và được độc giả khắp nơi say đắm. Mặc dù, trong lịch sử văn học, Orlando không phải là tác phẩm hư cấu đầu tiên nhắc đến chuyển giới. Hóa thân của Ovid là một tác phẩm vừa trào phúng vừa nghiêm túc về sự biến chuyển của vật thể - đặc biệt là hình hài con người, thành cây cối hay thú vật, hay thần linh biến thành người để theo đuổi tình nhân. Trong Nghìn lẻ một đêm cũng có cốt truyện và tình huống về  chuyển giới và cải trang thành giới tính khác. Shakespeare ưa thích việc giả trang, và vào thời ông, vì phụ nữ bị cấm đóng kịch trên sân khấu nên tất cả các vai phụ nữ đều là trai giả gái. Họ chìm trong những mối tình say đắm cùng nhau, và bản chất chúng đều là những mối tình đồng tính. Vita Sachville West chính là hình tượng ngoài đời của Orlando. Vita vốn là một người đam mê hóa trang. Cô thường hóa trang thành đàn ông, để tận hưởng sự tự do. Trong cuốn Orlando, Woolf đã “đảo ngược” tình huống đó, khi Orlando trở thành phụ nữ, phải vận những bộ trang phục phức tạp, đã tự mình cảm nhận sự khó chịu mà các cô gái bình thường vẫn hay chịu đựng. Ấy cũng chính là câu chuyện “nữ quyền” Woolf vẫn luôn hướng đến trong các tác phẩm của mình. Orlando có nhiều chi tiết dựa trên lịch sử của gia tộc Sackvilles, với bối cảnh chủ yếu là Knile House, một trong những biệt thự cổ còn tồn tại ở Hạt Kent, nước Anh. Đến năm 1566, đây là nơi thuộc quyền sở hữu của Thomas Sackville, em họ của Nữ hoàng Elizabeth I, cụ kỵ của Vita Sachville West. Orlando biến thành phụ nữ khi tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài. Nhưng anh ta đối diện với trạng huống ấy một cách bình thản lạ lùng. Khi chứng kiến bộ dạng của mình trong hình hài một người phụ nữ, anh ta phán: “Khác giới, nhưng cùng một người”. Từ khi biến thành phụ nữ, cuộc đời anh ấy (cô ấy) bước vào những cuộc phiêu lưu mới, những gặp gỡ mới. Đôi lúc trong những khi chán chường, Orlando vẫn cải trang thành đàn ông, để tìm kiếm niềm hoan lạc chốc lát. Orlando vẫn đi đi về về giữa hai giới tính. Tìm kiếm tiếng nói riêng cho những người phụ nữ Sự khác biệt về giới ấy bao hàm những hệ quả về xã hội và pháp luật. Rất nhiều người đàn ông Woolf biết, trong đó có chồng bà, Leonard, và chồng của chị gái Vanessa, Clive Bell, được giáo dục tại Cambridge. Virginia và Vanessa được giáo dục tại gia, hình thức phổ biến cho con gái nhà thượng lưu. Phụ nữ hầu hết không được đi học. Khi Woolf viết Orlando, hơn 8 triệu phụ nữ tuổi 30 trở lên đã thắng trong cuộc bỏ phiếu cho Nghị định Đại diện cho Nhân dân năm 1918. Với đàn ông, độ tuổi là 21. Năm 1928, khi tiểu thuyết được hoàn thành, mọi phụ nữ trên 21 tuổi đã bình đẳng cùng đàn ông trong các cuộc tuyển cử. Chưa đầy hai tuần sau khi Orlando được phát hành, Woolf đến Girton cho buổi giảng thứ hai của mình, với cái tên Phụ nữ và Sáng tạo. Tuần trước đó, bà đã có mặt ở Newnham. Woolf tóm tắt lại hai bài giảng của mình thành bài luận nổi tiếng Căn phòng riêng, xuất bản 1929. Virginia Woolf trăn trở về sự bất công xã hội và kinh tế giữa hai giới tính, bất công bắt nguồn từ phân biệt giới tính được che đậy như những sự thực khách quan của thế giới. Orlando đã mở đường cho những khám phá nghiêm túc và đáng lo ngại về vị thế của phụ nữ. Nhân vật chính dành nhiều năm ròng lấy lại tài sản của mình, và cuối cùng bị tước đoạt một cách hợp pháp sau khi anh tỉnh dậy trong bộ dạng con gái. Orlando là một nhà thơ - có thể không giỏi cho lắm - nhưng khi là đàn ông, dù bất tài anh ta cũng được đánh giá kỹ. Trong khi những người con gái giỏi nhất có khi không được chú ý. “Nhưng chúng ta phải tiếp tục viết”, bà nói với những cô gái trẻ tại Cambridge, “vì trong 100 năm tới, với căn phòng của riêng mình và tiền của riêng mình, sẽ không còn  những giới hạn do phân biệt giới tính lên khả năng của phụ nữ và sức sáng tạo của họ”. Orlando thường bị phê phán là tác phẩm trào phúng, kém quan trọng hơn Bà Dalloway hay Đến ngọn hải đăng. Nhưng tác phẩm hoàn toàn vượt xa những tác phẩm thời kì của nó trong tranh luận về giới và bình đẳng giới. Đặt một phép so sánh với cuốn The Well of Loneliness , nhân vật Radclyffe Hall, người thích được gọi là John, là  một phụ nữ đồng tính tin rằng: phụ nữ yêu phụ nữ là những  người bị sinh ra trong hình hài sai lầm. Điều này đưa đồng tính nữ tới đau khổ suốt đời. Cuốn tiểu thuyết đó bị cấm tại Anh và đã bị đưa ra tòa. Virginia Woolf đồng ý làm nhân chứng, với niềm tin vào tự do ngôn luận và chống cấm đoán, nhưng e ngại khi phải nói The Well of Loneliness là văn chương. Bà đã đúng khi e ngại, cuốn sách đó không phải văn chương. Hai tác phẩm, cùng một năm, cùng chủ đề gây tranh cãi. Nhưng Virginia Woolf, vì bà biết viết, biết quyến rũ người đọc, vì bà hài hước, có thể vì bà đang yêu, và phong cách văn của bà bay bổng với sự tự nhiên, duyên dáng, đã thành công trong việc luồn qua những kiểm duyệt. Trong khi The Well of Loneliness củng cố tất cả những định kiến về giới tính và ham muốn tình dục. Cuốn sách bị cấm. Orlando phá vỡ hết những định kiến ấy, nó lại trở thành sách bán chạy. *** Orlando, A Biography xuất bản lần đầu vào ngày 11/10//1928 (cũng là thời điểm ở đoạn kết của tiểu thuyết). Virginia Woolf xem tác phẩm này như một sự thư giãn tinh thần, một “writer’s holiday” sau những tác phẩm đòi hỏi khắt khe hơn về cấu trúc, chủ đề như Căn phòng của Jacob, Bà Dalloway, Tới ngọn hải đăng… Tuy nhiên, dù chính tác giả không kỳ vọng, Orlando lại chính là tác phẩm được đọc nhiều nhất của bà, và ngay trong lần tái bản thứ hai, số lượng bản in bán ra là 6.000, gấp đôi so với Tới ngọn hải đăng. Thủ pháp dòng ý thức trong tác phẩm này cũng đi tới chỗ cực kỳ điêu luyện và tinh tế. Và có lẽ chính vì được viết với tình yêu và cảm hứng tột cùng, có thể những vấn đề sâu thẳm nhất về ý nghĩa của cuộc đời, tình yêu và sáng tạo được thể hiện trong Orlando, ở một số khía cạnh nhất định, vượt xa hơn rất nhiều so với các tác phẩm khác của Virginia.  Cho tới nay, nhiều tiểu luận, phê bình và luận văn tiến sĩ cũng đã soi rọi nhiều ánh sáng khác nhau lên tác phẩm, và những tranh luận vẫn còn tiếp diễn, dù nói chung tất cả các văn bản này đều xem Orlando là một tác phẩm “avant-garde” về nữ quyền và tình dục đồng giới nữ. Trước khi đọc Orlando, một tiểu thuyết hay tiểu sử giả cách (fake biography), có lẽ các độc giả cũng cần biết qua hai yếu tố sau: Thứ nhất, tác phẩm này được đề tặng cho V. Sackville-West,[1] (sau đây viết tắt là VSW) bạn thân và người tình của Virginia Woolf.[2] Theo lời của Nigel Nicholson[3], con trai của VSW, đây là “lá thư tình dài nhất và dễ thương nhất trong văn học, trong đó [Virginia] khám phá Vita… đẩy bà từ giới tính này sang giới tính khác… buông một màn sương mù xung quanh bà.”[4] VSW cũng là nguyên mẫu của nhân vật chính Orlando, với một số chi tiết đời thật của bà được hư cấu hóa.  Thứ hai,  các chi tiết trong tác phẩm dựa trên lịch sử của gia tộc Sackvilles, và có bối cảnh chủ yếu dựa trên các thực tế về Knole House[5], một trong số ít gia thự cổ và lớn nhất hiện còn tồn tại ở Hạt Kent, Anh Quốc. Knole House được thiết kế theo niên lịch của một năm, gồm 365 phòng (365 ngày), 52 cầu thang gác (52 tuần), 12 cổng vào (12 tháng) và bảy sân trong (bảy ngày trong tuần). Những phần lâu đời nhất của ngôi nhà này do Thomas Bourchier, Tổng Giám mục xứ Canterbury xây dựng vào khoảng giữa 1456 và 1486. Sau nhiều lần đổi chủ, năm 1566, nó thuộc quyền sở hữu của Thomas Sackville[6], em họ của Nữ hoàng Elizabeth I,[7] cụ kỵ của VSW. Khi viết về Orlando, hầu hết những nhận định của các nhà nghiên cứu và phê bình văn học Âu Mỹ đều nhấn mạnh tới sự táo bạo và đi trước thời đại của Virginia khi xóa nhòa ranh giới của giới tính trong tình yêu; hoặc sự sáng tạo đậm nét trào phúng của bà khi pha trộn giữa phong cách viết tiểu sử và tiểu thuyết, pha trộn giữa hiện thực và những ảo tượng. Những lý luận đó đều na ná như nhau và đều không có gì mới mẻ hay khai phá. Tuy nhiên, Ted Gioia[8] có một cách nhìn mà người dịch thấy khá mới mẻ và thú vị, ông cho rằng Orlando nhìn xa hơn nhiều vào tương lai so với bất kỳ tác phẩm nào trong lĩnh vực khoa học viễn tưởng. Và ông cũng nhấn mạnh tới dòng văn xuôi đẹp như thơ của tác phẩm: “Nhưng không tóm lược cốt truyện nào có thể đánh giá đúng những phẩm chất đặc biệt của cuốn tiểu thuyết này. Cái mà độc giả sẽ nhớ tới là những tình tiết ly kỳ, sắc thái và bầu không khí. Tôi đọc cuốn sách của Woolf lần đầu trong những năm đại học, sau khi tới tham quan Knole House, một trong những thái ấp miền quê lớn nhất ở Anh Quốc… Trong ký ức của tôi, kết cấu của cuốn tiểu thuyết nhòa vào những sắc màu và hình ảnh của các bức tranh và những tấm thảm thêu ở Knole House. Tràn ngập các trang sách là một không khí huyền thoại, thể hiện một dạng tồn tại được cách điệu và nâng cao, không phải  cuộc sống thật sự chúng ta vẫn sống, mà giống như một ảo ảnh hay một giấc mơ. Nhưng ngày nay, khi đọc lại tác phẩm, tôi thu lượm được rất nhiều so với hồi ở lứa tuổi hai mươi. Giờ đây tôi khá quen thuộc với các tác phẩm khác của Woolf, và quay lại với bà vì vẻ đẹp đích thực trong ngôn ngữ của bà cũng như chính bản thân câu chuyện. Trong lịch sử ngôn ngữ Anh, có rất ít nhà văn viết hay hơn, trên nền tảng câu nối tiếp câu, hay đi xa hơn trong việc xóa nhòa các ranh giới giữa văn xuôi và thơ. Nhưng trên hết, ngày nay Orlando nổi bật lên với tư cách một tác phẩm đi đầu, tiên báo cho rất nhiều tiểu thuyết sau này – từ The Left Hand of Darkness cho tới Middlesex – những tác phẩm thể hiện giới tính với sự thay đổi không ngừng thay vì cố định, và đã biến nữ tính và nam tính thành những chủ đề bề mặt thay vì những giả đoán bất định trong tiểu thuyết đương thời.”[9] Ở đây, nhân tiện, từ gợi ý của Ted Gioia, người dịch chợt nghĩ có khi nào Orlando cũng là tác phẩm đầu tiên đã mở đường cho dòng văn học hiện thực huyền ảo (magic realism) với đại diện lẫy lừng nhất của nó là García Márquez hay chăng? Ở các tác phẩm khác của Virginia Woolf, thời gian và cái chết thường là một nỗi ám ảnh, một yếu tố can thiệp thô bạo vào đời sống hàng ngày, nhưng với Orlando, bà đã phá tan quyền lực tuyệt đối của thời gian và cái chết. Diễn tiến của tiểu thuyết này trải dài qua ba thế kỷ, từ 1588 đến 1928. Với nhân vật chính là Orlando, ban đầu là nam giới, rồi biến thành nữ giới sau một giấc ngủ dài, ở tuổi ba mươi, và dừng lại ở tuổi ba mươi sáu vào thời điểm tác phẩm kết thúc. Tiểu thuyết này cũng đặt ra những câu hỏi và lời giải đáp cực kỳ tế vi và sâu sắc về ý nghĩa của cuộc sống, tình yêu và sáng tạo. Tình yêu và Sáng tạo hiện ra, song song như hình với bóng, với từng khía cạnh say đắm, chán chường, ê chề, lố bịch, và cuối cùng là sự chấp nhận, sự tuân phục theo sức mạnh vô hình của “thời đại” trong cuộc đời kéo dài dằng dặc hơn ba trăm năm của Orlando. TÌNH YÊU    Chàng, với tư cách một người đàn ông, đã yêu đắm đuối Sasha, Công chúa nước Nga, và bị phụ tình. Chàng bỏ chạy khỏi nước Anh, sang làm Đại sứ ở Constantinople để thoát khỏi sự theo đuổi của Harriet, một nàng công chúa người Roumania vô duyên, kệch cỡm. Sau một giấc ngủ dài, chàng bỗng biến thành phụ nữ, và sống lang thang phiêu bạt cùng một bộ lạc dân du mục (quãng thời gian này khoảng chừng một thế kỷ). Rồi tình yêu quê hương trỗi dậy, nàng quay lại Anh. Sau một thời gian ẩn dật, nàng cảm thấy phải trở lại London. Ở đây, nàng lại bị theo đuổi lần nữa bởi Hoàng tử Harry (tức Công chúa Harriet), kẻ trước kia đã cải trang thành phụ nữ để tán tỉnh nàng, vì lúc đó nàng còn là một nam thanh niên. Tình yêu với nàng trở thành một trò đùa, nhưng nàng vẫn cần có tình nhân, bất kể nam hay nữ, vì thỉnh thoảng nàng lại cải trang thành đàn ông để du hí tìm vui. “Cuộc sống và một tình nhân,” đó là ý nghĩa của đời nàng. Sau đó, chán những mối tình hời hợt, có cũng như không, nàng lại trở về ngôi nhà ở quê hương. Rồi cuối cùng nàng nhận ra mình phải tuân theo thời đại, phải có một ông chồng. Nàng gặp Shelmerdine, một gã khoái lãng du giữa trùng khơi sóng dữ; hai người yêu nhau nhanh hơn chớp giật. Nàng kết hôn với chàng. Nhưng gió Tây nam nổi lên, chàng lại nổi máu hải hồ, dong buồm đi rong ruổi ở khu vực Mũi Sừng. Nàng lại sống một mình, có chồng cũng như không. Rồi một đêm chồng nàng quay trở lại, đó cũng là kết thúc của câu chuyện hơn ba trăm năm trôi nổi với tình yêu của Orlando. SÁNG TẠO Ở đầu câu chuyện, chàng thiếu niên mười sáu tuổi đã nhận ra sự khác biệt giữa ngôn ngữ và thực tại: “Tuy nhiên, cuối cùng chàng dừng bút. Chàng đang mô tả thiên nhiên, như tất cả mọi nhà thơ trẻ tuổi xưa nay luôn mô tả, và để tìm một sắc xanh chính xác, chàng nhìn vào (và ở đây chàng tỏ ra táo bạo hơn hầu hết mọi người) chính bản thân sự vật đó; ấy là một bụi nguyệt quế mọc bên dưới cửa sổ. Sau đó, dĩ nhiên, chàng không thể viết nữa. Màu xanh thiên nhiên là một chuyện, màu xanh trong văn chương lại là chuyện khác. Dường như thiên nhiên và những con chữ có một ác cảm tự nhiên với nhau; cứ đưa chúng tới gần nhau và chúng sẽ xé nhau thành từng mảnh. Sắc xanh lúc này Orlando trông thấy đã phá hỏng mất vần và nhịp của chàng.” (Chương I) Sau khi bị Nick Greene mang ra làm trò cười trong một bài thơ trào phúng, Orlando, lúc này là một thanh niên, cảm thấy chán ghét giới văn nghệ sĩ tiếng tăm. Giờ đây những mộng tưởng của chàng về tình yêu, về thi ca đã tan hoang sụp đổ:  “Như vậy, ở tuổi ba mươi, hay khoảng đó, chàng quý tộc trẻ tuổi này không chỉ có mọi kinh nghiệm mà cuộc sống đã mang tới, mà còn nhìn thấy sự vô giá trị của tất cả những kinh nghiệm đó. Tình yêu và tham vọng, phụ nữ và những nhà thơ, tất cả đều hão huyền như nhau. Văn học là một vở hài kịch trớ trêu. Cái đêm sau khi đọc tác phẩm “Tới thăm một quý tộc ở miền quê” của Greene, chàng gom năm mươi bảy sáng tác thơ đốt trong một đống lửa lớn, chỉ giữ lại “Cây Sồi”, vốn là giấc mơ trẻ con của chàng và rất ngắn. Giờ chỉ còn lại hai thứ mà chàng đặt hết mọi niềm tin vào đó: những con chó và thiên nhiên; một con chó săn Na Uy và một bụi hoa hồng. Thế giới, trong toàn bộ sự đa dạng của nó, cuộc sống trong toàn bộ sự phức tạp của nó, đã thu nhỏ thành hai thứ đó. Lũ chó và một bụi hoa là toàn thế giới.” Sau rất nhiều suy tư và tự vấn, cuối cùng chàng đã đi tới một kết luận cho mình: “Suốt một hồi lâu chàng chìm vào những ý nghĩ sâu xa như giá trị của sự vô danh, và niềm vui của việc không có tên tuổi, giống như một lượn sóng quay về với thân thể sâu thẳm của biển khơi; suy nghĩ về cách thức sự vô danh giải thoát tâm hồn khỏi sự quấy rầy của lòng ganh ghét và thù hằn; cách thức nó tạo ra trong huyết mạch dòng chảy tự do của sự khoan dung và lòng cao thượng; và cho phép người ta cho đi hoặc đón nhận mà không cần tới những lời cảm tạ hay ca ngợi; hẳn đó phải là cách thức của tất cả những thi sĩ lớn, chàng nghĩ (dù kiến thức của chàng về Hy Lạp không đủ để chàng khẳng định), bởi lẽ, ắt hẳn Shakespeare phải viết như thế, những người thợ xây dựng nhà thờ đã xây dựng như thế, không cần lời cám ơn hay tên tuổi, mà chỉ cần công việc của họ vào ban ngày và có lẽ một cuộc chè chén vui vẻ lúc đêm về… ‘Đó thật là một cuộc sống đáng ngưỡng mộ biết bao!’ Chàng nghĩ, duỗi thẳng tứ chi ra bên dưới táng sồi. ‘Và vì sao không tận hưởng nó ngay khoảnh khắc này?’ Ý nghĩ này xuyên qua chàng như một viên đạn. Tham vọng rơi xuống như một hòn chì ở đầu dây dọi. Thoát khỏi quả tim bỏng cháy vì tình yêu bị khước từ, thoát khỏi sự trách móc của thói phù hoa, và tất cả mọi gai góc dưới cái đáy tổ cuộc đời từng châm chích chàng đau buốt khi chàng còn giữ lòng tham danh vọng, nhưng không thể nào động chạm tới một kẻ không màng tới vinh quang; chàng mở mắt ra, vốn dĩ chúng vẫn mở to trong mọi lúc nhưng chỉ nhìn thấy những ý nghĩ, và nhìn thấy ngôi nhà, nằm trong thung lũng nhỏ bên dưới chân chàng.” Trong cuộc nổi dậy ở Constantinople, chàng ngủ một giấc dài và khi tỉnh lại nhận ra mình đã trở thành một phụ nữ, một cách thản nhiên và lãnh đạm. Nàng đi theo một ông già du mục, rời khỏi thành phố và tới sống với những người dân du mục lang thang, tiếp tục sửa chữa, bổ sung cho tập thơ “Cây Sồi” với phương tiện vô cùng hạn hẹp: mực làm từ quả mọng, không có giấy nên nàng buộc phải viết bên lề và chen vào giữa những dòng đã viết trước đó. Tình yêu đối với thi ca là đốm lửa chập chờn nhưng không hề tắt trong quả tim nàng. Sau đó, khi đã trở lại Anh, nàng sống ẩn dật một thời gian, rồi lại trở lên London hòa nhập vào xã hội thượng lưu, tiếp xúc với giới quý tộc và nghệ sĩ, rồi lại quay trở về quê nhà, sống một cuộc đời bình thản, vẫn luôn suy tư trăn trở với ý nghĩa của cuộc sống, thi ca. Rồi một hôm nàng hoàn thành tập thơ, kết thúc một tác phẩm đã được bắt đầu và viết đi viết lại suốt hơn ba trăm năm. Văn phong của nàng đã trưởng thành chín chắn, tài năng của nàng rốt cuộc đã lên tới đỉnh điểm của nó trong tập “Cây Sồi”, và nàng chợt nhận ra một điều: “Cuốn bản thảo thơ nằm bên trên quả tim nàng bắt đầu cựa quậy và đập thình thịch như thể nó là một sinh vật, và điều kỳ lạ hơn nữa, cho thấy có một sự đồng cảm tuyệt vời giữa họ, Orlano, bằng cách nghiêng đầu sang bên, có thể đoán ra ý nghĩa của những gì nó nói. Nó muốn được đọc. Nó phải được đọc. Nó sẽ chết trong lòng nàng nếu nó không được đọc. Bởi đây là lần đầu tiên trong đời mình nàng quay sang chống lại tự nhiên bằng bạo lực. Lũ chó săn Na Uy và những bụi hoa hồng đang quây quần xung quanh nàng. Nhưng không cá thể nào trong số những con chó săn và những bụi hoa hồng có thể đọc. Đây chính là sự sơ sót đáng tiếc của Đấng Hóa Công, điều mà nàng chưa bao giờ nhận ra trước đó. Duy chỉ con người được phú cho khả năng này.” Nàng trở lên London, gặp lại Greene, giờ đã trở thành một quý ông với nhiều tước vị. Nàng không định đưa tập thơ cho ông ta, nhưng tình cờ tập thơ rơi khỏi ngực áo nàng, Greene đề nghị được đọc, và đã giúp nàng xuất bản nó. Tập thơ được trao giải. Quá trình sáng tạo của nàng chấm dứt. Nhưng thi ca và sáng tạo vẫn quay đi quay lại trong những mộng tưởng của nàng. Thi ca là cơn mộng mị của nàng, và giống như hình ảnh con ngỗng trời ở cuối truyện, thi ca mãi mãi là cái gì đó sẽ bay ngang qua đời sống và mất hút. Hình ảnh ẩn dụ này rất tiếc không được nhiều nhà phê bình chú ý tới: “‘Bị ma ám!’ Nàng kêu lên, đột ngột nhấn ga. ‘Bị ma ám! Ngay từ lúc mình còn là một đứa nhóc. Con ngỗng trời bay tới đó. Nó bay ngang qua cửa sổ để ra biển. Mình đã nhảy lên (nàng xiết chặt bánh lái) và với tay theo nó. Những con ngỗng trời bay nhanh quá. Mình đã nhìn thấy nó, ở đây… ở đó… ở đó – Anh, Ba Tư, Ý. Nó luôn bay nhanh ra biển và mình luôn ném theo nó những từ giống như những tấm lưới (tới đây nàng vung tay ra) co rúm lại vì mình đã từng nhìn thấy những tấm lưới co rúm lại trên boong tàu, bên trong chỉ toàn rong biển; và đôi khi có một phân bạc – sáu từ – ở đáy của tấm lưới. Nhưng không bao giờ có con cá to sống trong những rặng san hô.’ Tới đây nàng cúi đầu, trầm ngâm rất mực.” Và rốt cuộc nàng cũng nhận chân được một điều: “Lúc đó nàng đã nghĩ tới cây sồi trên đỉnh đồi này, và cây sồi có liên quan gì tới việc này, nàng đã tự hỏi. Sự ca tụng và danh vọng có liên quan gì tới thi ca? Bảy đợt xuất bản (cuốn sách đã bán hết sạch) có liên quan gì tới giá trị của nó? Không phải làm thơ là một công việc ẩn mật, một tiếng nói đáp lại một tiếng nói hay sao? Vậy là tất cả những câu nói rối ra rối rít, ca tụng, trách móc và việc gặp những người hâm mộ lẫn những người không hâm mộ đều không ăn nhập gì với bản thân sự việc – một tiếng nói đáp lại một tiếng nói. Cái gì có thể ẩn mật hơn, nàng nghĩ, chậm chạp hơn, và giống với sự trao tặng nhau của những cặp tình nhân hơn câu trả lời ấp úng mà nàng đã thực hiện suốt bao năm nay để đáp lại bài ca lao xao xưa cũ của cánh rừng, của những nông trại, và lũ ngựa nâu đang đứng ở cổng, cổ kề bên cổ, và lò rèn, nhà bếp, và những cánh đồng đang nhọc nhằn nuôi dưỡng những cây lúa mì, những cây cải củ, cỏ, và những đóa hoa diên vĩ và bối mẫu đang bung nở trong vườn?” Người dịch xin được kết thúc phần giới thiệu tại đây. Rất mong các bạn đọc tìm được nhiều giá trị khác của tác phẩm Orlando từ bản dịch này. Trân trọng. Sài Gòn, tháng 03/2016 Nguyễn Thành Nhân Mời các bạn đón đọc Orlando của tác giả Virginia Woolf.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Đoàn Tàu Thuỷ Tinh - Khang Thành
Chúng ta cùng bắt chuyến tàu thủy tinh này, băng qua những mơ mộng hão huyền, nỗi oán hận, cầu mà không được, để đến chốn trong sạch cô độc. *** Sau mấy tháng cắm dùi chờ nhà bạn Fei lấp hố, cộng với sự lăng xê nhiệt tình của chị Bòn thì mình đã lao ngay vào đọc bộ này ngay khi nó hoàn. Không biết có phải tại dạo này mình khó tính hơn, hay là tại vì không hợp với giọng văn của Khang Thành. Mà phải nói sao nhỉ, cảm thấy hơi thất vọng sau khi đọc xong bộ này. Cũng có thể tại nghe chị Bòn giới thiệu nên nghĩ nó vô cùng hay, mang sự kỳ vọng quá cao khi bắt tay vào đọc để rồi cuối cùng thấy nó ko được như mình nghĩ. Truyện này nam chính và nữ chính được xây dựng là 2 con người cô đơn, tự trong đáy lòng của họ đều cất chứa nỗi đau của riêng bản thân mình nên sống khá phóng túng. Hai người gặp nhau, bắt đầu với nhau bằng tình dục. Và suốt thời gian đó, mình chỉ thấy tình dục trong mối quan hệ của họ. Mình ko cảm nhận được tình yêu giữa 2 người. Lên giường với nhau xong, mỗi khi gặp lại đều là sự hờ hững đối với đối phương. Có lẽ tác giả cố xây dựng họ là một kiểu người bề ngoài bất cần nhưng nội tâm mềm yếu, nhưng tiếc là mình ko cảm nhận đc. Đôi lúc mình ko hiểu tác giả cho thêm nữ phụ (hay phải nói là nữ phụ nửa mùa) vào làm gì, một nhân vật Hạ Vi hiếm lắm mới xuất hiện, chẳng gây ảnh hưởng gì đến mối quan hệ của đôi chính. Và mình ko thích nhất là chi tiết tác giả cho nam chính ngủ với gái trong khi vẫn đang có mối quan hệ với nữ chính. Nó thể hiện sự coi thường, coi nữ chính cũng giống như những người khác, gặp dịp thì chơi, ko có nữ chính thì có em khác giải toả ngay. Đã vậy biết nữ chính đang sống chung với mình vậy mà còn dắt gái về nhà, rồi bị nữ chính bắt gặp, cả hai phản ứng tỉnh bơ kiểu rất bất cần, nam chính bị bắt quả tang thì thái độ kiểu “thôi lộ cmnr, lộ thì lại chia tay kiếm con khác chứ có gì đâu”. Nữ chính thì rất kiêu hãnh lạnh lùng, nhìn phát rồi bỏ đi. Trước khi bỏ đi vứt lại cho nam chính một câu “anh đừng hối hận”. Nghe câu đấy mình đã hy vọng rất nhiều là nữ chính sẽ cho nam chính một bài học, sẽ ngược hắn tới bến luôn. Nhưng cuối cùng gặp lại, tát cho phát, rồi lại sà vào nhau ???????? Mình cảm thấy, đôi này yêu nhau, bởi vì họ là nhân vật chính, và bởi vì tác giả muốn thế ???????? Đến cuối cùng chị nói chị yêu anh, mà mình cảm thấy nó cứ gượng ép sao ấy. Nói chung điểm cộng khi đọc truyện này đó là chất lượng edit của nhà bạn Fei, vô cùng mượt luôn (vào nhà bạn Fei thì ko bao giờ phải lo lắng về chất lượng). Các bạn nào thích Khang Thành sau khi đọc Cơn Mưa thì có thể thử nhảy hố xem. Vì thực ra mình chỉ cảm thấy truyện này ko đáp ứng được kỳ vọng quá lớn của mình. Chứ còn xét về tổng thể thì truyện đọc khá, có rượu có thịt. Bạn nào thèm thịt nhào dzô ???????? Review: Bạch Bách Bon *** Cuối tháng Ba, vụ án của Hà Chí Bân mở phiên tòa. Hôm đó Chung Đình đi chung với lão Vạn, ngồi hàng ghế dự thính ở phía dưới. Đồng thời bị thẩm vấn cùng anh còn có năm người khác, tất cả đều là tội hối lộ. Bắt đầu từ khoảnh khắc anh bị áp giải ra, Chung Đình luôn nhìn anh. Thế nhưng từ đầu đến cuối, ánh mắt Hà Chí Bân không hề nhìn sang. Giải quyết dứt khoát. Hà Chí Bân bị xử hai năm tù có thời hạn, hưởng án treo hai năm. Trên tòa, anh từ bỏ việc kháng cáo, tuân theo xét xử. Ở tòa án làm các thủ tục liên quan xong, Hà Chí Bân đi theo luật sư, người nhà họ Hà, lão Vạn ra ngoài. Anh đã thay đồ họ mang đến, đối với mức hình phạt này, họ dường như đã chuẩn bị sớm từ trước. Tháng Ba mùa xuân, bầu trời xanh không thể tưởng tượng nổi, nhưng gió táp vào mặt vẫn còn hơi lạnh. Ở cửa, người nhà họ Hà, lão Vạn cảm ơn luật sư. Nhận được kết quả như vậy, mọi người đều có phần vui mừng. Cuối cùng dặn Hà Chí Bân mấy câu, luật sư cười đi trước một bước. Họ dùng ánh mắt đưa tiễn, chỉ thấy một chiếc xe đậu dưới bậc thang cao cao, một người phụ nữ đứng bên xe. Cô mặc bộ đồ tây, kính râm màu đen trên mặt làm lớp son môi màu đỏ sậm càng thêm rực rỡ. Nhìn thấy anh nhìn sang, cô nở nụ cười. Nụ cười ấy tự nhiên mà điềm tĩnh. ... Mời các bạn đón đọc Đoàn Tàu Thuỷ Tinh của tác giả Khang Thành.
Chuyện xưa Nam Tây - Hạ Nặc Đa Cát
Anh bảo vệ em chu toàn, em đạt được chân tướng *** Ninh Ngạn nói dối chỉ có mình có cách mở con dấu tìm được di chúc, cộng thêm việc đuổi theo nhóm Chúc Nam Tầm thời gian gấp rút, cho nên những tên kia tạm thời không ép cô giao đồ ra, nhưng cô vẫn không thể hoàn toàn nhận được sự tin tưởng của những tên đó, vì vậy những tên đó giữ chị cô lại, bảo cô và anh mình lên xe van đuổi theo, tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ của họ. Trên đường đến bệnh viện, khi đang hỗn loạn, cô đã giao con dấu cho anh trai, rồi van xin ông ấy nhất định phải trả lại cho Chúc Nam Tầm. Cô thậm chí không chắc chắn anh mình có thể gặp được Chúc Nam Tầm hay không, nhưng khoảnh khắc đó, cô đã chuẩn bị việc nghênh đón tử thần. Bao nhiêu năm như vậy, cô nhìn bố mình sống trong nỗi sợ hãi, anh chị lại bị ép tìm tung tích Lục Tây Nguyên khắp nơi, họ bị những tên đó lợi dụng, uy hiếp bằng mạng sống của bố cô, muốn mượn tay họ giết người, để họ đi làm tay đao phủ. ... Mời các bạn đón đọc Chuyện xưa Nam Tây của tác giả Hạ Nặc Đa Cát.
Công Chúa Bari - Hwang Sok-Yong
Tác phẩm là bức tranh toàn cảnh về thực tế khắc nghiệt của thế kỉ XXI cũng như hành trình tìm cách thoát khỏi khổ đau thông qua Bari, nhân vật chính của một câu chuyện cổ dân gian Hàn Quốc. Trong truyện cổ, cô gái trẻ Bari (công chúa) sau nhiều lao khổ đã lấy được nước trường sinh để cứu cha mình (thế giới). Nhân vật trùng tên với cô trong tác phẩm của nhà văn Hwang Sok-Yong sống trong những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI có khả năng đặc biệt biết về tiền kiếp của mọi người và đi lại giữa thế giới này và thế giới khác. Sinh ra tại Bắc Hàn, Bari đã rời khỏi đất nước của mình sau khi mất cả gia đình trong cảnh đói khổ vào cuối những năm 1990. Trong một lần tìm cách trốn khỏi Trung Quốc trên một chuyến tàu, cuối cùng Bari cũng đến được London và trở thành một người lao động nhập cư bất hợp pháp. Là trung tâm của Đế quốc Anh cũ, London là điểm nóng của các vụ xung đột sắc tộc, tôn giáo, giới tính và đồng thời cũng là nơi mọi người luôn nỗ lực chống lại các mâu thuẫn đó bằng tinh thần đoàn kết và tình thương yêu. Bari đã kết hôn với một người Hồi giáo, có con và rồi nhận được tin chồng mình bị mất tích trong một cuộc chiến. Không chỉ dừng lại ở đó, con cô cũng chết trong một tai nạn. Trong đỉnh điểm đau đớn, Bari lên đường vượt ra khỏi thế giới thực để tìm nước trường sinh không chỉ để cứu bản thân cô mà còn cho cả nhân loại trong thế giới đầy rẫy những muộn phiền và đau khổ. *** “Công chúa Bari” chính là tác phẩm văn học đầu tiên tôi được tiếp xúc khi bước chân sang Hàn Quốc bắt đầu cuộc sống mới của mình. Ở một nơi không phải là nơi chôn nhau cắt rốn, không gia đình, bạn bè, người thân đồng thời là điểm tựa duy nhất của tôi trong môi trường hoàn toàn xa lạ chính là người chồng bản địa, dùng chung ngôn ngữ nhưng không cùng điểm xuất phát, phong tục tập quán. Nói rộng hơn là không cùng chung nền tảng văn hóa, đó là cả một thử thách vô cùng gian nan. Trong hoàn cảnh ấy, nếu không có lòng can đảm, ý chí tự vươn lên cùng với sự giúp đỡ của chồng, gia đình chồng và người bản địa thì tôi khó lòng vượt qua được. Thời điểm đó, như một nhân duyên, “Công chúa Bari” đã đến với tôi và tuồng như có một sức hút rất lớn khiến tôi hồi hộp theo dõi hành trình đầy gian nan và đau thương của cô từ Jeong Jin Bắc Hàn tới Trung Quốc, từ Trung Quốc tới nước Anh với một sự đồng cảm sâu sắc. Mỗi miền đất cô neo lại đều được thể hiện rất rõ dưới nét bút tài hoa của nhà văn Hwang Sok-Yong, được miêu tả vô cùng sinh động và phong phú bằng chính trải nghiệm thực tế của tác giả. Bạn sẽ không thể tưởng tượng được bên cạnh sự phát triển nhảy vọt bằng “Kì tích sông Hàn” của Hàn Quốc những năm 1980, 1990 với những vòng hào quang sáng chói, đem lại cho người dân Hàn Quốc một cuộc sống ấm no viên mãn sánh ngang tầm với những cường quốc, thoát khỏi nỗi ám ảnh của thời kì huynh đệ tương tàn những năm 1950 thì Bắc Hàn - người anh em ruột thịt của Hàn Quốc - lại lâm vào cảnh cháy rừng, lũ lụt và nạn đói triền miên, khiến thây người chất đầy đường và những cái xác trôi sông không còn ai đủ sức vớt lên chôn cất. Số phận người dân trở nên mong manh như ngọn đèn trước gió, không biết tai họa ập xuống khi nào và không hề có bất kì một sự hỗ trợ, bảo hộ nào. Lưu lạc sang Trung Quốc, số phận của Bari một lần nữa lại xoay vần với những bất an, nguy hiểm của một cuộc đời lưu vong nơi đất khách quê người. Tuy nhiên nơi đó cũng không thể bảo vệ và che chở cho cô để rồi cô lại phải vượt biển, trải qua một cuộc hành trình kinh hoàng đến bên kia bán cầu và bắt đầu những chuỗi ngày gian nan không dứt. Tác giả đã mượn tác phẩm thần thoại “Công chúa Bari” với thủ pháp nghệ thuật đan xen giữa hiện thực và hư ảo để thể hiện hiện thực một cách sống động và vô cùng phong phú. Tác phẩm mở ra một chương sử thi mới vượt lên trên tất cả chiến tranh và ranh giới, nhân chủng và tôn giáo, thế giới hiện tại và thế giới tâm linh, văn hóa và hệ thống tư tưởng để mổ xẻ bóng tối của chủ nghĩa tân tự do, để tha thứ, cứu rỗi cho những linh hồn và con người chịu nhiều đau thương, bất hạnh. Như đã đề cập ở phần đầu, cuốn sách đến với tôi như một nhân duyên, giúp tôi có thêm nhiều can đảm, mạnh mẽ để hòa nhập với đời sống mới, nền văn hóa mới vốn không ít những định kiến, và cái nhìn thiếu thiện cảm dành cho các cô dâu đến từ đất nước khác. Và chồng tôi chính là người đã hỗ trợ tôi một cách đắc lực trong suốt quá trình tôi dịch cuốn sách này. Anh giúp tôi hiểu thêm về văn hóa, cuộc sống của con người Hàn Quốc không chỉ trong đời sống thường ngày mà còn trong cả những trang sách tràn đầy tính nhân văn của tác giả Hwang Sok-Yong. ĐINH THỊ KIỀU OANH (Cựu Phó chủ tịch Hội người Việt Nam tại Hàn Quốc 2010-2013) Mời các bạn đón đọc Công Chúa Bari của tác giả Hwang Sok-Yong.
Cổ Tích của Người Điên - Thời thần
Cổ tích không chỉ để đọc, cổ tích còn dùng để phá án. Từ một bệnh viện tâm thần, một cuốn sổ được kín đáo đưa ra ngoài, trong đó ghi chép câu chuyện cổ tích chưa từng thấy về cuộc chiến giữa hai phe, một là Yêu tinh Râu Xanh, hai là liên minh Hoàng tử Ếch, Mèo Đi Hia, Nhím Hans, Lọ Lem và Khăn Đỏ. Liên minh có mục tiêu đánh bại Râu Xanh và cứu thoát công chúa Bạch Tuyết. Nhưng khác với truyện cổ tích thông thường, truyện này kết thúc ở chỗ tà đã thắng chính, Bạch Tuyết phải sống mãi mãi với Râu Xanh trong nước mắt, ở một lâu đài chất đầy thịt người bỏ lọ. Câu chuyện kì dị ấy chứa đựng những manh mối về một vụ án bí hiểm cách đây hai mươi năm, với rất nhiều người bỏ mạng một cách khó hiểu trong dinh thự của một nhà giàu. Không động cơ, không ân oán, không hung thủ. Chủ nhân dinh thự bị coi là nghi phạm, đã  mau chóng hóa điên và bỏ trốn khỏi hiện trường với tốc độ marathon kỉ lục là 60 km/h. Ông ta bị bắt và tống vào viện tâm thần một thời gian thì treo cổ, để lại cuốn truyện cổ tích thay người, thay cho lời kêu oan thống thiết. Hai mươi năm sau, theo lời mời của hậu duệ chủ nhân, một số nhân tài không hề dính líu đến ai trong vụ án năm xưa đã ngồi quây quần để lật lại chân tướng. Nhưng chỉ qua một hôm, hậu duệ này bị giết trong phòng kín, bỏ lại các vị khách hoang mang ngơ ngác. Lại không động cơ, không ân oán, không hung thủ, thậm chí không cách thức gây án. Tất cả những manh mối còn lại, chỉ là cuốn truyện cổ tích đen. *** "Ngày xửa ngày xưa, có một xứ sở tên là Obsidian..." Đây không chỉ là câu mở đầu của một truyện cổ tích, mà còn là khởi nguồn của một giai thoại dị thường. Kẻ tâm thần phân liệt viết ra câu chuyện ấy đã treo cổ tự sát, lặng lẽ mang theo bí mật năm xưa xuống mồ. Hai mươi năm trước, trong một căn biệt thự u ám, người chết thảm, người bị kết tội sát nhân trong trạng thái điên điên dở dở, khi khóc khi cười... Hai mươi năm sau, nhà toán học trẻ tuổi Trần Tước quyết tâm lần theo những manh mối mơ hồ để tìm đáp án cho câu hỏi tưởng chừng vĩnh viễn không có lời giải. Bức màn bao phủ quanh vụ giết người hàng loạt ở dinh thự Vỏ Chai có lúc tưởng chừng đã được vén lên, nhưng rốt cuộc, máu lại tiếp tục chảy, kẻ sát nhân vẫn đứng trong bóng tối, chế nhạo nỗ lực của những người đang cố gắng vạch trần sự thật. Không phải truyện cổ tích nào cũng kết thúc có hậu. Không phải sự thật nào cũng khiến tất cả hài lòng. ... Mời các bạn đón đọc Cổ Tích của Người Điên của tác giả Thời thần.