Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ma Cà Rồng Ở Dallas

Khi chàng ma cà rồng Bill Thompton tiếp nhận vị trí Điều tra viên khu vực Số Năm, Sookie Stackhouse mặc nhiên được những ma cà rồng quyền lực nhất vùng bảo vệ. Nhưng, được coi như món đồ thuộc quyền sở hữu của Bill, cô buộc phải sử dụng khả năng đọc tâm trí của mình để phục vụ những kẻ khát máu. Với điệp vụ đầu tiên trong vai trò một tay lính đánh thuê, cô phải lặn lội cùng Bill tìm lời giải đáp cho sự mất tích bí ẩn của một ma cà rồng đồng tính tận Dallas. Cô những tưởng mình chỉ cần đọc tâm trí một vài người thường nào đó. Cô cũng đã tưởng mình có thể bảo vệ những con người liên quan đến vụ việc. Chỉ có điều, mối nguy hiểm không phải lúc nào cũng chỉ đến từ phía ma cà rồng. Và, lý thuyết bao giờ cũng đơn giản hơn thực tế… Một lần nữa, chính mạng sống của cô lại bị treo trên đầu sợi tóc… Charlaine Harris (sinh 25/11/1951) sinh ra và lớn lên tại Tunica, Mississippi và hiện giờ đang sống ở Arkansas cùng chồng và ba người con. Bà sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết. Chết trước hoàng hôn (Dead Until Dark) là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết ăn khách The Southern Vampire Mysteries (Bí ẩn ma cà rồng miền Nam), từng giành được giải Anthony Award cho Tác phẩm thần bí xuất sắc nhất 2001. Bộ tiểu thuyết này cũng được đạo diễn Alan Ball chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách nhiều năm liên tiếp True Blood. “Thật khó tưởng tượng ra cảnh ma cà rồng và người sói cùng lượn lờ ở mỗi góc đường, nhưng Harris đã biết cách khiến người đọc yêu thích, bị lôi cuốn và cuối cùng là mê mệt những câu chuyện của bà.” – The Monroe News-star “Một cuốn sách bạn muốn đọc trước giờ đi ngủ, chắc mẩm sẽ chỉ theo dõi hết chương đầu tiên, nhưng hóa ra lại chỉ dừng lại được khi đã đi đến trang cuối cùng.” – Alan Ball, biên kịch American Beauty và đạo diễn True Blood “Bằng sự hòa quyện của những pha hành động, tình cảm và các chi tiết hài hước, Harris đã tạo ra một thế giới sống động đầy tính hiện thực, tất nhiên, nếu không kể đến ma cà rồng và những sinh vật siêu nhiên khác.” – The Toronto Stars *** Andy Bellefleur đã say khướt. Chuyện này chẳng bình thường với Andy chút nào - tin tôi đi, tôi biết hết mấy tay nát rượu ở Bon Temps. Nhờ nhiều năm làm việc trong quán bar của Sam Merlotte, tôi đã quen mặt tất cả bọn họ. Nhưng Andy Bellefleur, người gốc địa phương và là thanh tra trong lực lượng cảnh sát ít ỏi ở thị trấn Bon Temps, thì trước giờ chưa từng say xỉn ở quán Merlotte. Tôi cực kỳ tò mò muốn biết vì sao tối nay lại là ngoại lệ. Vì Andy và tôi chẳng hề quen thân nên tôi không thể hỏi thẳng anh ta được. Nhưng vẫn còn vài cách khác mà, thế là tôi quyết định dùng các cách ấy. Mặc dù tôi luôn cố hạn chế sử dụng khiếm khuyết, hay tài năng của mình, muốn gọi sao cũng được, để tìm ra những thứ có thể ảnh hưởng đến tôi hoặc những thứ thuộc về tôi, nhưng đôi lúc sự tò mò lại thắng thế. Tôi hạ rào chắn tâm trí xuống để đọc suy nghĩ của Andy. Rồi tôi lại thấy hối hận. Sáng nay Andy đã tóm một tên bắt cóc. Gã đàn ông đó đã bắt cóc cô bé hàng xóm mới mười tuổi mang vào rừng hãm hiếp. Cô bé đó hiện đang ở bệnh viện, còn gã kia đang ở trong tù, nhưng tổn hại mà hắn đã gây ra thì chẳng thể nào khắc phục được. Tôi buồn đến phát khóc. Tội ác ấy chạm vào sâu thẳm quá khứ của chính tôi. Sự trầm uất của Andy làm tôi thấy thích anh ta hơn một chút. “Này Andy Bellefleur, đưa chìa khóa xe anh đây,” tôi nói. Gương mặt to bành của Andy ngước lên nhìn tôi, ngơ ngác. Sau một hồi lâu ngẩn ngơ để cho lời tôi nói thẩm thấu vào trí óc rối bời của mình, Andy thò tay lục túi quần kaki rồi đưa tôi một chùm chìa khóa nặng trịch. Tôi đặt thêm một ly bourbon pha coca trên quầy bar trước mặt anh ta. “Tôi mời,” tôi nói, rồi lấy điện thoại ở cuối quầy bar gọi cho Portia, em gái Andy. Hai anh em nhà Bellefleur sống ở một căn biệt thự lớn kiểu tiền Nội Chiến hai tầng màu trắng trước đây hẳn rất tráng lệ nhưng giờ đang xuống cấp, nằm trên con phố xinh xắn nhất trong khu vực đẹp nhất thị trấn Bon Temps. Trên đường Magnolia Creek, mọi ngôi nhà đều quay mặt ra phía dải công viên có dòng suối nhỏ len qua, bắc rải rác ngang con suối là những cây cầu hoa hòe hoa sói chỉ dành riêng cho người đi bộ; đường lộ chạy dọc hai bên công viên. Trên đường Magnolia Creek còn có vài căn nhà xưa khác nữa, nhưng tất cả đều được chăm chút hơn nơi ở của gia đình Bellefleur, căn Belle Rive. Việc duy tu căn nhà Belle Rive vượt quá khả năng chi trả của Portia, một luật sư, và của Andy, một cảnh sát, vì số tiền để duy trì căn nhà cùng đất đai vườn tược chung quanh đã hết từ lâu rồi. Nhưng bà của họ, Caroline, lại gàn bướng không chịu bán. Portia nhấc điện thoại sau hồi chuông thứ hai. “Portia à, tôi là Sookie Stackhouse đây,” tôi phải lên giọng để át đi âm thanh ồn ã trong quán bar. “Hẳn là cô vẫn đang ở chỗ làm.” “Phải rồi. Andy đang ở đây, say mèm rồi. Tôi đã thu chìa khóa xe của anh ấy. Cô đến đón Andy được không?” “Andy quá chén à? Hiếm nhỉ. Được rồi, tôi sẽ đến đó trong vòng mười phút,” cô ta hứa, rồi cúp máy. “Cô tốt bụng quá, Sookie,” tự nhiên Andy thốt lên. Anh ta đã nốc cạn ly rượu tôi vừa rót. Tôi gạt cốc ra chỗ khuất mắt, mong rằng anh ta không đòi thêm nữa. “Cảm ơn anh, Andy,” tôi nói. “Anh cũng là người tốt bụng mà.” “Bạn trai… đâu ấy nhỉ?” “Ngay đây này,” một giọng nói lạnh lùng đáp lại, và Bill Compton xuất hiện ngay đằng sau Andy. Tôi mỉm cười với anh qua đầu Andy lúc này đang gục xuống. Bill cao khoảng một mét tám, tóc và mắt cùng một màu nâu sẫm. Anh có bờ vai rộng và đôi cánh tay cuồn cuộn cơ bắp như của người đã lao động chân tay suốt nhiều năm liền. Trước khi đi lính, Bill đã làm việc ở trang trại, đầu tiên là cùng bố, sau đó làm một mình. Trong cuộc Nội Chiến thì phải. “Chào M.B.!” Micah, chồng của Charlsie Tooten, cất tiếng. Bill phẩy tay đáp lại, Jason, anh trai tôi, thì chào hỏi vô cùng lịch sự, “Chào buổi tối nhé, ma cà rồng Bill.” Jason, trước đây không mấy sẵn lòng đón chào Bill bước vào gia đình nhỏ của chúng tôi, nhưng giờ lại thay đổi thái độ hoàn toàn. Trong thâm tâm tôi gần như vẫn nín thở chờ xem thái độ được cải thiện này có tồn tại mãi không. “Này Bill, anh là một tay hút máu tốt bụng đấy,” Andy nói vẻ đánh giá, rồi xoay người đối mặt Bill. Tôi lại nâng cấp quan điểm của mình về Andy khi say xỉn, vì khi tỉnh táo có bao giờ anh ta tỏ ra sẵn lòng chấp nhận ma cà rồng vào xã hội con người trên đất nước này đâu cơ chứ. “Cảm ơn anh,” Bill đáp bằng giọng khô khốc. “Với một tay nhà Bellefleur thì anh cũng đâu quá tệ.” Anh rướn người qua quầy hôn tôi. Đôi môi anh cũng lạnh như chính giọng nói. Phải làm quen với điều này thôi. Như khi ngả đầu lên ngực anh, chẳng ai nghe thấy được nhịp tim đập trong ấy. “Chào buổi tối, cưng à,” anh nói nhỏ. Tôi đẩy qua quầy bar một ly B trừ, loại máu nhân tạo được Nhật Bản phát chế, anh ngửa cổ nốc cạn rồi liếm môi. Gần như ngay lập tức trông anh hồng hào hẳn. “Cuộc họp sao rồi cưng?” tôi hỏi. Bill đã ở Shreveport hầu như cả đêm hôm nay. “Anh sẽ kể cho em sau.” Tôi hy vọng những chuyện liên quan đến công việc của anh không quá bi thương như chuyện của Andy. “Được thôi. Em mong là anh sẽ giúp Portia dìu Andy ra xe cô ấy. Cô ấy đến kia kìa,” tôi nói, hất đầu về phía cửa. Đấy là lần đầu tiên tôi không thấy Portia vận bộ đồng phục váy công sở, sơ mi, áo khoác, tất dài cùng giày đế bệt. Portia đã thay quần jean xanh và một chiếc áo lạnh Sophie Newcomb nhàu nhĩ. Thân hình Portia to cao như người anh mình, nhưng cô có mái tóc màu hạt dẻ dài và dày. Chăm sóc cho mái tóc mình đẹp đẽ là một nét đặc trưng của bản thân mà Portia chưa muốn từ bỏ. Cô chỉ đưa mắt khắp đám đông om sòm chăm chăm tìm một thứ. “Ôi, anh ấy xỉn quá rồi, hay nhỉ,” cô thốt lên, thẩm định tình trạng ông anh trai của mình. Portia cố phớt lờ Bill, người đang làm cô thấy hết sức khó chịu. “Chuyện này không xảy ra thường xuyên đâu, nhưng nếu đã muốn uống thật là anh ấy sẽ uống quắc cần câu luôn.” “Portia này, Bill có thể dìu anh ấy ra ngoài xe giúp cô,” tôi nói. Andy cao và đậm người hơn Portia, rõ ràng là nặng quá sức cô em gái. “Tôi nghĩ mình có thể tự lo được,” Portia quả quyết với tôi, vẫn không thèm nhìn qua Bill, lúc này đang nhướn mày nhìn tôi. Thế là tôi để cô vòng tay qua người ông anh trai, cố nhấc anh ta ra khỏi ghế. Andy vẫn ì ra đó. Portia liếc nhìn quanh tìm Sam Merlotte, chủ quán bar, tuy anh này có vẻ ngoài nhỏ thó gầy gò nhưng thật ra lại rất khỏe. “Sam đang đi pha chế rượu cho một buổi tiệc kỷ niệm ở câu lạc bộ ngoại ô mất rồi,” tôi nói. “Tốt hơn hết là cứ để Bill giúp đi.” “Ừ thôi cũng được,” cô luật sư cứng nhắc đáp, mắt nhìn chăm chăm lên mặt gỗ quầy bar bóng loáng. “Cảm ơn rất nhiều.” Trong chớp mắt Bill đã xốc Andy lên đi ra phía cửa, mặc cho hai chân Andy cứ muốn nhũn như chi chi. Micah Tooten bật dậy mở cửa, để Bill có thể dìu Andy thẳng ra ngoài bãi đỗ xe. “Cảm ơn cô, Sookie,” Portia nói. “Tiền rượu anh ấy đã trả hết chưa?” Tôi gật đầu. “Được rồi,” cô nói, vỗ nhẹ tay xuống bàn để ra hiệu là cô về đây. Cô phải nghe hàng đống lời khuyên đầy thiện chí khi theo bước Bill ra khỏi cửa chính của quán Merlotte. Đó là lý do vì sao mà chiếc Buick cũ kỹ của thanh tra Andy Bellefleur lại đỗ trong bãi xe quán Merlotte suốt đêm đến tận ngày hôm sau. Sau này hẳn anh ta sẽ thề rằng dĩ nhiên không có ai trong chiếc Buick ấy khi mình bước ra khỏi xe đi vào quán. Hẳn anh ta cũng sẽ khai rằng trước đó do quá bận tâm về cơn hỗn loạn nội tâm nên đã quên khóa cửa. Đâu đó trong khoảng thời gian từ tám giờ tối, khi Andy bước vào quán Merlotte, đến mười giờ sáng hôm sau, khi tôi đến để giúp mở cửa tiệm, xe của Andy đã có thêm một hành khách mới. Người này chắc chắn sẽ gây ra một nỗi xấu hổ trầm trọng cho viên cảnh sát. Hắn đã chết. Đáng lẽ ra tôi không nên đến đây làm gì. Đêm trước tôi đã làm ca khuya, và nhẽ ra tối hôm sau tôi lại phải làm ca khuya nữa. Nhưng Bill đã yêu cầu tôi đổi ca với một đồng nghiệp khác, bởi anh cần tôi đi cùng đến Shreveport, và Sam đã không phản đối. Tôi đã nhờ chị bạn Arlene đổi ca với tôi. Hôm ấy là ngày nghỉ của chị, nhưng Arlene luôn muốn kiếm những món tiền boa hậu hĩnh hơn khi làm việc ca tối, nên chị đồng ý đến quán vào lúc năm giờ chiều. Kỳ thực, lẽ ra Andy đã phải đến lấy xe buổi sáng hôm đó, nhưng anh ta vẫn còn quá váng vất không đủ sức làm trò buộc Portia cho quá giang đến quán Merlotte, quán này thì không nằm trên đường tới đồn cảnh sát. Cô bảo buổi trưa sẽ đến đón anh ở chỗ làm, và cả hai sẽ dùng bữa ở quán. Sau đó thì anh ta có thể lấy xe. Thế nên chiếc Buick, cùng vị hành khách câm lặng của mình, đã phải chờ lâu hơn thời gian cần thiết mới được phát hiện. Tôi đã ngủ khoảng sáu tiếng đêm trước đó, nên cảm thấy trong người khá khỏe khoắn. Hẹn hò với ma cà rồng có thể sẽ làm khó cho sự cân bằng của bạn nếu bạn thực là người sống về ban ngày, như tôi đây này. Tôi giúp mọi người đóng cửa quán, rồi về nhà với Bill trước một giờ sáng. Hai chúng tôi cùng tắm trong bồn tắm nước nóng nhà anh, rồi làm vài chuyện khác nữa, nhưng tôi đã đi ngủ sau hai giờ một chút, và mãi đến gần chín giờ sáng mới thức dậy. Lúc đó thì Bill đã xuống lòng đất từ lâu rồi. Tôi uống thật nhiều nước, nước cam cùng một viên vitamin tổng hợp và một viên bổ sắt vào bữa sáng, đó là chế độ dinh dưỡng của tôi kể từ khi Bill bước vào đời tôi và mang theo (cùng với tình yêu, trò phiêu lưu, lẫn sự phấn khích) mối đe dọa triền miên của chứng thiếu máu. Thời tiết đang dần trở nên mát mẻ hơn, tạ ơn Chúa, khi tôi ngồi trước hiên nhà Bill, mặc áo len móc dài tay và chiếc quần dài màu đen mà chúng tôi vẫn mặc làm việc ở quán Merlotte mỗi khi trời quá lạnh không thể mặc quần soóc được. Chiếc áo sơ mi đánh gôn trắng của tôi có thêu chữ BAR MERLOTTE’S bên ngực trái. Khi đang đọc lướt qua tờ báo buổi sáng, một phần tâm trí khác của tôi giúp tôi nhận ra một thực tế rõ ràng là cỏ mọc không nhanh như trước kia. Có vẻ như một vài ngọn cỏ bắt đầu ngả màu dần. Tình trạng sân bóng trong trường trung học chắc hẳn sẽ khá xấu vào tối thứ Sáu tới đây. Mùa hè ở Louisiana cứ dùng dằng mãi không dứt, kể cả ở miền Bắc Louisiana cũng thế. Mùa thu đến rất miễn cưỡng, cứ như thể bất cứ lúc nào mùa thu cũng có thể bỏ cuộc để lại nhường chỗ cái nóng hầm hập của tháng Bảy vậy. Nhưng tôi vốn mẫn cảm, và có thể điểm mặt được những dấu hiệu của mùa thu vào buổi sáng hôm nay. Mùa thu và mùa đông đến có nghĩa là đêm được dài hơn, thời gian ở bên Bill được lâu hơn, và giấc ngủ được thêm vài giờ nữa. Nên tôi đi làm với tâm trạng vui vẻ. Khi thấy chiếc Buick vẫn còn đỗ một mình trước quán bar, tôi nhớ lại chầu rượu say bí tỉ bất thường của Andy tối qua. Phải thú thật rằng, tôi đã mỉm cười khi nghĩ đến cảm giác của anh ta sáng nay. Ngay khi chuẩn bị vòng xe ra đằng sau để đỗ xe cùng với những nhân viên khác, tôi nhác thấy cửa sau của xe Andy mở he hé. Nếu cứ để như vậy thì đèn trần chắc chắn sẽ sáng hoài, phải không nào? Và ắc quy xe anh ta sẽ cạn mất. Và chắc hẳn anh ta sẽ cáu điên lên, rồi phải vào trong quán bar mà gọi xe đến cẩu đi, hoặc nhờ ai đó làm nóng xe cho mình… nên tôi đỗ xe vào bãi rồi ra khỏi xe, cứ để máy nổ. Hóa ra đây lại là một sai lầm tai hại vì lạc quan quá mức. Tôi ẩy cánh cửa vào, nhưng nó chỉ nhích tới có một phân. Thế nên tôi tì cả người vào cánh cửa, nghĩ rằng nó sẽ dập khóa lại và tôi có thể đi làm việc khác. Nhưng một lần nữa, cánh cửa không chịu sập lại. Tôi sốt ruột giật toang cửa ra để xem thứ gì kẹt trong cửa xe. Một luồng hôi thối ùa tràn ra bãi đỗ xe, một mùi hôi thối chết chóc. Tôi nghẹn họng mất hết tinh thần, vì tôi chẳng xa lạ gì với mùi hôi thối ấy. Tôi thò đầu vào trong băng ghế sau của xe, tay bịt chặt miệng, dù rằng làm thế cũng chẳng ngăn được thứ mùi này. “Ôi, trời ơi,” tôi thì thào. “Ôi, chết tiệt.” Lafayette, tay bếp làm một ca ở quán Merlotte, đã bị nhồi vào ghế sau. Trần truồng. Chính bàn chân nhỏ màu nâu của Lafayette với những móng chân sơn màu mận chín đã ngăn không cho cánh cửa đóng sập lại, và chính cái xác của Lafayette đã tạo ra thứ mùi xóc cả óc đó. Tôi vội nhảy phắt ra sau, lẩy bẩy leo vào xe mình rồi lái vòng ra phía sau quán, bấm còi inh ỏi. Sam chạy ra từ phía cửa dành cho nhân viên, tạp dề cột quanh eo. Tôi tắt máy xe và lao bắn ra ngoài nhanh đến nỗi chính bản thân còn không nhận thức được mình đã ra khỏi xe, và tôi ôm choàng lấy anh như một chiếc tất tích điện. “Chuyện gì thế?” Tiếng Sam vang lên trong tai tôi. Tôi ngửa người ra sau ngước nhìn anh, chẳng phải ngước lên quá cao làm gì vì Sam hơi nhỏ con. Mái tóc vàng hoe hoe đỏ của anh lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sớm. Cặp mắt xanh biêng biếc đang mở to khiếp đảm. “Lafayette đó,” tôi nói, bắt đầu thút thít. Khóc lóc thì kỳ cục, ngớ ngẩn và vô tích sự thật, nhưng tôi không kìm lại được. “Anh ấy chết rồi, trong xe của Andy Bellefleur ấy.” Vòng tay của Sam siết chặt sau lưng tôi khi anh lại kéo tôi sát vào lòng. “Sookie, thật tiếc là em đã phải nhìn thấy cảnh ấy,” anh bảo. “Chúng ta sẽ gọi cảnh sát. Lafayette tội nghiệp.” Việc làm đầu bếp ở quán Merlotte không nhất thiết đòi hỏi tay nghề bếp núc cao siêu gì, vì Sam chỉ bán vài món sandwich và khoai tây chiên, nên vị trí này thay người luôn. Nhưng bất ngờ thay, Lafayette lại là người làm việc ở đây được lâu nhất. Lafayette là người đồng tính, đồng tính kiểu hoa hòe hoa hoét, kiểu trang-điểm-và-để-móng-tay-dài. Người dân miền Bắc Louisiana vẫn còn khó chấp nhận được chuyện này hơn dân ở New Orleans, nên tôi ngờ rằng Lafayette, một người da màu, đã phải hứng chịu khó khăn gấp đôi. Mặc cho - hay nhờ vào - những khó khăn đó, anh ấy vẫn luôn vui vẻ, lém lỉnh khôi hài, thông minh, và là đầu bếp giỏi thực thụ. Anh ấy đã chế một loại xốt đặc biệt để ướp hamburger, và người ta gọi món burger Lafayette khá thường xuyên. “Anh ấy có người thân nào ở đây không nhỉ?” tôi hỏi Sam. Chúng tôi tự giác rời nhau ra và rảo bước về phía tòa nhà, vào văn phòng của Sam. “Anh ấy có một tay anh em họ nào đó,” Sam vừa nói vừa nhấn 9-1-1. “Làm ơn đến quán Merlotte trên đường Hummingbird ngay,” anh nói với người trực tổng đài. “Có một xác chết đàn ông trong xe ở đây. Phải, trong bãi đỗ xe, ngay trước cửa quán. À, chị cũng làm ơn báo cho Andy Bellefleur đi. Xe của anh ta đấy.” Từ chỗ đang đứng, tôi có thể nghe thấy tiếng trả lời bai bải ở phía đầu dây bên kia. Danielle Gray và Holly Cleary, hai phục vụ bàn ca sáng, bước vào qua cửa sau, cười hô hố. Hai cô này đều đã ly dị lúc hai lăm hai sáu tuổi, là bạn với nhau từ thuở thiếu thời, có vẻ như đều khá hài lòng với công việc này miễn là được làm việc cùng nhau. Holly có một cậu con trai năm tuổi đang học mẫu giáo, còn Danielle có một cô con gái bảy tuổi và một cậu con trai chưa đến tuổi đi học để ở nhà cho bà trông khi cô ấy đến quán Merlotte làm việc. Tôi chẳng bao giờ gần gũi được với hai người phụ nữ này - dù rằng họ cũng sàn sàn tuổi tôi - bởi họ luôn chăm chắm quan tâm tới nhau mà thôi. “Có chuyện gì vậy?” Danielle hỏi khi cô ta nhìn thấy mặt tôi. Khuôn mặt choắt và đầy tàn nhang của cô ta lập tức trở nên lo lắng. “Sao xe của Andy ở trước cửa quán vậy?” Holly hỏi. Có thời cô ấy đã cặp kè với Andy Bellefleur, tôi chợt nhớ ra. Holly có mái tóc vàng tém ngắn lòa xòa quanh mặt như những cánh hoa cúc dại héo rũ, và làn da đẹp nhất mà tôi từng thấy. “Anh ta ngủ qua đêm trong xe à?” “Không phải,” tôi đáp, “mà là người khác kia.” “Ai?” “Lafayette ở trong xe.” “Andy để một tay lập dị da đen ngủ trong xe của mình sao?” Câu này của Holly, người khi nào cũng thẳng thừng vô duyên. “Chuyện gì đã xảy ra với anh ta thế?” Câu này của Danielle, người thông minh hơn trong hai cô. “Tụi này không biết nữa,” Sam đáp. “Cảnh sát đang trên đường đến đây.” “Ý anh là,” Danielle nói, thật chậm rãi từng chữ một, “anh ta đã chết.” “Phải,” tôi bảo cô ta. “Đó chính xác là ý của tụi này.” “Này, một giờ nữa là chúng ta phải mở cửa rồi,” Holly chống tay lên bờ hông tròn trịa của mình. “Chúng ta sẽ xử lý chuyện này ra sao đây? Nếu cảnh sát cho chúng ta mở cửa, ai sẽ làm bếp chứ? Mọi người vào quán, họ sẽ muốn dùng bữa trưa.” “Tốt hơn là cứ chuẩn bị sẵn sàng đi, để đề phòng thôi,” Sam nói. “Dù tôi đang nghĩ là mãi đến chiều mình mới được phép mở cửa kia.” Anh vào văn phòng để bắt đầu gọi cho mấy tay đầu bếp thay thế. Thật lạ lẫm khi phải làm những việc chuẩn bị thường ngày trước khi mở cửa quán, cứ như thể Lafayette sẽ đi vào bất cứ lúc nào cùng một câu chuyện về buổi tiệc nào đó mà anh ấy đã tham dự, như mới vài ngày trước đây anh cũng đã đi vào như thế. Tiếng còi hụ của xe cảnh sát vang vọng từ con đường chạy ngang qua trước quán Merlotte. Tiếng bánh xe nghiến lạo xạo trên bãi xe rải sỏi của Sam. Đến khi chúng tôi hạ hết ghế xuống, bày biện bàn ăn, cuộn thêm vài bộ dao nĩa dự phòng vào khăn ăn để sẵn sàng thay thế cho những bộ dao nĩa đã được dùng đến, thì cảnh sát bước vào. Quán Merlotte nằm ngoài phạm vi thị trấn, nên viên cảnh sát trưởng địa phương, Bud Dearborn, sẽ đảm trách vụ này. Bud Dearborn là một người bạn rất thân của ba tôi trước kia, giờ đây mái tóc đã điểm bạc. Ông có khuôn mặt bèn bẹt, như người mang mặt chó Bắc Kinh, và đôi mắt nâu mờ đục. Khi ông bước vào cửa trước quán, tôi nhận ra Bud vẫn còn đang đi đôi bốt nặng nề và đội chiếc mũ lưỡi trai đội bóng Saints. Chắc hẳn ông bị gọi đến khi vẫn đang làm việc ngoài nông trại. Bud đi cùng Alcee Beck, viên thanh tra da màu duy nhất trong lực lượng cảnh sát địa phương. Da Alcee đen đến nỗi chiếc sơ mi trắng của anh ta sáng lóa lên vì tương phản. Chiếc cà vạt được thắt ngay ngắn, bộ vét hết sức chỉnh tề. Còn đôi giày da thì được đánh bóng loáng lấp lánh. Bud và Alcee thay phiên nhau coi quản trong vùng… ít nhất thì cũng có vài người quan trọng hơn để giữ cho khu vực này còn hoạt động. Mike Spencer, giám đốc công ty mai táng kiêm nhân viên pháp y của địa phương, cũng là người có vai vế trong địa phương, là bạn thân của Bud. Tôi sẵn sàng đánh cuộc rằng lúc này Mike đã ra ngoài bãi xe, tuyên bố Lafayette tội nghiệp đã chết. Bud Dearborn hỏi, “Ai là người phát hiện ra cái xác?” “Tôi đây.” Bud và Alcee liếc nhìn nhau đầy ẩn ý và bước về phía tôi. “Sam à, bọn tôi mượn văn phòng của cậu được chứ?” Bud hỏi. Không cần đợi Sam trả lời, ông ta hất đầu ra dấu cho tôi đi vào. “Chắc chắn rồi, thẳng vào trong ấy đấy,” ông chủ của tôi đáp khô khốc. “Em ổn chứ, Sookie?” “Không sao đâu mà, Sam.” Tôi không chắc điều này có thật hay không, nhưng Sam có phản ứng kiểu gì với cái yêu cầu này thì cũng gặp rắc rối hết, vô ích thôi. Mặc dù Bud ra dấu cho tôi ngồi xuống, tôi lắc đầu khi ông ta và Alcee an vị trên hai cái ghế trong văn phòng. Bud, tất nhiên là ngồi trên cái ghế to bành của Sam, còn Alcee thì giành lấy chiếc ghế phụ vẫn còn ngon, chiếc ghế vẫn còn lại chút ít nệm lót ấy. “Kể cho chúng tôi nghe về lần cuối cùng cô gặp Lafayette còn sống đi,” Bud gợi ý. Tôi suy nghĩ. “Anh ấy không làm việc tối qua,” tôi nói. “Mà là Anthony. Anthony Bolivar.” “Ai thế nhỉ?” Vầng trán rộng của Alcee nhăn lại. “Không nhận ra cái tên đó.” “Anh ta là bạn của Bill. Anh ta đang lang bạt qua vùng này, và cần một công việc. Anh ta có kinh nghiệm.” Anh ta đã làm việc tại quán ăn trong thời kỳ Đại Khủng hoảng. “Ý cô là tay đầu bếp tạm thời ở đây là một ma cà rồng? “Thì sao chứ?” tôi hỏi lại, khóe miệng cong lên ương bướng, lông mày nhíu lại, và tôi biết rằng khuôn mặt mình đang dần toát lên vẻ giận dữ. Tôi đang cố hết sức để không phải đọc tâm trí của họ, cố bằng mọi giá để hoàn toàn không thông tâm gì cả, nhưng việc này không dễ dàng. Bud Dearborn thì thường thường thôi, nhưng Alcee thì phóng suy nghĩ ra cứ như kiểu ngọn hải đăng truyền phát tín hiệu vậy. Ngay lúc này đây anh ta đang tỏ vẻ ghê tởm và kinh sợ. Trong thời gian trước khi gặp Bill, và nhận ra anh quý trọng khiếm khuyết của tôi - là tài năng, như cách anh nhìn nhận - tôi đã cố hết sức để dối gạt bản thân và lừa phỉnh mọi người rằng tôi thực sự không biết “đọc” tâm trí. Nhưng kể từ khi Bill giải thoát tôi khỏi lao tù nhỏ bé mà tôi tự xây lên cho bản thân, thì tôi đã thực tập và trải nghiệm, trong sự khuyến khích của Bill. Vì anh, tôi đã mô tả thành lời những thứ mà mình đã và đang cảm nhận suốt hàng mấy năm trời. Có vài người gửi đi những thông điệp hết sức mạnh mẽ, rõ ràng, như Alcee đây. Còn đâu thì hầu hết mọi người lúc này lúc khác, như Bud Dearborn vậy. Theo như những gì tôi biết thì chuyện này phụ thuộc rất nhiều vào việc cảm xúc của họ mãnh liệt đến đâu, mức độ tỉnh táo của họ ra sao, thời tiết như thế nào. Còn có vài người thì kín như bưng đến nỗi gần như không thể biết được họ đang nghĩ gì. Có lẽ tôi có thể đọc được tâm trạng của họ, nhưng tất cả chỉ có vậy. Tôi đã thừa nhận rằng nếu được chạm vào người khác khi cố đọc tâm trí họ, thì bức tranh trở nên sáng sủa hơn - như sử dụng đường truyền cáp sau khi dùng ăng ten ấy. Và tôi cũng phát hiện ra rằng nếu mình “gửi” những hình ảnh thư giãn cho người ta, thì tôi có thể len lỏi vào tâm trí của họ dễ như bỡn. Tôi thì không muốn thâm nhập vào suy nghĩ của Alcee Beck chút nào. Nhưng tôi đang hoàn toàn miễn cưỡng đón nhận bức tranh toàn cảnh về phản ứng mê tín đến độ cực đoan của Alcee khi anh ta nhận ra có một ma cà rồng làm việc ở quán Merlotte, về nỗi khiếp sợ của anh ta khi phát hiện ra tôi là người phụ nữ mà anh ta đã nghe nói đang hẹn hò với ma cà rồng, về lời kết tội từ trong sâu thẳm của anh ta cho rằng tên đồng tính công khai Lafayette là một nỗi ô nhục cho cộng đồng người da màu. Alcee đoán rằng ai đó hẳn là muốn chơi khăm Andy Bellefleur, khi tống xác của một gã đồng tính da màu vào xe của Andy. Alcee đang băn khoăn không rõ Lafayette có bị nhiễm AIDS không, rồi liệu làm sao đấy mà con virút ấy có thấm vào ghế xe Andy và cứ tồn tại ở đó không. Alcee sẽ bán xe ngay, nếu đó là xe của anh ta. Nếu chạm vào Alcee, hẳn là tôi sẽ biết được luôn cả số điện thoại và cỡ áo ngực của vợ anh ta nữa. Bud Dearborn nhìn tôi kỳ kỳ. “Chú vừa nói gì ạ?” tôi hỏi. “Phải. Ta thắc mắc không biết cháu có gặp Lafayette ở đây suốt tối qua không. Anh ta có ghé vào quán uống ẩm gì chăng?” “Cháu chẳng bao giờ gặp anh ấy ở đây cả.” Ngẫm lại chuyện này, thì tôi chẳng bao giờ thấy Lafayette uống rượu. Lần đầu tiên, tôi mới nhận ra rằng mặc dù đám người đến ăn trưa có cả người da màu và người da trắng, nhưng những vị khách đến quán buổi tối hầu như rặt là người da trắng. “Anh ta hay tụ tập ở đâu?” “Cháu chịu.” Tất cả những câu chuyện Lafayette kể đều được thay đổi tên họ để bảo vệ danh tính những người vô tội. À ừ, thực ra, là những kẻ có tội thì đúng hơn. “Lần cuối cùng cháu gặp anh ta là khi nào?” “Đã chết, nằm trong xe.” Bud cáu kỉnh lắc đầu. “Lúc còn sống cơ, Sookie à.” “Hừmm, cháu nghĩ là… cách đây ba ngày. Anh ấy vẫn ở đây khi cháu đến làm ca của mình, và bọn cháu chào nhau. À, anh ấy có kể cho cháu nghe về một buổi tiệc mà mình đã đến dự.” Tôi cố nhớ lại chính xác những lời của anh. “Anh ấy bảo đã đến một ngôi nhà nơi diễn ra đủ kiểu làm tình hoang đàng trụy lạc.” Hai người đàn ông há hốc nhìn tôi. “Vâng, anh ấy đã bảo thế đấy! Cháu cũng không biết chuyện đó có bao nhiêu phần sự thật.” Tôi hình dung ra khuôn mặt của Lafayette khi anh ta kể tôi nghe chuyện này, cái cách anh ta điệu đà đặt ngón tay ngang môi ngụ ý rằng anh ta sẽ không nói cho tôi biết bất kể cái tên hay địa điểm nào cả. “Cháu không nghĩ là người khác phải biết chuyện này à?” Bud Dearborn trông bàng hoàng. “Đó là một bữa tiệc riêng tư. Sao cháu phải kể cho người khác chứ?” Nhưng kiểu tiệc tùng như thế không được phép diễn ra trong địa phận của hai người này. Hai người đàn ông vẫn chằm chằm nhìn tôi. Bud hỏi qua kẽ răng, “Lafayette có kể cho cháu nghe gì về chuyện sử dụng ma túy trong buổi gặp gỡ ấy không?” “Không, theo cháu nhớ thì không.” “Bữa tiệc đó được tổ chức ở nhà người da trắng hay người da đen?” “Da trắng,” tôi đáp, rồi lại ước gì mình đã lấy cớ không biết. Nhưng Lafayette đã thật sự ấn tượng với ngôi nhà - mặc dù không phải vì căn nhà mỹ miều hay to lớn gì. Thế sao anh ấy bị ấn tượng đến thế? Tôi không chắc Lafayette sẽ thấy ấn tượng với những thứ gì, anh đã sinh ra, lớn lên và mãi đến bây giờ vẫn trong cảnh nghèo khó, nhưng tôi chắc chắn rằng anh ấy đã kể về nhà của một người da trắng nào đó, vì anh ấy có nói, “Tất cả ảnh trên tường đều chụp những người trắng như hoa huệ và mỉm cười như cá sấu.” Tôi không kể lời nhận xét đó ra cho đám cảnh sát, và họ cũng không hỏi gì thêm. Rời khỏi văn phòng của Sam, sau khi giải thích lý do trên hết vì sao xe của Andy lại ở trong bãi xe, tôi trở ra đứng sau quầy. Tôi không muốn quan sát những gì đang diễn ra ở bãi đỗ xe, và chẳng có khách hàng nào để phục vụ cả, vì mọi lối vào bãi đỗ xe đã bị cảnh sát chặn hết rồi. Sam đang sắp xếp những chai rượu đằng sau quầy, vừa đi vừa phủi bụi chúng, còn Holly và Danielle đã ngồi phịch xuống một bàn ở khu vực hút thuốc để Danielle có thể hút một điếu. “Mọi chuyện thế nào?” Sam hỏi. “Cũng chẳng có gì nhiều. Họ không thích nghe chuyện Anthony làm việc ở đây, và họ cũng không ưa những gì em kể về bữa tiệc mà Lafayette cứ lải nhải hôm trước ấy. Anh có nghe thấy anh ấy kể với em không? Cái vụ làm tình tập thể ấy?” “Có, anh ta cũng kể mấy chuyện đó với anh nữa. Buổi tối hôm đó với anh ta hẳn là đã lắm. Nếu quả thật là có bữa tiệc kiểu đó.” “Anh nghĩ rằng Lafayette bịa chuyện sao?” “Anh không nghĩ ở Bon Temps lại có nhiều buổi tiệc kiểu tạp chủng, lưỡng tính thế đâu,” anh đáp. “Nhưng đó chẳng qua là vì không có ai mời anh cả thôi,” tôi nói thẳng ra. Tôi băn khoăn không hiểu liệu mình có biết tí gì về những chuyện diễn ra nơi thị trấn nhỏ bé này không. So ra với tất cả mọi người ở Bon Temps thì tôi phải là người biết rõ mọi thứ từ trong ra ngoài, vì mọi thông tin ít nhiều gì cũng sẵn ra đấy, nếu tôi muốn bới móc tìm hiểu, “Ít nhất thì, theo em đây là lý do chứ nhỉ?” “Ừ đấy là lý do đấy,” Sam đáp, khẽ mỉm cười với tôi trong lúc chùi một chai whiskey. “Em nghĩ thiệp mời của em cũng bị thất lạc ở bên bưu điện mất rồi.” “Em có nghĩ rằng Lafayette trở lại đây tối hôm qua là để kể cho anh hoặc em nghe về bữa tiệc đó không?” Tôi nhún vai. “Có lẽ anh ta chỉ hẹn gặp ai đó ở bãi đỗ xe thôi. Dù sao thì, ai cũng biết quán Merlotte ở đâu mà. Mà anh ấy đã lấy lương chưa?” Đã cuối tuần rồi, thường thì đây là lúc Sam trả tiền cho bọn tôi. “Chưa. Có lẽ anh ấy đến cũng vì chuyện đó, nhưng anh định hôm sau mới đưa cho anh ta. Hôm nay này.” “Em thắc mắc không biết ai đã mời Lafayette đi dự tiệc.” “Câu hỏi hay đấy.” “Anh không nghĩ rằng anh ta ngu đến nỗi cố tống tiền ai đó chứ nhỉ?” Sam cọ cọ lớp gỗ giả trên mặt quầy bằng một chiếc giẻ sạch. Quầy đã sạch bóng lên rồi, nhưng anh vẫn cứ thích luôn chân luôn tay, tôi nhận thấy thế. “Anh không nghĩ vậy,” anh nói sau một hồi suy nghĩ. “Không thể nào, họ hẳn đã chọn nhầm người rồi. Em biết Lafayette tám đến cỡ nào mà. Anh ta không chỉ kể cho chúng ta nghe việc mình đi đến một buổi tiệc như thế - anh dám cá là anh ta không được phép kể - mà còn muốn lợi dụng buổi tiệc để làm tiếp những chuyện mà mấy người khác, à ừ, mấy người tham gia ấy, sẽ phải khó chịu.” “Kiểu như là, giữ liên lạc với những người cũng từng tham gia bữa tiệc ấy? Nháy mắt đưa tình với họ ở chốn đông người?” “Đại loại như thế.” “Em nghĩ rằng nếu ta có làm tình với ai đó, hoặc xem họ làm tình với nhau, ta sẽ cảm thấy rằng mình ngang hàng với họ.” Tôi không quả quyết lắm khi nói ra điều này, vì không có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực ấy lắm, nhưng Sam lại đang gật gù. “Điều Lafayette mong muốn nhất là được mọi người chấp nhận bản chất con người mình,” anh nói, và tôi buộc phải đồng ý. Mời các bạn đón đọc Ma Cà Rồng Ở Dallas của tác giả Charlaine Harris & Thiện Hoàn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhật Ký Á Thần - Rick Riordan
Cuốn ngoại truyện 3.5 của bộ Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus. Nhật Ký Á Thần là phần phụ kèm theo của series truyện Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus, vẫn đem đến cho người đọc sự lôi cuốn, hồi hộp và không kém phần gây cấn với những câu chuyện phiêu lưu giả tưởng cùng những nhân vật huyền bí. Những mẩu truyện ngắn trong cuốn sách này thật sự rất thú vị và tràn ngập tình yêu dành cho các á thần. Cả tập truyện bao gồm 4 câu chuyện nhỏ như: Nhật ký của Luke Castellan, Percy Jackson và cây trượng của thần Hermes, Leo Valdez và cuộc tìm kiếm đến Buford và Đứa con của pháp thuật. Với giọng văn hài hước và đầy bất ngờ, Rick Riordan đã dẫn chúng ta tới những cuộc phiêu lưu đầy kì thú, tuy không gắn liền quá sâu sắc với cốt truyện chính của toàn bộ Series nhưng phần này giúp chúng ta hiểu rõ hơn nhiều chi tiết trong truyện. *** Rick Riordan là tác giả có sách bán chạy nhất do tờ New York Times bình chọn cho bộ truyện dành cho trẻ em: Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus và bộ Tiểu thuyết trinh thám dành cho người lớn Tres Navarre. Ông có 15 năm giảng dạy môn tiếng Anh và Lịch sử ở các trường trung học cơ sở công và tư ở San Francisco Bay Area ở California và Texas. Ông cũng từng nhận giải thưởng Giáo viên ưu tú đầu tiên của trường năm 2002 do Saint Mary’s Hall trao tặng. Rick Riordan hiện đang sống ở San Antonio, Texas cùng vợ và hai con trai. Ông dành toàn bộ thời gian cho sáng tác. Bộ tiểu thuyết Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus đã bán được hơn 30 triệu bản trên toàn thế giới, chiếm 153 tuần trong danh sách Sách bán chạy nhất trên New York Times cho thể loại sách thiếu nhi. Bộ sách đã bán bản quyền cho 35 nước. Trong Các vị thần Hy Lạp của Percy Jackson, con trai của thần Poseidon đã đưa thêm tài thuật của mình vào những câu chuyện kinh điển - và bỏ qua kiểu châm biếm mỉa mai. Cậu giải thích cách thế giới này được tạo thành, rồi chia sẻ với bạn đọc cảm nhận của bản thân về thần này thần kia ở thời cổ đại, từ Apollo cho đến Zeus. Percy chẳng kiêng dè giữ kẽ gì. “Và nếu các bạn thích đủ các loại dối trá, trộm cắp, chơi xấu, ăn thịt người, thì hãy đọc tiếp nhé, bởi vì đây nhất định là Thời đại hoàng kim cho mấy trò này.” Cuốn sách sẽ mang đến cho bạn đọc những kiến thức sâu xa về thế giới của các vị thần Hy Lạp. *** TÊN TÔI LÀ LUKE. Thành thật mà nói, tôi không biết liệu mình có thể tiếp tục duy trì cuốn nhật ký này không nữa. Cuộc sống của tôi khá điên rồ. Nhưng tôi đã hứa với ông lão đó sẽ cố hết sức. Sau những gì đã xảy ra trong ngày hôm nay… ừm, tôi mang ơn ông ấy. Hai tay tôi đang run rẩy khi tôi ngồi đây thực hiện nhiệm vụ canh gác. Tôi không thể vứt bỏ các hình ảnh khủng khiếp đó ra khỏi đầu mình. Tôi còn vài tiếng cho đến khi các cô gái tỉnh dậy. Có lẽ nếu viết ra, tôi sẽ quên được câu chuyện đó. Chắc tôi nên bắt đầu với chuyện con dê có phép thuật. Trong ba ngày, Thalia và tôi đã đi theo một con dê khắp Virginia. Tôi không rõ lý do vì sao. Với tôi, con dê đó trông chẳng có gì đặc biệt, nhưng Thalia vô cùng kích động, trước đây tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô ấy như thế. Cô ấy thuyết phục tôi rằng con dê là kiểu dấu hiệu nào đó từ cha cô ấy, thần Zeus. Ừ, thế đấy, cha cô ấy là một vị thần Hy Lạp. Cha tôi cũng vậy. Chúng tôi là các á thần. Nếu bạn nghĩ điều đó nghe thật bảnh thì hãy nghĩ lại đi nhé. Á thần là các nam châm thu hút quái vật. Tất cả những con yêu quái gớm ghiếc của Hy Lạp cổ xưa như Ba Nữ thần Báo Thù, các yêu quái mình người cánh chim cũng như các gorgon vẫn còn tồn tại và chúng nhận ra các anh hùng như chúng tôi từ cách xa hàng dặm. Vì điều này nên Thalia và tôi, vì sự sống còn của chính mình, đã dành hết thời gian để mà chạy trốn. Cha mẹ có năng lực siêu nhiên của chúng tôi thậm chí còn không thèm nói chuyện với chúng tôi chứ đừng nói gì đến chuyện giúp đỡ. Tại sao ư? Nếu giải thích, ắt tôi sẽ phải viết đầy cuốn nhật ký này mất, vậy nên tôi sẽ kể tiếp về con dê đây. Dẫu sao thì con dê đó hẳn là đã xuất hiện một cách ngẫu nhiên, luôn ở phía xa xa. Mỗi một khi chúng tôi cố đuổi bắt, con dê sẽ biến mất và tái xuất hiện ở nơi xa hơn, như thể nó đang dẫn chúng tôi đến một nơi nào đó. Nếu là tôi, nhất định tôi sẽ mặc kệ nó cho rồi. Thalia sẽ không giải thích lý do cô ấy nghĩ việc đuổi theo con dê là chuyện quan trọng, nhưng cô ấy và tôi đã cùng nhau phiêu lưu đủ lâu để tôi có thể tin vào sự phán đoán của cô ấy. Vì thế chúng tôi đi theo con dê đó. Một sớm nọ, chúng tôi đuổi sau nó đến Richmond. Chúng tôi lê bước qua cây cầu hẹp bắc ngang một con sông nước màu xanh lục chảy lờ đờ, băng qua các công viên cây cối rậm rạp và các nghĩa trang Nội Chiến. Khi đến gần trung tâm thành phố hơn, chúng tôi len lỏi qua các khu dân cư im lìm với những ngôi nhà ở liên kế(1) có mái ngói đỏ nằm san sát, những mái hiên có cột trắng và các khu vườn nhỏ xíu xiu. Tôi hình dung ra cảnh tất cả các gia đình bình thường đang sống trong những ngôi nhà ấm cúng ấy. Tôi tự hỏi việc có một ngôi nhà, biết nơi dừng chân ăn bữa ăn kế tiếp của mình ở đâu, và không phải lo lắng về việc sắp bị những con quái vật xơi tái mỗi ngày là như thế nào. Tôi đã bỏ nhà đi khi tôi chỉ mới lên chín – cách đây năm năm. Hầu như tôi không nhớ cái cảm giác được ngủ trên một chiếc giường thật sự là sao nữa. Sau khi đi thêm một dặm nữa, chân tôi như rũ hết cả ra trong giày. Tôi hy vọng chúng tôi có thể tìm thấy nơi nghỉ tạm, hoặc có lẽ có được ít thức ăn. Thế nhưng, chúng tôi lại bắt gặp con dê nọ. Con đường chúng tôi đang đi kéo dài đến tận một công viên hình tròn thật lớn. Các biệt thự xây bằng gạch đỏ đứng đối diện với bùng binh một cách oai vệ. Nằm ở tâm vòng tròn, phía trên bệ đá cẩm thạch trắng cao sáu mét, là bức tượng một người đàn ông đang cưỡi ngựa bằng đồng. Con dê đó đang gặm cỏ cạnh bệ tượng. “Nấp đi!” Thalia kéo tôi vào phía sau một luống hoa hồng. “Chỉ là một con dê thôi,” tôi nói lần thứ một triệu. “Sao…?” “Nó đặc biệt lắm,” Thalia khăng khăng. “Một trong số các con vật thiêng của cha em. Tên nó là Amaltheia.” Trước đây cô ấy chưa bao giờ nhắc đến tên con dê. Tôi tự hỏi vì sao giọng cô ấy lại căng thẳng đến thế. Thalia hiếm khi sợ thứ gì. Cô chỉ mới mười hai tuổi, nhỏ hơn tôi hai tuổi, nhưng nếu nhìn thấy cô đi trên phố, nhất định bạn sẽ nhường đường cho. Cô mang đôi bốt da màu đen, vận quần jeans đen và áo khoác da sờn cũ có nút áo mang đậm phong cách rock. Mái tóc đen được cắt tỉa lởm chởm y hệt lông thú hoang. Đôi mắt xanh thẫm nhìn xoáy vào bạn như thể đang cân nhắc cách tốt nhất để đánh bạn nhừ tử. Nếu có thứ gì khiến cô sợ hãi, tôi phải nhìn nhận thứ đó một cách nghiêm túc. “Vậy em từng nhìn thấy con dê đó rồi sao?” tôi hỏi. Cô miễn cưỡng gật đầu. “Ở Los Angeles, vào cái đêm em bỏ nhà đi. Amaltheia đã dẫn đường cho em ra khỏi thành phố. Và sau đó, cái đêm mà anh và em gặp nhau ấy… nó đưa em đến gặp anh.” Tôi trố mắt nhìn Thalia. Theo như tôi biết, cuộc gặp gỡ của chúng tôi là một sự tình cờ. Thật vậy, chúng tôi đã đâm sầm vào nhau trong một cái hang rồng phía ngoài Charleston, và trở thành một đội với mục đích sống còn. Thalia chưa bao giờ nhắc đến con dê. Thalia không thích kể về cuộc sống lúc trước của cô ở Los Angeles. Tôi tôn trọng cô nên không hỏi gì nhiều. Tôi biết mẹ cô từng phải lòng thần Zeus. Cuối cùng thần Zeus đã bỏ rơi bà ấy, như các vị thần vẫn thường làm. Mẹ cô tức giận đến mức mất cả lý trí, cứ say xỉn và làm những việc điên rồ - tôi không biết rõ chi tiết – cho đến khi Thalia quyết định bỏ nhà ra đi. Nói cách khác, quá khứ của cô khá là giống của tôi. Cô ấy run rẩy hít thật sâu. “Anh Luke này, mỗi khi Amaltheia xuất hiện là sẽ có chuyện quan trọng sắp xảy ra… chuyện gì đó nguy hiểm. Nó giống như một lời cảnh báo từ thần Zeus, hoặc là một chỉ dẫn.” “Về cái gì?” “Em không biết… nhưng nhìn kìa.” Thalia chỉ tay về phía bên kia đường. “Lần này nó sẽ không biến mất. Ắt hẳn chúng ta sắp đến gần nơi nó đang dẫn lối.” Thalia nói đúng. Con dê chỉ đang đứng yên đấy, cách nơi họ nấp chưa đến một trăm mét, nhàn nhã gặm cỏ cạnh bệ đài tưởng niệm. Tôi không rành về gia súc gia cầm, nhưng trông Amaltheia đúng thực là kỳ lạ khi chúng tôi ở khoảng cách gần hơn. Hai sừng trên đầu nó xoắn như sừng cừu đực, nhưng bầu sữa lại căng tròn y hệt của dê cái. Và bộ lông xám bờm xờm kia nữa… có phải nó đang phát sáng không? Những dải ánh sáng hình như đang lượn lờ quanh con dê như một đám mây làm từ đèn nê-ông, khiến nó trông mờ mờ ảo ảo và đầy vẻ ma quái. Có hai chiếc xe đi vòng quanh bùng binh, nhưng chẳng ai chú ý đến con dê phóng xạ cả. Điều đó không làm tôi ngạc nhiên. Có vài kiểu ngụy trang ma thuật khiến con người không nhìn thấy diện mạo thật sự của lũ quái vật và các vị thần. Thalia và tôi không chắc sức mạnh đó được gọi là gì và hoạt động như thế nào, nhưng nó có tác động khá mạnh. Người phàm có thể nhìn con dê thành một con chó đi lạc, hoặc có thể họ chẳng thấy gì cả. Thalia chụp lấy cổ tay tôi. “Đi thôi. Chúng ta thử nói chuyện với nó đi.” “Đầu tiên là chúng ta trốn con dê,” tôi nói. “Giờ em muốn đi nói chuyện với nó sao?” Thalia lôi tôi ra khỏi bụi hồng và kéo tôi băng qua đường. Tôi không kháng nghị. Khi Thalia có ý tưởng nào đó trong đầu, bạn chỉ còn cách nhất trí tuân theo mà thôi. Cô ấy luôn làm theo ý mình. Ngoài ra, tôi không thể để cô đi một mình. Thalia đã cứu mạng tôi rất nhiều lần. Cô ấy là người bạn duy nhất của tôi. Trước khi chúng tôi gặp nhau, tôi một mình đi đây đi đó trong nhiều năm, cô độc và khổ sở. Thỉnh thoảng tôi có kết bạn với người phàm, nhưng hễ tôi kể cho họ nghe sự thật về mình, họ đều không hiểu. Tôi thú nhận rằng mình là con trai của thần Hermes, sứ giả đưa tin bất tử với đôi giày xăng-đan có cánh. Tôi giải thích rằng quái vật và các vị thần Hy Lạp là có thực và vẫn hiện hữu khắp nơi trong thế giới hiện đại. Sau đó những người bạn trần tục của tôi sẽ nói, “Nghe bảnh nhỉ! Tôi ước gì mình cũng là một á thần!” Như thể chuyện tôi kể là một kiểu trò chơi nào đó. Tôi luôn kết thúc bằng việc bỏ đi. Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Á Thần của tác giả Rick Riordan.
Charlie Bone và Hiệp Sĩ Đỏ - Jenny Nimmo
Ngày xửa ngày xưa, người ta đồn có một ông Vua Đỏ vì ông hay mặc một cái áo choàng màu đỏ tươi, và trên khiên của ông có hình mặt trời đỏ rực. Ông là một phù thủy phi thường. Mười đứa con ông, đứa nào cũng được thừa hưởng một phần nhỏ quyền năng ấy. Nhưng khi vợ nhà vua qua đời, có năm đứa trở nên độc ác, và năm đứa còn lại đã từ bỏ lâu đài của người cha mãi mãi. Quyền năng lạ lùng và đa dạng của Vua Đỏ được truyền cho các hậu duệ của ông. Nhiều khi người được thừa hưởng đó cũng không hiểu những thứ này từ đâu ra. Một trong những kẻ "may mắn" đó chính là Charlie Bone, và vài đứa trẻ mà cậu gặp tại học viện Bloor - nơi dành cho những đứa bé có tài phép. Đằng sau bốn bức tường xám, dữ tợn của học viện Bloor, những bí ẩn đen tối nhất dần được hé mở và cuộc chiến giữa hai phe thiện ác của các hậu duệ Vua Đỏ bắt đầu. *** Những kẻ độc ác ở học viện Bloor đang triệu tập thêm nhiều đồng minh hùng mạnh hơn bao giờ hết. Đồng bọn của chúng đang chiếm lĩnh thành phố và xua đuổi dân cư. Cuộc chiến được đẩy lên đến đỉnh điểm khi quán Cà Phê Thú Kiểng bị đóng cửa, Billy bị kẹt lại trong xứ sở Badlock, một người bạn lại bị gia đình Bloor chế ngự. Charlie sẽ phải đối đầu với thế lực độc ác như thế nào? Nguồn hy vọng duy nhất giờ đây chỉ còn có thể trông chờ vào Hiệp sĩ Đỏ bí ẩn... Hồi cuối của câu chuyện sẽ như thế nào, hãy cùng đón đọc quyển sách cuối cùng trong bộ truyện pháp thuật về cậu bé Charlie Bone và những người bạn các bạn nhé. *** Bộ Charlie Bone gồm có:​ Charlie Bone Tập 1: Lúc Nửa Đêm  Charlie Bone Tập 2: Charlie Bone Và Quả Cầu Xoắn Thời Gian Charlie Bone Tập 3: Charlie Bone Và Cậu Bé Vô Hình Charlie Bone Tập 4 : Charlie Bone Và Lâu Đài Gương Charlie Bone Tập 5 : Charlie Bone Và Nhà Vua Ẩn Mình     Charlie Bone Tập 6 : Charlie Bone Và Sói Hoang     Charlie Bone Tập 7 : Charlie Bone Và Cái Bóng Xứ Badlock Charlie Bone Tập 8 : Charlie Bone Và Hiệp Sĩ Đỏ Tác giả: Jenny Nimmo là một tiểu thuyết gia người Anh nổi tiếng chuyên viết về đề tài phiêu lưu kì bí dành cho thiếu nhi. Bà sinh ngày 15 tháng 1 năm 1944 tại Windsor, Anh. Hiện bà đang sống cùng chồng tại xứ Wales, Anh. Tình yêu dành cho sách của Jenny Nimmo đã được bộc lộ từ rất sớm. Năm 9 tuổi, bà đã đọc hết tất cả các quyển sách trong thư viện dành cho học sinh cấp một của trường và xin phép nhà trường thẻ thư viện cho học sinh cấp hai. Jenny cũng sớm nhận ra rằng viết truyện cũng thú vị không kém gì đọc truyện, vì thế bà thường tự sáng tác và kể lại cho bạn học nghe những câu chuyện rùng rợn ở phòng ngủ chung trong ngôi trường nội trú bà đã theo học từ năm 6 tuổi. Trước khi trở thành nhà văn, Jenny Nimmo làm việc trong lĩnh vực truyền hình. Khi bà tự viết kịch bản cho chương trình của mình, nhà sản xuất đã gợi ý cho Jenny viết thêm để biến nó trở thành một quyển tiểu thuyết. Và đó chính là quyển tiểu thuyết đầu tiên trong sư nghiệp của Jenny Nimmo:The Bronze of Trumpeter, xuất bản năm 1975. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Jenny Nimmo là loạt truyện về cậu bé có phép thuật thần bí Charlie Bone(tập đầu tiên được phát hành vào năm 2002). Loạt truyện này có mặt trong danh sách bestseller của New York Times và Book Sense. Truyện bán được hơn 2 triệu bản trên toàn thế giới, và đã được dựng thành phim. *** Thành phố vẫn chưa hoang vắng hoàn toàn. Cảnh sát Singh và cảnh sát Wood đến vùng đồng hoang ngay sau khi trận chiến chấm dứt. Thêm nhiều cảnh sát nữa đến. Xe cứu thương đậu ở rìa cỏ và nhân viên cứu hộ chạy ùa đến chỗ những thương binh. Chú Lyell Bone được khiêng lên một chiếc băng ca và được đưa vô một xe cứu thương. Charlie được phép đi cùng ba nó. Ngay trước khi cửa xe đóng lại, cảnh sát Singh đến bên Charlie và hỏi thăm tình trạng của nó thế nào. “Trông cậu bầm dập đầy mình đấy, cậu trẻ”, ông nói. Rồi ông nhìn xoáy vô Charlie như thể ông thích thú đặc biệt về nó lắm “Cháu không sao”, Charlie nói. “Cháu chỉ lo cho ba cháu thôi. Và cả mẹ cháu nữa. Mẹ cháu chắc chắn phải biết những chuyện đã xảy ra” “Biết chứ”, cảnh át Singh nói. “Chú vừa mới gọi điện cho cô ấy xong” Charlie bối rối. “Chú biết mẹ cháu ở đâu à? Nhưng sao chú biết?” “À”, ông cảnh sát trả lời. “Chính mẹ cháu sẽ phải trả lời câu hỏi này của cháu” ... Mời các bạn đón đọc Charlie Bone và Hiệp Sĩ Đỏ của tác giả Jenny Nimmo.
Charlie Bone và Cái Bóng Xứ Badlock - Jenny Nimmo
Ngày xửa ngày xưa, người ta đồn có một ông Vua Đỏ vì ông hay mặc một cái áo choàng màu đỏ tươi, và trên khiên của ông có hình mặt trời đỏ rực. Ông là một phù thủy phi thường. Mười đứa con ông, đứa nào cũng được thừa hưởng một phần nhỏ quyền năng ấy. Nhưng khi vợ nhà vua qua đời, có năm đứa trở nên độc ác, và năm đứa còn lại đã từ bỏ lâu đài của người cha mãi mãi. Quyền năng lạ lùng và đa dạng của Vua Đỏ được truyền cho các hậu duệ của ông. Nhiều khi người được thừa hưởng đó cũng không hiểu những thứ này từ đâu ra. Một trong những kẻ "may mắn" đó chính là Charlie Bone, và vài đứa trẻ mà cậu gặp tại học viện Bloor - nơi dành cho những đứa bé có tài phép. Đằng sau bốn bức tường xám, dữ tợn của học viện Bloor, những bí ẩn đen tối nhất dần được hé mở và cuộc chiến giữa hai phe thiện ác của các hậu duệ Vua Đỏ bắt đầu. *** Tổ tiên của Charlie, ngài Otus người khổng lồ đang lâm nguy - ngài bị tên bá tước Harken gian tà cầm tù trong xứ Badlock và bị một đội quân quỷ lùn canh gác. Charlie phải tìm cách bước vào thế giới trong tranh để cứu ngài. Cùng lúc đó, tại học viện Bloor, trận chiến một mất một còn giữa những đứa trẻ được ban phép đang diễn ra. Phần bảy của bộ truyện sẽ đưa bạn vượt ra khỏi phạm vi của bốn bức tường xám dữ tợn nơi học viện Bloor, đến với những khung chiều không gian và thời gian mới để cùng khám phá những diễn biến tiếp theo của cuộc chiến cam go giữa Charlie và các thế lực hiểm ác đấy. *** Bộ Charlie Bone gồm có:​ Charlie Bone Tập 1: Lúc Nửa Đêm  Charlie Bone Tập 2: Charlie Bone Và Quả Cầu Xoắn Thời Gian Charlie Bone Tập 3: Charlie Bone Và Cậu Bé Vô Hình Charlie Bone Tập 4 : Charlie Bone Và Lâu Đài Gương Charlie Bone Tập 5 : Charlie Bone Và Nhà Vua Ẩn Mình     Charlie Bone Tập 6 : Charlie Bone Và Sói Hoang     Charlie Bone Tập 7 : Charlie Bone Và Cái Bóng Xứ Badlock Charlie Bone Tập 8 : Charlie Bone Và Hiệp Sĩ Đỏ Tác giả: Jenny Nimmo là một tiểu thuyết gia người Anh nổi tiếng chuyên viết về đề tài phiêu lưu kì bí dành cho thiếu nhi. Bà sinh ngày 15 tháng 1 năm 1944 tại Windsor, Anh. Hiện bà đang sống cùng chồng tại xứ Wales, Anh. Tình yêu dành cho sách của Jenny Nimmo đã được bộc lộ từ rất sớm. Năm 9 tuổi, bà đã đọc hết tất cả các quyển sách trong thư viện dành cho học sinh cấp một của trường và xin phép nhà trường thẻ thư viện cho học sinh cấp hai. Jenny cũng sớm nhận ra rằng viết truyện cũng thú vị không kém gì đọc truyện, vì thế bà thường tự sáng tác và kể lại cho bạn học nghe những câu chuyện rùng rợn ở phòng ngủ chung trong ngôi trường nội trú bà đã theo học từ năm 6 tuổi. Trước khi trở thành nhà văn, Jenny Nimmo làm việc trong lĩnh vực truyền hình. Khi bà tự viết kịch bản cho chương trình của mình, nhà sản xuất đã gợi ý cho Jenny viết thêm để biến nó trở thành một quyển tiểu thuyết. Và đó chính là quyển tiểu thuyết đầu tiên trong sư nghiệp của Jenny Nimmo:The Bronze of Trumpeter, xuất bản năm 1975. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Jenny Nimmo là loạt truyện về cậu bé có phép thuật thần bí Charlie Bone(tập đầu tiên được phát hành vào năm 2002). Loạt truyện này có mặt trong danh sách bestseller của New York Times và Book Sense. Truyện bán được hơn 2 triệu bản trên toàn thế giới, và đã được dựng thành phim. *** Bà Amoret Đường đi tới Lâu Đài Gương thật dài và thật khó tìm, nhưng sau chuyến hành trình lần cuối tới đó, Ông cậu Paton đã lập ra bản đồ của lộ trình. Con đường men theo dòng sông rồi thì, tại một ngã tư cách ngoại ô thành phố năm dặm, họ rẽ vô một con đường dọc theo bờ biển. Ngài Otus chưa bao giờ thấy lâu đài đó mặc dù ngài đã nghe nói về nó rất nhiều. "Người ta nói đó là lâu đài đẹp diệu kỳ nhất thế giới," giọng người khổng lồ khẽ rù rì từ thùng xe đằng sau. "Borlath, hoàng tử cả, ghen tị với Amadis tất cả mọi thứ, lại thêm cái bóng châm thêm lửa vào lòng ghen tị của hắn. Tất cả mọi thứ Borlath không thể có, hắn hủy hết." Một quãng dừng thật lâu sau, Charlie hỏi, "Ngài đã sống ở đâu ạ, ngài Otus?" Người khổng lồ cười khà khà. "Ta sinh ra trong một ngôi nhà xây bằng cây thông đỏ còn sống nguyên. Cha ta dựng một cái lều ở giữa một khu rừng cổ. Nó cần những cây thông đỏ to rộng nhưng chỉ vài khúc gỗ đan qua giữa chúng là thành những bức tường quây kín nhà chúng ta. Phía trên chúng ta có một mái nhà che đầu, kết bằng những cành cây cao nhất. Chúng ta không bao giờ đụng tới lá hay trái của chúng bởi vì chúng rất độc, nhưng chúng có thể đuổi cho bọn sói tránh xa." ... Mời các bạn đón đọc Charlie Bone và Cái Bóng Xứ Badlock của tác giả Jenny Nimmo.
Charlie Bone và Sói Hoang - Jenny Nimmo
Ngày xửa ngày xưa, người ta đồn có một ông Vua Đỏ vì ông hay mặc một cái áo choàng màu đỏ tươi, và trên khiên của ông có hình mặt trời đỏ rực. Ông là một phù thủy phi thường. Mười đứa con ông, đứa nào cũng được thừa hưởng một phần nhỏ quyền năng ấy. Nhưng khi vợ nhà vua qua đời, có năm đứa trở nên độc ác, và năm đứa còn lại đã từ bỏ lâu đài của người cha mãi mãi. Quyền năng lạ lùng và đa dạng của Vua Đỏ được truyền cho các hậu duệ của ông. Nhiều khi người được thừa hưởng đó cũng không hiểu những thứ này từ đâu ra. Một trong những kẻ "may mắn" đó chính là Charlie Bone, và vài đứa trẻ mà cậu gặp tại học viện Bloor - nơi dành cho những đứa bé có tài phép. Đằng sau bốn bức tường xám, dữ tợn của học viện Bloor, những bí ẩn đen tối nhất dần được hé mở và cuộc chiến giữa hai phe thiện ác của các hậu duệ Vua Đỏ bắt đầu. *** Bộ Charlie Bone gồm có:​ Charlie Bone Tập 1: Lúc Nửa Đêm  Charlie Bone Tập 2: Charlie Bone Và Quả Cầu Xoắn Thời Gian Charlie Bone Tập 3: Charlie Bone Và Cậu Bé Vô Hình Charlie Bone Tập 4 : Charlie Bone Và Lâu Đài Gương Charlie Bone Tập 5 : Charlie Bone Và Nhà Vua Ẩn Mình     Charlie Bone Tập 6 : Charlie Bone Và Sói Hoang     Charlie Bone Tập 7 : Charlie Bone Và Cái Bóng Xứ Badlock Charlie Bone Tập 8 : Charlie Bone Và Hiệp Sĩ Đỏ Tác giả: Jenny Nimmo là một tiểu thuyết gia người Anh nổi tiếng chuyên viết về đề tài phiêu lưu kì bí dành cho thiếu nhi. Bà sinh ngày 15 tháng 1 năm 1944 tại Windsor, Anh. Hiện bà đang sống cùng chồng tại xứ Wales, Anh. Tình yêu dành cho sách của Jenny Nimmo đã được bộc lộ từ rất sớm. Năm 9 tuổi, bà đã đọc hết tất cả các quyển sách trong thư viện dành cho học sinh cấp một của trường và xin phép nhà trường thẻ thư viện cho học sinh cấp hai. Jenny cũng sớm nhận ra rằng viết truyện cũng thú vị không kém gì đọc truyện, vì thế bà thường tự sáng tác và kể lại cho bạn học nghe những câu chuyện rùng rợn ở phòng ngủ chung trong ngôi trường nội trú bà đã theo học từ năm 6 tuổi. Trước khi trở thành nhà văn, Jenny Nimmo làm việc trong lĩnh vực truyền hình. Khi bà tự viết kịch bản cho chương trình của mình, nhà sản xuất đã gợi ý cho Jenny viết thêm để biến nó trở thành một quyển tiểu thuyết. Và đó chính là quyển tiểu thuyết đầu tiên trong sư nghiệp của Jenny Nimmo:The Bronze of Trumpeter, xuất bản năm 1975. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Jenny Nimmo là loạt truyện về cậu bé có phép thuật thần bí Charlie Bone(tập đầu tiên được phát hành vào năm 2002). Loạt truyện này có mặt trong danh sách bestseller của New York Times và Book Sense. Truyện bán được hơn 2 triệu bản trên toàn thế giới, và đã được dựng thành phim. *** Charlie Bone sống trong một thành phố ôm giữ vô vàn điều bí mật. Những bí mật ẩn giấu trong tường và chôn vùi dưới đất hàng bao thế kỷ. Thành phố đó ra đời cách đây chín trăm năm, bắt đầu từ một lâu đài do tổ tiên của Charlie là Vua Đỏ xây dựng nên. Tên của Vua Đỏ xuất phát từ tấm áo chùng đỏ rực và hình mặt trời chiếu sáng khắc trên tấm khiên của ngài. Vua Đỏ là người Phi châu; ngài cũng là một thầy pháp. Khi hoàng hậu yêu quý của nhà vua, hoàng hậu Berenice, qua đời, ngài đi vào rừng để than khóc. Ngài rất an tâm khi mười người con của mình sẽ an toàn trong tay của những quan cận thần uyên bác và những bà vú hiền lành. Vả lại, mỗi người con của ngài đều được ban một tài phép thần kỳ. Vào thời đó, vương quốc của ngài là một nơi đầy bạo lực và không có luật pháp – nạn giết người cướp của hoành hành. Trên đường về nhà, ngài nhận thấy cần phải đem tài phép vô song của mình ra cứu giúp dân nghèo và những người bị áp bức. Lập tức, ngài mặc giáp sắt, đội mũ sắt cắm chùm lông đỏ, sau đó hóa phép ra một thanh gươm bất khả chiến bại và cưỡi ngựa xông pha đi bảo vệ những người khốn khổ và những kẻ thân cô thế cô. Vua Đỏ diệt trừ bọn bạo chúa, quân sát nhân và lũ quý tộc kẻ cướp suốt 5 năm. Cuối cùng, khi ngài về đến lâu đài, mới hay, năm người con của mình đã trốn chạy, còn năm kẻ ở lại thì dùng tài phép của mình đi thôn tính những quốc gia láng giềng. Chính những những con này và cháu chắt của họ đã bắt đầu lịch sử tang thương và đồi bại kinh hoàng của thành phố. Không thể ra tay đánh đuổi chính các con mình, nhà vua tan nát trái tim đành phải rời khỏi lâu đài của mình vĩnh viễn. ... Mời các bạn đón đọc Charlie Bone và Sói Hoang của tác giả Jenny Nimmo.