Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Gặt Đỏ

MÙA GẶT ĐỎ - KHO BÁU BỊ ĐÁNH MẤT. Một tay súng đơn độc đi vào trong thị trấn. Anh ta sẽ dọn dẹp nó dù muốn hay là không? "Người chiến đấu với quái vật phải cẩn thận nếu không muốn trở thành một con quái vật khác". Được xuất bản lần đầu vào năm 1929, Mùa gặt đỏ (Red Harvest) là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh điển của Dashiell Hammett - người được coi là "ông tổ" của thể loại trinh thám đen - hard-boiled. Đây cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều bộ phim nổi tiếng, trong đó có Yojimbo (1961), A Fistful of Dollars (1964) và Blood Simple (1984)… Truyện được mở đầu bằng việc Hãng thám tử tư Continental cử một đặc vụ tới Personville - thành phố đang chìm đắm trong bạo lực và sợ hãi dưới sự cai trị của các băng đảng tội phạm và đám quan chức tham nhũng - theo yêu cầu của Donald Willsson, chủ bút tờ báo địa phương và là người đang muốn lấy lại trật tự, công bằng cho thành phố. Nhưng khi nhân viên đặc vụ đó tới nơi thì phát hiện ra khách hàng của mình đã bị bắn chết. Theo như thỏa thuận từ trước, Personville vẫn sẽ được "thanh tẩy", cho dù cái giả phải trả là có thể khiến nó bị nhấn chìm trong biển máu. *** Dashiell Hammett (1894 - 1961) là một trong những tác giả tiên phong của thể loại tiểu thuyết trinh thám đen, với các tác phẩm tiêu biểu như Mùa gặt đỏ (1929), Chim ưng Malta (1930) và Chìa khóa thủy tinh (1931). Những tiểu thuyết của ông thường mang phong cách mạnh mẽ, gay cấn, lối viết ngắn gọn, không hoa mỹ, tiết tấu nhanh, hấp dẫn, đậm mùi súng đạn. Mùa gặt đỏ, tác phẩm đầu tay của Hammett, mang đầy đủ những đặc trưng của thể loại trinh thám đen, đồng thời là hình mẫu cũng như nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả trinh thám sau này: một bầu không khí nhớp nhúa ở phần tối của xã hội; một hình ảnh “người hùng không hoàn hảo” với quan niệm về công lý không hoàn toàn đồng nhất với pháp luật. Người thám tử vô danh ấy đến thành phố tội lỗi đó như một lãng khách độc hành thấy việc bất bình ra tay nghĩa hiệp, để rồi bắt đầu “mùa gặt”, mang lại bình yên cho thành phố… *** Review sách Mùa Gặt Đỏ Mùa gặt đỏ được xuất bản lần đầu vào năm 1929, Mùa gặt đỏ (Red Harvest) là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh điển của Dashiell Hammett - người được coi là "ông tổ" của thể loại trinh thám đen - hard-boiled. Tôi đã khá băn khoăn khi quyết định đọc hay không vì không muốn sa đà liên tục vào trinh thám. Thế nhưng vì một vài lí do, tôi vẫn đọc. Có thể vì thế mà tâm trạng đã không tốt khi tiếp cận cuốn sách. Truyện Trinh thám về những thế lực bên rìa công lý, kiểu mafia, mở đầu bằng cái chết của thân chủ khi chưa kịp làm việc với tay thám tử mà mình mời về. Nhiều nhân vật liên quan, nhiều vấn đề nổi cộm của thế giới thu nhỏ Personville được phơi bày. Theo như thỏa thuận từ trước, Personville vẫn sẽ được "thanh tẩy", cho dù cái giả phải trả là có thể khiến nó bị nhấn chìm trong biển máu.Tiết tấu càng ngày càng nhanh với sự mưu mô, toan tính cả bằng trí tuệ và sự nhanh nhẹn trong việc siết cò với những pha hành động tương đối kịch tính. Truyện thuộc dang trinh thám đen, hành động kịch tính và mang tính giải trí. Cơ bản có lẽ tại tôi không thích văn phong hơi khô của tác giả (hay dịch giả)??, hội thoại, lời văn ngắn gọn, súc tích. Tôi cũng không thích bìa, không thích tên gọi, chỉ an ủi được là việc biên tập đã ổn hơn khá nhiều so với những cuốn sách trước đây của PM. Tạm gác lại, biết đâu một ngày nào đó sẽ có hứng thú đọc lại và biết đâu sẽ thích. Cho tạm 3* vì cuốn sách chưa đủ hấp dẫn khiến tôi bị cuốn hút cũng như tò mò. Hồng Khánh 14.9.2019 *** Người phụ nữ trong bộ đồ xanh và người đàn ông trong bộ đồ xám Lần đầu tiên tôi nghe thấy Personville được đọc lái thành Poisonville là từ một gã tóc đỏ đầu đường xó chợ tên Hickey Dewey tại khách sạn Con Tàu Lớn ở Butte. Hắn cũng phát âm shirt thành shoit. Lúc đó tôi không nghĩ ngợi gì về cách hắn đọc tên thành phố, nhưng rồi tôi thấy những người đã phát âm đúng chữ “r” nhưng vẫn đọc sai như vậy. Tôi chỉ cho rằng việc đám trộm cướp dùng từ richardsnary thay cho dictionary thật quá sức nhạt nhẽo. Vài năm sau, khi đến Personville, tôi mới hiểu rõ hơn. Tôi gọi tới tờ Herald từ một bốt điện thoại tại ga, yêu cầu được nói chuyện với Donald Willsson và sau đó bảo anh ta rằng tôi đã tới. “Anh có thể tới nhà tôi lúc mười giờ tối nay được không?” Anh ta nói, giọng quả quyết. “Số 2101 đại lộ Mountain. Bắt một chiếc xe điện, xuống ở chỗ đại lộ Laurel, rồi đi bộ theo hướng Tây hai dãy nhà.” Tôi hứa sẽ có mặt. Rồi tôi tới khách sạn Great Western, vứt mấy chiếc túi xuống và ra ngoài ngắm nhìn thành phố. Thành phố này không đẹp. Hầu hết chủ thầu xây dựng ở đây đều có gu thẩm mỹ lòe loẹt. Có thể ban đầu họ đã đạt được mục đích. Rồi những lò luyện kim mọc lên sừng sững bên một ngọn núi ảm đạm ở phía Nam đã hun mọi thứ trong lớp khói màu vàng xỉn. Thế là chúng ta có một thành phố xấu xí với bốn mươi ngàn dân, nằm trong một khe hẻm xấu xí giữa hai ngọn núi xấu xí bị ô nhiễm vì sự khai mỏ. Bao trùm lấy nó là bầu không khí ám đầy bụi, như thể vừa chui ra từ ống khói của lò luyện kim. Người cảnh sát đầu tiên mà tôi gặp rõ ràng cần phải cạo râu. Người thứ hai có vài chiếc cúc bị đứt trên bộ đồng phục tồi tàn. Người thứ ba đứng ở giữa giao lộ chính của thành phố, giữa Broadway và phố Union, với một điếu xì gà trên miệng. Sau đó thì tôi không để ý đến họ nữa. Vào lúc chín giờ rưỡi, tôi bắt một chiếc xe điện và đi theo hướng mà Donald Willsson đã chỉ. Nó đưa tôi tới một ngôi nhà có hàng rào bao quanh bãi cỏ. Người giúp việc ra mở cửa bảo tôi rằng ông Willsson không có nhà. Trong khi tôi đang giải thích rằng mình có hẹn với anh ta thì một người phụ nữ tóc vàng mảnh khảnh, khoảng dưới ba mươi tuổi, bận bộ đồ vải crepe màu xanh bước tới. Ngay cả khi cười, sự lạnh nhạt vẫn ẩn hiện trong đôi mắt xanh của cô ta. Tôi giải thích lại một lần nữa. “Chồng tôi hiện không có nhà.” Âm giọng địa phương mờ nhạt khiến phát âm của cô ta hơi nhịu. “Nhưng nếu đã có hẹn thì chắc anh ấy sẽ về sớm thôi.” Cô ta dẫn tôi lên tầng, tới một căn phòng nhìn về hướng đại lộ Laurel. Căn phòng được sơn hai màu nâu đỏ và có rất nhiều sách. Chúng tôi ngồi xuống chiếc sofa da, nửa quay về phía người đối diện, nửa hướng về phía lò sưởi đang đỏ than, và cô ta bắt đầu tìm hiểu về chuyện giữa tôi và chồng cô ta. “Anh sống ở Personville à?” Cô ta hỏi trước. “Không. San Francisco.” “Nhưng đây không phải lần đầu anh tới Personville, phải vậy không?” “Đây là lần đầu tiên.” “Thật ư? Anh nghĩ sao về thành phố này?” “Tôi chưa quan sát đủ để có thể đưa ra ý kiến.” Đó là một lời nói dối. Tôi đã thấy đủ. “Tôi vừa mới tới lúc chiều.” Sự tò mò biến mất khỏi đôi mắt lấp lánh của cô ta. Rồi cô ta nói: “Anh sẽ thấy rằng đây là một chốn ảm đạm.” Rồi cô ta tiếp tục soi mói, “Tôi cho rằng tất cả các thành phố mỏ đều giống như thế này. Anh có tham gia vào ngành khai mỏ không?” “Hiện tại thì không.” Cô ta nhìn đồng hồ trên mặt lò sưởi và nói: “Donald thật thiếu chu đáo khi hẹn anh tới rồi lại để anh ngồi đợi, giữa đêm hôm khuya khoắt thế này. Đã quá giờ làm việc lâu quá rồi.” Tôi đáp rằng không sao. “Có lẽ đây không phải là vấn đề công việc.” Cô ta bóng gió. Tôi không trả lời. Cô ta cười, tiếng cười cộc lốc và có phần chói tai. “Thường thì tôi không tọc mạch thế này đâu”, cô ta vui vẻ nói, “nhưng anh quá kín đáo đến mức tôi không thể không tò mò. Anh không phải dân buôn rượu lậu đấy chứ? Donald đổi người rất thường xuyên.” Tôi để cô ta tự suy diễn và nở một nụ cười. Chuông điện thoại reo dưới tầng. Cô Willsson duỗi đôi chân đi dép lê xanh về phía lò sưởi đang đỏ than và vờ như không nghe thấy gì. Tôi không hiểu tại sao cô ta nghĩ thế là cần thiết. Cô ta bắt đầu, “Tôi sợ rằng mình sẽ ph…”, và dừng lại, nhìn về phía cô hầu đứng bên cửa. Người giúp việc nói rằng đầu dây bên kia muốn gặp cô Willsson. Cô ta cáo lỗi rồi ra ngoài. Cô ta không đi xuống tầng dưới mà nói qua máy điện thoại kéo dài, trong tầm nghe của tôi. Tôi nghe được, “Tôi, Willsson nghe đây… Vâng… Xin lỗi?… Ai đấy?… Anh có thể nói to lên không?… Gì cơ?… Vâng… Vâng… Ai đó?… A lô! A lô!” Rồi có tiếng dập máy và tiếng bước chân của cô ta vang lên trên hành lang. Tôi châm một điếu thuốc và nhìn chằm chằm vào nó cho đến khi nghe thấy tiếng bước chân của cô ta dưới thềm. Rồi tôi tới bên cửa sổ, vén rèm lên, nhìn xuống đại lộ Laurel và thấy phía sau ngôi nhà là một nhà để xe màu trắng. Ngay sau đó, một người phụ nữ mảnh mai đội mũ và bận áo khoác tối màu vội vã đi ra chỗ nhà để xe. Đó là cô Willsson. Cô ta lái chiếc Buick hai chỗ đi. Tôi quay lại ghế và chờ đợi. Bốn mươi lăm phút trôi qua. Lúc mười một giờ năm phút, tiếng phanh ô tô rít lên bên ngoài. Hai phút sau, cô Willsson bước vào phòng. Cô ta cởi mũ và áo khoác ra. Mặt cô ta trắng bệch, đôi mắt ủ dột. “Tôi vô cùng xin lỗi”, cô ta nói với khuôn miệng mím chặt chuyển động nhát gừng, “anh đã mất công ngồi đợi vô ích rồi. Tối nay chồng tôi sẽ không về nhà.” Tôi nói rằng tôi sẽ liên lạc với anh ta tại Herald sáng mai. Tôi đi về và tự hỏi tại sao mũi dép bên trái của cô ta lại dính thứ gì đó sẫm màu và ướt giống như máu vậy. • • • Tôi đi bộ đến Broadway và bắt một chiếc xe điện. Qua ba dãy nhà lớn ở phía Bắc khách sạn, tôi xuống xe để xem đám đông đang làm gì quanh lối vào Tòa thị chính. Tầm ba, bốn mươi người đàn ông và lác đác vài phụ nữ đang đứng trên vỉa hè, nhìn vào một cánh cửa gắn biển Sở Cảnh sát. Đám đông bao gồm những người công nhân mỏ và lò nung vẫn mặc nguyên đồ bảo hộ, những anh chàng mặc đồ lòe loẹt vừa bước ra từ tiệm bi-a và vũ trường, những gã chải chuốt với khuôn mặt nhợt nhạt, những người mang vẻ ngoài trì độn của một ông chồng đứng đắn, vài người phụ nữ cũng trì độn và đứng đắn y như vậy cùng vài ả gái điếm. Đến bên rìa đám đông, tôi dừng lại cạnh một người đàn ông nghiêm nghị mặc bộ đồ xám nhàu nhĩ. Khuôn mặt và đôi môi dày của anh ta trông cũng xám xịt, mặc dù nhìn qua anh ta không quá ba mươi tuổi. Khuôn mặt anh ta rộng, đường nét thô kệch và sáng sủa. Anh ta đeo một chiếc cà vạt đỏ thắt kiểu Windsor trên chiếc áo sơ mi bằng vải flannel màu xám. “Chuyện gì ồn ào vậy?” Tôi hỏi anh ta. Anh ta cẩn thận nhìn tôi trước khi trả lời, như thế muốn chắc chắn rằng thông tin sẽ được gửi đi một cách an toàn. Mắt anh ta cũng xám như bộ đồ, nhưng trông chúng không hề mềm như thế. “Don Willsson đã đến ngồi bên tay phải của Chúa, nếu Chúa không ngại nhìn vào những vết đạn.” “Ai đã bắn anh ta?” Tôi hỏi. Người đàn ông gãi đầu và đáp lại: “Một kẻ nào đó mang súng.” Tôi muốn thông tin, chứ không phải sự hóm hỉnh. Tôi sẽ thử vận may với một người khác trong đám đông nếu gã đeo cà vạt đỏ này không khiến tôi hứng thú. Tôi bảo: “Tôi mới đến thành phố. Cứ diễn vở Punch và Judy* với tôi đi. Người lạ thì phải chịu thôi.” “Quý ngài Donald Willsson, chủ biên của tờ Herald Buổi sáng và Herald Buổi tối, mới được tìm thấy trên phố Hurricane, bị một kẻ vô danh nào đó bắn chết.” Anh ta nói một lèo bằng giọng đều đều. “Hết cảm thấy bị tổn thương rồi chứ?” “Cảm ơn.” Tôi đưa tay ra và chạm vào đầu chiếc cà vạt thắt lỏng của anh ta. “Có ý nghĩa gì không? Hay chỉ đeo vậy thôi?” “Tôi là Bill Quint.” “Hóa ra là anh!” Tôi kêu lên, giả bộ như mình đã biết cái tên này. “Chúa ơi, tôi rất mừng được gặp anh!” Tôi rút chiếc ví chứa danh thiếp ra và lục lọi trong đống danh thiếp mà tôi đã kiếm được bằng nhiều cách, ở nhiều nơi khác nhau. Tấm màu đỏ là cái tôi muốn tìm. Trên đó ghi tôi là Henry F. Neill, thủy thủ được đào tạo bài bản, thành viên cấp cao của Hiệp hội Công nhân Công nghiệp Thế giới*. Không một chữ nào là sự thật. Tôi đưa tấm danh thiếp cho Bill Quint. Anh ta đọc kỹ nó, cả mặt trước lẫn mặt sau, rồi trả lại và nhìn tôi từ đầu đến chân một cách ngờ vực. “Chẳng có gì để nhìn nữa đâu.” Anh ta nói. “Anh định đi đâu?” “Đâu cũng được.” Chúng tôi đi cạnh nhau, rẽ vào sau góc phố một cách bâng quơ. “Điều gì đã đưa anh tới đây, nếu anh là một thủy thủ?” Anh ta chợt hỏi. “Sao anh lại nghĩ vậy?” “Có tấm danh thiếp đó.” “Tôi còn có một cái ghi rằng mình là tiều phu nữa cơ.” Tôi nói. “Nếu anh muốn tôi trở thành thợ mỏ, tôi sẽ làm một cái ngay trong ngày mai.” “Anh không kiếm được đâu. Tôi điều hành ở đây.” “Thế nếu anh nhận được điện báo từ Chi* thì sao?” Tôi hỏi. “Mặc xác Chi! Tôi điều hành ở đây.” Anh ta hất đầu về phía nhà hàng và hỏi, “Uống gì không?” “Kiếm được không đã.*” Chúng tôi bước vào nhà hàng, leo lên các bậc thang và bước vào một căn phòng nhỏ với một dãy bàn dài trên tầng hai. Bill Quint gật đầu và nói, “Hullo!” với vài cậu trai và cô gái, rồi đưa tôi vào một trong nhũng căn buồng có màn che màu xanh lá nằm thẳng hàng dọc bức tường đối diện quầy bar. Chúng tôi dành hai giờ để uống rượu whiskey và nói chuyện. Người đàn ông trong bộ đồ xám cho rằng tôi chẳng liên quan gì tới tấm danh thiếp mà tôi vừa cho anh ta xem, cũng như những danh tính khác mà tôi đã đề cập. Anh ta cũng không cho rằng tôi là một thành viên cấp cao của Hiệp hội. Với vai trò là thủ lĩnh quan trọng của IWW ở Personville, anh ta cho rằng nhiệm vụ của mình là phải tìm ra sự thật về tôi, đồng thời không để mình bị dò hỏi ngược lại trong khi đang làm việc đó. Với tôi thế cũng chẳng sao. Tôi hứng thú với các vấn đề ở Personville. Anh ta thì không bận tâm tới chuyện đó mà chỉ tập trung vào tấm thẻ đỏ của tôi. Và đây là những gì tôi moi được từ anh ta: Trong vòng bốn mươi năm, Elihu Willsson - cha của người đàn ông bị giết đêm qua - đã sở hữu trái tim, linh hồn cũng như xác thịt của Personville. Lão là chủ tịch và cổ đông lớn nhất của Tập đoàn Khai mỏ Personville cũng như ngân hàng First National, là chủ sở hữu của tờ Herald Buổi sáng và Herald Buổi tối, những tờ báo duy nhất của thành phố, và đồng sở hữu gần như tất cả các doanh nghiệp quan trọng khác. Cùng với khối tài sản đó, lão cũng nắm trong tay một Thượng nghị sĩ Mỹ, vài dân biểu, thống đốc bang, thị trưởng thành phố và hầu hết các cơ quan lập pháp của bang. Elihu Willsson là Personville, và gần như là toàn bộ bang. Hồi chiến tranh, IWW - khi đó đang lan rộng về phía Tây - đã giúp đỡ Tập đoàn Khai mỏ Personville. Nói giúp đỡ là không hoàn toàn chính xác. Họ đã sử dụng sức mạnh để đòi hỏi quyền lợi. Elihu già buộc phải chấp nhận và nín nhịn chờ thời. Chuyện xảy ra vào năm 1921. Việc kinh doanh gặp khó khăn. Elihu già không quan tâm xem liệu có phải đóng cửa tạm thời hay không. Lão xé hết những bản thỏa thuận trước đó và đá đám công nhân trở lại tình trạng khó khăn trước thời chiến. Tất nhiên là các công nhân đã yêu cầu sự giúp đõ. Bill Quint được trụ sở chính của IWW ở Chicago cử đến để giải quyết tình hình. Anh ta phản đối bạo loạn hay đình công. Anh ta khuyên họ hãy sử dụng một mánh cũ, trở lại làm việc và phá hoại từ bên trong. Nhưng điều đó là không đủ với các công nhân của Personville. Họ muốn tên mình được biết đến, muốn tạo ra lịch sử. Vậy là bạo loạn nổ ra. Nó kéo dài tám tháng. Cả hai bên đều tổn thất nặng nề. Chính các thành viên của Hiệp hội cũng phải đổ máu. Elihu già đã thuê các tay súng, lực lượng chống bạo loạn, vệ binh quốc gia và thậm chí là cả quân đội để chiến đấu cho mình. Khi đám tàn quân cuối cùng bị tiêu diệt, công đoàn của Personville chỉ còn là một xác pháo nổ tan tành. Nhưng, Bill Quint nói, Elihu già không biết gì về lịch sử nước Ý. Lão thắng, nhưng đã đánh mất quyền lực ở thành phố và tiểu bang. Để đánh bại đám thợ mỏ, lão đã để cho đám lính đánh thuê được tự do lộng hành. Khi cuộc chiến kết thúc, lão không thể loại bỏ chúng. Lão đã trao thành phố vào tay chúng và không đủ mạnh để lấy lại. Personville là một miếng mồi ngon và chúng đã chiếm lấy nó. Chúng giúp lão thắng cuộc chiến, và chiến lợi phẩm chúng yêu cầu là thành phố. Lão không thể công khai chống lại chúng. Chúng quá mạnh so với lão. Lão phải chịu trách nhiệm với những gì chúng đã làm trong cuộc bạo loạn. Khi câu chuyện tới được đó thì cả Bill Quint và tôi đều đã chếnh choáng. Anh ta bỏ kính xuống, gạt mớ tóc lòa xòa trước mặt và đưa câu chuyện về thì hiện tại: “Giờ kẻ mạnh nhất trong số chúng có lẽ là tay Pete Người Phần Lan. Thứ chúng ta đang uống đây cũng thuộc sở hữu của hắn. Rồi đến Lew Yard. Hắn có một tiệm cho vay trên phố Parker, chuyên thu tiền bảo lãnh và dính líu tới hầu hết các sự vụ nóng sốt của thành phố - đó là theo những gì người ta nói, và khá thân với Noonan - cảnh sát trưởng. Tay Max Thaler - biệt danh Kẻ Thầm Thì - cũng có rất nhiều bạn. Một gã da màu lươn lẹo có vấn đề ở cổ họng. Không thể nói được. Một tay cờ bạc. Ba kẻ đó, cùng với Noonan, đã giúp Elihu điều hành thành phố của lão - giúp nhiều hơn những gì lão muốn. Nhưng lão buộc phải hợp tác với chúng, hoặc là…” “Người bị bắn tối nay - con trai của Elihu - vị trí của anh ta là ở đâu?” Tôi hỏi. “Ông già đặt đâu thì gã ngồi đó, lúc nào cũng vậy.” “Ý anh là lão già đã khiến anh ta…?” “Có thể, nhưng tôi không cho là vậy. Tay Don đó chỉ vừa mới về nhà và bắt đầu điều hành tờ báo cho lão già. Lão quỷ già này, sắp xuống mồ đến nơi mà vẫn không để cho ai tóm đuôi mà không cắn lại. Nhưng lão phải cẩn trọng với đám kia. Lão đã mang con trai và người vợ quốc tịch Pháp của gã từ Paris về và sử dụng gã như một con khỉ trong rạp xiếc - một chiêu trò chết tiệt của một người cha. Don bắt đầu tiến hành cải tổ tờ báo. Dọn sạch sự tham nhũng và thối nát - đồng nghĩa với việc loại bỏ cả Pete, Lew và Kẻ Thầm Thì, đấy là nếu nó thành công. Anh hiểu rồi chứ? Nước cờ của lão già đã khiến chúng lâm vào thế bị động. Tôi đoán chúng chán chuyện đó rồi.” “Có gì đó sai sai trong suy đoán của anh.” Tôi nói. “Cái chốn đê tiện này còn cả đống thứ sai hơn nhiều. Uống đủ rồi chứ?” Tôi nói đã đủ. Chúng tôi xuống phố. Bill Quint bảo rằng anh ta đang ở trong khách sạn Miners trên đường Forest. Đường về của anh ta đi qua khách sạn của tôi, vậy nên chúng tôi đi cùng nhau. Có một gã cao lớn trông giống một tay cớm mặc thường phục đứng trước khách sạn của tôi, đang nói chuyện với một gã ngồi trong chiếc Stutz du lịch. “Trong xe là Kẻ Thầm Thì.” Bill Quint bảo tôi. Tôi bỏ qua người đàn ông lực lưỡng và thấy khuôn mặt trông nghiêng của Thaler. Hắn còn trẻ, da sậm và nhỏ con, với gương mặt đẹp như tượng tạc. “Hắn trông dễ thương đó.” Tôi nói. “Ừ hứ”, người đàn ông mặc đồ xám đồng ý, “và thuốc nổ cũng thế.” Mời các bạn đón đọc Mùa Gặt Đỏ của tác giả Dashiell Hammett & Nguyệt Minh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bản Thông Báo Tử Vong: Sự Trừng Phạt - Chu Hạo Huy
Vị bác sĩ chuyên khao Thận của bệnh viện Nhân Dân - Lý Tuần Tùng mất tích, ông bị cắt một một ngón tay cái bên bàn tay phải và kẻ bắt cóc đòi tiền chuộc bằng kim cương trị giá mọt triệu nhân dân tệ. Mặc dù cảnh sát đã bủa vây thiên la địa võng, nhưng số kim cương vẫn biến mất còn Lý Tuấn Tùng thì mất mạng.  Đội cảnh sát hình sự dốc toàn lực quyết tâm phá an, bao nhiêu manh mối tìm được lại lần lượt bị cắt đứt, các nhân vật liên quan đến lý Tuấn Tùng đều được điều tra tỉ mỉ, nhưng cái chết của bác sĩ Lý vẫn là một ẩn số.  Liệu La Phi - đội trưởng đội cảnh sát hình sự có nhìn được ra điểm mù vốn được dàn dựng công phu chặt chẽ để phá án thành công hay không? Và rột cuộc , ai là kẻ đã sát hại Lý Tuấn Tùng? Liệu tất cả những kẻ có tọi đều bị trừng phạt *** Ngày 30 tháng 10 " sao không kéo rèm cửa sổ ra? tối om om thế." Vừa bước vào phòng, Dư Tĩnh đã kêu toáng lên. Cô chạy thẳng đến bên cửa sổ, kéo toang rèm ra, ánh nắng chiều rực rỡ tràn vào khiến vẻ âm u nặng nề của bầu không khí trong căn phòng hoàn toàn thay đổi. Mấy anh chàng đang ngồi trong phòng đều không nói gì, xem ra họ đã quen với lối hành động theo ý mình của Dư Tĩnh. Cô gái vùng phương nam trông nhẹ nhàng đằm thắm này lại có tính cách thẳng thắn bộc trực như người phương Bắc. Đợi cô gái ngồi vào bàn họp, một cậu thanh niên đeo kính bên cạnh mới nhắc: Lát nữa phải bật máy chiếu đấy, sáng quá sẽ không nhìn rõ được." "Đợi đến lúc bật máy lên rồi tính". Dư Tĩnh đáp lời rồi nhìn cậu thanh niên hỏi "Sư huynh, anh ngửi xem trên người em có mùi không?" Cậu thanh niên đeo kính trên ghế sát lại ngửi, sau đó nói to xuýt xoa, vẻ mặt ngây ngất: " thơm quá" Tất cả mọi người trong phòng đều cười theo. " Đáng ghét!" Dư Tĩnh giơ nắm tay thon lên đấm một nhát vào đối phương, lại hỏi lần nữa: " Nói thật đấy trên người em có mùi của người chết không?" "Mùi người chết gì? Đấy là mùi formalin." Cậu thanh niên đeo kính sửa lời và vặn lại, "Cái mùi này thì trên người bọn mình ai mà không có hả?" Dư Tĩnh chau mày nhấn mạnh: "Em khác các anh." Cậu thanh niên đeo kính hiểu ra điều gì đó, cậu nhìn cô bằng ánh mắt thông cảm:"Mấy hôm nay em mệt lắm hả?" "Chứ còn gì nữa? Vùi trong đống người chết." Dư Tĩnh nhe răng cười ngao ngán, "Con gái mà bị phân vào khoa Bệnh lý, anh bảo có phải là bi thảm nhất thế giới không cơ chứ?" "Đừng kêu ca nữa, chẳng phải là tự em chuốc lấy còn gì?" Một anh chàng khác ngồi phía đối diện khuyên bảo, "Cô chịu đi. Thường cũng chỉ hai ba tháng thôi, qua được là ổn cả thôi." Cậu thanh niên vừa nói dứt lời thì ngoài hành lang vang lên tiếng gót giày nện xuống mặt sàn. Mọi người trong phòng như thể bất được tín hiệu gì đó, lập tức trở nên im lặng, không dám nói thêm lời nào. Giây lát sau một bóng người bước vào phòng, tất cả sinh viên nam nữ đều đứng lên, kính cẩn chào: "chúng em chào cô Trang" Giáo viên là một người phụ nữ có khí chất đặc biệt, dáng người cao ráo, gương mặt đoan trang. Sau khi vào phòng, bà liền ngồi vào vị trí đầu bàn họp, đồng thời quay đầu nhìn về phía cửa sổ, ánh nắng chiếu thẳng vào khiến bà hơi nhíu mày. Dư Tĩnh ở gần đó hiểu ý, vội ra cửa sổ kéo rèm lại rồi ngồi vào cùng các sinh viên khác. Cô Trang đặt một tập tài liệu và điện thoại di động lên bàn họp, sau đó nói ngắn gọn: "Bắt đầu đi" Thứ tự báo cáo đã được xếp lịch sẵn từ trước. Cậu thanh niên đeo kính khi nãy báo cáo đầu tiên, cậu điều khiển máy chiếu mở file ppt đã chuẩn bị, slide đầu tiên hiện ra tên của cậu: Dương Triết. Trong quá trình Dương Triết báo cáo không khí trong phòng họp vô cùng yên lăng, chỉ có chiếc điện thoại của di động của cô Trang vang lên một tiếng giữa chừng. Có điều bà không hề xem ngay. Khoảng mười phút sau, phần báo cáo của Dương Triết kết thúc. Cô giáo Trang lập tức đưa ra lời nhận xét, đám sinh viên của bà vừa nghe vừa chăm chỉ ghi chép. Cuối cùng cô nói "Được rồi". Dương Triết liền thở phào nhẹ nhõm như trút được gánh nặng. Cô giáo Trang nhớ ra hình như điện thoại có tin nhắn liền mở ra xem, sau đó phân công Dương Triết :" Tôi có một gói bưu phẩm ở trạm chuyển nhận, cậu đi lấy giúp tôi." Dương Triết cầm chứng minh thư của cô giáo Trang rời phòng họp đi lấy bưu phẩm chuyển phát nhanh. Khi quay lại phòng họp cậu thấy sinh viên báo cáo thứ hai đang cúi đầu nghe cô giáo Trang phê bình. Dương Triết có chút đắc ý, nhưng không thể hiện ra mặt, chỉ lặng lẽ đặt hộp bưu phẩm chuyển phát nhanh vừa lấy về và chứng minh thư trước mặt cô giáo rồi ngồi vào chỗ của mình. Cô giáo Trang cầm chiếc hộp giấy lên xem. Trên chiếc hộp đó dán đầy băng dính, không thể mở ngay ra được. Bà cầm chiếc hộp rời khỏi phòng họp, một lúc sau đã thấy quay lại ngay, trên thay cầm theo một con dao dọc giấy. Vì thời gian có hạn, bà không trao đổi tiếp với sinh viên trước đó nữa. " Chúng ta đừng làm mất thời gian của mọi người vấn đề của bạn hết buổi tôi sẽ tiếp tục trao đổi riêng với bạn." Cô giáo Trang nghiêm khắc nói với cậu sinh viên sau đó bà quay về phía cô gái duy nhất trong phòng họp " Dư Tĩnh, em bắt đầu đi." Dư Tĩnh căng thẳng nuốt nước bọt, mở file ppt. Cô giáo Trang vừa nghe Dư Tĩnh trình bày, vừa bắt đầu dùng chiếc dao nhỏ cắt băng dính trên chiếc hộp giấy. Dư Tĩnh vừa nói vừa liếc nhìn cô giáo Trang, có vẻ không tư tin về bài báo cáo của mình. Và tình hình có vẻ đúng như cô lo lắng, vẻ mặt của cô giáo Trang mỗi lúc một năng nề hơn. Dư Tĩnh lại càng phấp phỏng bất an, giọng nói cũng bắt đầu run. Cuối cùng cô giáo Trang giơ tay chặn lại: "Em đừng nói nữa" Dư Tĩnh nín thở, luống cuống không biết làm gì. Cô cúi đầu chờ đợi trận phong ba bão táp sắp sửa giáng xuống. Nhưng cô giáo Trang không nói gì thêm nữa. Giây lát sau, Dư Tĩnh ngẩng đầu quan sát phản ứng của cô giáo Trang, cô thấy sắc mặt cô tái nhợt, mặt cắt không còn giọt máu. Trong ấn tượng của Dư Tĩnh cô chưa bao giờ thấy sắc thái như vậy trên gương mặt người phụ nữ này, cô biết chắc chắn mình không phải nguyên nhân khiến sắc mặt bà trở nên như vậy. Lúc này, đối tượng mà bà đang chăm chú lại là chiếc hộp chuyển phát nhanh vừa được mở ra ... Mời các bạn đón đọc Bản Thông Báo Tử Vong Ngoại truyện: Sự Trừng Phạt của tác giả Chu Hạo Huy.
Vị Bá Tước Thứ Năm Của Giòng Họ Hauberk - Aldous Leonard Huxley
Aldous Leonard Huxley sinh năm 1894 trong một gia đình nhiều đời làm công tác khoa học: ông nội và bố là những nhà sinh học lớn của nước Anh. "Tuổi trẻ thất trận" (The Defaith of Youth - 1918) mở đầu sáng tác của ông, cũng là mở đầu cho "Thế kỷ đen" ở Anh. Loạt sáng tác kế tiếp trong nhiều năm vẫn nằm trong dòng tư tưởng bi quan: liệu những người tự cho là có trách nhiệm bảo vệ giá trị tinh thần và vật chất của loài người, họ có làm tròn nhiệm vụ không, hay ngược lại họ đang phá hỏng cái gia tài chung ấy? Ông không tin ở những món quà thế kỷ 20 mang tới. "Vàng mạ kền" (Crome Yellow - 1921) "Phản bác" (Point Counter Point -1928): những bức tranh châm biếm cái xã hội tứ chiếng, phè phỡn của châu Ảu những năm 20. "Thế giới mới dũng cảm" (Brave New World - 1932) chỉ giễu tham vọng Mỹ hóa thế giới của các trùm tài phiệt và trùm văn hóa Mỹ. "Bình yên dưới đáy sâu" (1945) phê phán nếp sống gấp... (Jouvence - tên tác phẩm của tập này) ra đời năm 1954. Bằng nhận thức sắc sảo, trí tuệ Aldous Huxley nhìn ra cái thế giới của Con Bò Vàng, ông mất năm 1963 ở California - Mỹ. *** Tại vùng ngoại ô một thành phố miền Nam California, có một tòa lâu đài kỳ dị, cao đến 24 tầng, xây dựng trên đỉnh đồi. Bao quanh khu nhà là hai lớp tường, rồi một hào nước sâu, ra vào bằng một cái cầu treo kiểu trung cổ. Đó là trụ sở một siêu công ty kinh doanh từ xăng dầu, hầm mỏ, ngân hàng tới nghĩa trang, mồ mả. Tòa nhà có đủ cơ quan và phương tiện tối tân, có cả nhà thương làm phúc cho trẻ, thảo cầm viên, một viện nghiên cứu khoa học với các chuyên viên cực giỏi. Phần trên dành riêng cho chủ nhàn và cô nhân tình với một bể bơi hiện đại cách một đất trên 200 mét. Nơi đây đã xảy ra một vụ án tình, kẻ giết người chính là Stoyte. Tỷ phú Stoyte có quá nhiều thú vui nên chỉ có một mơ ước: tìm ra phương thuốc trường sinh. Một học giả Anh có trong tay tài liệu của dòng họ Hauberk ở Anh từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17 về phương thuốc. Vị Bá tước thứ năm của dòng họ này, cách đây trên trăm năm đã ứng dụng và ghi chép kỹ diễn biến trên cơ thể ông và một người tình cùng dùng thuốc với ông cho đến năm ông gần trăm tuổi. Có chứng cứ nói rằng hai người cho đến nay vẫn còn sống dưới hầm bí mật của một tòa lâu đài cổ đâu đó ở Bắc Anh. Stoyte đang thất tình, đang bê bối trong vụ án bèn cùng với cô nhân tình và nhà khoa học tới nước Anh truy tìm hai con người bất tử kia. Họ còn sống hay đã chết? Câu trả lời phải dành cho ngòi bút trào lộng mà cay đắng của Huxley. Mời các bạn đón đọc Vị Bá Tước Thứ Năm Của Giòng Họ Hauberk của tác giả Aldous Leonard Huxley.
Ông Cố Vấn: Hồ Sơ Một Điệp Viên - Hữu Mai
Ông cố vấn: Hồ sơ một điệp viên là một tiểu thuyết của nhà văn Hữu Mai, viết về cuộc đời hoạt động của nhà tình báo Việt Nam Vũ Ngọc Nhạ trong khoảng thời gian từ năm 1958 đến năm 1975. Tác phẩm được xuất bản lần đầu vào năm 1987, bao gồm 3 tập, và được tái bản nhiều lần. Lần tái bản gần nhất vào năm 2002, khi đó tác phẩm đã được chỉnh, hiệu đính và gom lại thành 2 tập. Tiểu thuyết kể về cuộc đời hoạt động của nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ và mạng lưới tình báo A.22. Bằng tài năng của mình, Vũ Ngọc Nhạ đã trở thành “Ông Cố vấn” đáng tin cậy trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa, cung cấp cho Hà Nội những thông tin tình báo quan trọng, góp phần vào chiến thắng cuối cùng giải phóng đất nước. *** CUỐI năm 1969, cả Sài Gòn xôn xao vì mới tìm ra một lưới tình báo quân sự của Việt Cộng nằm ngay trong những cơ quan đầu não của chính quyền Việt Nam cộng hòa. Báo chí đưa tin bằng những hàng tít lớn: “Vụ án gián điệp lớn nhất thời đại”[1], “Vụ án chính trị của thế kỷ”[2]. Các bị cáo đều là những nhân vật quan yếu trong chính phủ Sài Gòn: người là cố vấn đặc biệt của tổng thống, người là cấp bộ trưởng, người là tham chánh văn phòng bộ chiêu hồi... Có nhà bình luận còn nói trong số những người bị đưa ra xét xử, có người được coi là ứng cử viên tổng thống nhiệm kỳ sắp tới. Những cơ quan thông tin đại chúng nước ngoài, đặc biệt là của Mỹ, đã đưa nhiều tin tức về vụ án. Năm 1983 trong cuốn hồi ký của mình[3], Ralph McGehee, một nhân vật CIA kỳ cựu, đã nhận chính CIA dã làm áp lực mạnh mẽ với tổng thống Thiệu để tiến hành chiến dịch phá lưới gián điệp này. Vì nội vụ đề cập tới những nhân vật quan yếu trong chính phủ, những nhà hoạt động chính trị xã hội có uy tín rộng rãi trong quần chúng, nên người phúc trình tin tức đã được chính Dale Waites kiểm tra bằng máy dò sự thật (Polygraph Tost). Cuối cùng, ngày 28-11-1969, chính quyền Sài Gòn đã cho mở phiên tòa quân sự tại Sài Gòn để xét xử những bị can. Trên một trăm ký giả trong và ngoài nước đã có mặt tại Nha Quân pháp ở đại lộ Bạch Đằng chật ních người đến theo dõi vụ án. Bản cáo trạng dài 23 trang, đọc hết một tiếng rưỡi đồng hồ. Theo tường thuật trên báo chí, “Vụ án này rất căng thẳng và quan trọng, vì qua hồ sơ không có một đảng phái chính trị nào, một nhân vật chính trị nào mà không có liên quan ít nhiều đến vụ án. Xếp hồ sơ đó nặng gấp 200 lần so với bản cáo trạng đã đọc...”[4]. Sau ngày giải phóng Sài Gòn, chúng ta đã tìm được toàn bộ những hồ sơ đó tại Nha Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia của chính quyền Sài Gòn. Trong tập 1 của hồ sơ, có thể trích ra vài nhận xét sau đây: “Từ trước đến nay, ngoại trừ những giai thoại giả tưởng trong tiểu thuyết trinh thám, chưa bao giờ có những tổ điệp báo thành công đến như thế. (...) Cụm A.22 hoạt động và phát triển đều đặn và đã thi thố nhiều thủ đoạn mà chúng ta phải nhìn nhận là huyền diệu và xuất sắc... Cụm đã phát triển một hệ thống diệp vụ vô cùng quan trọng và đã len lỏi vào được nhiều cơ quan đầu não của Việt Nam cộng hòa (...) Những tin tức chiến lược mà Cảnh sát Quốc gia biết họ đã cung cấp, đều có giá trị giúp cho Hà Nội có được những dữ kiện chắc chắn khi ấn định chính sách của họ đối với cuộc chiến tranh hiện nay. (...) Các dự án quốc gia đều được Cụm A.22 thu thập và phúc trình và nhờ cụm tình báo chiến lược mà các cấp lãnh đạo Hà Nội biết nhiều điều cơ mật mà chính các Tổng Bộ trưởng Sài Gòn không biết. (...) Họ đã tiếp xúc được với các yếu nhân Việt Nam và cũng gặp gỡ đàm luận dễ dàng với các yếu nhân Mỹ như CONLON, HEAVNER, SMITH, COLBY, BURGER...”[5]. Các báo chí Sài Gòn đều ghi nhận “tất cả bị can đều có nét mặt tươi cười và rất tự nhiên”, “như đi dự đám cưới”, “tất cả cũng vẫn có vẻ đẹp trai”... Hơn hai mươi luật sư biện bộ, trong đó có những người danh tiếng nhất, đứng sau lưng họ. Phiên tòa trở thành diễn đàn vạch rõ những mâu thuẫn trầm trọng của chế độ Sài Gòn, giữa chính quyền với các đảng phái, tôn giáo, đồng minh chiến lược Hoa Kỳ, giữa những cá nhân trong những tổ chức nảy, với những bằng chứng cụ thể không thể bác bỏ, và công khai tuyên truyền cho đường lối hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc. Một luật sư đã nói: “Là người biện hộ trong vụ án, tôi như ếch ngồi đáy giếng mà miệng giếng đã bị tổng thống Thiệu đậy lại rồi...”. Vũ Ngọc Nhạ, người bị tố cáo cầm đầu lưới gián điệp, xuất hiện trước tòa với bộ áo trắng, quần đen, cravat nâu, ung dung cầm một xấp giấy trắng, miệng luôn luôn tươi cười. Riêng anh từ chối nhờ luật sư biện hộ cho mình và cũng không tự bào chữa. Anh tuyên bố những việc mình đã làm chỉ có lịch sử phán xét. Tất cả những bị can không ai có một lời đề nghị được khoan hồng. Nhạ và hai đồng đội chính của anh đã bị án chung thân khổ sai. “Lần đầu trong một vụ án quan trọng và trước những bản án nặng nề, người ta không hề ghi nhận một tiếng khóc nào và chỉ thấy những gương mặt vui thân và nghe những tiếng cười...”[6]. Trước rất đông công chúng tụ tập ở cửa tòa án, vây quanh chiếc xe bịt bùng đưa những người vừa bị kết án về trại giam, Nhạ nói với mọi người: “Các bạn cứ chờ xem, một trang sử mới sắp lật qua. Không còn bao lâu nữa đâu!”. Anh và các bạn hướng về những máy ghi âm, ống kính truyền hình, máy ảnh của những ký giả nước ngoài chõ về phía họ, nói bằng tiếng Pháp và tiếng Anh: “Cuộc đấu tranh chưa kết thúc, đến đây chỉ mới tạm dừng. Chúng tôi ra đi nhưng nhất định chúng tôi sẽ trở về...” Họ đã giữ đúng lời hứa. Ba năm sau đó, họ lại xuất hiện ở Sài Gòn, tiếp tục cuộc chiến đấu trên mặt trận thầm lặng cùng với bao nhiêu đồng chí khác, trong đó có nhiều người dã lập nên những kỳ tích mà chúng ta còn chưa biết tới. Vụ án trở thành một vấn đề thời sự sôi nổi. Dư luận cho là nó còn chứa đựng nhiều nghi vấn. Theo nguồn tin từ dinh Độc Lập, tổng thống Thiệu trong những cuộc trao đổi riêng tư đã nói đây là một việc làm xấu xa của CIA nhằm bôi nhọ uy tín cá nhân mình. Sau đó lại có tin tỉnh trưởng Côn Sơn (Côn Đảo) đã bị thay. Người ta nói tổng thống đưa người của mình ra nắm quyền hành ở Côn Sơn, để chăm sóc ông cố vấn vừa ra đó bắt đầu cuộc sống lưu đày. Giáo hoàng Paul VI cũng gửi tới Côn Sơn tặng ông nguyên cố vấn huy chương “Vì Hòa bình” với một bức thư tỏ lòng ngưỡng mộ người chiến sĩ Công giáo đã cống hiến nhiều cho hòa bình vì lý tưởng thiêng liêng của Chúa. Cho đến những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn tháng 4-1975, Nguyễn Văn Thiệu vẫn giữ quan hệ với người cố vấn cũ của mình, coi đây là một mối quan hệ tốt đẹp trong suốt cuộc đời chấp chính. Tập hồ sơ sau đây sẽ đưa ra ánh sáng những vấn đề đến nay còn chưa rõ ràng chung quanh vụ nghi án. Nó được trình bày dưới dạng tiểu thuyết để cho về hình thức đỡ khô khan. Tuy nhiên, điều mong mỏi chủ yếu của tác giả là được chuyển tới bạn đọc những sự kiện, những chi tiết chân xác, với những con người thật. Bạn đọc có thể gặp nhiều nhân vật của cuốn sách này đang tiếp tục cuộc sống bình dị của họ sau những biến cố lịch sử ở nước ta, cũng như ở đâu đó một số nước ngoài. Nếu có những điều sai sót về họ, tác giả rất mong sẽ được chính họ góp ý kiến để bổ cứu cho lần in sau nếu cuốn sách có được may mắn đó. HỮU MAI Mời các bạn đón đọc Ông Cố Vấn: Hồ Sơ Một Điệp Viên của tác giả Hữu Mai.
Mưu Sát - Tử Kim Trần
Sách Nói Mưu Sát Từ Sách tốt nghiệp tiến sĩ ngành Tâm lý học ở trường Đại học California của Mỹ. Người mẹ đơn thân của anh bị chết trong vụ phá dỡ nhà của Ban Cải tạo khu vực cũ. Anh ta từ Mỹ trở về để báo thù cho mẹ. Đầu tiên, anh ta giết hại Phó Giám đốc Sở Công An huyện, gây rúng động cả huyện, khiến Cao Đông, người bạn học cũ của Từ Sách, là cảnh sát hình sự tài giỏi phải vào cuộc để phá án.Từ Sách đã dàn dựng nên kế hoạch trả thù vô cùng hoàn mỹ, liệu Cao Đông có thể ngăn chặn được sự trả thù này hay không? *** “Đây là một tác phẩm không dùng nhiều chiêu trò thủ đoạn mà thực tế hiếm có. Hãy tin tôi, bạn nhất định không được bỏ qua nó.” – Chu Hạo Huy “Tử Kim Trần đã hòa trộn một số vấn đề nghiêm trọng của xã hội hiện nay vào trong tác phẩm. Thông qua việc khắc họa tâm lý của kẻ tội phạm, khiến chúng ta đứng từ một góc độ khác để suy nghĩ và tìm hiểu một cách nghiêm túc về công bằng trong thể chế xử phạt của pháp luật.” – Lôi Mễ *** Bước vào tháng 12, sau mấy đợt không khí lạnh tràn tới, nhiệt độ đột ngột hạ xuống thấp, mùa đông hình như đã đến thật rồi. Mặt trời dần ngả về phía tây, Từ Sách mặc một chiếc áo khoác rộng, khẽ khom lưng trong cơn gió lạnh, xách theo túi đồ và bước chậm rãi men theo đường Duyên Hải Nam đi về phía tây. Ở ngã tư có đèn xanh đèn đỏ, anh ta ko dừng lại, mà rẽ sang phải đi về hướng bắc tiến vào đường Phong Tây. Ko ngẩng đầu, nhưng đôi mắt anh ta lại một lần nữa quan sát một lượt máy quay camera trên đỉnh đầu. Vị trí của máy quay nằm ở trên đèn xanh đèn đỏ, cách mặt đất khoảng 8m, phương hướng nhắm về phía đường Duyên Hải Nam, dùng để ghi lại những chiếc xe vượt đèn đỏ. Qua mấy lần quan sát, anh ta phán đoán, đây chắc là máy camera cố định, ko chuyển động, chắc ko thể nào quay được đến cảnh ở đường Phong Tây. Nhưng đây chỉ là có lẽ, anh bắt buộc cần phải đảm bảo chắc chắn không có chút sơ sẩy, bóp chết tất cả những nhân tố tiềm ẩn có thể dẫn đến sự thất bại. Được rồi, cần phải nghĩ kỹ về các chi tiết nữa. ... Mời các bạn đón đọc Mưu Sát của tác giả Tử Kim Trần.