Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

13.67

Lần đầu tiên, trinh thám Hồng Kông đến Việt Nam! Hồng Kông Hồng Kông. Vùng đất nổi tiếng với Cửu Long Trại Thành, nơi từng có mật độ dân cư cao nhất thế giới, nhà cửa san sát đến mức nắng không len nổi xuống đất, có thể đuổi bắt cả ngày bên trên không cần xuống đường, nơi nhung nhúc cô hồn các đảng, nghiện hút, mại dâm, thịt chó trốn thuế và bác sĩ không giấy phép hành nghề… Hồng Kông, vùng đất nổi tiếng với nhũng nhiễu tham ô, có thời cứ vài chục cảnh sát lại lọt một người do xã hội đen bao nuôi, quá đông đảo đến mức không thể đưa ra tòa, chỉ còn cách đặc xá. Hồng Kông, vùng đất nổi tiếng vì phong trào tự phát, chút xích mích nhỏ cũng có thể bùng ra thành bạo động. Có những năm mìn tự làm cài cắm khắp nơi, và sẵn sàng gửi đến tận nhà cho bất cứ ai dám công khai phản đối. Kim Dung cũng là một trường hợp như vậy. Sau quả bom gửi đến tận nhà và phát nổ ngay ở sân, ông đành phải đưa cả gia đình sang Singapore lánh nạn… Hồng Kông, vùng đất chơ vơ ngoài khơi cùng lối sống bản năng chỉ cốt sinh tồn ấy, đã vun xới một thể loại trinh thám dị thường, mà ta sẽ thấy ở 13.67 này. Từ nền tảng trinh thám cổ điển đậm chất suy luận, Chan Ho Kei đã lồng vào quan điểm phá án riêng của anh: cách thức có thể đen, nhưng mục đích phải trắng. Cũng có nghĩa, miễn là lôi được tội phạm đích thực ra ánh sáng, còn thì dùng thủ đoạn ngóc ngách thậm chí lừa phỉnh thế nào cũng được. Quan điểm đó càng trở nên quái lạ và mạo hiểm, khi nhân vật thám tử ở đây lại là một cảnh sát, đại diện cho tinh thần thượng tôn chính nghĩa và pháp luật. Cả quá trình phá án, anh ta luôn đi trên một con đường rất mong manh giữa chính và tà, không cẩn thận thì chính bản thân lại biến thành kẻ phạm pháp. Cũng vì quái lạ và mạo hiểm, nên 13.67 chứa đựng sức hút riêng có ta chưa từng thấy ở trinh thám bất cứ nơi đâu. Kết hợp với lối kể đảo ngược, câu chuyện thành ra sâu hun hút với một sự thật bất ngờ giấu kín dưới đáy, khiến ta vừa đọc xong lại phải hộc tốc giở ngay về phần đầu. 13.67… *** Tác giả Chan Ho Kei:  Tốt nghiệp khoa Khoa học máy tính trường Đại học Trung văn Hồng Kông, thành viên Hiệp hội Trinh thám Đài Loan (MWT). Nhà văn trinh thám và khoa học viễn tưởng Hồng Kông, đã được vinh danh và đoạt rất nhiều giải thưởng chuyên môn trong thế giới Hoa ngữ. Năm 2008, lọt vào chung kết Viết văn lần 6 của MWT với truyện thiếu nhi Jack và hạt đậu thần. Năm 2009, giải nhất Viết văn lần 7 của MWT với truyện thiếu nhi Căn phòng bí mật của Lão Râu Xanh. Năm 2010, giải ba Comic Ritz Million Novel với Suy luận hợp lý. Giải ba Tiểu thuyết Khoa học Viễn tưởng Nghê Khuông với Thời gian là vàng bạc. Năm 2011, giải nhất Tiểu thuyết Trinh thám Soji Shimada với Hình cảnh mất trí. Năm 2014 Chan Ho Kei bắt đầu bước ra khỏi thế giới Hoa ngữ nhờ tác phẩm đỉnh cao 13.67, trước tiên đoạt giải tại Triển lãm Sách Quốc tế Đài Bắc 2014, lập tức được nhượng quyền xuất bản ở Hàn, Mỹ, Pháp, sau đó một cơn bùng nổ nho nhỏ về sức chiếm đóng trên bảng xếp hạng trinh thám bán chạy ở các nước này đã mau chóng đẩy 13.67 đến Thái, Nhật, Anh, Canada, Ý, Hà Lan, Việt Nam… Chan Ho Kei cũng khá sung sức trong mảng khoa học viễn tưởng. Đến giờ đã xuất bản: Mật sứ hắc ám (đồng sáng tác với Cao Phổ), Kẻ may mắn sống sót, Người bong bóng, Bọ ma và light novel Theo dấu pháp thuật. Năm 2015 anh hợp tác với Sủng Vật Tiên Sinh, người từng đoạt giải nhất Tiểu thuyết Trinh thám Soji Shimada 2001, để cùng viết nên tác phẩm mới có tên S.T.E.P. *** Tác phẩm kể về cuộc đời nghề nghiệp của một tranh tra cảnh sát Hồng Kông, đồng thời dắt chúng ta đi qua một giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước này. Nhân vật chính là Quan Chấn Đạc, được miêu tả như người hùng của cảnh sát Hồng Kông, với tỉ lệ phá án thành công lên tới 100%. Truyện gồm 6 chương, 6 vụ án, kể theo dòng thời gian ngược, từ năm 2013, khi Quan là một ông lão mất ý thức trên giường bệnh, lần về năm 1967, khi Quan còn là cảnh sát tuần tra quèn (tên truyện 13.67 là kết hợp của 2 mốc thời gian này).  Về nhân vật, Quan, nhân vật trung tâm được xây dựng rất tốt. Ấn tượng qua những lời giới thiệu ở chương đầu, thán phục qua những màn suy luận "đi trước cả 10 bước", và kính nể qua lý tưởng nghề nghiệp mà ông thể hiện xuyên suốt cuốn sách. Là một người làm công việc trị an, Quan tuy phải chịu áp lực rất lớn từ dư luận và cấp trên, nhưng ông không bao giờ quên lý tưởng "phải bảo vệ người dân vô tội" của mình. Dù xét từ góc độ quản lý, kết quả của đại cục mới là quan trọng nhất, dù phải hi sinh một vài dân thường, thì đó vẫn được coi như "thiệt hại ở mức chấp nhận được". Quan, là thanh tra cao cấp, tất nhiên, ông phải ưu tiên phá án lên hàng đầu, nhưng song song đó, ông vẫn luôn để mắt tới từng chi tiết nhỏ nhất để đảm bảo không một dân thường nào bị liên luỵ. Một anh hùng của cả chính phủ và nhân dân. Bên cạnh Quan là đệ tử Lạc Tiểu Minh. Tôi thấy hơi tiếc cho nhân vật này, khi anh chỉ toả sáng ở chương đầu tiên, mờ nhạt dần ở 3 chương tiếp theo và... mất hút ở 2 chương cuối. Cũng phải thôi, truyện kể theo hướng lùi dần về quá khứ, nên khi Quan mới vào nghề thì Lạc không có mặt là đương nhiên. Và vì thế, yếu tố kế thừa di sản và tư tưởng của người thầy trở nên kém nổi bật. Thời lượng cho Lạc khá ít, và chỉ tập trung ở 2 chương đầu, nên ta mới chỉ thấy được sự sắc xảo trong suy luận của anh, chứ chưa kịp hiểu rõ về lập trường và cá tính của anh lắm. Nếu coi đây là màn giới thiệu nhân vật, để anh thực sự bung lụa ở phần tiếp theo (nếu có) thì tôi hoàn toàn đồng ý, nhưng nếu chỉ xuất hiện kiểu đầu voi đuôi chuột, nửa thứ chính nửa phụ như vầy, tôi thấy hơi phí phạm.  Về chất trinh thám, thì đây là đúng là một đại tiệc. 6 vụ án độc lập, tính chất, thủ đoạn, động cơ, bối cảnh đều khác nhau. Giàu tình tiết, logic cao, lật mở liên tục. Hiếm có cuốn nào mà sự gay cấn lại đa dạng và được duy trì với mật độ cao như vậy. Nếu chỉ tính riêng chất trinh thám thôi thì tôi cho 4/5. Tuy hấp dẫn nhưng không thể cho cao hơn được vì vai phản diện không nổi bật. Phải gọi là "các" phản diện mới đúng. Cuốn sách 550 trang, chia cho 6 vụ án là mỗi cuốn khoảng 90 trang, chỉ vừa đủ để khắc hoạ vai chính diện và tình tiết vụ án, nên đã không thể đi quá sâu vào quá khứ hay nội tâm kẻ gây án được. Có động cơ rõ ràng đấy, nhưng để đồng cảm được thì cần nhiều thời gian xây dựng nhân vật hơn.  Về cách kể, thì đây là điểm yếu nhất. Việc chia thành các câu chuyện nhỏ và đi theo hướng kể ngược về quá khứ, thì dĩ nhiên, điều tôi mong muốn (và tôi tin mọi người cũng vậy) là một cái kết bất ngờ và có tính liên kết các câu chuyện lại làm một. Nhưng 13.67 đã không làm được.  Cái kết có bất ngờ không? Có. Nhưng có kết nối các phần trước thành mội câu chuyện lớn không? Thì không!  Điều duy nhất mà plot cuối truyện làm được là khiến tôi phải giở lại chương đầu một chút, còn thứ mà tôi mong chờ là lật lại TOÀN BỘ cuốn sách cơ. Có thể tôi tham lam hay kì vọng quá cao, nhưng sự hấp dẫn trong từng câu chuyện và cách kể đã gieo vào đầu tôi sự trông chờ cho một cái kết thuyết phục hơn vậy. Hoá ra 6 câu chuyện tưởng như độc lập lại... thật sự độc lập. Sợi dây duy nhất là nhân vật chính Quan, nhưng bản thân ông ở 6 giai đoạn cũng không có sự liên kết nào hết, không có 1 chuỗi nhân-quả hay biến chuyển nào hết, không có một câu chuyện lớn xuyên suốt khiến tôi hơi có cảm giác bị phản bội.  Về bối cảnh, tác giả chọn 2 mốc là 30 năm trước và 16 năm sau của năm 1997 - năm mà Anh Quốc trao trả Hồng Kông cho Trung Quốc. Nói như vậy không có nghĩa truyện xoáy sâu vào vấn đề chính trị (ban đầu tôi cũng tưởng như vậy), mà truyện tập trung vào sự "kém ổn định" của an ninh, biến Hồng Kông giai đoạn này trở thành thiên đường của tội phạm. Qua đó nhấn mạnh chủ đề chính là lòng tin và kì vọng của nhân dân với lực lượng trị an và chính quyền. Các vấn đề xã hội khác như tranh giành quyền lực, báo thù, đạo nghĩa giang hồ, tham ô, hối lội, tình yêu, gia đình... cũng xuất hiện rất phong phú, tuy không đi quá sâu nhưng tô điểm được cho bức tranh xã hội phức tạp và đầy rẫy những vấn đề, tạo nên bối cảnh chất lượng cho các vụ án.  Tóm lại, so với mặt bằng chung thì đây là cuốn trinh thám HAY, (các) vụ án chất lượng, tính logic cao, duy trì được sự kịch tính, bối cảnh thú vị. Tuy không có phản diện ấn tượng và tính liên kết giữa các chương khá yếu, nhưng đó là do tôi kì vọng cao quá mà thôi. Sài Gòn , ngày 18 tháng 7, 2020 Phúc *** 13.67 là 6 truyện ngắn được kể theo trình tự ngược thời gian, từ thời điểm năm 2013 đến 1967, chính là nguồn gốc khai sinh ra cái tên 13.67, xoay quanh hai thầy trò cảnh sát Quan Chấn Đạc, Lạc Tiểu Minh và những sự kiện lịch sử có thật ở Hongkong trong chính giai đoạn này. Chỉ 6 câu chuyện mà án gì cũng đủ cả, giết người, bắt cóc, buôn ma tuý, vượt ngục, đánh bom, tưởng như rời rạc không liên quan, nhưng lại tạo thành một xâu chuỗi hoàn hảo tất cả các sự kiện, con người, ân oán của mấy mươi năm lịch sử. Mình sẽ không bao giờ nhấn mạnh đủ tầm quan trọng của một cái đầu lạnh tập trung cao độ khi đọc quyển sách này. Ngay từ vụ 1 tác giả đã cho độc giả vào những khúc cua khét lẹt đến sợ hãi, sợ là vụ đỉnh như thế này cho lên đầu rồi về sau không còn chiêu bài nào hay nữa. Nhưng mình vẫn bị tác giả lừa phút một. Chỉ cần mình vừa khinh thường nghĩ đã “bắt bài” được tác giả thì giây sau đã ngớ ra tác giả cầm ba đôi thông. Tóm lại, phải critical thinking đến dấu chấm câu cuối cùng, còn thở là còn gỡ.  Nếu 13.67 đơn giản là một cuốn trinh thám mình thích, thì mình thức xuyên đêm đọc một lèo là xong. Nhưng với 13.67, mình lại phải chia ra đọc chậm rãi từng vụ một, thậm chí dừng đọc ngay trước khoảnh khắc vạch trần hung thủ. Bởi giống như rượu ngon không ai tu cả chai, sách hay là phải nhâm nhi để thấm.  Chắc bạn đang đặt ra câu hỏi là “Mình sẽ học được gì từ mấy tay thanh tra hình sự già cỗi ở Hongkong?” nhỉ Mình cũng từng nghĩ thế đấy, ấy vậy mà tổ nghề đọc trinh thám quật cho không kịp trở tay, cứ phải đánh dấu trang lia lịa. Thú thực là nghiệp đọc trinh thám của mình chưa bao giờ phải highlight sách nhiều như thế.  Không chỉ về cách lập luận, tư duy logic (như thầy Quan hay mắng anh Lạc là cứ nhầm lẫn nguyên nhân với kết quả) mà mình còn được học về cách nhìn người, cách áp dụng những thứ tưởng chừng rất lý thuyết vào thực tế như “song đề tù nhân”.  Và quan trọng hơn tất thảy, quyển sách này đã củng cố niềm tin vào một trăn trở bấy lâu của mình: Tại sao ta cần đọc sách? Và quan trọng hơn nữa, tại sao ta cần đọc tiểu thuyết hư cấu? Ngoài những lý do sáo rỗng đã nghe mòn tai như đọc sách để sống nhiều hơn một cuộc đời, hay đơn giản là một thú vui, đọc 13.67 bắt mình phải đặt ra câu hỏi cho bản thân: nếu mình là Quan Chấn Đạc hay Lạc Tiểu Minh, trong tình huống éo le như thế, mình sẽ hành xử ra sao? Mình có dám theo đuổi công lý và nguyên tắc của bản thân đến cùng hay không? Chỉ có tiểu thuyết mới mang lại cho chúng ta những câu hỏi ta không biết mình đang tìm kiếm, cần ta phải thực sự soi chiếu chính mình để trả lời.  Gấp quyển sách lại,  mình lại về làm một cô sinh viên bình thường, không còn băng đảng lăm le, cảnh sát trắng đen lẫn lộn, chỉ còn niềm tin rằng “chính nghĩa thì không nói bằng lời”. an nhi 27/02/2021 *** Thanh tra Lạc căm ghét mùi bệnh viện, nhất là thứ mùi hăng hắc của nước khử trùng lẩn quất trong không khí. Chẳng phải vì có kí ức đau buồn gì ở đây, mà chỉ đơn giản là thứ mùi đó gợi nhớ đến nhà xác. Dù đã làm cảnh sát hai mươi bảy năm, nhìn thấy biết bao thi thể, anh vẫn khó lòng quen với mùi này. Nói chung, ngoài những kẻ biến thái đam mê tử thi ra, chắc không ai trông thấy người chết mà vui cho được. Lạc thở mạnh, nỗi bất an vẫn không vợi bớt, tâm trạng còn nặng nề hơn cả khi theo dõi khám nghiệm tử thi trong nhà xác. Anh mặc bộ vest màu lam chỉnh tề, buồn bã nhìn người đang nằm trên giường bệnh. Bệnh nhân trong căn phòng đơn này là một ông lão tóc pha sương, gương mặt đầy nếp nhăn lấp ló dưới mặt nạ thở oxy, hai mắt nhắm nghiền, làn da tái nhợt, cánh tay lấm tấm đồi mồi cắm những ống nhỏ nối với mấy cái máy trị liệu đang hoạt động. Màn hình 17 inch gắn trên đầu giường hiển thị các số liệu như mạch đập, huyết áp, lượng oxy trong máu... Đường đo nhịp tim chạy chầm chậm từ phải qua trái thỉnh thoảng nhấp nhô, nếu không thì chắc ai cũng nghĩ ông lão này chết rồi, và nằm trên giường chỉ là một thi thể được bảo quản tốt mà thôi. Ông lão là sư phụ của Lạc, ông đã dạy anh điều tra, thu thập chứng cứ, lập luận phá án bao nhiêu năm nay, nhưng chính ông lại thường không hành động theo một quy tắc cố định nào. “Tiểu Minh à, phá án không thể chỉ biết chăm chăm làm theo nguyên tắc. Ngành này đã có quá nhiều thành phần bảo thủ máy móc rồi. Mặc dù phục tùng mệnh lệnh cấp trên là lẽ đương nhiên, nhưng con phải nhớ, bảo vệ người dân mới là nhiệm vụ thực sự của cảnh sát. Nếu chế độ đẩy người vô tội vào hiểm nguy, chính nghĩa không rõ ràng, bấy giờ chúng ta có lý do chống lại chế độ trì trệ đó.” Nhớ lại câu cửa miệng của thầy, Lạc không khỏi gượng cười. Tên đầy đủ của anh là Lạc Tiểu Minh. Mười bốn năm nay, kể từ ngày lên chức quyền thanh tra, hầu như không còn đồng nghiệp nào gọi thẳng cái tên mộc mạc đó nữa. Chỉ có thầy vẫn kêu anh là “Tiểu Minh”. Đối với chỉ huy Quan Chấn Đạc, Lạc cũng như con đẻ của ông. Trước lúc nghỉ hưu, Quan là tổ trưởng tổ B Phòng Tình báo Hình sự tại Bộ chỉ huy. Phòng Tình báo hình sự, gọi tắt CIB, là cơ quan tình báo trung ương của ngành cảnh sát, phụ trách thu thập, phân tích và nghiên cứu tin tức tội phạm của các khu vực, rồi phối hợp với các phòng ban khác lập kế hoạch hành động. Nếu coi CIB là não bộ của ngành cảnh sát, thì tổ B chính là thùy trước trán, làm nhiệm vụ phân tích, tổng hợp và tìm ra sự thật từ muôn vàn manh mối rối như tơ vò. Quan bắt đầu dẫn dắt tổ hạt nhân này từ năm 1989 và trở thành linh hồn của CIB. Năm 1997 chuẩn bị về hưu, ông nhận Lạc Tiểu Minh, điều tra viên mới được thuyên chuyển về tổ B làm đệ tử cuối cùng. Chỉ huy Quan chính thức làm cấp trên của Lạc chỉ trong nửa năm, nhưng sau khi nghỉ hưu, ông làm cố vấn hợp đồng cho ngành cảnh sát nên vẫn có nhiều dịp chỉ bảo cậu hậu bối kém mình hai mươi hai tuổi này. Đối với người không có con cái như chỉ huy Quan, Lạc chẳng khác nào con đẻ. “Tiểu Minh à, đấu trí với nghi phạm giống như đánh bài, phải để đối thủ đoán sai át chủ bài của mình. Dù con cầm đôi át cũng phải khiến đối thủ nghĩ con chỉ có quân 2, quân 3 tép riu. Kể cả khi thấy mình không có cửa thắng, con vẫn phải giả bộ đặt cược thêm, lung lạc đối thủ. Như thế mới khiến nghi phạm để lộ sơ hở.” ... Mời các bạn đón đọc 13.67 của tác giả Chan Ho Kei & Minh Thu (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Rỗng
Người rỗng là tác phẩm đỉnh cao của John Dickson Carr trong thể loại “mật thất án mạng”. Xuyên suốt truyện là bí ẩn của hai vụ giết người: một vụ xảy ra trong căn phòng khóa kín, nạn nhân chỉ có thể mấp máy vài từ đứt đoạn; một vụ diễn ra trên con phố vắng, có nhân chứng ở hai đầu. Trong cả hai vụ, kẻ thủ ác đều biến mất không dấu vết. Nhân chứng nhìn thấy hắn, rồi để hắn thoát đi như một màn ma thuật. Kẻ thủ ác là ai? Có chăng hắn là người rỗng dưới vỏ bọc hữu hình để rồi sau khi giết người lại biến mất vào không khí? Độc giả như bị đặt vào mê lộ của sự bất khả, và rồi những suy luận của các nhà điều tra cũng đều dần dần đi vào ngõ cụt. Án chồng án, quá khứ vươn dài xoắn xít vào thực tại khiến người đọc rối trí, nút thắt này chưa gỡ xong đã bị Carr buộc vào một nút thắt khác khó gỡ hơn. Chính những điểm gút liên hoàn được buộc và gỡ một cách xảo diệu, bất ngờ như vậy đã tạo nên sức hút cho Người rỗng, giúp tác phẩm đứng vững trong hàng ngũ những tiểu thuyết trinh thám hay nhất mọi thời đại. *** NGƯỜI RỖNG – JOHN DICKSON CARR Thấy cuốn này được tâng bốc đến tận trời cao nên mình cũng thử sức đọc xem sao. Kết quả là, mình khá đồng ý với đa số các review mình đã đọc. Mình không phải là người giỏi lần theo các manh mối và suy luận để tìm ra lời giải cho các vụ án trong truyện nên mình cũng không cố gắng nhọc công làm việc đó, đỡ mệt bao nhiêu. May đấy, vì thủ thuật gây án trong phòng kín mà tiến sĩ Fell trình bày đúng là làm mình lóa mắt. Ấn tượng đầu tiên của mình chính là thủ phạm làm mình liên tưởng đến “Những chiếc răng cọp” của Maurice LeBlanc (cuốn Arsene Lupin đầu tiên mình đọc). Còn lại vềthủ thuật thì quá là phức tạp và mặc dù được giải thích kĩ càng nhưng đầu mình vẫn không thực sự tiêu hóa hết toàn bộ vấn đề. Một điều nữa mà mình cũng đồng ý với các review là cách thức hành động của thủ phạm gần như diễn ra dựa trên các sự kiện tình cờ, không được tính toán trước, ngược lại hoàn toàn với dụng ý ban đầu của thủ phạm. Lẽ dĩ nhiên, điều này cũng thể hiện phần nào trí thông minh và cách giải quyết vấn đề rất nhanh nhạy của thủ phạm, lợi dụng mọi sự ngẫu nhiên xảy ra ngay tại thời điểm đó để thực hiện tiếp những việc tiếp theo theo đúng kế hoạch.   Cái hay của truyện, ngoài cách gây án của hung thủ làm mình sững sờ ra, còn nằm ở việc nhận định và giả thuyết sai lầm. Chính lỗi vô cùng lớn như thế này đã khiến cảnh sát điều tra và tiến sĩ Fell rơi vào ngõ cụt. Vậy kết luận rút ra từ đây là, giả thuyết chỉ là giả thuyết thôi, không nên quá coi trọng nó và mặc định nó nhất định phải như thế. Đến khi tiến sĩ Fell lật lại hoàn toàn những giả thuyết mà tác giả cố định vào đầu người đọc ngay từ đầu, mình mới òa ra, bây giờ mọi chuyện mới sáng tỏ và hợp lý. Các nhân vật thì mình không thực sự thích ai cả. Ấn tượng của mình với các nhân vật trong truyện đều có gì đó rất xấu xa, trừ mấy người điều tra phá án thôi, còn lại ai cũng có vẻ ích kỉ và to mồm, nói nhiều nhưng làm ít, ai cũng thấy có vẻ nói dối – chỉ là mình không đủ nhạy bén để nhận ra họ nói dối cái gì thôi. Thực ra đến cả thanh tra Hadley và tiến sĩ Fell cũng đôi lúc làm mình buồn cười. Họ cũng to mồm không kém các nghi phạm. Từ đầu truyện khi diễn ra cuộc thẩm vấn, mình thấy các nhân vật – cả nghi phạm lẫn người điều tra – đều mất bình tĩnh. Họ quát lên, rồi họ tức giận, ai cũng nói rất to! Có thể đây là một sự hài hước vô ý của tác giả chăng? Một nhân vật mình không thích nhất là người không có vai trò gì trong quá trình điều tra cả, đó là vợ của Rampole là cô Dorothy. Cô này nhiều chuyện và tọc mạch quá, toàn đưa ra những giả thuyết này nọ phi thực tế, hầu như chỉ dựa vào quan điểm và sở thích cá nhân của cô, mà cô đưa ra những ý kiến đó chỉ thông qua mỗi lời kể của chồng. May mắn là Dorothy chỉ xuất hiện có hai lần, mau miệng thật đấy nhưng làm mình khó chịu quá. Mặc dù cuốn này ngắn nhưng mình vẫn đọc chậm hơn tốc độ bình thường của mình vì có những đoạn mình phải đọc đi đọc lại và thỉnh thoảng mình không tập trung được, vì cứ mỗi trang là lại có thêm chi tiết mới, và thám tử phải rà soát lại từ đầu kết hợp với những gì mới phát hiện. Nhưng bù lại, đọc phần phá án lại làm mình rất thỏa mãn, kèm theo một phần bài giảng của tiến sĩ Fell về các loại án mạng phòng kín nữa, vô cùng bổ ích. Điểm: 4/5  (Cảm ơn đã đọc đến đây. Mọi người ủng hộ góc booktube siêu nhỏ của mình nhá – thanks ạ) Hương Spy *** NGƯỜI RỖNG – JOHN DICKSON CARR Đối với trinh thám cổ điển mình ít khi đọc (đặc biệt là tác phẩm Âu-Mỹ) vì không quen với văn phong tác giả. Vì thế Người rỗng là một thách thức với mình từ những trang đầu tiên. Mình đã mất 6 ngày để đọc xong. Phải nói là không quá khi bìa sách phí sau ghi Người rỗng tác phẩm đỉnh cao của John Dickson Carr. Những sự việc tác giả đưa vào khiến cho người đọc lẫn nhân vật hiểu lầm và sau đó lí giải thật tuyệt vời. Hình tượng thám tử-tiến sĩ Fell lẫn những người bạn của ông khiến mình cảm thấy gần gũi vì Carr không ưu ái cho ai cả, mỗi nhân vật đều được nêu suy nghĩ về vụ án, ai cũng có đất diễn cả. Và không người bạn nào của Fell làm nền cho ông. Về phần mạch truyện thì diễn ra chầm chậm, sau đó nhanh từ từ về sau. Truyện cũng có những điểm gây cấn. Tuy nhiên, nó cũng có phần giống những trinh thám cổ điển như Đảo ngục môn, Án mạng trên sông Nile,… ở chỗ giải quyết vấn đề sau khi thám tử phá án xong xuôi, nó diễn ra rất nhanh và kết thúc ngay sau đó chỉ với 1 sự lựa chọn của hung thủ và tòng phạm. Về điểm này mình hơi hụt hẫn nhưng nhìn chung mình rất khâm phục bác Carr vì đã lừa và khiến mình rối não. Mức độ yêu thích: 5/5 Neko Sayuri *** NGƯỜI RỖNG Book review: “Người Rỗng” Tác giả: John Dickson Carr Thể loại: Trinh thám cổ điển, giết người trong phòng kín Đánh giá: 9/10 Mình là người rất thích đọc các tác phẩm trinh thám lấy đề tài mật thất, giết người trong phòng kín, vì mình thích tìm hiểu về những vụ án tưởng chừng như bất khả, nhưng hóa ra luôn có một lời giải thích hợp lý. Vì thế, khi biết cuốn “Người Rỗng” của John Dickson Carr – nhà văn trinh thám Mỹ nổi tiếng, được mệnh danh là “ông hoàng mật thất” – được xuất bản là mình mua đọc ngay. Công nhận là hay lồng lộn, hay ghê gớm luôn các bạn ạ.   “Người Rỗng” là cuốn tiểu thuyết về hai vụ giết người. Một vụ là cái chết kỳ bí của giáo sư Charles Grimaud – một người không bao giờ tin vào ma quỷ hay thế giới tâm linh. Trước ngày vụ án xảy ra, Pierre Fley – một nhà ảo thuật gia – đã xuất hiện tại quán rượu mà giáo sư Grimaud thường tụ họp với bạn bè của mình và buông ra một lời đe dọa. Vài ngày sau đó, giáo sư Grimaud có hẹn gặp một người đàn ông cao lớn, bí ẩn trong chiếc áo khoác đen và đeo mặt nạ Guy Fawkes màu hồng như thịt, để rồi giáo sư được phát hiện đang thoi thóp trong căn phòng khóa kín cửa, chỉ có thể mấp máy vài từ đứt đoạn, người lạ đó đã biến đâu mất. Nền tuyết trắng không hề có dấu chân ai cả. Cửa sổ quá bé để một người trưởng thành chui ra được. Căn phòng cũng không có cánh cửa bí mật nào thông ra bên ngoài. Như thể hung thủ đã tan biến vào không khí vậy. Vào cùng đêm giáo sư Grimaud bị bắn, và sau đó qua đời, Pierre Fley cũng bị bắn ở một con phố vắng bởi chính khẩu súng đã giết giáo sư Grimaud. Có nhân chứng đứng ở hai đầu đường nhưng đều không thấy được chuyện gì xảy ra, hay hung thủ là ai. Như thể kẻ thủ ác là một người rỗng dưới vỏ bọc hữu hình, hiện ra gây án để rồi sau đó lại biến mất vào không khí. Và Pierre Fley – người trước đó đã đe dọa giáo sư Grimaud, là kẻ dường như có động cơ giết giáo sư nhiều nhất – cũng chết trong cùng một đêm, hai vụ án chỉ cách nhau vài phút. Vậy rốt cuộc hung thủ thực sự là ai? Có phải là một trong những nhân chứng của hai vụ án hay không? Bên cạnh bí ẩn về “người rỗng” gây án và sự khó giải thích nổi của hai vụ giết người mà việc tìm hiểu xem chuyện gì thực sự đã xảy ra dường như là bất khả, điều mà mình thích nhất ở cuốn tiểu thuyết này, có lẽ chính là những suy luận của tiến sĩ Fell – một trong những hình tượng thám tử “không chuyên” mà John Dickson Carr sáng tạo nên. Chỉ bằng cách quan sát tỉ mỉ những gì còn lại ở hiện trường trong căn phòng kín, cùng việc lắng nghe lời khai của nhân chứng và cả những từ ngữ đứt đoạn mà nạn nhân Grimaud mấp máy trước khi bị đưa đi chăm sóc y tế, mà tiến sĩ Fell đã có thể dần dần khám phá và phác họa nên cuộc sống trước kia của nạn nhân Grimaud, và tự mình đưa ra những suy luận khả dĩ có thể đưa ra một hướng điều tra cho những người có chuyên môn điều tra phá án. Lẽ dĩ nhiên, với một cuốn tiểu thuyết giết người trong phòng kín nổi tiếng dường này, thuộc hàng ngũ những tiểu thuyết trinh thám hay nhất mọi thời đại, thì mọi thứ không như những gì chúng ta và cả tiến sĩ Fell luôn hình dung. Nếu bạn chỉ suy luận đơn giản, chỉ suy nghĩ theo cách thông thường, thì sẽ không bao giờ có thể phát hiện ra được sự thật, cùng “màn ảo thuật” gây kinh ngạc đã đánh lừa rất nhiều người. Và quan trọng hơn nữa, là làm sao chúng ta có thể, từ những lời khai của nhân chứng luôn nói thật, suy luận ra được điều gì đã thực sự xảy ra, và nhìn ra chân tướng của toàn bộ vụ việc. Đoạn kết khi tiến sĩ Fell bóc trần sự thật đã thực sự làm mình ngỡ ngàng, vì mình không bao giờ có thể tưởng tượng được mọi chuyện lại là như thế. Có một chút may mắn giúp hung thủ thực hiện được một phần kế hoạch của mình – cái chút may mắn đã thay đổi và xoay vần toàn bộ cách lẽ ra chúng ta phải suy luận. Phần còn lại là một chuỗi ứng biến có, đã lên kế hoạch sẵn cũng có, để đánh lừa các nhân chứng và xoay chuyển bản chất thật của cả hai vụ án. Nói chung là cá nhân mình không thể nào ngờ được lời giải đáp lại là như thế, và mình cũng không thể nào biết được làm cách nào tác giả John Dickson Carr lại có thể nghĩ ra được một câu chuyện như vậy luôn ???? Giờ mình chuẩn bị đặt mua tiếp hai cuốn khác của John Dickson Carr là “Vụ án viên nhộng xanh” và “Chiếc bản lề cong” để ở nhà đọc trong dịp Tết đây ^^ Hy vọng là cũng sẽ hay như cuốn “Người Rỗng” này ???? P.S.: Chụp cái hình sẵn khoe luôn kệ sách mới hí hí hí ????))) Nguyễn Việt Ái Nhi *** NGƯỜI RỖNG – JOHN DICKSON CARR Giáo sư Grimaud trong một buổi tối khi đang nói chuyện với đám bạn thì một kẻ lạ mặt xưng tên là Fley đến thách thức đe doạ. Không lâu sau đó một người khách lạ che mặt đến viếng thăm nhà Grimaud trong phòng làm việc khoá kín. Một tiếng súng nổ vang, mọi người ùa vào phát hiện Grimaud hấp hối nhưng hung thủ biến mất như có phép xuyên thấu. Fley đươc cho là nghi phạm nhưng sau đó mọi người phát hiện hắn bị bắn chết trên phố vắng đầy tuyết trước mặt 3 nhân chứng mà không ai thấy hung thủ. Tiến sĩ Fell sẽ giải đáp 2 tội ác bất khả thi như thế nào…”Người rỗng” hay có tên khác “3 cỗ quan tài” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Carr, một cột mốc quan trọng của thể loại trinh thám mật thất. Đây là một vụ án phức tạp với nhiều tình tiết rối rắm xoắn lại với nhau khiến người đọc phải cẩn thận theo dõi. Được cái tác giả khéo léo trong cách dẫn dắt và đan cài các tình tiết bí ẩn bất ngờ khiến người đọc tò mò và không bị nhàm chán. Chân tướng vụ án có thể mượn câu nói của Sherlock Holmes “khi ta loại trừ được các khả năng khác thì khả năng duy nhất còn lại dù phi lý đến đâu thì chính là sự thực”. Dĩ nhiên giải đáp của Fell có chi tiết trùng hợp một cách khó tin khiến bạn đọc sẽ phải ngẩn người kiểu “sao có thể như vậy được?” nhưng thì công nhận đó là cách giải đáp hợp lý nhất và kết nối được các chi tiết khó hiểu lại với nhau. Thủ pháp thì các bạn đọc trinh thám Conan hay Kindaichi sẽ thấy quen thuộc vì cuốn này đã viết gần 90 năm và motif kinh điển này đã được không ít hậu bối quen thuộc học tập biến tấu. Gần cuối tác giả có phần “mật thất giảng nghĩa” nổi tiếng thống kê các kiểu mật thất và biến tấu. Các bạn có thể tham khảo kĩ để mấy cuốn sau của Carr có thể suy đoán được tốt hơn. Nhưng cảnh báo mấy bạn quen kiểu đơn giản dễ vào của trinh thám Tung Của hay kiểu nhanh dồn dập của hiện đại Tây thì nên cân nhắc thận trọng. Dù vậy vẫn khuyến khích các bạn không nên bỏ qua cuốn kinh điển về suy luận mật thất này. P.S Đọc thể loại mật thất hơi mệt não nên sẽ đổi vị một cuốn nhẹ nhàng đã rồi quay về Carr sau. Chấm cá nhân 8/10. Nam Do *** Ta có thể dùng rất nhiều từ ngữ li kì để mô tả vụ sát hại giáo sư Grimaud, cũng như vụ án mạng ở phố Cagliostro sau đó vốn cũng phi thường không kém – quý độc giả sẽ sớm hiểu lí do vì sao thôi. Những người bạn của tiến sĩ Fell yêu thích các vụ án bất khả thi sẽ không thể tìm thấy trong sổ tay vụ án của ông một bí ẩn nào khó hiểu và kinh hoàng hơn thế này. Bởi, để gây ra hai vụ án này, hung thủ không những phải vô hình, mà còn phải nhẹ hơn không khí. Chứng cứ cho thấy hắn hạ sát nạn nhân đầu tiên và biến vào không khí theo đúng nghĩa đen. Chứng cứ cũng cho thấy hắn giết nạn nhân thứ hai ngay giữa một con phố vắng, có nhân chứng ở cả hai đầu. Vậy mà không một ai nhìn thấy hắn, và cũng không có dấu chân nào xuất hiện trên tuyết cả. Lẽ dĩ nhiên, chánh thanh tra cấp cao Hadley không bao giờ tin vào ma thuật. Và ông hoàn toàn đúng – trừ khi quý độc giả tin vào loại phép thuật sẽ từ từ được giải thích trong cuốn sách này vào thời điểm thích hợp. Nhưng có vài người bắt đầu phân vân không biết nhân vật bí ẩn rình rập trong suốt vụ án này có phải là một kẻ vô hình thật sự hay không. Họ bắt đầu tự hỏi nếu bỏ đi cái mũ, tấm áo choàng đen, và chiếc mặt nạ trẻ em, thì liệu có thật là không có gì bên trong không, như người đàn ông trong tác phẩm nổi tiếng của nhà văn H. G. Wells vậy. Nhưng dù có phải thế hay không thì kẻ giết người bí ẩn của chúng ta cũng đã đủ ghê rợn rồi. Đoạn văn mở đầu có dùng cụm từ “chứng cứ cho thấy”. Nhưng chúng ta phải rất cẩn thận với những chứng cứ không do mắt thấy tai nghe. Và để tránh những hiểu lầm không cần thiết, trong vụ án này quý độc giả phải được thông báo ngay từ đầu về những chứng cứ mà quý độc giả có thể tin tưởng tuyệt đối. Điều này có nghĩa là ta phải giả định rằng có người nào đó nói thật – nếu không thì làm gì còn bí ẩn nào nữa, và do đó, cũng chẳng có chuyện gì để kể. Vì thế hẳn phải giả định rằng anh Stuart Mills ở nhà của giáo sư Grimaud đã kể lại toàn bộ sự việc chính xác như những gì anh ta đã chứng kiến trong mỗi vụ án mà không nói dối, không bỏ sót, hay thêm thắt bất kì chi tiết nào. Và cũng phải giả định rằng ba nhân chứng độc lập trong vụ án ở phố Cagliostro (ông Short, ông Blackwin và cảnh sát Withers) đã nói đúng sự thật. Trong trường hợp này, cũng cần phải trình bày một trong những sự kiện dẫn đến hai vụ án trên một cách kĩ càng hơn thay vì để các nhân vật hồi tưởng lại sau này. Sự kiện này chính là điểm then chốt, là bước ngoặt, là thách thức. Và nó sẽ được thuật lại dưới đây theo đúng những gì có trong ghi chép của tiến sĩ Fell, với đầy đủ các chi tiết thiết yếu mà Stuart Mills đã khai với tiến sĩ Fell và chánh thanh tra cấp cao Hadley. Sự kiện này xảy ra vào đêm thứ tư, ngày sáu tháng Hai, ba ngày trước vụ án mạng, ở phòng khách phía sau của quán rượu Warwick trên phố Museum. Tiến sĩ Charles Vernet Grimaud đã sống ở nước Anh được gần 30 năm, và nói thứ tiếng Anh chuẩn giọng Anh. Mặc dù ông hành xử cộc lốc trong lúc hứng khởi, và có thói quen đội chiếc mũ quả dưa chóp vuông lỗi mốt và thắt chiếc ca vát dây màu đen, nhưng trông ông còn giống người Anh hơn cả bạn bè của mình. Không ai biết nhiều về quá khứ của ông. Dù đủ tiền sống mà không cần làm lụng, ông vẫn làm việc vì thích được “bận rộn” và cũng có thu nhập khá. Giáo sư Grimaud từng là một giáo viên, cũng như một giảng viên đại học, và một nhà văn nổi tiếng. Nhưng dạo này ông không làm gì mấy mà chỉ đảm nhiệm một chức vụ không lương gì đó ở Bảo tàng Anh. Đổi lại ông được tiếp cận cái mà ông gọi là “những bản thảo phép thuật cấp thấp”. “Phép thuật cấp thấp” là sở thích đem lại rất nhiều hứng thú cho ông: bất kì thứ ma quỷ siêu nhiên kì lạ nào, từ ma cà rồng cho tới lễ Đen thờ quỷ Satan, đều khiến ông gật gù và cười khúc khích như trẻ con – và chính nó cũng đã đem lại cho ông một viên đạn xuyên qua phổi. Nói chung, Grimaud là một người thông minh, với ánh mắt lúc nào cũng lấp lánh sự tinh quái. Ông nói nhanh nhưng với thái dộ cộc cằn và giọng nói ồm ồm cứ như gồng từ cuống họng lên, và ông có cái điệu cười khùng khục không hở răng. Ông có vóc dáng trung bình, nhưng lại có khuôn ngực tráng kiện và thể chất vạm vỡ. Mọi người ở quanh khu Museum đều quen với bộ râu đen được cạo ngắn đến mức nhìn như đang bạc dần, gọng kính đồi mồi, cùng dáng đi cương nghị mỗi khi ông rảo bước trên đường và giơ mũ chào hay giương ô lên ra hiệu cho họ môt cách vội vã. Ông sống trong một căn nhà cũ vững chãi ở phía tây quảng trường Russell cùng cô con gái Rosette, bà quản gia Dumont, thư kí Stuart Mills, và cựu giáo viên ốm yếu Drayman, một kẻ ăn bám được ông thuê để trông coi sách vở. Nhưng cánh hẩu thực sự của ông thì lại tụ tập ở một cái hội do chính họ lập nên ở quán rượu Warwick trên phố Museum. Họ gặp nhau bốn hay năm tối một tuần – một kiểu họp kín không chính thức – trong một căn phòng biệt lập phía sau quán được dành riêng cho mục đích này. Thực ra đây không phải là phòng riêng của họ, nhưng không có mấy người ngoài từ quầy bar đi lạc được vào đó, mà có vào cũng không được chào đón. Những thành viên thường trực của hội là một chuyên gia kể chuyện ma nhỏ con, đầu hói và kiểu cách tên là Pettis, anh chàng nhà báo Mangan và ông nghệ sĩ Burnaby. Nhưng chính giáo sư Grimaud mới là tiến sĩ Johnson của cả hội – đây là điều không thể bàn cãi. Ông cầm trịch mọi thứ. Gần như mọi tối trong năm (trừ thứ bảy và chủ nhật – những ngày ông dành riêng cho công việc), ông đều được Stuart Mills hộ tống tới quán Warwick. Ông luôn ngồi trên chiếc ghế bành ưa thích của mình trước ngọn lửa nóng rực, với một cốc rượu rum pha nước nóng trên tay, và hò hét diễn xướng theo phong cách mà ông ưa thích. Cuộc nói chuyện, Mills kể, thường rất tuyệt vời, mặc dù không một ai có thể tranh luận được với giáo sư Grimaud, ngoại trừ Pettis và Burnaby. Mặc cho vẻ ngoài nhã nhặn, ông là người rất nóng tính. Không ai bảo ai, mọi người đều hài lòng với việc ngồi yên lắng nghe kho kiến thức của ông về phép phù thủy và những trò phù phép bịp bợm mà kẻ gian trá sử dụng để lừa bịp kẻ cả tin, về tình yêu như trẻ con của ông với bí ẩn và kịch tính: nhiều khi ông kể chuyện về phù thủy thời trung cổ, để rồi vào phút chót lại đột ngột giải thích hiện tượng bí ẩn ấy theo đúng phong cách truyện trinh thám. Những tối như thế thật thú vị và luôn phảng phất phong vị của các quán trọ miền thôn dã, dù họ đang ngồi ấm áp trong một quán rượu dưới ánh đèn dầu của khu Bloomsbury. Những tối thật thú vị, cho tới buổi tối ngày mùng sáu tháng Hai, khi điềm báo của nỗi kinh hoàng ập tới đột ngột như cơn gió thổi toang cánh cửa.   Mời các bạn đón đọc Người Rỗng của tác giả John Dickson Carr.
Chiếc Bản Lề Cong
Nếu Người rỗng khiến óc suy luận của người đọc bị những nút thắt lắt léo gút chặt từng hồi thì Chiếc bản lề cong lại mở ra một vụ án mạng li kì phảng phất nét huyền bí. Ngày nọ, tại một điền trang yên bình do tòng nam tước John Farnleigh làm chủ, khách lạ bỗng xuất hiện tự xưng là John Farnleigh thật, tố cáo trang chủ mạo danh. Khi thật giả chưa phân thì một trong hai người chết một cách bí hiểm. Bốn bề không người nhưng trên cổ nạn nhân lại in hằn ba nhát dao đoạt mạng, cái chết kì lạ này dấy lên nhiều nghi hoặc cho các nhà điều tra. Ngoài yếu tố trinh thám, cốt truyện còn đan xen những tình tiết kì bí như người máy cổ biết cử động, tín đồ Quỷ Đạo đi dự hội lúc nửa đêm… khiến những người duy lý nhất trong một thoáng giây nào đó cũng phải chùng lòng. Trong vụ án này ai chân ai giả? Liệu có tồn tại một kẻ giết người hay phải quy tội ác vào phạm trù siêu nhiên? Khúc mắc chất chồng dẫn dắt độc giả đến với những thủ pháp bất ngờ và suy luận tài tình. Không những thế, thành công của Chiếc bản lề cong còn đến từ tính song hành của quá khứ và thực tại, của tội lỗi và lương tri bao trùm tác phẩm. *** “Đã là bí mật thì phải càng ít người biết càng tốt. Nếu có sẻ chia, thì chỉ nên sẽ chia trong phạm vi rất nhỏ mà thôi. Đông đến chục người không khỏi mất đi thú vị” Tôi đã quyết định biên một bài riêng cho cuốn này của John Dickson Carr, bởi lẽ sự thất vọng quá lớn với phần biên dịch của cuốn này. Dẫu biết, để in ra một cuốn sách là công sức của rất nhiều, mỗi lời chê bai đều phải cẩn thận vì có thể mình đã không hiểu hết lý do họ biên dịch như thế. Nhưng với tư cách là độc giả, chỉ là độc giả đơn thuần thì tôi nghĩ những điều tôi chê ở đây không phải không nên.   John Dickson Carr là ông hoàng mật thất, truyện của ông thường đặt ra những vụ án mà nếu nhìn qua đều là không thể thực hiện được. Chiếc bản lề cong bắt nguồn với câu chuyện của John Farnleigh, tòng nam tước và là chủ một điền trang yên bình. Một ngày nọ, người khách lạ bỗng dưng xuất hiện và tố cáo trang chủ hiện tại là người mạo danh. Khi tất cả đang nằm trong vòng nghi vấn thì một vụ án mạng xảy ra. Và dĩ nhiên, theo phong cách của John Dickson Carr, nơi án mạng xảy ra lại là nơi không thể có cách nghĩ nào ngoài cho rằng nạn nhân tự gây ra. Thế nhưng tất cả nhân chứng không nghĩ ra được tại sao nạn nhân lại chọn phương án đó, trong khi chỉ còn chưa đến 30 phút nữa là sự thật sẽ được sáng tỏ. Trong quá trình giải mã vụ án, những bí ẩn khác như Quỷ đạo, con người máy, những cái chết bí ẩn trước đó lại có liên quan mật thiết đến điền trang với vẻ bề ngoài bình yên đấy. Đây là một cuốn truyện với nội dung rất hay, xứng đáng là cuốn trinh thám của năm. Quả thực nếu không vì những câu dịch ngô nghê theo kiểu “after garden là sau vườn”, những đoạn văn dịch khô khan, và lối sử dụng ngôn ngữ không phù hợp khiến dù không muốn tôi vẫn phải nói đây là bản dịch rất tệ. Thứ nhất, tôi không khó chịu gì việc dùng những ngôn từ địa phương trong các bản dịch. Nhưng nó phải phù hợp. Cuốn Chiếc bản lề cong là 1 trong 3 cuốn thuộc series về Tiến sĩ Fell mà Đông A chọn dịch lần này. Trong khi 2 cuốn kia, không hề có 1 tiếng lóng nào, nhưng ở Chiếc bản lề cong, những từ như: hỉ, chi…xuất hiện quá nhiều, trong những đoạn hội thoại của các nhân vật. Điều này trái ngược hoàn toàn với phong cách của Tiến sĩ Fell ở trong Người rỗng và Vụ án viên nhộng xanh. Thứ hai, việc một cuốn sách sử dụng Ổng – ảnh khiến tôi khá khó chịu. Nên nhớ, với tiếng Anh chúng ta chỉ dùng 2 ngôi trong xưng hộ You – I. Việc dịch như nào là do dịch giả, và lạm dụng ngôn ngữ nói – thay vì ngôn ngữ viết khiến tôi cảm giác đang đọc một bản dịch từ Google Translate, tôi không thấy được sự nhiệt tình, cũng như sự tận tâm trong việc xuất bản một cuốn sách, đặc biệt lại là một cuốn trinh thám nổi tiếng của John Dickson Carr. Thứ ba, những đoạn văn được dịch càng làm tôi thấy người dịch không chỉn chu. Như “trên đường, ánh nắng chiếu lung linh trên rừng kính máy ảnh. Bên cạnh đàn ông, không thiếu những đàn bà.” “Giữa hàng lố đàn ông, Madeline quả là của hiếm, đem đến luồng gió thanh tân” “Trưa hôm sau, khi mưa ấm áp rơi, và mây đen phủ kín bầu trời thôn dã….Ngồi ghế dựa, ông thở nhẹ phì phò…” Tôi không hình dung nổi tại sao 1 cuốn sách lại có thể dùng những từ như lố đàn ông, của hiếm, mưa ấm áp, rồi đã thở nhẹ thì sao còn phì phò, với tôi…đây là lỗi ngữ pháp, và nó càng thể hiện việc thiếu trách nhiệm trong công việc. Tôi từng thấy thất vọng về những bản dịch sách của Simenon, tôi cũng từng thất vọng khi đọc Bắt trẻ đồng xanh. Nhưng đây là lần tôi bức bối nhất, tôi cảm thấy không chỉ là thất vọng mà chán chường. Một cuốn sách được làm ra, lẽ độc giả sẽ thấy hạnh phúc khi cầm trong tay, và được đắm chìm trong một cuốn sách hay thì sẽ thấy đời đẹp biết mấy. Thế nhưng khi cuốn sách hay được biên dịch không cẩn thận, tôi thấy…trong cuộc sống này, chẳng nhẽ lúc nào cũng tồn tại những điều đáng buồn đến thế chăng :”< Twine Aquarius *** Chiếc bản lề cong – John Dickson Carr Trinh thám là một trong những thể loại sách gây hứng thú cho người đọc nhất. Nó bắt người đọc phải lần mò từ những dấu vết nhỏ nhoi và từng chi tiết tưởng như không liên quan, để ghép lại tạo ra một bức chân dung hung thủ của vụ án. Trên thế giới đã có nhiều tác giả nổi tiếng, thành công nhờ những câu chuyện điều tra phá án ly kỳ của mình. Điển hình của thể loại này là Edgar Allan Poe – người tiên phong của nền trinh thám, Sir Conan Doyle với loạt truyện về thám tử Sherlock Holmes, nữ hoàng trinh thám Dame Agatha Christie, hay người được mệnh danh là “Ông hoàng mật thất”, nổi tiếng với các vụ án trong phòng kín – John Dickson Carr. CHIẾC BẢN LỀ CONG – JOHN DICKSON CARR Tác giả John Dickson Carr là tiểu thuyết gia trinh thám người Mỹ, cũng là một trong những gương mặt sáng giá nhất trong thời Kỷ Nguyên Vàng của thể loại trinh thám. Ông có nhiều tác phẩm làm nên tên tuổi của mình như “Người rỗng”, “Vụ án viên nhộng xanh”, hay “Chiếc bản lề cong” – cuốn sách mà mình muốn giới thiệu tới các bạn ngày hôm nay. “Chiếc bản lề cong” là một trong ba cuốn trinh thám cổ điển của tác giả John Dickson Carr mà Đông A mới cho xuất bản. Truyện thuộc thể loại “án mạng trong phòng kín” (locked-room mystery), nơi tội ác được thi hành bằng những thủ pháp tưởng như bất khả thi. Phía cảnh sát thì đau đầu phá án còn người đọc lại thấy đây là một trong những chủ đề hay và thú vị nhất. Bối cảnh câu chuyện được đặt ở địa hạt Kent, miền đông nam nước Anh. Tại đây có vị tòng nam tước John Farnleigh giàu có – người đang sống yên bình bên người vợ của mình là Molly thì bỗng nhiên dính phải vụ tranh chấp khó nhằn. Một người đàn ông lạ bước đến làng Mallingford nơi ông đang ở, tự xưng là John Farnleigh thật và yêu cầu trả lại vị trí thừa kế của mình trong dòng họ. Lạ một điều rằng cả hai người khi so với nhau lại chẳng hề có chung đặc điểm nào từ ngoại hình đến tính cách. Hai vị này đều mang vẻ tự tin, chắc chắn mình là chủ của điền trang Farnleigh, khiến cho những người chứng kiến đau đầu, không phân biệt nổi thật giả. Tranh chấp đang dâng đến cao trào thì một trong hai người bỗng chết một cách dã man. Hiện trường vụ án không thể kết luận là bị sát hại vì nạn nhân hoàn toàn chỉ có một mình, cũng không thể nói hiện trường một vụ tự tử vì có quá nhiều điều đáng lưu tâm. Ngoài ra, án mạng còn liên quan tới các yếu tố tâm linh, rùng rợn về nhóm Quỷ Đạo với tục thờ quỷ Satan, con người máy biết cử động, hay cả vụ đắm tàu Titanic năm 1912. Vụ án này được “chăm lo” bởi tiến sĩ Fell – nhân vật chính trong nhiều tiểu thuyết trinh thám ăn khách của John Dickson Carr. Điều mình ấn tượng nhất trong mọi cuốn trinh thám, cũng như nhiều người khác, là phần phá án ở cuối truyện. Plot-twist của cuốn này quá ổn. Đọc đến đoạn tưởng không thể bị lừa được nữa mà vẫn bị tác giả đẩy cho ngã ngửa. Câu chuyện được bao trùm bởi bí ẩn, điều này lại liên can tới điều kia. Nhưng may quá, tác giả không ôm đồm mọi thắc mắc đến cuối cùng mới chịu giải thích mà lần lượt được nhân vật khám phá ra trong quá trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi lớn nhất: Ai giết ngài John Farnleigh? Hệ thống nhân vật được xây dựng ổn, mỗi người một tính cách, không bị lẫn lộn. Truyện được bắt đầu bằng góc nhìn của Page, một tác giả viết sách. Chúng ta sẽ theo dõi câu chuyện từ đầu đến cuối bằng cách đi theo nhân vật này. Có lẽ vì các nhân vật đều được xây dựng tốt, thành ra tiến sĩ Fell – thám tử chính của câu chuyện – hiện lên khá mờ nhạt ở phần đầu và giữa truyện. Ông được miêu tả là một người to lớn, cảm giác choán hết cả không gian khi ngồi trong phòng của Page. Phần về tính cách của tiến sĩ lại không được miêu tả kỹ, chỉ nhận thấy ông có bộ óc suy luận siêu phàm cùng khả năng soi các chi tiết liên quan đến vụ án, kể cả ánh mắt của một người cũng khiến ông biết được chân tướng. Truyện mang không khí khá rùng rợn nhờ sự xuất hiện của các yếu tố độc dược, ma quái bùa chú, và sự bí ẩn của con người máy biết cử động. Độ hù dọa của truyện cũng khá nhẹ nên độc giả không cần phải lo lắng quá. Trong quá trình đi tìm sự thật, có nhiều sự kiện xảy ra, vừa rời rạc vừa móc nối với nhau khiến khán giả hơi rối nhưng đến cuối cùng vẫn được tiến sĩ Fell xâu chuỗi lại một cách hợp lý. Chiếc bản lề cong – tên cuốn sách – tưởng chẳng liên quan gì nhưng lại là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Tất cả các bí ẩn đều được giải thích một cách thuyết phục khiến người đọc thỏa mãn. Tóm lại, đây là một cuốn sách khá phù hợp cho những bạn yêu thích trinh thám cổ điển, thích phá án đơn thuần và mong muốn có một chút rùng rợn của bùa chú, ma thuật, những lần di chuyển dị thường của con người máy, hay thích thú trước sự liên quan đến một trong những sự kiện lớn của lịch sử như vụ đắm tàu Titanic năm 1912. Dieu Linh Nguyen *** CHIẾC BẢN LỀ CONG Chiếc Bản Lề Cong Tác giả: John Dickson Carr Dịch giả: Nguyễn Minh John Dickson Carr hiện đã được Đông A xuất bản 3 cuốn, và đây là cuốn đầu tiên tôi lựa chọn để đọc. Tôi đọc tác phẩm này mà không tìm hiểu quá nhiều về cuốn sách, chỉ biết rằng John Dickson Carr là ông hoàng của trinh thám mật thất, những vụ án không tưởng. Và quả nhiên, vụ án trong Chiếc Bản Lề Cong đúng là không tưởng. Một người đang sống sờ sờ bên mé sông, đột nhiên bị cắt cổ chết mà không ai nhìn thấy hung thủ, cũng không ai thấy được có người nào tiếp cận nạn nhân. Vậy nhưng, giả thiết nạn nhân tự vẫn có quá nhiều điểm bất hợp lý, lung lay dữ dội dù cho có nhiều nhân chứng cùng khẳng định không thấy ai tiếp cận nạn nhân. Cùng với đó là cuộc chiến hấp dẫn để tìm ra ai mới là John Fernleigh thật, những bí ẩn xoay quanh người máy biết cử động cùng hội kín chết người. Tôi không biết có phải là do vụ án lần này khá phức tạp rắc rối và cần rất nhiều thời gian để kể những câu chuyện trong quá khứ và đủ thứ bí ẩn ở hiện tại hay không, mà tiến sĩ Fell – thám tử chính của câu chuyện – có cá tính hơi mờ nhạt. Đỉnh cao của ông là ở khúc cuối với màn suy luận lật lại đầy bất ngờ, không thể tưởng tượng nổi. Cá tính của các nghi can trong cuốn này không quá mờ nhạt, đủ để nhớ mặt đặt tên từng người, nhưng không có ai thú vị như trong các tác phẩm của Agatha. Bí ẩn thì nhiều nhưng giải quyết được triệt để mặc dù nó khiến bí ẩn chính hơi mờ đi một chút. Nhưng bởi đây là lần đầu tiên tôi đọc một cuốn trinh thám với cái kết không tưởng có 1 không 2 kiểu như thế này, ấn tượng vẫn rất đậm nét. Cái tên Chiếc Bản Lề Cong tưởng không liên quan mà lại liên quan không tưởng, con người máy thì có tác dụng hù dọa rất tốt, làm tôi nhiều phen sởn gai ốc khi đọc trong đêm. Chốt lại thì Chiếc Bản Lề Cong đủ làm hài lòng các fan trinh thám cổ điển và khơi dậy hứng thú tìm đọc John Dickson Carr nhiều hơn. Nam Tran *** Tại Kent, ngồi cạnh cửa sổ hướng ra vườn, bên bàn viết bày bừa đầy sách vở, Brian Page cảm thấy ngán ngẩm, chẳng muốn làm việc. Nắng chiều tháng bảy chiếu qua khung cửa, nhuộm vàng sàn nhà. Cái nóng mơ màng làm dậy lên mùi sách và mùi gỗ, cả hai đều cũ kĩ như nhau. Phía trại táo sau vườn, một chú ong bắp cày lởn vởn bay vào. Page vẫn ngồi yên, chỉ khẽ xua nó đi. Bên kia vườn nhà Page, quãng trên quán trọ Bò Và Đồ Tể, con đường uốn khúc trong khoảng một phần tư dặm, giữa những nông trại trồng cây ăn trái, băng ngang cổng chính điền trang Farnleigh Close. Từ chỗ Page ngồi, có thể thấy cụm ống khói của điền trang thanh mảnh nhô lên, lẩn khuất sau những tàng cây. Ra khỏi điền trang, đường bò lên dốc, vắt qua cánh rừng mang cái tên đầy thơ mộng là Rèm Treo. Đất vùng Kent vốn bằng phẳng, pha màu xanh tái, nâu nâu, vốn hiếm khi rực rỡ, thế mà giờ đây trông chói lóa. Ngay các ống khói gạch của điền trang cũng như nhấp nhoáng sắc màu. Từ điền trang, xe Nathaniel Burrows chạy dọc theo đường, tốc độ chậm song phát ra âm thanh ầm ĩ, đứng xa tít cũng nghe thấy. Cái làng Mallingford sao lắm chuyện thế, Brian Page ngồi lười nhớ lại. Lắm chuyện thật chứ chẳng chơi, có bằng chứng hẳn hoi. Mới hè rồi, cô Daly ngực bự bị một gã lang thang bóp cổ chết, đoạn chính gã ấy cũng chết một cách rất li kì, khi đang cố vượt đường ray. Và tháng bảy này, vừa tuần trước thôi, hai người lạ bỗng xuất hiện tại quán Bò Và Đồ Tể trong hai ngày liên tiếp. Một người là nghệ sĩ. Người kia (chả biết nghe ai nói) là thám tử. Cuối cùng đến chuyện hôm nay: Bạn của Page, Nathaniel Burrows, luật sư khu Maidstone, cứ chạy tới chạy lui đầy bí ẩn. Không ai biết rõ, nhưng dường như tại Farnleigh Close xảy ra sự không hay. Trước đó, như thường lệ, Page nghỉ tay vào giấc trưa, ghé Bò Và Đồ Tể làm một vại bia trước khi dùng bữa. Nhưng ngồi trong quán mãi chẳng nghe thấy ai đồn thổi gì. Thật bất thường! Page ngáp dài, đẩy sách sang bên. Chuyện gì đang khuấy động Farnleigh Close nhỉ? Từ đời vua James Đệ Nhất, thuở Inigo Jonesxây nên điền trang cho vị tòng nam tước đầu tiên, bên ấy có mấy khi động tĩnh đâu. Dòng họ Farnleigh truyền mãi lâu dài đến ngày nay, đời đời đều ở đấy. Ngài John Farnleigh, vị tòng nam tước xứ Mallingford và Soane hiện tại, kế thừa từ cha ông một tài sản lớn và ruộng đất phì nhiêu. Ngài Farnleigh da ngăm, tính hơi thất thường. Vợ ngài là Molly thì thẳng thắn. Page quý mến cả hai. Cuộc sống nơi đây phù hợp với Farnleigh, nên ngài sung sức lắm. Quả tình, trông ngài là biết ngay điền chủ, dù bấy lâu nay ngài sống ở xa, gần đây mới quay về. Tại Farnleigh Close, ngài cũng bệ vệ, thông thường như mọi ông chủ khác, nhưng thực sự, đời ngài vốn lãng mạn, li kì như tiểu thuyết, khiến Page phải mê. Li kì từ chuyến hải hành đầu tiên, cho đến đám cưới với cô Molly Bishop hơn một năm trước. Những chuyện ấy càng chứng tỏ làng Mallingford là nơi thú vị lạ thường. Hết ngáp và cười vu vơ, Page cầm bút lên. Trời ạ, lại phải làm việc rồi! Page nhìn xuống tác phẩm dang dở bên dưới khuỷu tay. Cuốn Cuộc đời các chánh thẩm nước Anh này, anh muốn nó vừa mang tính hàn lâm, vừa hấp dẫn đại chúng. Đến nay, việc viết lách diễn ra tốt đẹp, không thể mong gì hơn. Page đang viết đến ngài Matthew Hale. Thôi thì những ngoại truyện, những việc bên lề cứ chen nhau tràn vào trong sách. Mà chúng tràn vào chẳng qua vì Page không muốn đuổi chúng đi. Nói thẳng ra, Page chẳng mong sẽ hoàn thành được cuốn sách. Ngay hồi còn học luật, anh đã có thái độ “tưng tửng” như vậy. Anh quá nhác, không thể viết sách theo lối học thuật chân chính, nhưng bởi thích tìm tòi và dẫu sao cũng là thức giả, nên bỏ hẳn học thuật đi thì lại không an lòng. Soạn xong sách hay không chả quan trọng. Nhưng Page tự răn mình phải làm việc, rồi cứ thế thoải mái sục sạo vào đủ các ngõ ngách mê li của chủ đề. Cuốn sách bên cạnh Page đề dòng chữ: Phiên xử phù thủy, tòa lưu động, tại Bury St. Edmonds, hạt Suffolk, diễn ra ngày 10 tháng 3 năm 1664, trước sự hiện diện của ngài Matthew Hale, hiệp sĩ, chánh thẩm Pháp viện Tài chánh Hoàng gia in cho D. Brown, J. Walthoe, và M. Wotton, 1718. Đấy là một ngõ ngách Page vừa dạo qua. Dĩ nhiên, ngài Matthew Hale chẳng dính líu bao nhiêu tới phù thủy. Song điều đó chẳng ngăn Page viết tới nửa chương nếu cảm thấy thích. Thở một hơi khoan khoái, Page lôi xuống từ kệ một cuốn sách đã sờn của Glanvill. Vừa bắt đầu săm soi sách, anh nghe tiếng bước chân trong vườn, rồi tiếng gọi bên ngoài cửa sổ. Chính là Nathaniel Burrows, tay đang đung đưa cặp tài liệu, làm một cử chỉ chẳng ra dáng luật sư tí nào! Mời các bạn đón đọc Chiếc Bản Lề Cong của tác giả John Dickson Carr.
Hắc Miêu Quán
Trong rừng mù sương tồn tại một ngôi nhà lớn, tên là Hắc Miêu Quán, kiến trúc cũng không lấy gì làm kì dị lắm trừ hai điểm. Một là chong chóng trên nóc mang hình mèo chứ không phải gà như thường thấy. Hai là lại thiết kế bởi thiên tài lập dị Nakamura Seiji. Quản gia của Hắc Miêu Quán mất trí nhớ, quên sạch sự kiện và cả tên mình sau một vụ cháy. Tha thiết tìm lại quá khứ để chết còn nhắm mắt được, quản gia đã đem Nakamura ra làm mồi nhử fan bự của ông ta đến nhà này.  Cùng với người bạn đồng hành trẻ tuổi Conan, fan bự đã đến, và đi lạc vào một thế giới hai mặt. Hắc Miêu Quán là cuốn thứ sáu trong series trinh thám Quán của Yukito Ayatsuji, đi liền sau Thời Kế Quán. Nếu Thời Kế Quán gây ấn tượng bởi thiết kế huy hoàng, bẫy rập tinh vi, nạn nhân đông đảo đặt trong dòng thời gian đằng đẵng pha lẫn quá nhiều kí ức khổ sở, nhân thân phức tạp cùng lời chứng nhỏ vụn đến mức dễ bỏ qua, thì Hắc Miêu Quán lại tự khẳng định bằng chất mạch lạc tối giản. Tối giản về kiến trúc, tối giản về nhân vật, tối giản về động cơ… nhưng lại thâm thúy và khó lường ở ý tưởng xây dựng, đây cũng là mánh khóe lớn nhất mà sự khám phá thuộc độc quyền của ngài thám tử cao gầy, như cây tre miễu. *** Thập Giác Quán (1987) là cuốn tiểu thuyết đầu tay thuộc thể loại trinh thám cổ điển của nhà văn Yukito Ayatsuji. Tác phẩm nằm trong series Quán: Thập Giác Quán – 1987; Thủy Xa Quán – 1988; Mê Lộ Quán – 1988; Hình Quán – 1989; Chung Biểu Quán – 1991; Hắc Miêu Quán – 1992; Hắc Ám Quán – 2004; Kinh Hoàng Quán – 2006  Kỳ Diện Quán – 2012. *** Tác giả: Yukito Ayatsuji. Dịch giả: Hải Yến Thể loại: Trinh thám Nhật. Mức độ yêu thích: 8.5/10 Tôi thật sự thích “Thập giác quán” dù nhiều người chê truyện đó, nên tôi đã đọc toàn bộ những cuốn Quán đã được dịch tiếng Việt + bộ Another của tác giả Yukito Ayatsuji, thậm chí còn nhớ được cái tên (hình như là bút danh) khá dài và rắc rối của ông tác giả này (tác giả là nam, không phải nữ). Giữa hai cuốn mới mua gần đây là “Thời kế quán” và “Hắc miêu quán” thì tôi chọn đọc mèo đen trước vì cuốn này mỏng và bìa ngoài xấu. HẮC MIÊU QUÁN   Một năm trước, một nhóm bốn người bạn – trong đó có con trai chủ nhà – ghé Hắc Miêu Quán để nghỉ dưỡng (thực chất là để ăn chơi + hút cỏ). Họ nhận được sự tiếp đón miễn cưỡng của ông quản gia già. Hắc Miêu Quán là tòa nhà màu đen bí ẩn nằm trong sương mù, tường ngoài đen, tường trong xen kẽ gạch đỏ – trắng, trên mái nhà có chong chóng hình mèo, cũng được thiết kế bởi kiến trúc sư lập dị đã thiết kế các tòa “Quán” khác. Tuổi trẻ ham vui, hai trong số bốn người lái xe đi dạo và đưa về một cô gái trẻ. Trong cuộc ăn chơi thác loạn nửa đêm, án mạng đã xảy ra. Thay vì báo cảnh sát, những người trong nhà thông đồng với nhau để giấu xác, trong khi ngay chính họ cũng không biết ai là thủ phạm. ____ Bối cảnh chuyển đến một năm sau, khi một nhà văn trinh thám cùng người bạn trẻ tuổi của mình tình cờ đọc được sổ ghi chép về những chuyện đã xảy ra, được viết bởi người quản gia Hắc Miêu Quán. Do hoàn cảnh đưa đẩy, họ quyết định tìm đến địa điểm đã xảy ra án mạng để thỏa mãn trí tò mò – chứ không phải để điều tra. Trừ cuốn “Nhân hình quán” mà tôi cho rằng kém hay nhất trong những cuốn Quán tôi từng đọc, nhìn chung thì tôi thích chất trinh thám suy luận + khả năng xây dựng cốt truyện tài tình và đầy tính đánh đố của tác giả Yukito. Hầu như cuốn nào cũng khiến tôi có chút hồi hộp trong khi đọc, thỉnh thoảng vỡ òa những chi tiết bất ngờ (tôi cũng có cảm giác tương tự như khi đọc truyện của một tác giả yêu thích khác của mình là Jeffery Deaver). “Hắc miêu quán” tuy mỏng nhỏ nhưng chứa đựng đầy đủ sự thú vị cuốn hút cần có của một quyển trinh thám, động cơ nghe cũng hợp lý, cách lý giải của (các) vụ án mạng trong cuốn này không quá ảo và khiên cưỡng như trong cuốn “Hokkaido Mê trận án”. Cách xử lý cuối truyện cũng khiến tôi tương đối hài lòng dù nghĩ kỹ lại thì tôi không nên hài lòng với kết cuộc đó! Vốn có một sự yêu thích nhất định đối với văn hóa Nhật nói chung và trinh thám Nhật nói riêng nên tôi hoàn toàn ổn và rất kiên nhẫn với những tên người + tên địa danh dài ngoằng trong truyện Nhật, cụ thể là trong cuốn “Hắc miêu quán” này, nhưng thú thật đôi lúc những cái tên bốn chữ + họ bốn chữ (tức là tên họ ghép lại đọc đến tám âm tiết) cứ trôi tuột khỏi đầu tôi như nước đổ lá khoai, may mà tôi vẫn nắm được là đang nói đến nhân vật nào. Trong truyện có một chi tiết thú vị khiến tôi thích, đó là “Kawaminami” được gọi thành “Conan”, nếu ai có hiểu biết về Kanji của tiếng Nhật sẽ hiểu ngay vì sao một cái tên dài nhằng có thể gọi lại ngắn gọn như vậy. Bên cạnh đó, tuy tác giả đã rất tử tế vẽ sơ đồ đầy đủ của Hắc Miêu Quán (cuốn Quán nào cũng có sơ đồ tòa nhà và danh sách nhân vật đầy đủ tên tuổi nghề nghiệp) nhưng tôi vẫn loạn lên với các địa danh và phương hướng, do đó chỉ chú ý đọc xem diễn tiến truyện ra sao. Với khả năng tiếp thu chỉ 70% truyện như thế, tôi vẫn kết luận rằng mình thích cuốn “Hắc miêu quán” này, mức độ yêu thích ngang bằng với “Thủy xa quán” nhưng kém “Thập giác quán” một chút. Từ lần đầu nhìn thấy bìa “Hắc miêu quán” thì tôi đã không thích lớp bìa ngoài vì trông nó tối tăm mù mờ và không đẹp, nhưng tôi hài lòng với bìa trong của sách. Tuy không tán đồng cách làm sách có hai lớp bìa (vì sẽ tốn tài nguyên giấy, hại môi trường) nhưng tôi thích những cuốn hai lớp bìa như rứa, nếu không thích lớp áo thì có thể lột áo để trần trụi với nhau. Cũng như những cuốn khác của IPM, “Hắc miêu quán” được dịch thuật và biên tập kỹ, trình bày đẹp, trong cuốn này tôi không phát hiện lỗi chính tả hay lỗi in ấn nào. Sách nhỏ mỏng nên với kiểu đọc thiếu tập trung thì tôi đọc xong trong hai ngày, nếu chú tâm chắc có thể đọc xong trong nửa ngày. Cuốn này đã góp phần củng cố tình cảm và sự trung thành của tôi đối với series Quán của tác giả Yukito Ayatsuji. (Sea, 22-5-2020) Cáo Biển Non Xanh *** CHỦ NHẬT 8/7/1990 VÙNG HỒ AKAN, TỈNH HOKKAIDO* Ba người đứng trước cổng, sương mù có vẻ như đã chờ đợi khoảnh khắc này từ rất lâu, dần lan ra từ cánh rừng vân sam rộng mênh mông sau lưng họ. Kawaminami Takaaki khẽ xoa lên phần cánh tay lộ ra khỏi ống sơ mi cộc tay của mình, sau đó xoay người lại. Chiếc xe con chở họ đang đỗ phía trước khoảng vài mét, gần như chặn quá nửa con đường nhỏ hẹp dẫn vào rừng. Thân xe màu xám đã sớm hòa vào màn sương trắng xóa. “Sương dày thật đấy.” Đứng trước Kawaminami vài bước chân, một người cao lớn mặc áo khoác xanh nõn chuối khẽ lẩm bẩm. “Ái chà. Tôi có cảm giác màn sương đuổi theo mình từ Kushiro*.” Người này là nhà văn trinh thám Shishiya Kadomi. Anh ta gầy trơ xương, thân hình cực kì mảnh khảnh. Shishiya đưa tay vuốt mái tóc xoăn mềm, đồng thời gỡ cặp kính đen xuống, quan sát người đàn ông đứng bên cạnh. “Sao rồi, ông Ayuta? Ông có nhớ ra được điều gì không?” “Hừm…” Ayuta Toma ngẩng lên nhìn cánh cổng trước mặt, im lặng hồi lâu, mãi sau mới chịu lên tiếng, “Tôi thấy rất quen.” Giọng ông ta nghe chảng có chút tự tin nào. Ayuta là người gầy gố ốm yếu, lưng hơi gù, cùng lắm chỉ tầm sáu mươi tuổi, nhưng điệu bộ, cử chỉ trông già nua lắm rồi. Ông đội mũ không vành màu nâu để che đi cái đầu hói, mắt trái đeo chụp mắt màu trắng. Quanh chụp mắt là một vết sẹo bỏng rất lớn, lan tới tận gò má và quai hàm, khiến người ta không dám nhìn lâu. Dõi theo ánh mắt Ayuta, Kawaminami cũng nhìn về phía cổng chính. Cổng này rất cao. Trụ cổng bằng đá màu nâu thẫm sừng sững trông chẳng khác nào thân cây mọc lên từ đám cỏ dại. Không thấy biển số nhà, như thể ngay từ đầu đã chẳng hề có. Cánh cửa chia ô bằng đồng cũ nát khủng khiếp. Hàng rào đồng đen ở hai bên ngăn cách ngôi nhà với khu rừng xung quanh. Màn sương dày lặng lẽ len qua các ô vuông trên cổng. Khi nãy mới xuống xe, họ còn thấy thấp thoáng đường nét ngôi nhà, nhưng giờ nó đã biến mất trong màn sương trắng xóa. Mối chốt cổng quấn xích sắt màu đen, phía trên treo một ổ khóa, nhìn rất chắc chân. Shishiya tiến lên, bám hai tay vào khung sắt lắc thử, cánh cổng không hề nhúc nhích. “Shishiya, anh nhìn bên kia Ida.” Kawaminami trỏ sang trái cổng, “Nhìn xem! Bên đó có cổng phụ.” “Hả? Có thật này.” Cổng phụ nằm ở mé bên cổng chính, phía trong là chốt cài đơn giản, chỉ cần luồn tay vào ô vuông cửa là dễ dàng mở ra. Phải nói là khá may. Nếu có mỗi Shishiya và Kawaminami, cả hai có thể trèo cổng hoặc dùng cách khác vào trong, nhưng vì còn có ông Ayuta đồng hành nên không tùy tiện như thể được. “Vào thôi, Conan.” Shishiya mở cửa, quay đâu nhìn hai người còn lại, “Ông Ayuta, chúng ta vào thôi.” Khoác chiếc cặp cùng màu áo khoác lên vai, Shishiya đi trước, bước qua cổng phụ chật hẹp. Ông Ayuta lập tức nối gót, tay phải chống ba toong màu nâu. Kawaminami đi sau cùng. Cả ba rón rén tiến vào giữa lớp sương trắng dày đặc. Bốn bề vang vọng tiếng chim rừng. Giờ đã là đâu tháng Bảy, dù đang giữa trưa nhưng trời chẳng hề ấm lên. Kawaminami thấy lạnh, lại xoa xoa lên cánh tay. Cậu hối hận vì để áo len trên xe, không mang ra ngoài. Mặc dù tầm nhìn bị sương dày cản trở, không thể quan sát rõ ràng, nhưng sân trước có vẻ khá rộng rãi, đâu đâu cũng thấy cây cối mọc xum xuê. Kích thước và độ cao của các cây không hề giống nhau, có cây chưa tới một mét, cố cây lại cao ba, bốn mét liền. “Conan, nhìn kìa!” Shishiya tiến lại gần một cây, quan sát cành lá rồi nói, “Đây là cây hoàng dương, trông cứ tưởng rất lâu rồi chưa được tỉa tót, nhưng nếu quan sát kĩ sẽ thấy bên trong còn lưu lại dấu vết tia cành.” “Tia cành ư?” “Chính là cắt tia cành định kì đế tạo dáng cho cây đấy.” Bằng chứng đây. Cậu nhìn xem, nó có hình gì?” “Hình…” Kawaminami nhìn chằm chằm vào cây, không nói nên lời. Cậu chợt nhớ tới một đoạn trong sổ ghi chép: Trước đây, cây cối trồng ở sân trước được tỉa tót thành hình các con vật. Có thể do màn sương mờ huyễn hoặc, thoáng nhìn qua sẽ thấy bóng cây này giống một con mèo to. Lẽ dĩ nhiên, cái tên Hắc Miêu Quán cũng có ảnh hưởng nhất định tới tâm lý cậu lúc này. Shishiya khẽ vuốt cái cầm nhọn của mình, giẫm lên đám cỏ dại mọc cao quá bàn chân rồi xoay người lại. Ông Ayuta đứng cạnh anh, không ngừng ngó nghiêng tứ phía. Ít nhất thì trước tháng Chín năm ngoái, ông vàn còn là quản gia của nhà này. Ông lão mất trí nhớ đang cố gắng tìm lại những mảnh vụn kí ức trong đầu mình. Có thể màn sương phiền phức đã khiến người ta mất đi cảm giác vốn có. Vắt ngang qua khoảng sân trước rệu rã là lối đi lát gạch đỏ chừng vài trăm mét đản đến ngôi nhà trước mặt. “Cuối cùng cũng tới.” Shishiya thốt lên, “Đây là Hắc Miêu Quán sao?” Trên tường xám bụi bẩn là dãy cửa sổ nhỏ hình chữ nhật. Mái nhà dốc cao, tạo thành hình chóp nhọn. Thoạt nhìn, ngôi nhà nhỏ hai tầng này chẳng có gì kì lạ, nhưng chỉ riêng việc nằm ẩn mình trong khu rừng ít người qua lại ở Hokkaido cũng đủ khiến người ta cảm thấy bất thường. Hơn nữa, hai mươi năm trước, chính Nakamura Seiji đã thiết kế ngôi nhà này. Nghĩ tới việc mùa hè năm ngoái, ở đây đã xảy ra sự kiện được viết lại trong cuốn sổ ghi chép kia, Kawaminami vẫn thấy nổi hết da gà. “Cái chong chóng mèo ở đâu nhi?” Shishiya đứng thẳng người, ngước lên nhìn mái nhà. Kawaminami bắt chước anh, ngẩng đầu ngó quanh quất nhưng không thấy con mèo đâu. “Kia!” Ông Ayuta giơ cánh tay đang chống gậy lên, “Ở kia kìa, đã nhìn thấy chưa?” Theo hướng ông chỉ, mọi người nhìn về phía mé phải ngôi nhà, trên chỗ mái cao nhất là một cái bóng xám nhạt. Thông thường, trên mái nhà hay đặt chong chóng gió hình con gà, nhưng ở đây lại thay thế bằng chong chóng hình động vật khác. Tuy khó quan sát thực hư qua màn sương mù dày đặc, nhưng có thể thấy được mũi tên này không hề giống con gà. “Là cái kia sao?” Shishiya nhìn lên mái, hai tay khoanh trước ngực, toàn thân bất động. Bỗng nhiên, anh nghiêng nghiêng cái đầu, thấp giọng lẩm bẩm mấy câu rồi xoay người lại nói với ông Ayuta, “Chúng ta vào trong thôi.” “Nhưng cửa bị khóa rồi.” Kawaminami nhắc nhở, Shishiya lại khẽ nhún vai. “Thì nghĩ cách đi. Vất vả lắm mới tới được đây, không thể ra về tay không được.” “Tất nhiên.” Một cơn gió lớn chợt thổi qua, cây cối trong vườn xào xạc. Lớp sương mù dày đặc cuối cùng cũng chịu tản đi, ánh nắng giữa trưa lập tức trải đầy trên mặt đất. “Được rồi, chúng ta vào thôi!” Shishiya gọi lớn rồi bước tới hàng hiên vừa được ánh nắng chiếu rọi của Hắc Miêu Quán. Kawaminami liếc nhìn một lần nữa cái chong chóng mèo đang liên tục đổi hướng, kêu lách cách trên mái nhà. Sau đó, cậu mới cùng ông Ayuta bước vào trong. Mời các bạn đón đọc Hắc Miêu Quán của tác giả Yukito Ayatsuji & Hải Yến (dịch).