Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngang Qua Thị Trấn Ngàn Mây

“Trong lòng đa số người, quê hương sau này sẽ trở thành một chấm màu đen, như hòn đảo lẻ loi ngàn đời không thay đổi.” Lưu Thập Tam sinh ra và lớn lên ở thị trấn Ngàn Mây – nơi có một tiệm tạp hóa với đống hàng hóa chồng chất theo năm tháng và những con người đã để lại vô vàn dấu ấn không sao xóa nhòa trong ký ức cậu. Cả một tuổi thơ sôi nổi và êm đềm, cậu đều trải qua bên bà ngoại ở nơi đây. Con người ta chỉ biết trân trọng những thứ mìnhy có khi nó dần tan biến. Rời khỏi thị trấn, bước chân trên con đường “trưởng thành”, Lưu Thập Tam mới dần thấu hiểu: những hồi ức đẹp đẽ nơi trấn nhỏ chính là một thứ vô cùng quý giá – là mái ấm, là góc nhỏ bình yên trong lòng cậu, để mỗi lần đối mặt với gian nan, mệt mỏi, thất bại và tuyệt vọng đến sức cùng lực kiệt, Lưu Thập Tam biết, vẫn luôn có một nơi gọi là “quê hương” che chở cho cậu khi trở về. Đây là một câu chuyện dành tặng cho những bi thương, vất vả, những giọt nước mắt tủi vô thức nơi khóe mắt mỗi chúng ta khi bước trên đường đời, cũng chính là những hy vọng và tia sáng không bao giờ tắt dẫn lối cho ta tiến về phía “trưởng thành”. *** NÚI RỪNG, GỐC ĐÀO, VƯƠNG OANH OANH “Bà ơi, sao trời cao thế?” Bà đáp: “Con có thấy mây không? Đó là cánh của trời đấy.” Đầu hè, dưới mái hiên, Lưu Thập Tam cắn hết vốc hạt dưa, bảo bà ngoại: “Con cảm thấy có người đang nhớ bà cháu mình.” Bà đáp: “Nhớ có ích gì, sao không cho tiền ấy.” Cát cánh nở đầy thị trấn, bồ công anh bay vượt qua tán lựu, dạt vào ruộng lúa dưới chân núi. Trong lòng đa số người, quê hương sau này sẽ trở thành một chấm đen, như hòn đảo lẻ loi ngàn đời không thay đổi. Bà ngoại nói, tổ tiên đời đời chôn cất ở đây, nên gọi là quê hương. Thị trấn nhỏ trong núi, tựa như đội đất chui lên. Từ khi đỗ đại học rồi rời quê, ngoài những dịp lễ Tết ra, Lưu Thập Tam chẳng bao giờ trở lại. Bà ngoại tên đầy đủ là Vương Oanh Oanh, mở quán tạp hóa tại nhà đã mấy chục năm. Bà mặc áo ngắn tay hoa nhí, mái tóc bạc phơ vấn thành búi, cánh tay giấu trong bao tay áo, tất bật chạy qua chạy lại. Trời ấm dần lên, bia bán chạy như tôm tươi, bà chồng từng két bia lên rồi hổn hển lau mồ hôi, “Mày có phụ một tay không, không làm bà giết.” Lưu Thập Tam rầu rĩ đáp: “Con không ở mãi xó rừng rú này được đâu.” Bà hỏi: “Bán bảo hiểm thế nào rồi, có kiếm được không?” Lưu Thập Tam thở dài, “Tiền không quan trọng, con đang khởi nghiệp mà.” Trong sân trồng một cây đào, bà đứng dưới gốc cây, cầm chổi quét sân, liếc xéo cậu: “Hay thế này, bà bán quách nhà đi, cho mày tiền khởi nghiệp nhé?” Lưu Thập Tam ôm chầm lấy bà, “Con yêu bà nhất.” Bà đá cậu ra, “Thôi thôi, tránh ra đi.” Lưu Thập Tam hỏi: “Trưa nay ăn gì ạ?” Bà châm điếu thuốc, đáp: “Ai rỗi hơi lo cơm cho mày, đi kiếm tiền đi.” Tháng Sáu, ve đã râm ran từ lâu, kêu ra rả không dứt, khi gần khi xa, ong ong như cơn ù tai khi vừa thức dậy. Bà ngoại thò đầu vào cửa giục: “Kiếm nhiều tiền vào, tối nay bà mời cơm, uống hai chén.” Hai chén rượu với Vương Oanh Oanh chẳng thấm vào đâu. Tối qua bà ít nhất phải uống đến hai chục chén, ngà ngà mắng cậu: “Thất tình có gì mà buồn, yêu đứa khác đi!” Lưu Thập Tam chống chế: “Nhưng con chưa quên được cô ấy.” Bà ngoại xót xa ôm lấy cậu, dịu dàng dỗ: “Mày xấu nên người ta bỏ là phải. Người ta xinh nên mày không quên được là đúng. Muốn khóc thì cứ khóc đi, bà thương mày, bà xui xẻo.” Lưu Thập Tam khẽ cựa mình, phát hiện bà ôm rất chặt, bèn quờ lấy bình rượu tu cạn rồi thiếp đi trong lòng bà. Chắc bà chẳng nhớ chuyện tối qua, nên vẫn hăng hái như thường. Lưu Thập Tam bị đá ra cửa, ngoái lại trông thấy nửa thân đào cao vượt khỏi tường vây, bảng hiệu cũ kỹ của quán tạp hóa treo lủng lẳng trên cửa, có mây trắng núi xanh xa xa làm nền. Lưu Thập Tam thật sự bó tay hết cách. Mấy hôm trước, cậu còn đang nai lưng đi làm ở thành phố, cuối cùng vừa thất tình vừa thất nghiệp, đau lòng khôn tả. Vương Oanh Oanh xách hai chai rượu gạo đến chỗ cậu ở, chuốc cho cậu say mèm rồi lôi về. Bà cụ bảy mươi tuổi lái máy kéo cả đi cả về hai trăm cây số, trói thằng cháu ngoại say bí tỉ trong thùng xe. Bà than thở: “Đường xóc quá, thằng ngốc này thì nôn liên tục như đứa thiểu năng. Hơi một tí lại phải xuống xe lau cho nó. Khổ quá đi mất.” Lưu Thập Tam tỉnh lại, trợn tròn mắt nhận ra mình đang nằm trong căn nhà nhỏ giữa núi. Khó khăn lắm mới rời khỏi quê, quyết tâm làm nên sự nghiệp, nào ngờ lại bị Vương Oanh Oanh lái máy kéo tới, lôi về thị trấn Ngàn Mây. Ngôi nhà này lưu giữ tuổi thơ của Lưu Thập Tam. Mỗi khi tan học, cậu lại lẽo đẽo bám lấy bà ngoại hỏi đủ thứ chuyện. Thằng bé hỏi: “Bà ơi, sao trời cao thế?” Bà đáp: “Con có thấy mây không? Đó là cánh của trời đấy.” Chẳng biết từ lúc nào, rất nhiều chuyện đã rất nhiều năm. Từ nhỏ đến lớn đều là bà đóng học phí cho cậu, mà thu nhập của bà chủ yếu bắt nguồn từ quán tạp hóa Oanh Oanh. Từ khi cậu hiểu chuyện, bà đã ngậm điếu thuốc, lái máy kéo rong ruổi khắp núi rừng, hàng hóa chất thành đống trong thùng xe. Thuở bé, Lưu Thập Tam giận bà vì vô số việc, nhưng chủ yếu là ba chuyện: Một, cho ít tiền tiêu vặt. Hai, chơi mạt chược quá nhiều. Ba, không tôn trọng mơ ước của cậu. Mỗi lần cậu nói: “Bà chơi ít thôi, dành tiền cho con này, để con thực hiện ước mơ.”, bà ngoại lại nghi ngờ hỏi: “Mày mới học lớp Bốn, mơ mộng cái gì?” Lưu Thập Tam đáp: “Đỗ vào Thanh Hoa, Bắc Đại, rời khỏi Vương Oanh Oanh, đến thành phố lớn.” Nghe vậy bà liền vơ dao đuổi cậu chạy khắp phố. Lưu Thập Tam trèo tót lên cây, nghiêm trang nói vọng xuống: “Bà ngoại, con nói cho bà biết, bà phải tôn trọng mơ ước của con.” Bà đáp: “Không thích ở với bà, định học theo mẹ mày, lẳng lặng bỏ đi đấy phải không?” Lưu Thập Tam đáp: “Con không học theo mẹ, con gửi tiền cho bà, tám vạn mười vạn đều vô tư!” Bà bổ dao vào gốc cây, “Bà đợi thế nào được đến lúc ấy, mày cứ đưa tiền mừng tuổi năm ngoái ra đây đã.” Lưu Thập Tam ngớ người rồi òa khóc thảm thiết, “Xấu hổ lắm! Con không học tiểu học nữa đâu! Con thi luôn vào Thanh Hoa, Bắc Đại, lấy vợ sinh con thôi!” Mười bốn năm trước, bà ngoại nhận được một bức thư. Bà không biết chữ, nhưng cũng không đưa cho Lưu Thập Tam đọc mà cất vào hộp bánh quy thiếc cùng mấy món trang sức. Bấy giờ Lưu Thập Tam tò mò lục ra xem rồi lén lút viết một bức thư trả lời, gửi theo địa chỉ ghi trên đó. Cậu viết rất đơn giản: Xin chào, con tên Lưu Thập Tam, cháu ngoại bà Vương Oanh Oanh, hai bà cháu sống rất chật vật, gửi cho ít tiền đi. Từ đó, cậu còn háo hức chờ hồi âm hơn cả bà. Giữa con phố chính của thị trấn là cửa hàng mậu dịch cũ, về sau sửa thành nhà thờ. Trước cửa hàng có một hòm thư, đối diện quán bánh bao. Lưu Thập Tam đeo túi chéo, hỏi bác Trần bưu tá: “Có thư của cháu không? Có thì nhớ đưa cho cháu, đừng đưa cho bà Vương Oanh Oanh.” Bác hỏi lại: “Sao vậy?” “Bác già rồi hỏi nhiều thế làm gì, cháu chia hoa hồng cho bác nhé?” Lưu Thập Tam đợi suốt cả học kỳ, đến Tết, nhân lúc bà ngoại uống say, cậu mới dám dò hỏi người kia rốt cuộc là ai, liệu có gửi tiền không? Đột nhiên bà ngoại bật khóc nức nở, khiến Lưu Thập Tam phát hoảng, cuống quýt lau nước mắt cho bà, “Bà ngoại, bà đừng khóc nữa, đợi con lớn lên ra thành phố sẽ gửi tiền cho bà.” Sau khi bác Trần qua đời, chẳng có bưu tá mới đến, hộp thư cũng biến mất, mọi người hiếm khi viết bằng bút máy. Bất kể ai trải giấy ra, viết ba chữ “anh yêu em”, đều có thể trở thành bức thư tình cuối cùng của thế kỷ 21. Lưu Thập Tam cũng viết một bức, kẹp vào sách Ngữ văn của cô bạn Trình Sương ở lớp học thêm hè năm lớp Bốn, vỏn vẹn mấy chữ: Tớ thấy cậu xinh hơn cả cô La, ăn ô mai không? Cô La là chủ nhiệm lớp, đồng thời cũng là dì của Trình Sương, mới ngoài hai mươi, tuổi xuân phơi phới. Hôm sau lên lớp, cô xách tai Lưu Thập Tam lôi vào phòng giáo viên, dịu dàng hỏi: “Em thấy cô có xinh không?” Lưu Thập Tam quả quyết: “Xấu như ma cấu.” Cả phòng giáo viên cười ồ lên, cô Vu dạy Toán ghé sang hỏi: “Còn cô thì sao?” Lưu Thập Tam phân vân giây lát rồi đáp: “Chắc cô La định đánh em đấy, cô cứu em với.” Cô Vu nói: “Cô ấy đánh là dĩ nhiên, giờ chỉ xem cô có đánh em không thôi.” Lưu Thập Tam trả lời: “Cô trẻ hơn cô ấy nên xấu vừa vừa thôi.” Cô Vu ra lệnh: “Ra hành lang, đứng dựa vào tường đến khi tan học.” Lưu Thập Tam hỏi lại: “Cô không hỏi em thấy hiệu trưởng thế nào à?” Mọi người trong phòng giáo viên vội ngừng công việc, bao nhiêu con mắt như đèn pha đổ dồn vào cậu. Cậu bĩu môi, “Thầy ấy chẳng ra sao, học thêm hè mà huy động từng này người thì khác gì học chính?” Kết quả cậu bị đưa từ phòng giáo viên sang phòng hiệu trưởng. Hiệu trưởng rót một chén trà, Lưu Thập Tam vội bưng ngay lên uống, khiến thầy ngạc nhiên ra mặt, “Thầy rót cho thầy cơ mà.” Lưu Thập Tam thổi lá trà, nhấp một ngụm rồi tặc lưỡi, “Đắng ngắt, có tiền người ta đã uống nước quýt cho ngọt rồi.” Hiệu trưởng gõ xuống bàn, “Thập Tam viết thư tình dở ẹc.” Lưu Thập Tam khinh khỉnh liếc thầy, “Em đọc hết sách trong thư viện trường rồi, thầy dựa vào cái gì mà nghi ngờ năng khiếu văn học của em?” Hiệu trưởng mỉm cười đưa cho cậu một quyển sách cũ nát, trang bìa lốm đốm mấy vết cháy sém, viết bốn chữ Khải: Nhân gian từ thoại*. Lưu Thập Tam lật qua lật lại, đầu ong lên, đã văn ngôn* lại còn đọc theo hàng dọc. Hiệu trưởng nói: “Mấy hôm nữa tôi sẽ kiểm tra em.” Trong đầu Thập Tam nhảy số thật nhanh, đáp ngay: “Năm 1997, Hồng Kông trở về với Đại lục.” Hiệu trưởng hỏi: “Em nhắc tới chuyện này làm gì?” Lưu Thập Tam nghiêm trang dõng dạc: “Hồng Kông được trả về, thế giới đại đồng, tàn dư phong kiến nhà thầy còn đọc chữ phồn thể, định phản động à?” Hiệu trưởng lẳng lặng đặt chén trà xuống, để cuốn sách vào lòng Lưu Thập Tam, xoa đầu cậu rồi nghiêm nghị nói: “Em đọc đi, đọc kỹ vào, thằng oắt con, đọc không hiểu thì liệu hồn đấy, cút ra.” Mời bạn đón đọc Ngang Qua Thị Trấn Ngàn Mây của tác giả Trương Gia Giai & Tố Hinh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Cuộc Đời - Guy de Maupassant
Tiểu thuyết đầu tay của nhà văn Pháp Guy de Maupassant, nội dung hiện thực, tinh thần nhân đạo, sự phân tích tâm lý và ngôn ngữ trong sáng, được văn hào Nga Lep Tônxtôi khen là “rất hay... có lẽ không có cuốn tiểu thuyết Pháp nào hay hơn, từ sau Những người khốn khổ của Victor Hugo”. Maupassant lên án thực tế tư sản tàn nhẫn làm tan vỡ lối sống gia trưởng của một số trí thức quý tộc gắn bó với nền văn hóa thế kỷ XVIII mà nhà văn có thiện cảm. Vợ chồng Nam tước ĐêVô và Jeanne xa lạ với thực tế mới dưới uy quyền thô bạo của đồng tiền, không kháng cự được những quan hệ mới, bị đè bẹp trong khi Giuyliêng, Pôn háo hức hòa mình vào cơn sốt vàng. Thể hiện sự tan vỡ lần lượt những ảo tưởng của Jeanne về tình yêu duy nhất, hạnh phúc trong hôn nhân, đức hạnh của mẹ, sự trung thành của bạn gái, tương lai của con trai..., dường như Maupassant còn muốn nói rằng đời người chỉ là một chuỗi những thất vọng cay đắng những phát hiện nặng nề về mặt trái xấu xa của cuộc đời. Tư tưởng bi quan này có dịu đi nhờ hình tượng Rôdali, người lao động trung hậu với những suy nghĩ giản dị, khỏe khoắn. *** Henri René Albert Guy de Maupassant (1850–1893) là nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng người Pháp. Guy de Maupassant sinh tại vùng Normandie ở miền bắc nước Pháp, trong một gia đình giàu có. Cha mẹ Maupassant ly thân năm ông lên mười một tuổi, và bà mẹ đã một mình nuôi dạy con. Từ ảnh hưởng ấy, bà đã trở thành nhân vật nữ trong rất nhiều câu chuyện của ông. Maupassant được gửi đến trường nội trú ở Yvetot vì bản tính bất trị, hay nổi loạn. Ông từng học ở trường Phổ thông cao đẳng tại Rouen và được bằng Cử nhân Văn chương. Sau khi tốt nghiệp, Maupassant gia nhập quân đội và tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ (1870–1871). Năm 1871, ông đến Paris làm một viên chức nhỏ cho Bộ Hải quân. Từ năm 1878 trở đi ông làm một viên chức Bộ Giáo dục. Cuộc đời làm viên chức nhỏ kéo dài khá lâu, đã để lại nhiều dấu ấn trong tư tưởng và sự nghiệp của ông, góp phần quan trọng vào việc hình thành "hình tượng con người bé nhỏ" - một kiểu nhân vật văn học quan trọng sẽ ra đời vào cuối thế kỷ 19 và thịnh hành suốt nửa đầu thế kỷ 20. Với những khó khăn dồn dập, Maupassant ngày càng trở nên bi quan đến nỗi bị chứng nhức đầu kinh niên không dứt, chỉ có thể làm dịu cơn đau bằng cách hít ether. Việc lạm dụng ether đã gây cho ông nhiều ảo giác và cuối cùng Maupassant bị sụp đổ tinh thần hoàn toàn. Rồi ông trở nên giàu có, và chi tiêu bừa bãi vào thú ăn chơi. Nhưng sau thời gian này, ông trở nên tuyệt vọng, vào năm 1892 tự tử nhưng được cứu sống. Sau đó Maupassant bị giam trong dưỡng trí viện tư nhân Doctor Blanche tại Passy, Paris. Maupassant mất ngày 6 tháng 7 năm 1893, chỉ vừa 42 tuổi, trong thời kỳ thứ ba của bệnh giang mai, căn bệnh đã kết liễu cuộc đời của nhà văn.   Tiểu thuyết Một cuộc đời (Une vie, 1883) Anh bạn đẹp (Bel-Ami, 1885) Mont-Oriol (1887) Pierre et Jean (1888) Fort comme la Mort (1889) Notre Coeur (1890) Truyện ngắn Viên mỡ bò (Boule de Suif, 1880) La Maison Tellier (1881) Une partie de campagne (1881) Cô Fifi (Mademoiselle Fifi, 1882) Contes de la Bécasse (1883) Au soleil (1884) Clair de Lune (1883) Les sœurs Rondoli (1884) Yvette (1884) Miss Harriet (1884) Adieu (1884) Monsieur Parent (1885) Contes du jour et de la nuit (1885) La Petite Roque (1886) Toine (1886) Le Horla (1887) Sur l'eau (1888) Le Rosier de madame Husson (1888) L'héritage (1888) La Main gauche (1889) Histoire d'une fille de ferme (1889) La vie errante (1890) L'Inutile beauté Le père Millon (1899, sau khi chết) Le colporteur (1900) Les dimanches d'un bourgeois de Paris (1900) Bố của Simon (Le Papa de Simon) La Ficelle (1883) La Légende du Mont St Michel (1882) Kịch Histoire du vieux temps (1879) Musotte (1890) La paix du ménage (1893) Une répétition (1910) Phê bình Émile Zola (1883) Étude sur Flaubert (1884) Mời các bạn đón đọc Một Cuộc Đời của tác giả Guy de Maupassant.
Học Kỳ Đầu Tiên Mới Mẻ - Enid Blyton
Bộ sách kinh điển về học đường dành cho tuổi thiếu niên Tòa tháp Malory của ngôi sao văn học thiếu nhi Anh quốc Enid Blyton suốt 60 năm qua đã trở thành bạn tâm tình với hàng chục thế hệ độc giả trên thế giới. Sách cũng vừa được xuất bản trọn bộ tại Việt Nam. Hơn nửa thế kỷ nay, giới xuất bản toàn cầu vẫn phải ngỡ ngàng về những thành tích và kỷ lục ngoạn mục của Tòa tháp Malory (tựa gốc Malory Towers). Những câu chuyện giản dị nhẹ nhàng hóa ra có sức hút lớn lao và độ sâu sắc khó tả. Nó khẳng định một thành công mà bất cứ một tác phẩm của bất kỳ thời đại nào cũng phải thán phục và mong mỏi. Sáu tập sách là một chuỗi nối tiếp về mặt thời gian, miêu tả từ năm thứ nhất đến năm thứ sáu của Darrell Rivers và các bạn học ở trường nội trú Malory Towers. Darrel, nhân vật chính, dễ dàng hâm mộ Alicia Johns láu lỉnh nhưng hay nghịch ác, yêu mến Mary Lou yếu đuối nhút nhát, tò mò tiếp cận Sally Hope cau có và khép kín... Nhưng, nhược điểm nổi bật và bất thường nhất ở Darrell là cô hay nổi cáu, và khi mất bình tĩnh thì thường hành động theo cái cách sẽ khiến cô phải hối hận về sau. Sau đó, Darrell đã tự nhìn nhận bản thân, và bắt đầu học cách kiềm chế. Thời gian cắp sách của cô bé từ đây có nhiều khởi sắc. Cô trở thành học sinh đứng đầu vào năm thứ tư, thành đội trưởng đội bóng từ năm thứ năm, và thành hottest girl vào năm thứ sáu với tư cách một vận động viên tennis và khúc côn cầu xuất sắc…. Thọ 71 tuổi và sở hữu từ khoảng 700 đến 800 đầu sách, tác giả Enid Blyton là một nhà văn thành công, không chỉ về phương diện sáng tác mà còn cả khía cạnh thương mại. Tổng lượng ấn bản sách của bà phải tính bằng con số hàng chục triệu. Bất chấp những thăng trầm trong ngành xuất bản thế giới, dòng sách của Enid Blyton vẫn tiếp tục ấn hành đều đặn, nâng tác giả lên hàng ngôi sao của văn học thiếu nhi Anh quốc. Bà đứng đầu trong top 10 nhà văn được yêu quý nhất ở Anh Quốc (theo bầu chọn của Costa Book Award năm 2008) vượt lên trên J.K. Rowling, William Shakespeare. Bộ sách Tòa tháp Malory gồm có: Học kỳ đầu tiên mới mẻ; Năm thứ hai nhiều ẩn số; Năm thứ ba náo nhiệt; Năm thứ tư bất ngờ; Năm thứ năm kịch tích; Học kỳ cuối cùng tạm biệt *** Enid Mary Blyton (11 tháng 8 năm 1897 – 28 tháng 11 năm 1968) là nữ nhà văn người Anh chuyên viết truyện thiếu nhi. Bà còn có bút danh khác là Mary Pollock. Enid Blyton nổi tiếng với nhiều loạt truyện dựa trên những nhân vật quen thuộc và dành cho mọi lứa tuổi. Sách của bà được ưa chuộng ở nhiều quốc gia trên thế giới, bán được hơn 600 triệu bản. Một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của bà là Noddy trong quyển sách dành cho độc giả nhỏ tuổi. Tuy nhiên, các tác phẩm chủ đạo của Enid nằm ở dòng văn học phiêu lưu mạo hiểm dành cho thanh thiếu niên. Những bộ truyện thuộc thể loại này bao gồm Bộ năm lừng danh, The Secret Seven và The Five Find-Outers and Dog. Ngoài ra, bà còn viết truyện ngắn và thơ nhưng ít được biết đến hơn. Các tác phẩm của Enid Blyton đôi khi cũng có yếu tố phép thuật. Đến tận ngày nay, chúng vẫn được ưa chuộng ở Khối Thịnh vượng chung Anh và nhiều nước trên thế giới. Trong suốt 40 năm, bà viết gần 800 quyển sách và chúng đã được dịch ra gần 90 thứ tiếng. Tác phẩm tiêu biểu Bộ truyện The Wishing-Chair, 1937 – 2000 Bộ truyện The Circus, 1938 – 1942 Bộ truyện The Secret, 1938 – 1953 Bộ truyện The Magic Faraway Tree, 1939 – 1951 Bộ truyện The Naughtiest Girl, 1940 - 1950 Bộ truyện The St. Clare's, 1941 – 1945 Bộ truyện The Famous Five, 1942 – 1963 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Bộ năm lừng danh, NXB Hội Nhà Văn, Nhã Nam, 2011) Bộ truyện Malory Towers, 1946 -1951 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Tòa tháp Malory, NXB Văn Học, 2010) Bộ truyện The Mistletoe Farm, 1948 - 1950 Bộ truyện The Secret Seven, 1949 – 1963 Bộ truyện The Barney Mystery, 1949 – 1959 *** Darrell Rivers nhìn lại mình trong gương. Đã sắp đến giờ lên tàu, nhưng vẫn còn đủ vài phút để cô bé ngắm mình trông ra sao trong bộ đồng phục mới. 'Đẹp thật'. Darrell nói và xoay một vòng. 'Áo khoác nâu, mũ nâu, nơ da cam, áo nâu ở trong và một cái thắt lưng da cam. Mình thích đấy'. Mẹ Darrell ngó vào phòng cô bé, và mỉm cười. 'Tự khen mình đấy à?', mẹ nói. 'Ừ, mà mẹ cũng thấy đẹp lắm. Đúng là Malory towers có đồng phục rất đáng yêu. Đi thôi, Darrell. Con không muốn lỡ tàu ngay ngày đầu tiên của năm học thứ nhất chứ!' Darrell thấy phấn khởi lắm. Lần đầu tiên trong đời, cô bé sẽ tới học ở trường nội trú. Trường Malory Towers không nhận học sinh dưới 12 tuổi, nên Darrell sẽ là một trong những cô bé "út ít" ở đó. Cô bé mong mình sẽ có một năm học với thật nhiều kỷ niệm và tình bạn, học hành và vui chơi. 'Mọi thứ sẽ thế nào nhỉ?', cô bé không ngừng băn khoăn. 'Mình đã đọc rất hiều chuyện về trường học, nhưng mình nghĩ ở Malory Towers thì không hoàn toàn giống nhau như thế. Mỗi trường phải có những chuyện khác nhau chứ. Hy vọng mình có thật nhiều bạn ở đó'. Darrell cũng buồn vì phải chia tay bạn bè cũ. Không ai trong số họ tới học ở Malory Towers. Cô bé đã từng học cùng họ trước đây, nhưng hầu hết những người bạn đó đều ở lại trường cũ hoặc tới những trường nội trú khác. Vali của cô bé đầy chặt. Ở bên cạnh có viết dòng chữ màu đen thật lớn: DARRELL RIVERS. Trên những miếng nhãn dính là chữ MT, viết tắt của Malory Towers. Darrell chỉ xách cái vợt tennis đựng trong bao riêng của nó, và một chiếc túi nhỏ mà mẹ đã sắp xếp những thứ cần cho đêm đầu tiên. 'Vali của con sẽ không được mở ngày vào buổi tối đầu tiên đâu', mẹ nói. 'Nên mỗi học sinh cần cầm theo một túi xách nhỏ có quần áo ngủ và bàn chải, và những thứ cần thiết khác kiểu như thế. Đây là 5 bảng cho con. Con phải giữ mà tiêu trong cả học kỳ đấy, vì không học sinh nào ở khối lớp của con được giữ nhiều tiền hơn thế'. 'Con sẽ chỉ tiêu thế thôi!'. Darrell nói, nhét tiền vào ví. 'Con cũng chẳng phải mua gì nhiều ở trường. Có tắc xi rồi kìa mẹ. Đi thôi!' Cô bé tạm biệt bố rồi, sáng nay bố vẫn phải đi làm. Bố đã ôm cô bé rất chặt và nói. 'Tạm biệt và chúc con con may mắn, Darrell. Con sẽ học được rất nhiều từ Malory Towers, vì đó là một trường tốt. Hãy cố gắng đáp lại thật nhiều con nhé!' Cuối cùng họ cũng khởi hành, cả cái vali cũng được lên tắc xi, "ngồi" cạnh bác tài xế. Darrell thò đầu ra để nhìn lại ngôi nhà mình. 'Chị sẽ quay về sớm thôi!', cô bé gọi to với con mèo đen mập ngồi trên bờ tường và đang tự liếm mình. 'Chắc lúc đầu con sẽ nhớ nhà lắm nhưng rồi sẽ quen nhanh thôi, phải không, mẹ?' 'Tất nhiên rồi', mẹ cô bé nói. 'Con sẽ vui đến mức chẳng muốn về nhà vào kỳ nghỉ hè ấy chứ!' Họ phải lên London để đi tàu tới Cornwall, nơi có trường Malory Towers. 'Luôn có một chuyến tàu dặc biệt tới Malory Towers', bà Rivers nói. 'Xem kìa, có một bảng thông báo đấy. Malory Towers. Sân ga số bày. Đi nào. Chúng ta đến kịp giờ đấy. Mẹ sẽ ở với con vài phút để nhìn thấy con gặp được cô giám thị Nhà của con, và các bạn khác nữa, rồi mẹ mới về'. Họ đi tới sân ga. Một đoàn tàu dài đậu ở đó, ghi rõ chữ Malory Towers. Tất cả các toa đều dành cho các học sinh của trường. Đoàn tàu cũng có những cái nhãn khác nhau ở các cửa sổ. Nhóm toa thứ nhất ghi 'Tháp Bắc'. Nhóm toa thứ hai ghi 'Tháp Nam'. Rồi có những toa có nhãn 'Tháp Tây' và 'Tháp Đông'. ... Mời các bạn đón đọc Học Kỳ Đầu Tiên Mới Mẻ của tác giả Enid Blyton.
Di Sản của Mất Mát - Kiran Desai
Trong một ngôi nhà hoang tàn, đổ nát dưới chân núi Kanchenjunga thuộc dãy Himalaya, một ông toà chua chát đang muốn yên ổn sống nốt quãng đời hưu trí thì cô cháu ngoại mồ côi, Sai, tìm về trước ngưỡng cửa. Người đầu bếp của ông toà canh gác cô gái điên cuồng, vì ông thường nghĩ tới con trai mình, Biju, chàng thanh niên tha hương đang phải nhảy từ quán ăn gai góc này đến quán ăn gai góc khác ở New York. Cuốn tiểu thuyết tuyệt vời của Kiran Desai, khi ra đời được hoan nghênh nhiệt liệt, là câu chuyện về niềm hân hoan và nỗi thất vọng. Các nhân vật của cô phải đối mặt với biết bao lựa chọn minh chứng hùng hồn cho những hậu quả của chủ nghĩa thực dân khi nó va chạm với thế giớ hiện đại. Kiran Desai đã khái quát một bức tranh toàn cảnh với những sắc màu mang tính quốc tế và thời đại: toàn cầu hóa, đa văn hóa, bất bình đẳng về kinh tế, xung đột sắc tộc - tôn giáo và chủ nghĩa khủng bố... Ấn Độ hiện lên dưới ngòi bút Desai như một cơ thể với những vết thương lịch sử mà toàn cầu hóa không thể hàn gắn, trái lại càng khoét sâu thêm những thương tích mới. *** Kiran Desai người Ấn Độ, sinh năm 1971, thường trú tại Mỹ, là con gái nữ văn sĩ Ấn  Độ nổi tiếng Anita Desai. Kiran Desai ra đời ở New Delhi, Ấn Độ, sống ở đó đến mười bốn tuổi, cùng mẹ sang Anh một năm, cuối cùng chuyển đến Mỹ. Cô nghiên cứu việc sáng tác văn chương ở Bennington College, Hollins University và Columbia University. Tiểu thuyết đầu tay của cô, Hulabaloo in the Guava Orchard, xuất bản năm 1998, được đánh giá cao từ các nhà văn nổi tiếng như Salman Rushdie. Tiểu thuyết thứ hai, Di sản của mất mát, được cho là có dáng dấp một tự truyện, đã đem lại cho Kiran Desai nhiều danh giá: đề cử giải Orange, chung khảo giải Kiriyama, mười tiểu thuyết hay nhất do tạp chí Observer chọn, giải thưởng tiểu thuyết của Hiệp hội Các nhà phê bình Mỹ..., và đặc biệt, giải Man Booker 2006. Kiran Desai trở thành tác giả nữ trẻ nhất trong lịch sử giải này. *** Tụng ca Tĩnh lặng   Từng dòng chữ ánh sáng rạch nát màn đêm, huy hoàng hơn cả sao băng. Thành phố tôi không tài nào thấu hiểu lừng lững xâm lấn đồng quê. Biết rõ sống chết đời mình, tôi mong nhìn thấu lòng người tham vọng. Ngày đói khát, như thòng lọng bay rít gió. Đêm ngơi cuồng nộ, náu mình trong sắt thép, rình rập tấn công. Họ nói về tình người. Tình người với tôi nằm trong cảm xúc chúng ta là tiếng nổi của cùng một nỗi lầm than. Họ nhắc chuyện quê hương. Quê hương với tôi là điệu đàn guitar, là đôi bức chân dung, là thanh gươm xưa cũ, là chiều buông rặng liễu hiện bóng ai nguyện cầu. Thời gian đang sống đời tôi. Âm thầm hơn chiếc bóng, tôi đi giữa biển người chất ngất lòng tham. Những nhân vật quan trọng, phi thường, ưu tú của ngày mai. Tôi là ai mà cũng chẳng là ai. Tôi đi trong chậm rãi, như một người đến tự rất xa, xa đến nỗi chẳng mong ngày tới đích.   Jorge Luis Borges Mời các bạn đón đọc Di Sản của Mất Mát của tác giả Kiran Desai.
Ông Bạn Đẹp
Một bản dịch khác của tác phẩm này là Anh bạn điển trai (Vĩnh Minh, Đức Hiếu dịch) "Ông bạn đẹp" là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Guy de Maupassant. Con mắt nhìn đời sắc sảo và ngoài bút hiện thực bậc thầy của nhà văn dẫn dắt độc giả dõi theo cuộc hành trình tìm kiếm tiền bạc, quyền lực của gã thành viên Geoges Duroy nghèo túng, bất tài nhưng đầy tham vọng. Với quan niệm "đàn bà nào cũng là gái điếm cả, cần sử dụng họ, mà đừng cho họ chút gì của ta", y không ngần ngại dựa vào địa thế đẹp trai của mình để quyến rủ và lợi dụng phụ nữ. Dần dà, nhờ sự giúp đỡ của họ, cộng thêm chút ranh mãnh và may mắn, y có được những thứ mong muốn. Thế nhưng, với lòng tham vô đáy, y vẫn chưa thỏa mãn, cứ muốn bước lên cao, cao mãi như những nất thang xã hội, chẳng biết đến đâu mới là điểm dừng... *** Henri René Albert Guy de Maupassant (1850–1893) là nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng người Pháp. Guy de Maupassant sinh tại vùng Normandie ở miền bắc nước Pháp, trong một gia đình giàu có. Cha mẹ Maupassant ly thân năm ông lên mười một tuổi, và bà mẹ đã một mình nuôi dạy con. Từ ảnh hưởng ấy, bà đã trở thành nhân vật nữ trong rất nhiều câu chuyện của ông. Maupassant được gửi đến trường nội trú ở Yvetot vì bản tính bất trị, hay nổi loạn. Ông từng học ở trường Phổ thông cao đẳng tại Rouen và được bằng Cử nhân Văn chương. Sau khi tốt nghiệp, Maupassant gia nhập quân đội và tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ (1870–1871). Năm 1871, ông đến Paris làm một viên chức nhỏ cho Bộ Hải quân. Từ năm 1878 trở đi ông làm một viên chức Bộ Giáo dục. Cuộc đời làm viên chức nhỏ kéo dài khá lâu, đã để lại nhiều dấu ấn trong tư tưởng và sự nghiệp của ông, góp phần quan trọng vào việc hình thành "hình tượng con người bé nhỏ" - một kiểu nhân vật văn học quan trọng sẽ ra đời vào cuối thế kỷ 19 và thịnh hành suốt nửa đầu thế kỷ 20. Với những khó khăn dồn dập, Maupassant ngày càng trở nên bi quan đến nỗi bị chứng nhức đầu kinh niên không dứt, chỉ có thể làm dịu cơn đau bằng cách hít ether. Việc lạm dụng ether đã gây cho ông nhiều ảo giác và cuối cùng Maupassant bị sụp đổ tinh thần hoàn toàn. Rồi ông trở nên giàu có, và chi tiêu bừa bãi vào thú ăn chơi. Nhưng sau thời gian này, ông trở nên tuyệt vọng, vào năm 1892 tự tử nhưng được cứu sống. Sau đó Maupassant bị giam trong dưỡng trí viện tư nhân Doctor Blanche tại Passy, Paris. Maupassant mất ngày 6 tháng 7 năm 1893, chỉ vừa 42 tuổi, trong thời kỳ thứ ba của bệnh giang mai, căn bệnh đã kết liễu cuộc đời của nhà văn.   Tiểu thuyết Một cuộc đời (Une vie, 1883) Anh bạn đẹp (Bel-Ami, 1885) Mont-Oriol (1887) Pierre et Jean (1888) Fort comme la Mort (1889) Notre Coeur (1890) Truyện ngắn Viên mỡ bò (Boule de Suif, 1880) La Maison Tellier (1881) Une partie de campagne (1881) Cô Fifi (Mademoiselle Fifi, 1882) Contes de la Bécasse (1883) Au soleil (1884) Clair de Lune (1883) Les sœurs Rondoli (1884) Yvette (1884) Miss Harriet (1884) Adieu (1884) Monsieur Parent (1885) Contes du jour et de la nuit (1885) La Petite Roque (1886) Toine (1886) Le Horla (1887) Sur l'eau (1888) Le Rosier de madame Husson (1888) L'héritage (1888) La Main gauche (1889) Histoire d'une fille de ferme (1889) La vie errante (1890) L'Inutile beauté Le père Millon (1899, sau khi chết) Le colporteur (1900) Les dimanches d'un bourgeois de Paris (1900) Bố của Simon (Le Papa de Simon) La Ficelle (1883) La Légende du Mont St Michel (1882) Kịch Histoire du vieux temps (1879) Musotte (1890) La paix du ménage (1893) Une répétition (1910) Phê bình Émile Zola (1883) Étude sur Flaubert (1884) Mời các bạn đón đọc Ông Bạn Đẹp của tác giả Guy de Maupassant.