Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Qua Sáu Nghìn Dặm

Giuyn Vecnơ và tác phẩm Misen Xtrôgôp Giuyn Vecnơ (1828- 1905), nhà văn Pháp nổi tiếng được coi như bậc thầy về sáng tác truyện phiêu lưu mạo hiểm và khoa học viễn tưởng. Ngay từ những tác phẩm đầu tay của mình, ông đã giành được cảm tình của đông đảo bạn đọc Pháp và các nước khác trên thế giới. Sách của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được in đi in lại nhiều lần với hàng triệu bản phát hành khắp nơi trên thế giới. Có thể nói những tác phẩm của Giuyn Vécnơ không những được giới trẻ, mà cả những bạn đọc nhiều lứa tuổi khác nhau ưa thích. Hơn bốn chục năm (từ 1862 đến đầu 1905) Giuyn Vecnơ đã viết được 63 tiểu thuyết và 2 tuyển tập truyện vừa và truyện ngắn được in thành 97 quyển sách với tham vọng là đề cập đến toàn bộ hành tinh chúng ta, từ thiên nhiên ở các vùng khí hậu khác nhau đến thế giới động vật, thực vật, phong tục tập quán cho đến sinh hoạt muôn màu muôn vẻ của các dân tộc trên thế giới. Những tác phẩm của Giuyn Vecnơ không những thể hiện tài nghệ tuyệt vời của một nhà văn có lối viết rất hấp dẫn, sâu sắc, miêu tả những con người và sự vật hết sức tinh tế, mà còn thể hiện kiến thức uyên bác, tư tưởng tiến bộ và trí tưởng tượng phong phú của một nhà khoa học. Ông vừa là người khởi xướng loại truyện khoa học viễn tưởng mà đến nay nhiều tiên đoán khoa học của ông đã trở thành hiện thực, vừa là nhà văn nổi tiếng về những tiểu thuyết phiêu lưu, mạo hiểm làm cho người đọc rất thích thú và qua đó, những độc giả trẻ nâng cao được trình độ hiểu biết và trau dồi được phẩm chất đạo đức của mình. Giuyn Vecnơ là con một luật sư ở thành phố Năngtơ. Ngay từ khi còn ở tuổi thanh niên, sau khi tốt nghiệp trung học, Giuyn Vecnơ đã theo học trường Luật ở Pari, nhưng vẫn có xu hướng say mê văn thơ, âm nhạc và sân khấu. Khi đã tốt nghiệp và hành nghề luật sư, ông bắt đầu đi vào con đường sáng tác văn học, đồng thời tìm hiểu về khoa học tự nhiên, thường xuyên đến đọc sách ở Thư viện Quốc gia, đi nghe các buổi thuyết trình về địa lý, thiên văn, hàng hải, lịch sử và các phát minh về khoa học, kỹ thuật. Nhờ đó, sau này những kiến thức mà ông tiếp thu được đã thành cơ sở cho những sáng tác kiệt xuất của ông. Những tác phẩm đầu tiên của ông như “Năm tuần lễ trên khinh khí cầu (1862), “Cuộc thám hiểm trong lòng đất” (1864), “Những cuộc du hành của thuyền trưởng Hatơraao” (1864 - 1865), “Những đứa con của thuyền trưởng Grant” (1865 - 1866) v.v... đều lập tức có tiếng vang lớn trong giới độc giả thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Misen Xtrôgôp là một trong những cuốn tiểu thuyết phiêu lưu được đánh giá vào loại xuất sắc nhất, vừa có tính giáo dục cao, vừa có tính giải trí lành mạnh với những tình tiết éo le phức tạp, những pha hết sức hồi hộp và bất ngờ, khiến người đọc cảm thấy bị lôi cuốn, say mê, hấp dẫn không sao cưỡng nổi và muốn đọc một mạch suốt 32 chương với gần 500 trang sách. Điều đáng khâm phục là Giuyn Vecnơ miêu tả đất nước và con người Nga chính xác và chân thật tới mức như tác giả là một người Nga, hay ít nhất là đã sinh sống trên đất nước Nga nhiều năm rồi, để có một sự hiểu biết tường tận đến như vậy về địa lý, lịch sử cũng như phong tục tập quán và tính cách con người Nga trong giai đoạn lịch sử đó. Nhân vật chính của tiểu thuyết là Misen Xtrôgôp, con trai một người thợ săn ở Xibir. Anh được rèn luyện từ nhỏ, nên trở thành một thanh niên, cường tráng, dũng cảm và mưu trí. Năm hai mươi tuổi, anh được tuyển vào đội quân liên lạc đặc biệt của Nga hoàng làm một người lính và sau đó trở thành đại úy của đội quân ưu tú này. Thời gian đó bọn giặc Tactar đang nổi lên xâm chiếm vùng Xibir, phần châu Á của nước Nga. Hàng chục vạn quân đủ mọi chủng tộc từ những người Kiêcghidi, Mông Cổ, Apganixtang, Udơbêch, Thổ, Ba Tư, Do Thái... dưới cái tên chung là quân Tactar tràn vào xâm chiếm vùng phía Đông xứ Xibir mênh mông, gây biết bao đau thương, tang tóc cho nhân dân vùng này. Cấu kết chặt chẽ với chúng có tên phản bội cực kỳ nham hiểm và xảo quyệt, Ivan Ôgarep, đại tá trong quân đội Nga hoàng. Bất mãn vì bị đại công tước, em trai của Nga hoàng giáng chức về tội vô tổ chức, tên này đã xúi giục một số tù trưởng bộ lạc ở những vùng biên cương xa xôi nổi lên chống Nga hoàng, âm mưu xâm chiếm vùng Đông Xibir, dùng thủ đoạn gián điệp và nhiều mánh khóe xảo trá khác để bắt sống đại công tước hòng trả thù riêng. Nga hoàng nắm được ý đồ nguy hiểm của tên phản bội này đã phái Misen Xtrôgôp đem mật thư của nhà vua trao tới tận tay đại công tước - lúc này đang ở Irkuxk - để phá vỡ âm mưu đó. Suốt chặng đường dài gần sáu ngàn dặm, từ Maxcơva đến Irkuxk, Misen Xtrôgốp đã trải qua bao gian khổ khó khăn do kẻ thù và thiên nhiên khắc nghiệt gây ra tưởng chừng như khó có thể vượt qua được. Nhưng đói khát, mệt nhọc, băng tuyết, bão táp không làm anh nao núng. Mấy lần sa vào tay giặc, anh đều tìm cách trốn thoát kể cả lần giặc đã đốt mù cả hai mắt anh. Giặc bắt mẹ anh để hành hạ và uy hiếp cũng không khuất phục được anh. Ý chí gang thép của anh đã làm cho bọn giặc man rợ cũng phải sợ hãi và khâm phục. Cuối cùng, nhờ trí thông minh, lòng dũng cảm, thái độ bình tĩnh, mưu trí và nhất là tấm lòng trung thành tận tụy với đất nước, Misen Xtrôgôp đã làm tròn sứ mệnh. Quân phiến loạn bị đánh tan, tên phản bội Ivan Ôgarep bị tiêu diệt, nhân dân Xibir được giải thoát khói ách nô dịch của quân Tactar. Truyện còn được lồng vào một mối tình trong sáng và thanh cao giữa Misen Xtrôgôp và Nađia, cô gái Latvi cũng xông pha ngàn dặm, chia sẻ vói chàng trai dũng cảm bao gian nan khổ ải để tìm cha trong miền Xibir mênh mông tuyết trắng. Khi đã hoàn thành sứ mệnh, trước mặt cha cô, Misen Xtrôgôp nói với người bạn gái: - Nađia!... khi rời Riga để tới Irkuxk, em có còn để lại sau em niềm thương nhớ nào khác ngoài lòng thương nhớ người mẹ đã khuất của em không? - Không, anh ạ, - Nađie đáp, - không còn một niềm thương nhớ nào khác cả. - Nếu vậy thì, Nadia! - Misen Xtrôgôp run giọng nói tiếp. - Anh không tin rằng Thượng đế đã run rủi cho chúng ta gặp nhau, đã bắt chúng ta cùng trải qua bao gian truân thử thách, lẽ nào lại không muốn cho chúng ta được mãi mãi bên nhau? - Ôi, anh! - Nađia thốt kêu lên và sà vào hai cánh tay dang rộng của Misen Xtrôgôp. Và quay lại phía Vaxili Fêđor, mặt đỏ bừng, cô kêu lên: “Cha ơi!”. Người dịch VŨ LIÊM *** - Tâu bệ hạ, một công điện mới. - Từ đâu đến? - Từ Tômxk. - Đường dây đã bị cắt từ thành phố đó phải không? - Bị cắt từ hôm qua, muôn tâu. - Tướng quân hãy từng giờ đánh điện tới Tômxk và yêu cầu cho ta biết tin tức nhé! - Xin tuân lệnh bệ hạ - Tướng Kixôp đáp. Những lời trao đổi trên đây xảy ra vào hồi hai giờ sáng, giữa lúc đêm hội ở Tân Cung đang diễn ra huy hoàng náo nhiệt nhất. Trong đêm đó, ban nhạc của các trung đoàn Prêobragienxky và Paulôpxki không ngừng chơi những điệu vũ nhạc được chọn trong những điệu hay nhất như Pônka, Mazurka và những điệu Vansơ. Những cặp nam nữ nối tiếp nhau nhảy không dứt qua những phòng khách lộng lẫy của lâu đài được xây dựng cách “tòa nhà đá cũ” có mấy bước, nơi xưa kia đã từng xảy ra bao thảm kịch rùng rợn - Và... đêm nay, tiếng vang xưa trỗi dậy, dội vào trong các điệu đối vũ. Ngài đại thống chế của triều đình cũng được hỗ trợ đắc lực trong công việc tế nhị của mình. Các công tước cùng những sĩ quan hộ vệ của các vị đại thần trực ban, các sĩ quan trong hoàng cung cũng tự mình tham gia, đôn đốc việc tổ chức vũ hội. Các công tước phu nhân, ngọc quý đầy người, các bà thị nữ với xiêm áo ngày hội mạnh dạn làm gương cho các bà vợ sĩ quan và viên chức cao cấp của “Kinh thành đá trắng” cổ kính. Vì vậy, khi tín hiệu của điệu nhạc “Pôlône” vừa nổi lên, thì tất cả quan khách, không phân cấp bậc, đều tham gia vào cuộc diễu hành nhịp nhàng đó. Trong khung cảnh trang trọng như đêm nay, thì vũ hội này mang một tầm cỡ quốc gia. Những chiếc áo dài có đính nhiều tầng đăng ten xen lẫn với những bộ quân phục lấp lánh huân chương dưới ánh sáng của hàng trăm bộ đèn chùm, được những tấm gương soi phản chiếu làm sáng rực lên gấp mười lần, trông thật ngoạn mục, chói ngời, lóa mắt. Đại sảnh đường đẹp nhất trong tất cả các phòng khách ở Tân Cung thật xứng đáng làm khung cho sự lộng lẫy huy hoàng của những vị tai to mặt lớn cùng những bà mệnh phụ trang điểm cực kỳ diễm lệ. Vòm nhà thếp vàng tuy đã phai mờ đôi chút vì đã bị phủ một lớp gỉ của thời gian vẫn ánh lên những điểm sáng như những vì sao lấp lánh. Những tấm vóc làm màn che gió và màn treo ở cửa với những nếp gấp tuyệt mỹ ửng hồng lên một màu sắc nồng thắm, tương phản mạnh mẽ với những góc cạnh của tấm màn nặng trĩu. Nhìn qua những tấm kính các cửa sổ rộng lớn, hình bán nguyệt, người ta thấy ánh sáng tràn ngập các phòng, nhưng được một làn hơi nước nhẹ nhàng tỏa ra làm dịu bớt đi, đứng bên ngoài trông như phản quang của một đám cháy nổi bật lên trong đêm tối mà trong khoảng một vài tiếng đồng hồ bao trùm toà lâu đài rực sáng này. Bởi vậy, sự tương phản đó làm cho những tân khách không tham gia khiêu vũ cũng phải chú ý. Khi họ dừng lại bên những khung cửa sổ, họ có thể nhìn thấy một vài tháp chuông với những cái bóng khổng lồ hiện lên đó đây trong đêm, mờ mờ ảo ảo. Bên dưới những bao lơn chạm trổ, họ nhìn thấy những lính canh đi lại, súng vác vai, đầu đội mũ chỏm nhọn có giắt một chòm lông chim, trông như ngọn lửa, dưới ánh sáng của những pháo hoa bắn lên từ bên ngoài. Họ cũng nghe thấy bước chân của những đội tuần tra gõ nhịp nhàng trên mặt đá lát đường, có lẽ còn nhịp nhàng hơn cả những bước chân đang khiêu vũ trên sàn nhà các phòng khách. Thỉnh thoảng có tiếng hô của lính gác lặp đi lặp lại từ trạm này qua trạm khác và đôi lúc một tiếng kèn đồng, xen vào hợp âm của dàn nhạc, cất lên những nốt lánh lót giữa sự hài hòa chung. Dưới thấp hơn, trước tòa nhà, những khối đen sẫm nổi lên rõ nét dưới những luồng ánh sáng hình nón hắt ra từ các cửa sổ của Tân Cung. Đó là những con tàu xuôi dòng sông mà mặt nước lấp lánh dưới ánh sáng chập chờn của những ngọn đèn hiệu mấp mé ở các bậc thềm đầu tiên. Nhân vật chính của buổi khiêu vũ; người ra lệnh tổ chức đêm hội này; người mà tướng Kixốp tôn trọng như đối với các đấng quân vương, chỉ vận sơ sài một bộ quân phục sĩ quan khinh binh cận vệ. Đó chẳng phải là một sự trá hình, mà là thói quen của một người không thích sự diêm dúa bên ngoài. Cách ăn mặc của ông ta tương phản với những trang phục lộng lẫy của đám người nhộn nhịp xung quanh và chính vì thế mà nổi bật giữa đám tùy tùng của ông gồm những người Grudia, những người Cô-dắc, những người Lesghi, những kỵ binh với những bộ quân phục rực rỡ vùng Capcadơ. Nhân vật này, thân hình cao lớn, thái độ hòa nhã, nét mặt bình thản, nhưng vầng trán nhuốm vẻ suy tư, đi từ đám đông này tới đám đông khác, ít nói, thậm chí chỉ lơ đãng nghe, hoặc những câu tào lao vui nhộn của đám tân khách trẻ tuổi, hoặc những lời lẽ nghiêm chỉnh hơn của những viên chức cao cấp hay của những thành viên trong các đoàn ngoại giao, đại diện cho các quốc gia chủ yếu của châu Âu bên cạnh ông ta. Hai hoặc ba trong số những nhà chính khách mẫn tiệp đó - có tài về xem tướng mặt - hình như nhận thấy trên sắc diện của chủ nhân có vài biểu hiện lo lắng băn khoăn gì đó mà họ không rõ nguyên nhân, nhưng không một ai dám tự cho phép mình được hỏi han ông ta về vấn đề đó. Dù sao thì ý đồ của người sĩ quan đội khinh binh cận vệ, không còn nghi ngờ gì nữa, là làm sao để những mối lo âu thầm kín của mình không được gây bất kỳ một trở ngại nào cho đêm hội này - Và vì ông ta là một trong những đấng quân vương hiếm có mà tất cả mọi người đều đã quen phục tùng, ngay cả trong ý nghĩ, nên những niềm hoan lạc của đêm vũ hội không một lúc nào bị giảm sút. Trong khi đó, tướng Kixôp vẫn chờ người sĩ quan mà ông vừa chuyển bức điện từ Tômxk đánh về ra lệnh để rút lui, nhưng người sĩ quan vẫn cứ im lặng, Ông ta cầm đọc bức điện, vầng trán càng sa sầm. Tay ông như vô tình đặt vào chuôi kiếm, rồi đưa lên che mắt một lát khiến mọi người tưởng như ánh sáng làm ông bị chói và ông cần có bóng tối để tự nhìn mình rõ hơn. - Như vậy là, - ông nói và kéo tướng Kixôp tới gần một khung cửa sổ - từ hôm qua chúng ta không còn liên lạc được với đại công tước, em trai ta ư? - Không còn liên lạc được nữa, muôn tâu. Và thần e rằng chẳng bao lâu, những công điện không thể vượt qua được biên giới Xibir. - Nhưng quân đội các tỉnh Amua và Irkuxk cũng như quân đội tỉnh Tranxbaikali đã được lệnh hành quân cấp tốc đến Irkuxk rồi kia mà? - Lệnh đó đã được phát đi bằng bức điện cuối cùng mà chúng ta có thể chuyển tới bên kia hồ Baikan. - Chúng ta vẫn còn liên lạc trực tiếp được với chính quyền các tỉnh Yênixêixk, Ômxk, Xêmipalatinxko và Tôbônxk từ đầu cuộc xâm lăng của địch chứ? - Tâu hoàng thượng, vẫn còn liên lạc được và thần chắc rằng cho đến giờ phút này, bọn Tactar chưa vượt qua được sông Irtys và sông Ôbi. - Còn về tên phản tặc Ivan Ôgarep, chúng ta có tin tức gì không? - Không có tin gì cả, - tướng Kixôp thưa. - Cảnh sát trưởng cũng không biết được chắc chắn là hắn đã vượt qua biên giới chưa. - Đặc điểm nhận dạng của hắn phải được gửi ngay tới Nigiơni - Nôpgôrôd, Pecmơ, Ekatêrinbua, Kaximôp, Tiumen, Ichim Ômxk, Elamxk, Kôlyvan, Tômxk và tới tất cả các trạm bưu điện mà đường dây còn liên lạc được! - Lệnh của hoàng thượng sẽ được thi hành ngay tức khắc, - Tướng Kixôp đáp. - Tất cả công việc này cần phải tiến hành thật lặng lẽ đấy nhé! Bằng một dấu hiệu tỏ vẻ trân trọng phục tùng, sau khi khẽ cúi đầu, tướng Kixôp đi lẫn vào đám đông và rời khỏi các phòng khách. Không ai để ý đến sự ra đi của ông. Người sĩ quan đứng thẫn thờ một lúc và khi trở lại nhập vào các nhóm quân nhân, các nhà chính khách đã được hình thành ở nhiều điểm trong các phòng, thì vẻ mặt ông, trước đó đã có lúc bối rối, bỗng trở lại bình thản như cũ. Tuy vậy, sự kiện nghiêm trọng khiến có cuộc trao đổi ý kiến chớp nhoáng trên đây không phải là không ai biết như viên sĩ quan khinh binh cận vệ và tướng Kixôp tưởng. Điều đó, người ta không nói ra một cách chính thức, đúng thế, cũng như bán chính thức, bởi vì không có “lệnh’’ được công khai nói. Nhưng một vài nhân vật cao cấp cũng đã được thông báo tương đối chính xác về tình hình xảy ra ở phía bên kia biên giới. Dù sao họ cũng chỉ mới nắm được láng máng về những điều mà ngay cả những thành viên trong đoàn ngoại giao cũng không nói với nhau, thế mà có hai vị khách không mặc quân phục, cũng không mang huân chương trong buổi chiêu đãi ở Tân Cung, lại thì thầm trao đổi với nhau có vẻ như đã nhận được những tin tức khá chính xác. Làm thế nào, bằng con đường nào, nhờ có sự bặt thiệp như thế nào mà hai con người bình thường này lại biết cái mà những người khác vốn là những yếu nhân, cũng chỉ vừa mới ngờ tới? Người ta khó có thể tin như vậy. Hay là họ được trời phú cho cái tài tiên giác tiên tri? Hay là họ có một giác quan phụ cho phép nhìn thấy được tận bên kia chân trời của biên giới mà những con mắt người thường không thấy được chăng? Hoặc là họ có khiếu linh mẫn đặc biệt để khám phá ra những gì bí mật nhất. Hoặc là nhờ thói quen “sống cho tin tức và vì tin tức” ở họ đã trở thành bản chất thứ hai khiến tập tính của họ thay đổi chăng? Chúng ta hãy thử chấp nhận điều đó. Trong hai người này thì một là người Anh, còn người kia là công dân Pháp. Cả hai đều cao, gầy. Một người da nâu nâu như dân miền Nam xứ Prôvăngxơ, một người da hung hung đỏ như một nhà quý tộc xứ Lancasir. Anh chàng người Anh thì kiểu cách, lạnh lùng, phớt đời, tiết kiệm cả cử chỉ và lời nói, hình như chỉ nói năng và cử động khi thật cần thiết. Ngược lại anh chàng người Pháp thì linh hoạt, hăng hái, diễn tả cùng một lúc cả bằng môi, bằng mắt, bằng tay... ý nghĩ của mình với hàng chục cách khác nhau, trong khi người đối thoại với anh ta hình như chỉ có một cách duy nhất không thay đổi và như cố định trong đầu là chăm chú nghe và nhìn. Những nét khác biệt bên ngoài này dễ dàng làm cho bất cứ ai, dù có cặp mắt quan sát kém nhất cũng phải chú ý; nhưng một người giỏi xét đoán vẻ mặt, khi nhìn gần hai người ngoại quốc này sẽ xác định dứt khoát là sự trái ngược trong hành động bề ngoài của họ nói lên rằng người Pháp rất “tinh mắt”, còn người Anh rất “thính tai”. Thật vậy, cặp mắt - bộ máy quang học - của người này thường xuyên được sử dụng, nên đạt tới mức hoàn thiện lạ lùng. Võng mạc mắt ánh ta có độ nhạy tức thời như võng mạc những nhà ảo thuật chỉ qua động tác trang bài thật nhanh cũng nhận ra ngay được con bài nào, hay đơn thuần chỉ bằng sự sắp xếp một con bài mà người khác không tài nào nhận ra. Vậy là người Pháp này có một năng khiếu tuyệt vời mà người ta gọi là “trí nhớ bằng mắt”. Người Anh, ngược lại, hình như đặc biệt sinh ra để nghe và hiểu. Khi bộ máy thính giác tiếp nhận tiếng của một giọng nói, anh ta sẽ không thể nào quên được và mười năm, hai mươi năm sau, anh ta vẫn có thể nhận ra giọng nói đó trong hàng nghìn giọng nói khác. Đôi tai anh ta tất nhiên không có khả năng cử động như tai các loài vật có những loa tai to; nhưng các nhà sinh vật học nhận xét là tai người chỉ “gần như” bất động nên ta có quyển khẳng định rằng tai của người Anh trên đây vểnh lên, cụp xuống, nghiêng nghé... để tìm cách thu nhận cả những âm thanh chỉ mới vừa thoáng vẳng đến. Phải công nhận là năng khiếu về nghe và nhìn của hai nhân vật nói trên đã phục vụ tuyệt diệu cho nghề nghiệp của họ, vì anh chàng người Anh là phóng viên của tờ “Tin điện hàng ngày” và anh chàng người Pháp là phóng viên của tờ báo nào hoặc của những tờ báo nào thì anh ta không nói và khi có người hỏi, anh lại bông đùa trả lời là anh cung cấp tin tức cho “cô em họ Mađơlen” của anh. Thật ra anh chàng người Pháp tuy bề ngoài có vẻ nông nổi, nhưng lại rất mẫn tiệp và sắc sảo. Anh thường hay nói năng lung tung - có lẽ là để che giấu ý muốn tìm hiểu sự thực - nhưng không bao giờ chịu bộc lộ ý đồ chính của mình. Chính sự ba hoa đó đã giúp anh kín tiếng. Có thể nói là anh ta chín chắn và kín cạnh hơn bạn đồng nghiệp ở báo “Tin điện hàng ngày”. Với tư cách nhà báo, hai người tham dự đêm hội tổ chức tại Tân Cung tối 15 rạng 16 tháng Bảy là cốt để đưa tin sốt dẻo phục vụ thật hữu hiệu cho độc giả của họ. Không cần nói là cả hai anh chàng đều hăng say với sứ mệnh của mình ở trên đời này. Họ thích lao vào việc đi săn những tin tức bất ngờ nhất. Không gì làm cho họ sợ hãi cũng như làm họ chán nản trong khi đi tìm thắng lợi. Họ có thái độ bình tĩnh, không bao giờ nao núng. Chính đó là lòng dũng cảm thực sự của những người yêu nghề. Là những tay đua ngựa vượt rào nhà nghề trong cuộc săn tin này, họ vọt qua rào, vượt qua sông, nhảy qua bờ đất với nhiệt tình vô song của những con ngựa nòi muốn chạy tới đích “hoặc đoạt giải nhất hoặc là chết!”. Hơn nữa, những tờ báo của họ không bao giờ tiếc tiền đối với họ - đó là nhân tố thông tin mạnh nhất, nhanh nhất, hoàn hảo nhất mà người ta biết được cho đến nay. Cần phải nói thêm, và đây là một vinh dự đối với họ, là cả hai đều không bao giờ tò mò nhìn và nghe những gì thuộc về đời tư và họ chỉ hành động khi nào có dính líu đến quyền lợi chính trị và xã hội của họ. Tóm lại, họ làm như người ta thường nói trong khoảng vài ba năm nay, “thiên phóng sự lớn về chính trị và quân sự”. Nhưng, nếu theo sát họ, người ta sẽ thấy thường thường họ có một cách nhận định sự việc thật kỳ quặc, nhất là nhận định về những hậu quả của những sự việc đó, bởi lẽ mỗi người đều có “cách riêng của mình” để xem xét và đánh giá. Và cuối cùng thì không ai đang tâm trách cứ họ, vì họ làm việc thật nghiêm túc, hết mình bất cứ trong trường hợp nào. Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Qua Sáu Nghìn Dặm của tác giả Jules Verne.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đất Dữ
Cuộc đấu tranh tàn khốc nhằm giành lấy khu rừng Sanqueiro Grande – nơi có loại đất đen tốt nhất để trồng ca cao – cuốn rất nhiều người vào vòng quay điên cuồng của nó. Một bên là đại tá Horácio, với sự trợ giúp của tay luật sư có học thức và tài năng Virgilío Cabral, không từ thủ đoạn nào để chiếm đoạt hết đất của những điền chủ nhỏ trong vùng. Bên kia là anh em nhà Badaró: Juca và Sinhô, thích giải quyết mọi chuyện một cách nhanh, gọn bằng những cuộc mưu sát. Và nhiều, nhiều nữa những con người tìm đến vùng đất ấy để làm giàu. Ở đó, cuộc đời của họ gắn liền, xoay quanh, phụ thuộc vào những gốc ca cao để rồi cuối cùng kết thúc bên chính những gốc cây ấy. Ra đời năm 1943, Đất dữ của Jorge Amado viết về nền “văn hóa ca cao” đặc trưng của đất nước Brazil bằng tình yêu của tác giả dành cho quê hương xứ sở. Tác phẩm đã trở thành một trong những tiểu thuyết thành công nhất trong sự nghiệp của ông, được dịch ra nhiều ngôn ngữ, rồi chuyển thể thành kịch, phim và được khán giả đón nhận nồng nhiệt. *** Review Binh Boog: 6 tháng 6, 2018 Ngày, tháng, năm Em thân yêu Ngày chia tay em, anh ra đi với bao ước vọng sẽ giàu có trở về. Hành trang mang theo là niềm khát khao gây dựng cho mình được một đồn điền ca cao. Mỗi quả ca cao chín là một tấc vàng. Ở mảnh đất hứa ấy, ca cao là vàng, là sự giàu có. Nhưng em thân yêu ơi. Anh đã thực sự bị choáng ngợp bởi mảnh đất ấy. Nó không phải là mảnh đất hứa như anh đã tưởng tượng. Ở mảnh đất ấy là sự dữ dội của thiên nhiên. Quay đi quay lại xung quanh chỉ là những khu rừng âm u tăm tối, là những đầm lầy, là bùn đất. Là tiếng kêu của các loài động vật, là tiếng thét gào vĩnh biệt của chú ếch khi bị rắn độc nuốt. Là rắn bò ngổn ngang nhiều vô kể, phải luôn cảnh giác đề phòng với nọc độc của chúng. Là đối mặt với dịch sốt vô phương cứu chữa, là sốt rét rừng. Nhưng trên hết là máu. Máu ở đây đổ xuống mỗi ngày. Cái chết ở đây diễn ra như cơm bữa. Luật lệ nằm trong tay những kẻ mạnh. Người ta thanh toán, trừ khử, chĩa súng vào nhau để tranh dành địa bàn là những đồn điền ca cao hay khu rừng sẽ khai phá để trở thành đồn điền ca cao sau này. Em có thể hình dung những thế lực ở đây không khác gì những băng đảng mafia khét tiếng. Những cuộc ám sát, trừ khử, tranh dành không bao giờ chấm dứt. Người ta sai đi giết người dễ như đi chặt một cái cây. Cùng với ca cao và bùn đất nơi đây đã biến anh thành một con người khác mà chính anh cũng thấy thật xa lạ không còn là chính mình. Từ một người hiền lành và hoà nhã đầy tham vọng rồi anh cũng trở thành một con người thô bạo, một con quỷ một con người hèn hạ vô ích và nhu nhược, một kẻ giết người. Ngoài những lúc bắn giết thì trò giải trí duy nhất ở đây là gái điếm và cờ bạc. Những cô gái ở đây là công cụ giải trí thoả mãn cơn hứng của những tay chém giết hay những anh phu cày lưng lao động trên những đồn điền ca cao. Ca cao ở đây là sự sống, là vàng. Mỗi gốc cây ca cao ở đây là một xác người vun xới. Và anh rồi cũng sẽ là một trong những người nằm dưới gốc cây ca cao để hoà máu mình vào đất cho những đồn điền ca cao ngày càng được mở rộng. Máu và bùn đất sẽ vẫn hoà trộn vào nhau để vun xới cho những cây ca cao ở đây và sẽ luôn luôn tiếp nối trên mảnh đất này. Yêu em! *** Review Huy Minh: Trong lịch sử thế giới, đã có rất nhiều cuộc chiến liên quan đến những loại cây công nghiệp, có thể kể đến cuộc chiến tranh nha phiến hay mặt trận cao su. Đến với “Đất dữ”, tôi được chứng kiến một cuộc chiến mới: cuộc chiến ca cao, một cuộc chiến đẫm máu và đầy rẫy bạo lực với sự dẫn dắt của nhà văn Brazil Jorge Amado. Được viết vào năm 1942, “Đất dữ” – tên của cuốn sách đã nói lên câu chuyện của nó – cuộc chiến giữa hai nhà điền chủ để chiếm đoạt những đồn điền ca cao. Một bên là Horacio, người sẵn sàng gạt phăng tất cả những thứ gì cản đường để đạt được mục đích của mình, với điểm yếu duy nhất là người vợ nhỏ nhắn, luôn khao khát tự do Ester. Một bên là anh em nhà Badaro, cũng thèm khát vùng đất mà Horacio muốn chiếm đoạt, bất chấp thủ đoạn để trở thành người thắng cuộc. Với hệ thống nhân vật khá nhiều và dày đặc nhưng nhân vật trung tâm của cuốn sách không phải là bất cứ người nào trong câu chuyện, Jorge Amado chọn chính vùng đất là nhân vật chính cho cuốn tiểu thuyết của mình. Chúng ta bắt gặp một vùng đất vô luật lệ mà sự quyến rũ của tiền nhanh chóng thu hút mọi người từ khắp nơi đổ về mà trong đó có rất ít người trở về nguyên vẹn – cả về thế xác lẫn tâm hồn: “Người ta nói vùng đất này thực là cái mỏ vàng; người ta bảo có một người nào đó vừa xuống khỏi tàu thủy đã giàu ngay rồi; người ta nói là phố xa đều lát vàng, kiếm vàng cũng dễ như kiếm bụi.” Trong câu chuyện, Jorge Amado liên tục mô tả sự chuyển động song song giữa một bên là bọn điền chủ và tay sai của chúng, một bên là hơi thở tự nhiên của những khu rừng xung quanh – nơi bọn chúng khao khát phá bỏ để lập nên những đồn điền. Nhịp điệu của cuốn sách biến đổi không ngừng, mở đầu với sự chậm rãi và mô tả tỉ mỉ cảnh vật, những phong tục địa phương và giới thiệu từng nhân vật, lúc sau khi bạo lực bắt đầu leo thang thì Jorge Amado liên tục kéo người đọc với những diễn biến nhanh dồn dập, những cuộc giao dịch, những vụ giết người chớp nhoáng. Thông qua cốt truyện chính (cuộc đấu tranh giữa Badaros và Đại Tá Horacio), Jorge Amado mở cho tôi một cánh cửa để nhìn vào thời kỳ khi đồng tiền chi phối mọi thứ và làm thế nào mà bạo lực trở thành một vòng xoáy liên tục định hình cuộc sống của tất cả mọi người. Bạo lực chảy xuyên suốt cuốn sách theo một vòng lặp lại, không biết bao giờ kết thúc, những cây ca cao được tưới bằng máu của những người ngã xuống sau các cuộc tranh giành đất đai. Những nhân vật của Jorge Amado đôi lúc cũng bối rối, không chắn chắc rằng bạo lực sẽ giải quyết tất cả hay tiền sẽ là câu trả lời cho mọi chuyện: “Có tiền đâu phải là xấu, nếu như người ta không mong ước gì khác nữa. Nhưng nếu một người nào đó ở đời chỉ biết có tiền thì hắn quả là một thằng tồi. Người ta trở nên mù và điếc khi nói đến tiền.” Nhưng những suy tư ấy nhanh chóng bị gạt bỏ khi người ta bị cuốn vào cái vòng xoáy mà không thoát ra được. Hai nhân vật là đại diện cho những khao khát hướng thiện trong cuốn sách là Ester và Virgilio, cặp tình nhân luôn tha thiết được bỏ trốn đến nơi nào mà ban đêm họ có thể nhắm mắt ngủ an lành bên nhau mà không bận tâm đến những bạo lực, những cuộc tranh chấp, những kẻ thù. Nhưng quả thật, chỉ ao ước là không đủ, cần phải có can đảm đứng lên nữa. Những đoạn độc thoại nội tâm của hai nhân vật này là những đoạn dường như Jorge Amado muốn gửi gắm thông điệp thật sự của mình. Đây không phải là cuốn sách đầu tiên của Jorge Amado mà tôi đọc, vì vậy tôi thật sự cảm giác lạ lẫm với phong cách này của ông khi đã quên với sự huyền ảo trong các cuốn sách khác của ông, cũng có thể là được viết trong thời kỳ đầu trong sự nghiệp sáng tác, nên “Đất dữ” cũng kém đi sự uyển chuyển, kỳ bí như những cuốn sách khác, cũng có thể bởi tiếp cận một chủ đề có phần thực tế – ông lớn lên ở một đồn điền ca cao – nên ông chọn cách kể chuyện thô ráp, trực diện nhưng vẫn là một cuốn sách hấp dẫn, kỳ lạ dẫn tôi đến một thế giới hoàn toàn mới, mà tôi luôn khao khát được khám phá them nữa. *** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001)   Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức.   Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763.   Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17.   Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)…   Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA.   Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil.   Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương… Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Biển Chết Dona Flor Và Hai Người Chồng Hảo Hán Nơi Trảng Cát Đất Dữ Hải Trình Ven Bờ   Các tác phẩm:  - O País do Carnaval (1931)  - Cacau (Cacao, 1933)  - Suor (1934)  - Jubiabá (1935)  - Mar Morto (Sea of Death, 1936)  - Capitães da Areia (Captains of the Sand, 1937)  - Vida de Luis Carlos Prestes (The Life of Luis Carlos Prestes,1942) also published as “The Knight of Hope”  - Terras do Sem Fim (The Violent Land, 1943)  - São Jorge dos Ilhéus (1944)  - Seara Vermelha (1946)  - Os Subterrâneos da Liberdade (1954)  - Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958)  - A Morte e a Morte de Quincas Berro Dágua (The Two Deaths of Quincas Wateryell, 1959)  - Os Velhos Marinheiros ou o Capitão de Longo Curso (Home Is the Sailor, 1961)  - Os Pastores da Noite (Shepherds of the Night, 1964)  - Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 196  - Tenda dos Milagres (Tent of Miracles, 1969)  - Teresa Batista Cansada da Guerra (Tereza Batista: Home from the Wars, 1972)  - Tieta do Agreste (Tieta, the Goat Girl, 1977)  - Farda Fardão Camisola de Dormir (Pen, Sword and Camisole, 1979)  - Tocaia Grande (Showdown, 1984)  - O Sumiço da Santa (The War of the Saints, 1988)  - A Descoberta da América pelos Turcos (How the Turks Discovered America, 1994)  - Navegação de Cabotagem (1992)  - O Compadre de Ogum>(Companion of the God Ogum, 1995)  Mời các bạn đón đọc Đất Dữ của tác giả Jorge Amado.
Tôi Cần Một Cái Khuôn Khác - Méo Mó Cũng Được!
“Tôi cần một cái khuôn khác, méo mó cũng được!” là chuyến hành trình dài đi tìm bản ngã của tác giả trẻ Lê Bùi Thảo Nguyên. Với hai mạch truyện đan xen nhau, tác phẩm như một cuốn tự truyện chia sẻ những suy nghĩ, những trăn trở về ý nghĩa của bản thân đối với cuộc sống này. Cuốn sách là tác phẩm đầu tay của Lê Bùi Thảo Nguyên sau khi nghỉ việc ở một bệnh viện phụ sản lớn nhất nhì miền Nam để đi tìm cho mình một lối đi riêng. Ngay từ những dòng đầu tiên, độc giả sẽ lạc bước vào trong tâm tư của một cô gái nhìn từ bên ngoài tưởng chừng rất trưởng thành, mạnh mẽ, bình lặng nhưng ở phía sâu thẳm trong tâm hồn, trong suy nghĩ là hố sâu hun hút, gió cuộn sóng trào. Nguyên bị mắc kẹt, bị giằng xé giữa hai cái khuôn trong một con người. Một cái khuôn do người ngoài tạo nên với hình ảnh Nguyên học giỏi, Nguyên làm tốt, Nguyên có công việc ổn định cùng cơ hội thăng tiến cao. Nguyên ở bệnh viện phải học cách bỏ qua cảm xúc của bản thân, chấp nhận nỗi đau một cách bình thản, không kêu ca, không than vãn nhưng cũng không hạnh phúc. Và một cái khuôn khác, méo mó, không hoàn hảo, đang đi tìm hình dạng của chính mình, nhưng đó mới chính là con người thật của Nguyên. Một Nguyên chân thành, đầy hào hứng, đầy cảm xúc, mong mỏi được khám phá chân trời rộng lớn, tự mở lấy lối đi, dù là ốc đảo xanh tươi hay sa mạc cằn khô. “Cuộc sống có nhiều thứ không thể kiểm soát hết được, hãy cứ làm những gì mình cho là đúng, và đảm bảo rằng mình có thể ngủ ngon suốt quãng đời còn lại với những việc làm đó". Xuyên suốt cuốn sách, người đọc bước vào dòng cảm xúc được kể đan xen với nhau giữa khoảng thời gian của Nguyên trong ngành Y từ khi đi thực tập đến khi làm việc trong bệnh viện và những ngày tháng Nguyên rong ruổi khắp miền đất nước. Khi Nguyên bắt đầu những chuyến đi của mình, nhiều người nghĩ Nguyên “hư”, nổi loạn. Nhưng đó không phải sự nổi loạn trong bất chợt. Đó là chuyến hành trình dài để thành thật với bản thân. Đằng sau mỗi chuyến đi, không chỉ là sự trải nghiệm, ngắm nhìn cuộc sống mà còn sự trưởng thành hơn, chậm rãi hơn, kiên nhẫn hơn và thấu hiểu chính mình nhiều hơn cùng những kỷ niệm đầy ắp cảm xúc. Mỗi địa danh trong câu chuyện của Nguyên không hề hoa mỹ, rực rỡ, đơn giản là một cảm giác rất gần gũi, thân quen. Đó là một Hà Nội nhẹ nhàng, da diết, một Huế cổ kính, êm đềm, cơn lạnh buốt của Đà Lạt thơ mộng hay vùng núi bạt ngàn được phủ đầy sương mờ phía Bắc.  Đồng thời, qua những chia sẻ chân thành của Nguyên, độc giả một phần nào đó thấu hiểu được những khó khăn, vất vả trong ngành y. Những cuộc cấp cứu khẩn giữa đêm khuya, những bệnh nhân không qua khỏi, cảm giác lạnh lẽo và u ám giữa những hành lang hun hút ở bệnh viện cùng nỗi đau tích tụ dần, đè nén, âm ỉ cháy trong lòng. Cũng như cách Nguyên lựa chọn để đối mặt với áp lực công việc, vượt qua ám ảnh nghề nghiệp, tâm lý đè nặng trên đôi bàn tay. “Nghề của tôi là ngăn chặn những cơn đau và thức canh cho người khác ngủ, nhưng chính bản thân tôi lại thao thức hằng đêm". Cuối cùng, sau những ngày tháng trôi nổi vô định giữa thế gian, khi Nguyên quyết định sống thật chính mình cũng là lúc cô tìm thấy ý nghĩa của bản thân. “Cảm giác lúc này hơi giống chuyến đi miền Trung khi vừa mới tốt nghiệp, khác chăng, mọi thứ không còn mông lung, mờ mịt, khi mà tôi biết rõ mình cần làm gì tiếp theo". Tôi cần một cái khuôn khác, méo mó cũng được! không chỉ là câu chuyện của một cô gái trong ngành Y mà còn là câu chuyện của mỗi người trẻ vừa mới chập chững bước vào xã hội này. Sự bất công, nỗi đau, cảm giác lạc lõng, cô đơn, chán nản, mong muốn được trốn chạy nhưng cuối cùng cũng phải quay về với thực tế “trần trụi”. Mỗi người chúng ta ai cũng có một cái khuôn và gói mình theo hình dáng của nó. Và không phải ai cũng đủ can đảm để bước ra khỏi khuôn đó, bước ra khỏi những định kiến, suy nghĩ của người khác gắn cho mình, bước ra khỏi vỏ bọc của bản thân để cất lên tiếng nói từ sâu thẳm. Như Nguyên nói: “Bạn chỉ sống một lần duy nhất, hãy tử tế với bản thân mình, hạnh phúc, rồi những người thật sự yêu thương bạn cũng sẽ hạnh phúc”. Cách kể chuyện nhẹ nhàng, giản dị của Nguyên sẽ khiến cho tâm hồn người đọc cảm nhận như chính mình đang trải qua những đoạn đường, những cung bậc cảm xúc lẫn lộn. Để rồi, từ đó tạo ra sự đồng điệu, gắn kết, chạm đến trái tim của người đọc, khi mà ai cũng thấy thấp thoáng hình bóng mình trong đó. *** Lúc này, có lẽ là thời điểm thích hợp nhất để sống cho trọn vẹn chữ “hư”! Tôi có nhiều hình xăm, khắp người, và chắc sẽ còn nhiều nữa. Cái đầu tiên được “tậu” vào tháng 5/2015. Những bạn nam từng uống rượu và bia với tôi đều trố mắt “Cậu uống khỏe thật!” Nhiều người, thậm chí còn rất thích ngồi uống với tôi, vì cảm thấy thoải mái, không phải giữ kẽ, vừa có gái để tâm tình, vừa có bạn nhậu, uống được từ đầu cuộc đến tàn canh. Tôi hút thuốc lá! Không nghiện, chắc chắn thế, có thể cả tháng không hút, nhưng cũng có thể, rít hết một bao, trong vòng 2 tiếng! Tôi có thể ngủ với rất nhiều đàn ông! Vâng, trên cùng một giường, theo đúng nghĩa đen, là ngủ. Với con dao nắm chặt trong tay, sẵn sàng ăn thua đủ với bất cứ ai muốn chạm vào người mình. Tôi có thể thay quần áo trong căn phòng có một nam bạn khác, chỉ với yêu cầu bạn ấy quay mặt đi. Tôi có thể ở nhờ nhà một bạn nam, rồi chui vào phòng bạn ấy, leo lên giường của bạn ấy mà ngủ, với bạn ấy, kệ gia đình bạn ấy nghĩ gì. Hẳn tôi là đứa vô duyên, nếu nhận là thứ nhì, thì không ai dám nhận thứ nhất. Và… Tôi được nuôi dạy rằng, mượn của ai cái gì, thì nhất quyết là phải trả, cho dù đó là miếng giẻ nhàu nhĩ. Thứ gì không phải của mình, tuyệt đối không được lấy. Khi đã từ chối tình cảm của ai đó, tuyệt nhiên không nhờ họ chở đi đâu chơi, đi ăn, không nhận quà từ họ. Nói chung là không khiến cho họ hy vọng, không “vờn”, không lợi dụng, không biến họ thành osin, bạn, anh trai, em trai, hay bất cứ thứ gì. Họ có quyền được tôn trọng. Tôi từng lỡ tựa đầu vào vai một người thương mình, bảo họ đừng đi, và khóc trước mặt họ, chỉ thế thôi. 5 năm trôi qua, mỗi lần nghĩ đến, tôi vẫn cảm thấy rất có lỗi với người đó. Vì rõ ràng, tôi không có tình cảm với họ. Vì suýt nữa, tôi đã gật đầu, để khỏa lấp nỗi đau, bởi một người khác, cho dù cái “suýt” ấy chỉ mới lướt qua trong suy nghĩ. Tôi cảm thấy buồn nôn, khi phải cố tỏ ra là “ngoan”, theo tiêu chuẩn của mọi người: Con gái phải nhu mì, phải yểu điệu thục nữ, phải yếu đuối, để người khác chở che thậm chí phải “thủ đoạn”, phải “diễn”, để đổi lấy sự quan tâm vụn vặt, từ người khác, từ người mình thương. Tôi sợ làm người khác tổn thương, hay là buồn, hay là lo lắng, nhất là đối với người tôi thương. Nên, mỗi lời nói hay hành động mà tôi quyết định làm họ đau, cũng chính là, tự hủy hoại mình. Tôi không nói dối được, nhất là những lời nói dối để làm lợi cho mình. Có người từng nói, “thật” quá sẽ khổ lắm. Đã rất nhiều lần, tôi muốn mình tan biến đi cho xong, chứ đi ngược dòng, va phải hết người này đến người kia, đau lắm. Dĩ nhiên đó chỉ là suy nghĩ trong vài ba phút yếu đuối, lạc lòng mà thôi. Sống mà cứ mãi làm một con số nguyên tố chẳng dễ chút nào. Nhưng, rũ bỏ hết trách nhiệm của mình với những hợp số xung quanh để trốn, lại sợ họ sẽ buồn. Tôi vẫn luôn làm tốt những điều người khác giao cho mình, tôi tự tin nói như vậy. Cho nên, chưa ai từng hỏi tôi có vui không, tôi thực sự muốn gì. Họ chỉ bảo sao, tôi làm tốt vậy, nên thực sự thấy tiếc, khi tôi dừng lại. Nếu tiếp tục, Nguyên sẽ thành công đấy, sẽ tiến xa, sẽ leo cao đấy! Nếu tiếp tục, Nguyên sẽ vỡ tan ra đấy! * Với tôi, khi mình thương một người, cho dù người ta có ghét mình đi chăng nữa, thì dù một lời buông lơi với người đàn ông khác thôi, cũng đã là phản bội, chính trái tim mình. Tôi từng cố buông thả bản thân, cố im lặng để cho một người đàn ông chạm vào mình, trần trụi, để rồi đến cuối cùng, đẩy họ ra, “Em không làm được!” Sau đó, nhốt mình rất lâu trong nhà tắm, nôn mửa, kỳ cọ, tự ghê tởm mình. Trên những cung đường, tôi hay bắt gặp những ánh mắt thảng thốt nhìn mình. Người lịch sự thì bảo em là con gái mà “gan”, dám đi một mình. Vài người khác buông một chữ “liều”, rồi tặc lưỡi lắc đầu. Có lần, đứng trong bếp nhà cậu bạn ở xa Sài Gòn gần 2000 kilômét, bác cậu ý tứ nhỏ nhẹ: “Bố mẹ trong Nam cho con gái đi như vậy chứ ngoài này không có đâu.” Trong rất nhiều cuộc nói chuyện, sau khi tìm mọi cách thuyết phục rằng cách sống của tôi là sai nhưng thất bại, người đối diện thường chốt lại bằng câu “Em đi vậy ba mẹ em không nói gì hả?” Họ nghĩ, đó sẽ là đòn cuối cùng khiến tôi không còn trụ vững. Nhưng, điều may mắn nhất của tôi từ trước đến giờ không phải là có ba mẹ hiểu mình, mà đó là có ba mẹ chấp nhận được những suy nghĩ của mình, dù cho suy nghĩ đó có dị biệt. Hãy cứ làm những gì con muốn, miễn là cái “muốn” đó không làm hại đến ai, con vui vẻ hạnh phúc, và có thể tự nuôi sống được bản thân mình. Ba mẹ tôi là thế đấy, không ép uổng, chỉ đưa ra lời khuyên, sau đó, để con tự lựa chọn. Dĩ nhiên, tự làm tự chịu, điều đó giúp tôi chính chắn và có trách nhiệm với bản thân mình hơn. Nhờ họ, tôi chưa bao giờ thấy dằn vặt với những duy nghĩ không giống ai của mình. Và dù độc hành trên hầu hết mọi chặng đường, tôi vẫn thấy bản thân chưa bao giờ đơn độc.   Mời các bạn đón đọc Tôi Cần Một Cái Khuôn Khác - Méo Mó Cũng Được! của tác giả Lê Bùi Thảo Nguyên.
Tây Sơn Bi Hùng Truyện
Trong lịch sử Việt Nam, có lẽ cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn là sự kiện đưa đến nhiều dị biệt nhất về mặt quan điểm hay nhận thức. Nổi bật nhất là quan điểm đưa ra cách nay hơn nửa thế kỷ, coi phong trào Tây Sơn như cuộc nổi dậy của giới nông dân bị áp bức, bóc lột, chống lại nhà Nguyễn thối nát và mang lại công bằng xã hội cho mọi tầng lớp nhân dân. Sự lý tưởng hóa hầu như mọi hoạt động của phong trào Tây Sơn đã dẫn đến một số nhận định chủ quan về thực chất của phong trào này và cũng từ đó, nhiều sự thật lịch sử liên quan đến phong trào chưa được làm sáng tỏ *** Phàm là một người ham mê lịch sử và văn chương, cầm cuốn sách này khó có thể dứt ra được. Rất giống cảm giác thuở học trò đọc Tam quốc diễn nghĩa hay Thủy hử, bạn sẽ bị cuốn sách lôi cuốn ngay cả khi đang ăn hay trước lúc đi ngủ. Sẽ rất nhiều người mải theo cách dẫn dắt của tác giả mà quên khuấy cả giấc ngủ trưa, thậm chí cho qua cả một đêm trắng. Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh mô phỏng cách viết chương hồi của La Quán Trung, Thi Nại Am và những tiểu thuyết gia Trung Quốc xưa, một cách kể chuyện như lùa người đọc vào hết mê hồn trận này đến những bí sử kia, mang đến cho người đọc cái không gian, thời gian, những sự kiện lịch sử, những chân dung tiêu biểu… làm nên gương mặt xã hội Việt Nam đầy biến động và bi thương, hiển hách và bi tráng suốt nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Lê Đình Danh viết về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và người anh hùng kiệt xuất Nguyễn Huệ với một bối cảnh rộng lớn hơn, đặt các nhân vật của Tây Sơn trong mối quan hệ trực diện, đối nghịch, một mất một còn với chúa Nguyễn Đàng Trong, chúa Trịnh Đàng Ngoài và Vương quốc Đại Thanh thời vua Càn Long hùng mạnh. Tây Sơn bi hùng truyện thu hút người đọc không chỉ ở tư liệu lịch sử phong phú, kiến văn dồi dào, mà còn ở bút pháp dựng truyện, xây dựng nhân vật khá thành công. Ngoài hai nhân vật Nguyễn Huệ, Nguyễn Phúc Ánh, hàng loạt các nhân vật thuộc các phe Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn và cả các tướng Mãn Thanh đều được tác giả phác họa khi thì bằng một vài chi tiết đặc sắc, khi kỳ công dẫn dắt qua hàng loạt các sự kiện, mối quan hệ đan xen phức tạp, ví như các nhân vật Ngô Thì Nhậm, Ngọc Hân công chúa, Nguyễn Hữu Chỉnh, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Tuyết, Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm, Võ Tánh, Bùi Đắc Tuyên, Lê Văn Duyệt, Đặng Trần Thường, Vũ Tâm Can v.v… Đọc sách, mà như được xem một cuốn phim lịch sử đầy bi thương hùng tráng, được xúc động, yêu thương với người anh hùng Tây Sơn Nguyễn Huệ. Nhà văn Hoàng Minh Tường *** Tại Đàng Ngoài, Tĩnh Đô Vương lộng hành giết chết Thái tử. Ở Đàng Trong, Trương Phúc Loan lập mưu đoạt quyền Đô Thống. Tại Đàng Ngoài, Tĩnh Đô Vương lộng hành giết chết Thái tử. Ở Đàng Trong, Trương Phúc Loan lập mưu đoạt quyền Đô Thống. Nước Nam, người Lạc Việt, từ khi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, mười năm kháng chiến đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi. Lê Lợi lên ngôi vua lấy hiệu là Lê Thái Tổ lập nên nhà Hậu Lê đặt tên nước là Đại Việt (năm Mậu Thân - 1428). Vua Thái Tổ truyền đến đời con cháu là Thái Tông, Thánh Tông đều là những bậc anh quân vì dân vì nước. Từ ấy bốn phương thiên hạ thái bình, muôn dân no ấm. Lúc bấy giờ người dân trong nước truyền tụng câu ca rằng: Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Lúa thóc đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn. Nhà Hậu Lê truyền ngôi được trăm năm, đến đời vua Chiêu Tông thì Mạc Đăng Dung soán ngôi vua lập nên nhà Mạc vào năm Đinh Hợi (1527). Lúc bấy giờ có quan Hữu vệ Điện tiền tướng quân An Thạch Hầu Nguyễn Kim cùng rể là Trịnh Kiểm tìm dòng dõi vua Lê Thái Tổ lập lên làm vua rồi đem quân chiếm đất Nghệ An đánh nhau với nhà Mạc. Sau Nguyễn Kim chết, binh quyền về tay Trịnh Kiểm. Kiểm sợ con Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng tranh quyền với mình, bèn giết chết Nguyễn Uông. Trịnh Kiểm lại có ý xưng làm vua, nhưng thấy lòng người còn thương mến nhà Lê nên sai sứ vào Hải Dương hỏi ý Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình bảo: - Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt nên tìm giống cũ mà gieo mạ. Rồi Trạng sai đầy tớ quét dọn chùa rồi đốt hương khấn rằng: Giữ chùa thờ phật thì ăn oản. Kiểm hiểu ý vẫn giữ vua Lê làm hư vị, còn mình nắm giữ hết quyền hành. Nguyễn Hoàng thấy Trịnh Kiểm giết anh mình là Nguyễn Uông sợ vạ lây đến thân, bèn lén vào hỏi ý Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng chỉ tay vào Nam nói: - Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân (một dãy Hoành Sơn dung thân ngàn đời). Hoàng lấy tình thâm ruột thịt nói với chị mình là vợ Trịnh Kiểm tên là Ngọc Bảo, xin với Kiểm cho Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa (Bình Trị Thiên ngày nay). Ấy là vào năm Mậu Ngọ (1558). Sau Trịnh Kiểm chết, con là Trịnh Tùng lên thay quyền. Tùng đem quân đánh dứt được nhà Mạc. Tùng vẫn giữ vua Lê làm hư vị, còn mình tự xưng là chúa Trịnh. Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa thấy Trịnh Tùng xưng chúa ở Thăng Long, bèn tự xưng là chúa Nguyễn. Về sau Hoàng chết, con là Nguyễn Phúc Nguyên sai Đào Duy Từ đắp lũy Trường Dục ở Châu Bố Chánh (Quảng Bình ngày nay) chống nhau với quân Trịnh. Hai bên bắt đầu đánh nhau vào năm Đinh Mão 1627. Từ ấy về sau đất nước chia hai, lấy sông Linh Giang làm ranh giới. Từ sông Linh Giang trở ra tục gọi là Đàng Ngoài. Từ sông Linh Giang trở vào tục gọi là Đàng Trong. Hai Đàng đánh nhau ngót một trăm năm, tạo ra cảnh binh đao khói lửa, huynh đệ tương tàn, nhân dân ta thán! Ở Đàng Ngoài, Trịnh Tùng mượn tiếng tôn phò vua Lê nắm hết quyền hành. Thủa ấy trong nhân gian thường truyền miệng nhau câu sấm rằng: Chẳng Đế chẳng Bá, quyền nghiêng thiên hạ, Đến đời thứ tám, trong nhà dấy vạ. Họ Trịnh cha truyền con nối làm chúa ở Đàng Ngoài đến đời thứ tám là Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Lúc ấy vua nhà Lê là Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng có một người con lớn là Thái tử Lê Duy Vỹ. Duy Vỹ tư chất thông minh diện mạo khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn. Thường ngày Duy Vỹ đi ngao du sơn thủy kết giao với hào kiệt khắp vùng, ai ai cũng thương tài mến đức. Một ngày kia, trong cung điện, vua Hiển Tông đánh cờ uống rượu cùng các quan thái giám, Duy Vỹ vào trông thấy quỳ tâu: - Thưa Phụ hoàng, từ ngày nhà Lê ta trung hưng đến nay trải mười đời vua. Họ Trịnh tiếng là tôn phò nhưng thực chất là áp chế nhà Lê ta. Họ Trịnh muốn cho ai làm vua thì cho, muốn giết ai thì giết. Như hai trăm năm trước Trịnh Tùng giết chết Anh Tông Hoàng Đế. Rồi ba mươi năm sau Trịnh Tùng lại giết chết Hoàng Đế. Mới bảy mươi năm trước đây Dụ Tông Hoàng Đế bị Trịnh Cương bắt phải thoái vị nhường ngôi cho Thái tử Duy Phương. Thái tử Duy Phương làm vua được ba năm lại bị Trịnh Giang vu là thông dâm với vợ Trịnh Cương mà đem giết đi. Rồi đến lúc Phụ hoàng lên ngôi là do chính Trịnh Doanh đã buộc vua Ý Tông thoái vị nhường ngôi cho Phụ hoàng đó. Xét trong lịch sử từ trước đến nay chưa có quyền thần nào lại lộng hành tàn ác, khi quân phạm thượng như họ nhà chúa Trịnh. Vả lại xưa nay chỉ có nhà vua mới được quyền cha truyền con nối, chưa nghe nói đại thần mất thì con được lên thế chức bao giờ. Nay họ Trịnh xưng vương, cha mất thì con lên kế vị, ấy chẳng qua là vì không dám phế bỏ nhà Lê ta để làm vua mà thôi. Nay Phụ hoàng lên ngôi đã ba mươi hai năm mà mọi việc trong triều ngoài cõi Trịnh Doanh rồi đến Trịnh Sâm có cần bẩm báo gì với Phụ hoàng chăng? Sao Phụ hoàng cứ mải vui say với cầm kỳ thi hoạ mà không nghĩ đến việc lấy lại quyền hành của nhà Lê ta? Con vì giận họ Trịnh mà có đôi lời mạo phạm đến Phụ hoàng, xin Phụ hoàng thứ tội. Duy Vỹ trong lòng uất hận họ Trịnh nói luôn một hơi. Vua Hiển Tông nghe Vỹ nói xong liền quăng cờ, đuổi các thái giám ra ngoài rồi hốt hoảng nói: - Bọn nội thị này tiếng là hầu hạ cho ta, nhưng đều là tay chân của Trịnh Sâm cả. Sao con lại buông lời càn rỡ? Nếu đến tai Trịnh Sâm mạng ắt chẳng còn! Duy Vỹ nghe cha nói thế lại càng giận lắm, đứng dậy nói lớn: - Sao Phụ hoàng lại sợ thằng nghịch tặc ấy đến thế? Nếu Phụ hoàng giữ mình để mưu việc lớn thì con thật là khâm phục. Còn Phụ hoàng vì sợ như bề tôi sợ vua mà im hơi lặng tiếng thì con thật lấy làm đau lòng lắm! Mời các bạn đón đọc Tây Sơn Bi Hùng Truyện của tác giả Lê Đình Danh.
Sao Thầy Không Mãi Teen Teen?
Hỡi các bạn teen béo Hỡi các bạn teen gầy Hỡi các bạn teen xinh Hỡi các bạn teen không xinh nhưng cá tính Hãy đón đọc quả bom có tên Sao thầy không mãi teen teen. Tại sao nó lại là quả bom? - Tại vì sau khi đọc sách nữ sinh sẽ thấy cần phải nhảy xuống nước cứu thầy. - Nữ sinh sẽ biết rằng muốn học giỏi phải dám yêu tài tử đẹp trai - Nữ sinh sẽ có khao khát bay lên đá vào mông những chàng tẻ nhạt. - Nữ sinh sẽ khóc òa nếu không được gọi lên bảng trả bài - Nữ sinh sẽ hối hận nếu không thức suốt đêm nắm tay bạn trai đi bộ trên vỉa hè trong thành phố đầy sao. - Nữ sinh sẽ hiểu mình tuyệt đẹp khi mặc váy ngắn xòe. - Nữ sinh sẽ ngồi khóc trên thềm khi thầy giáo không xuất hiện. - Và cuối cùng, nữ sinh sẽ hiểu rằng phải sống để yêu. Nhưng yêu ai, yêu cái gì? Yêu như thế nào? Phải đọc từng trang mới biết.Một cuốn sách khiến bạn phải khóc nức nở khi đọc trang cuối. Một cuốn sách do kẻ đáng ghét nhất trên đời viết ra: Lê Hoàng. *** Review Phạm Huyền Trang:   Đạo diễn Lê Hoàng hẳn là cái tên không xa lạ gì với khán giả truyền hình. Những ai từng đọc báo Tiếp thị và gia đình chắc cũng đã rất quen với ông qua những truyện châm biếm được ký dưới bút danh Lê Thị Liên Hoan. "Sao thầy không mãi teen teen?" là một cuốn sách viết cho các bạn tuổi teen và cho cả những ai quan tâm đến ngành giáo dục. Bối cảnh của truyện là một ngôi trường tầm trung tại thành phố Hồ Chí Minh. Không gian là lớp học của lớp 11A với những cô cậu học trò đang ở cái tuổi "17 bẻ gãy sừng trâu". Trung tâm truyện là cô bé Ly Cún- đáng yêu, cá tính. Mọi sinh hoạt thường ngày sẽ vẫn cứ đều đặn trôi qua buôn tẻ như vậy nếu không có một ngày thầy xuất hiện. Thầy- chẳng ai nói đến tên, mới chỉ 22 tuổi, đẹp trai như Vĩnh Thụy và dạy môn Lịch sử. Cách dạy có một không hai của thầy khiến các cô cậu học trò "mắt chữ A, mồm chữ O". Có ai ngờ được môn Lịch sử- vốn vẫn bị người ta gán cho cái mác "nhàm chán", "tẻ ngắt" lại trở nên cuốn hút đến vậy. Những bài kiểm tra 30 giây chỉ để viết tên một di tích lịch sử trong thành phố hay kể đúng tên con phố mình đang sống. Những bài kiểm tra miệng ẵm trọn 10 điểm chỉ vì đã xem phim Gasby vĩ đại nên hiểu về cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ hay hiểu về lịch sử cận đại của Pháp do đã đọc Những người khốn khổ của V. Hugo. Rồi những tiết học thay vì bó hẹp trong không gian phòng học thì thầy trò cùng đến bảo tàng lịch sử... Những điều thú vị mà thầy mang đến ấy, hẳn là ước mơ của biết bao thế hệ học trò. Giọng văn hài hước, sinh động của Lê Hoàng đã dẫn ta về với tuổi học trò hồn nhiên, tinh nghịch. Vậy nên, dù cuốn sách chỉ dừng lại ở mức giải trí thì tôi vẫn nghĩ nhiều người trong chúng ta nên đọc để có một cái nhìn mới lạ hơn một chút về ngành giáo dục hiện nay. *** Con trai là cái quái gì. Chỉ những đứa ngu mới suốt ngày nghĩ về chúng nó. Phần lớn con trai đều hôi, đều trơ tráo, tham lam, và chắc chắn lén lút xem phim “Đen”. Tởm. Kinh. Gớm guốc. Cho nên với con trai mình phải trừng trị, phải cho bọn nó nhừ đòn, bò lê bò càng ra càng tốt. Tuyệt nhất là giết béng chúng đi. -Giết? - Mai hét lên thất thanh. Mai là đứa bạn thân nhất của tôi. Nó không đẹp bằng tôi. Tất nhiên! Ở trường này tôi là nữ hoàng, là chúa đảng. Mũi Mai to, tai Mai vểnh, và kỳ quái nhất là khi nó đi, mông nó cứ chĩa ra đằng sau. Ưu điểm duy nhất của Mai là da trắng. Và ngốc. Nhân tiện nói thêm, có tin đồn dai dẳng trong xã hội là bọn con trai thích những đứa ngốc. Do chúng nghĩ mình thừa thông minh rồi, không cần thêm nữa. Láo toét. Do bọn trai còn ngốc vô tận. -Giết! - Mai lặp lại lần nữa. Cái gì nó không hiểu, nó thường lặp lại. Nên bọn tôi có kinh nghiệm, giảng cho Mai mọi vấn đề đều mất thời gian gấp đôi. Tôi gật đầu: -Phải. Giết. Để chúng sống làm gì. Mai run run: -Giết chúng mình sẽ đi tù đấy, Ly Cún. A, quên mất, chưa tự giới thiệu, tôi tên là Phạm Ngọc Lưu Ly nhưng tất cả những ai biết tôi đều gọi tôi là Ly Cún. Chả phải do tôi thích chó con. Thậm chí, tên nào tặng cho tôi chó bông những hôm sinh nhật là tôi căm thù. Tôi lấy tên Ly Cún vì bên lớp 11B có con nhỏ tên Ly Mèo. Ngu đến mấy cũng phải hiểu, chó luôn hơn mèo một bậc, thậm chí hai bậc. Tôi mười bảy tuổi, da đen, nhưng không phải đen bẩm sinh, mà đen vì không thèm trắng. Tôi khoái mặc váy ngắn, vì thừa hiểu mặc thế “chúng nó” nhìn. Tóc thay đổi kiểu và màu theo tạp chí, răng thì đánh ngày tới ba lần. Tôi học giỏi, nhưng chỉ học cho vừa đủ. Tôi đã yêu ba lần, hai lần đá nó, một lần bị nó đá. Ly Cún là tên tôi viết trên “Fây”. Ở “Fây”, không biệt danh chả khác gì không quần áo. Tôi nhìn Mai, thương hại, âu yếm, nghiêm khắc: -Đi tù là khi mình giết thể xác. Còn tao sẽ băm nát chúng về tâm hồn. Không cớ gì kết tội được. Mai vẫn ú ớ: -Giết tâm hồn là giết làm sao? Mời các bạn đón đọc Sao Thầy Không Mãi Teen Teen? của tác giả Lê Hoàng.