Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sáu Đợt Thức Tỉnh

Maria Arena là một bản sao vô tính. Sau mỗi lần chết đi, cô sẽ lại “thức tỉnh” trong một thân xác trẻ trung, sở hữu ký ức của mọi “kiếp đời” trước. Do vậy, cô cùng năm bản sao khác đã được bổ nhiệm làm phi hành đoàn của tàu vũ trụ Dormire, thực hiện chuyến bay dài mấy thế kỷ để lên định cư trên hành tinh Artemis tươi đẹp. Bỗng một ngày, Maria cùng phi hành đoàn thức tỉnh giữa một bể máu. Cả sáu vừa bị giết, máy móc trên tàu thì đã bị phá hoại, và không ai nhớ chuyện gì đã xảy ra hết, thậm chí còn chẳng nhớ gì về nhau. Nguy hiểm hơn, thủ phạm hẳn phải là một người trong nhóm bọn họ. Kẻ ấy vẫn đang rình rập, chờ thời cơ ra tay lần nữa… Sáu đợt thức tỉnh tên gốc là Six Wakes, một cuốn trinh thám với bối cảnh tương lai của Mur Lafferty. Truyện từng lọt danh sách đề cử các giải lớn năm 2017 như Hugo, Nebula, Goodreads Choice, và được mệnh danh là "10 người da đen nhỏ ngoài vũ trụ." --- REVIEW TỪ BẠN ĐỌC: 9.0/10 Đây là một cuốn Sci Fi vừa có tính giải trí rất cao thông qua việc đi giải mã một vụ thảm sát đầy lắt léo trên tàu vũ trụ, đồng thời còn giúp khơi gợi suy tư thông qua những bình luận cực kỳ sâu sắc về sức ảnh hưởng của một trong những thứ công nghệ mang tính bước ngoặt. Truyện pha trộn rất hài hoà các mô típ của trinh thám và Sci Fi, thế kể cả nếu chỉ đọc được một trong hai dòng này, chắc chắn bạn sẽ không thất vọng với Sáu đợt thức tỉnh. ~ Long Nguyen (Admin cộng đồng Hội thích truyện Sci Fi trên Facebook)   Đánh giá: 8/10đ (Hay. Đặc biệt. Đáng suy ngẫm). Đọc những chương đầu tiên trong tôi bùng nổ một cảm giác phấn khích kỳ lạ, nội dung mở màn thú vị tới mức tôi cứ suy nghĩ: "Liệu đây có phải cuốn sách hay nhất năm của mình hay không?" Mặc dù sau đó vì vướng bận công việc phải bỏ dở ít bữa nên sự lôi cuốn có phần chững lại và mạch truyện khúc giữa cũng hơi chậm, nhưng càng đọc về cuối tác phẩm càng để lại cho tôi nhiều cảm xúc và sự trăn trở quặn lòng. ~ Nguyệt Ngọt Ngào (Admin cộng đồng Hội Yêu Sách trên Facebook)   Đủ bí ẩn, đằng sau mỗi nhân vật là một câu chuyện không tưởng. Và, cốt truyện đủ bất ngờ, thật, mình chuyên đọc trinh thám, nội dung cuốn sách không được gọi là máu me nhưng đủ bất ngờ, khiến độc giả lăn đùng ngã ngửa luôn. Và âm mưu to lớn cùng ý đồ sau cùng cả cả câu chuyện sẽ là Hô hô, mình không nói đâu.  ~ Trang Đào (Admin cộng đồng Bình Thư Quán trên Facebook)   4/5 Phần đầu và cuối hấp dẫn, vậy đoạn giữa là gì? Là backstory của từng nhân vật, và các đoạn đối thoại liên tục. Có thể người đọc sẽ đôi lúc chán nản, nhưng đừng quên trong một tác phẩm trinh thám, tác giả thường không vô cớ đưa vào những chi tiết thừa, tất cả đều có lý do của nó.  ~ xuxudocsach (review trên Instagram)   Thể loại: Khoa học viễn tưởng – Trinh thám. Điểm: 9.5/10 Có thể nhiều người sẽ cho rằng “Sáu đợt thức tỉnh” chỉ là một quyển sách để giải trí, nhưng Biển ngộ ra được một số giá trị nhân văn mà (chắc là) tác giả muốn gửi gắm: sự tôn trọng sinh mệnh – kể cả sinh mệnh của bản sao vô tính, sự tôn trọng nhân quyền và tư duy của người khác, tội lỗi cay đắng và sự tha thứ nhẹ nhõm, hận thù và yêu thương. Đọc đến trang 467 thì Biển mỉm cười sung sướng, cảm thấy thật đáng công đọc từ đầu đến đó. Tha thứ thật sự quá khó, nhưng nếu làm được thì thanh thản biết bao, mà nếu không làm được thì cứ coi kẻ thù như không khí đi.  ~ Camellia Phoenix (review trong cộng đồng Hội thích truyện trinh thám trên Facebook)   3.5/5 Nhìn chung Sáu Đợt Thức Tỉnh là một cuốn trinh thám khá ổn, đặc biệt dành cho bạn nào thích khoa học viễn tưởng hay lập trình máy móc các kiểu đan xen một chút trinh thám thì okay, cuốn này đúng là dành cho bạn luôn. Dịch giả dịch siêu có tâm, tớ còn bị ấn tượng với dịch giả hơn cả nội dung sách ý huhu. ~ neverblossom (review trên Instagram)   Điểm: 9,5/10 Đây là một cuốn truyện rất hay, cả về khía cạnh trinh thám lẫn viễn tưởng. Dù có một hai lỗi đánh máy nhưng nội dung cuốn đến mức đọc bỏ qua sạch luôn. Dù bạn muốn một cuốn trinh thám bí ẩn và lắt léo với những nhân vật có chiều sâu hay một cuốn du hành không gian kỳ thú với những pha hành động đầy kịch tính hay thậm chí là một quyển sách triết lý sâu sắc nhưng không kém phần hài hước và cảm động về những khía cạnh xã hội lớn lao cũng như mối quan hệ giữa con người và công nghệ, chắc chắn đây sẽ là quyển hợp với bạn. ~ Ngoc Anh Nguyen (review trong cộng đồng Nhã Nam reading club trên Facebook)   5/5 Kéo full điểm luôn không cần phải bàn cãi  ~ Mai Nguyễn (review bản tiếng Việt trên Goodreads)   Điểm tổng: 4/5. Rất đáng đọc. Đây có lẽ là một trong những cuốn trinh thám mật thất lạ thường và cuốn hút nhất mình được đọc trong năm nay. Truyện mở ra trong một bể máu: 6 bản sao vô tính trần truồng thức dậy trên một con tàu vũ trụ, và thấy trôi lềnh bềnh xung quanh mình là máu, rất lắm máu, phòi ra từ những cái xác đã bị sát hại dã man. Lúc khám nghiệm xác, họ giật mình nhận thấy đây là xác của… chính họ. ~ Long Tran (review trong cộng đồng Người Đọc Sách trên Facebook) ***   Tác giả: Mur Lafferty. Dịch giả: Nguyễn Thành Long Thể loại: Trinh thám, Khoa học giả tưởng “Tôi phát ngấy cái giọng điệu đấy rồi. Suốt bao thế kỷ nay cứ phải nghe đi nghe lại. Đóng vai Chúa. Wolfgang, chúng ta đã đóng vai Chúa từ hồi thiên hạ còn tin mình có thể định đoạt giới tính cho con nếu làm tình chuẩn tư thế. Chúng ta đóng vai Chúa lúc phát minh ra ngừa thai, chọc ối, mổ lấy thai, lúc phát triển y học và phẫu thuật hiện đại. Bay là đóng vai Chúa. Chống ung thư là đóng vai Chúa. Kính áp tròng và kính gọng là đóng vai Chúa. Bất cứ hành động nào khiến cuộc sống của ta đổi khác so với thuở khai sinh là đóng vai Chúa. Thụ tinh trong ống nghiệm. Liệu pháp thay thế nội tiết tố. Phẫu thuật sửa đổi giới tính. Kháng sinh. Tại sao anh chấp nhận hết tất cả những thứ ấy, nhưng lại thấy sao chép vô tính có vấn đề?” Lúc cuốn này mới ra, không hiểu sao Biển cứ nhầm nó với “Đợt tuyệt chủng thứ 6”, thế là suốt một thời gian dài không đọc vì nghĩ nó thuộc thể loại sách học thuật khó nhằn. Đến khi được chính dịch giả comment trên một bài đăng thì Biển mới biết “Sáu đợt thức tỉnh” là trinh thám và chẳng liên quan gì đến tuyệt chủng, à chắc cũng có liên quan chút chút, vì bối cảnh truyện này là vào thế kỷ 25, diễn ra ngoài vũ trụ, lúc đó chắc có thêm một số loài đã tuyệt chủng trên Trái Đất. Sau khi đọc lần đầu và rung động vì độ hay của truyện, Biển chờ vài năm để quên bớt nội dung rồi đọc lại lần nữa, biết rằng mình sẽ hiểu sâu hơn và có thêm nhiều cảm nhận vừa giống vừa khác với lần đọc đầu. Ngày 25-7-2493 (đúng 472 năm tính từ ngày Biển đọc cuốn này lần 2), trên con tàu vũ trụ Dormire dài ba dặm rưỡi và đường kính một dặm rưỡi, bản sao của cô lao công Maria Arena tỉnh dậy trong khoang sao chép, xung quanh là xác chết năm đồng đội khác, bao bọc bởi hàng chục lít máu và các giọt chất lỏng độc hại sinh học khác đang trôi nổi trong môi trường vô trọng lực. Các đồng đội của Maria gồm Thuyền trưởng, Phi công kiêm Hoa tiêu, Sĩ quan Y tế kiêm Bác sĩ, Kỹ sư trưởng và Trưởng ban An ninh của tàu Dormire. Sau khi bản sao của năm người còn lại được thức tỉnh, họ nhận ra rằng tất cả đều đã chết hoặc bị giết gần như cùng lúc theo nhiều cách khác nhau, khi tàu Dormire đã rời Trái Đất được 25 năm và đang trong chuyến hành trình đến hành tinh Artemis – dự kiến là chốn định cư mới của phi hành đoàn cùng các bản sao và người thường chở theo trên tàu. Khoang sao chép đã hư hại, đồng nghĩa với việc họ chỉ còn bản thể duy nhất đang có chứ không thể tái sinh để sống tiếp. Trong bối cảnh kinh hoàng ấy, phi hành đoàn chật vật phục hồi lại môi trường sinh hoạt trên tàu đồng thời không bỏ qua nổi cảm giác nghi kỵ lẫn nhau, không biết rằng liệu người đang đứng bên ta đây có phải chính là người đã giết ta trong kiếp sống trước không. Ngoài lý do ban đầu là nhầm lẫn “Sáu đợt thức tỉnh” với “Đợt tuyệt chủng thứ sáu”, thêm một lý do khác khiến lúc đầu Biển ngần ngại đọc là vì cuốn này thuộc thể loại khoa học viễn tưởng. Biển sợ nó khó hiểu. Nhưng khi đã đọc rồi thì thấy đây là một truyện trinh thám rất dễ hiểu và hấp dẫn, thậm chí có thể nói đây là trinh thám cổ điển (điều tra dựa vào suy luận chứ không dựa vào khoa học kỹ thuật), vì tuy bối cảnh truyện là vào thế kỷ 25 trên một con tàu vũ trụ đang bay ngoài không gian nhưng trong cả truyện không hề áp dụng xét nghiệm nhóm máu, tìm dấu vân tay hay khám nghiệm pháp y… Các nhân vật chính sau khi sống lại nhờ đợt sao chép cuối cùng thì sinh hoạt tiếp dựa vào lịch sử sao lưu các dữ kiện của bản thân và người khác, phần lớn đã bị mất / xóa trắng do sự hư hại của IAN – Mạng Trí Tuệ Nhân Tạo đảm nhận nhiệm vụ duy trì sự sống và hoạt động cho mọi sinh vật và đồ vật trên tàu, bao gồm bản thân con tàu. Nếu coi tàu Dormire như một không gian khép kín (thực chất là vậy mà) thì truyện này kể về sáu vụ án mạng trong phòng kín. Thường thì Biển không mặn mà lắm với motip “án mạng phòng kín” (nhưng lại thích mấy cuốn Quán của Yukito Ayatsuji) nhưng cách tác giả xử lý cốt truyện trong “Sáu đợt thức tỉnh” thật sáng tạo và lôi cuốn, đúng kiểu ‘sự đơn giản làm nên vẻ đẹp’. “Lý thuyết” về sao chép người trong truyện này rất thú vị và dễ hiểu: Khi Biển qua đời, những gì chứa trong bộ não – có thể gọi là linh hồn, tâm tư, ký ức – được “đóng gói” thành não đồ và lưu vào một ổ cứng rời. Thân xác đã chết sẽ được cho vào máy tái chế và phục hồi lại ở độ tuổi như mong muốn, bằng một dung dịch tên là Lyfe. (Vâng, Life. Sự Sống). Sau đó não đồ sẽ được các chuyên viên lập trình (trong truyện này hầu hết bị gọi chung là “hacker”) tải trở vào thân thể mới. Bằng cách này, Biển sẽ không bao giờ chết, liên tục được tái sinh trong thân thể thanh xuân, với ký ức của TẤT CẢ những kiếp sống cũ, với điều kiện ký ức – não đồ đó không bị hacker can thiệp trước khi tải vào thân thể. Các bản sao sẽ được triệt sản, tài sản được tích góp qua các kiếp đời. Cách dùng công nghệ sao chép để có sự sống bất tử này là tác giả Mur Lafferty lấy ý tưởng từ một game mô phỏng không gian tên Faster Than Light. Trong truyện, công nghệ sao chép vô tính này bị phản đối kịch liệt bởi các tổ chức tôn giáo. Nếu nó tồn tại ngoài thực tế, Biển tin rằng nó cũng sẽ bị chống đối, lãnh lấy rất nhiều công kích và gây nên nhiều cuộc bạo loạn với tổn hại vô cùng lớn. Riêng ý kiến cá nhân thì Biển đồng tình, ủng hộ và sẵn sàng tham dự. Thường với những cuốn trinh thám có nhiều đoạn dài dòng về khoa học kỹ thuật thì Biển hay lướt, thậm chí ngay cả sách của hai tác giả yêu thích là Dan Brown và Jeffery Deaver mà Biển còn lướt, nhưng với “Sáu đợt thức tỉnh” là một cuốn trinh thám khoa học giả tưởng nhưng Biển không hề lướt một đoạn nào, bởi vì suốt truyện không hề có đoạn nào đậm chất khoa học kỹ thuật lê thê dài dòng cả. Mỗi câu đều cần thiết, mỗi đoạn đều đáng giá, mỗi chương đều hấp dẫn, cuối chương không dùng “mánh lới” thu hút nhưng vẫn thành công níu người đọc phải nhanh chóng giở đến chương tiếp theo. Với một phụ nữ nghiện game thì tác giả viết được cuốn tiểu thuyết như vậy là quá xuất sắc (không biết câu này có thể hiện thành kiến không nên có nào trong tiềm thức của Biển về việc “nghiện game” hoặc với giới tính nữ không!). Sau khi đọc “Sáu đợt thức tỉnh” của Mur Lafferty và hai cuốn đã xuất bản tiếng Việt của Chan Ho Kei thì Biển có một ‘thành kiến tốt’ rằng chả lẽ những ai đam mê công nghệ máy tính / làm trong ngành IT + có kỹ năng văn chương thì sẽ viết được những quyển sách rất ấn tượng? Sẽ thiếu sót nếu trong review không nói đến các nhân vật chính của truyện. Ở hầu hết các khía cạnh thì Biển nhận thấy mình khá trùng hợp với nữ chính Maria Arena (là lao công, thích nấu ăn, thích pha trà, mê trai Nhật – à có thể bỏ điều cuối cùng). Mỗi nhân vật có lai lịch và tính cách khác biệt, tất cả đều là những bản sao của chính mình, đã mấy trăm tuổi và trải qua nhiều kiếp sống thăng trầm đến nỗi canh Mạnh Bà cũng không giúp quên được những ký ức đau thương. Ngoài thích nữ chính vì kiêu ngạo cho rằng mình giống cô ấy, Biển còn thích cả chàng trai Nhật Akihiro Sato với khả năng chọc cười tinh tế và nhân vật IAN với kiểu nói chuyện rất “người”, tương tự như khi Biển thích Winston trong cuốn “Nguồn Cội”. Dẫu biết AI rất nguy hiểm nhưng không hiểu sao Biển luôn mê đắm chúng một cách mù quáng…. ____ Dành cho các tâm hồn lãng mạn, “Sáu đợt thức tỉnh” có ẩn chứa tình cảm lứa đôi, không cần quá tinh ý để phát hiện được, và cách viết của tác giả sẽ gieo rắc không ít hy vọng vào sự nảy nở tươi đẹp của (các) mối quan hệ này. Lần đầu Biển đọc “Sáu đợt thức tỉnh” đúng kiểu lần đầu làm chuyện ấy, cảm giác rất mới mẻ hồi hộp do liên tục không biết “chuyện này sẽ đi tới đâu”. Đến lần đọc thứ hai, do vẫn còn hơi nhớ cốt truyện nên Biển tưởng sẽ bớt thú vị. Nhưng không, sự thú vị và dòng chảy cảm xúc vẫn diễn ra với cách thức khác. Biển “bắt” được nhiều chi tiết mà lần đầu đọc đã bỏ qua, phát hiện thêm một điều khó hiểu để đem ra chất vấn dịch giả và đã được trả lời đầy đủ tính thuyết phục. Như thường lệ, sau nội dung chính thì Biển hứng thú đọc kỹ những Lời Bạt / Lời cảm ơn, trong cuốn này là phần phỏng vấn tác giả, và mức độ ưa thích đối với tác phẩm càng tăng lên. Biển rất mong chờ cuốn này được chuyển thành phim, nếu vào tay một vị đạo diễn tài năng thì chắc chắn nó sẽ là một tác phẩm điện ảnh hoành tráng đáng nhớ. Vì đọc với niềm yêu thích mù quáng nên Biển chả nhớ có lỗi chính tả hay lỗi đánh máy nào không (đoan chắc 99% là không có). Một trong những niềm dzui lớn khi đọc sách là mình có thể trực tiếp liên hệ với tác giả hoặc dịch giả để hỏi khi không hiểu, hoặc càm ràm khi không ưng ý (!)… điều mà Biển đã hai lần làm khi đọc “Sáu đợt thức tỉnh”. Thành thật mà nói thì bìa hơi xấu và tựa sách khó nhìn nhưng não đồ của Biển chưa đủ phong phú để nghĩ ra thiết kế bìa khác cho nó. Vì lý do cá nhân mà Biển có hai cuốn này và đã tặng một cuốn cho anh công an khu vực của mình. Biển sẽ mua thêm trong khả năng của mình để tặng, vì đây là một quyển trinh thám tuyệt vời rất đáng để quảng bá. Nội dung truyện này cũng tình cờ là cặp đôi hoàn hảo với bản nhạc mà Biển thích nhất: (Sea, 5-8-2021) Cáo Biển Non Xanh Reviewer: Điền Yên ——- Cơ sở khoa học của cuốn sách này rất thú vị. Nó thỏa mãn cuồng vọng bất tử của con người. Mỗi khi ta chết đi, một bản sao vô tính của ta sẽ được thức tỉnh, vào giai đoạn sung mãn nhất đời ta, ví dụ như tuổi đôi mươi. Hơn nữa, nó còn kế thừa trí nhớ của tất cả các kiếp trước. Thời gian và cái chết chẳng còn tí uy hiếp nào nữa. Sáu đợt thức tỉnh là câu chuyện về 6 thành viên phi hành đoàn. Họ thức tỉnh và nhận ra toàn bộ phi hành đoàn đã bị giết (nếu không thì họ đã chả thức tỉnh). Nhưng ai lại là người giết sạch bọn họ, khi mà chỉ có 6 người với nhau? Ai cũng đáng nghi. Ai cũng có bí mật của mình. Tấm màn che sự thật dần được vén lên. Thì ra họ không quen biết nhau trước khi lên tàu nhưng đều kết nối với nhau theo một cách thức nào đó. Đây là một tác phẩm trinh thám viễn tưởng lạ. Quá trình điều tra không phức tạp loằng nhoằng gì vì các nhâm vật đều bị khuyết trí nhớ. Manh mối để lại thì vụn vặt, chỉ đủ để chứng tỏ ai cũng không thoát khỏi liên quan. Họ khám phá ra sự thật một cách dần dần qua 6 đợt thức tỉnh. Cá nhân tôi thích cuốn này chủ yếu vì bối cảnh xã hội mà truyện xây dựng nên và cả quan điểm đạo đức của tác giả. Những người lòng tràn đầy kì thị khó đem lại điều gì tốt đẹp. Ngoài ra, qua truyện này, tôi thấy không nên gây thù với bọn lập trình Dang Thi Quynh Anh 3.5/5 Sẽ ra sao nếu như Mười Người Da Đen Nhỏ của Agatha Christie có một phiên bản với viễn cảnh xảy ra ở thì tương lai và ngoài không gian? Bùm, chúng ta có Sáu Đợt Thức Tỉnh của tác giả Mur Lafferty, một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đan xen yếu tố trinh thám này đây. Sáu Đợt Thức Tỉnh đưa người đọc theo chân một nhóm phi hành gia gồm sáu người – với điểm nhìn chính là nhân vật Maria Arena – một bản sao vô tính. Điều đặc biệt ở Maria là sau mỗi lần cô chết đi bất kể vì lý do gì, cô sẽ lại “thức tỉnh” trong một thân xác trẻ trung, đồng thời sở hữu mọi ký ức của “kiếp đời trước”. Chính vì vậy, cô cùng năm bản sao khác cũng chính là những phi hành đoàn đã được bổ nhiệm làm một nhiệm vụ trên con tàu vũ trụ Dormire, cùng nhau thực hiện chuyến bay dài mấy thế kỷ để lên định cư trên hành tinh Artemis tươi đẹp. Tuy nhiên, mọi chuyện không được như mong đợi khi cả nhóm gồm sáu người thì tất cả đều bị giết, máy móc bị phá hoại và khủng khiếp hơn nữa là không ai nhớ chuyện gì đã xảy ra, thậm chí ký ức về nhau cũng bị xóa sạch. Nguy hiểm hơn, thủ phạm gây ra tội ác này nằm trong số họ, và kẻ ấy vẫn đang rình rập, chờ thời cơ ra tay lần nữa. Tiểu thuyết khoa học viễn tưởng vốn không phải là thể loại tớ hay đọc thường xuyên. Mặc dù vậy Sáu Đợt Thức Tỉnh một phần do bởi yếu tố hoàn cảnh lạ lùng nên có sức lôi cuốn nhất định. Có đôi khi tác giả dường như hé lộ một chút manh mối dẫn đến kẻ sát nhân, nhưng hóa ra đó cũng chỉ là đòn hỏa mù đưa người đọc dấn thân sâu hơn vào mê cung của bí ẩn mà thôi. Cách triển khai mạch truyện có phần chậm chạp và đôi chút dài dòng, nhưng tuy nhiên cách kể chuyện đó lại mang một ưu điểm: Đó là Mur Lafferty đã giúp cho người đọc khám phá ra được tất cả những thân phận hay tính cách đặc trưng, những câu chuyện riêng của từng cá nhân sáu người phi hành đoàn. Bên cạnh đó, tớ thực sự thích cái cách mà tác giả đặt vấn đề cũng như xây dựng được cốt truyện có tính liên kết chặt chẽ với nhau, cũng như Mur Lafferty đã hoàn toàn nêu bật được lên sự bối rối, sự nghi ngờ hay thậm chí cả lòng ganh ghét đố kị và rất nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau của “các bản sao” khi họ bỗng nhiên “sống dậy” trong bể máu tội ác. Cách tạo dựng không gian hay nói cách khác, là bối cảnh trôi nổi ngoài vũ trụ của Sáu Đợt Thức Tỉnh cũng là yếu tố làm tăng lên được sự thú vị cho tác phẩm. Ngoài ra công nhận một điều là tác giả có kiến thức về khoa học cũng như trí tưởng tượng phong phú vô cùng luôn và cuốn tiểu thuyết này chính là cách dể tác giả “phô diễn” ra tầng tầng lớp lớp kiến thức của mình cho người đọc. Một ưu điểm và cũng là phần tớ cực kỳ ấn tượng về Sáu Đợt Thức Tỉnh không chỉ bởi ở nội dung cuốn sách mà đó là dịch giả Nguyễn Thành Long. Thề hơn hai mươi nồi bánh chưng rồi mới thực sự thực sự thực sự x 3000 lần ưng một dịch giả đến mức độ này. Đến độ đôi khi đọc cũng phải bất giác xuýt xoa ối giời ơi anh là ai mà dịch có tâm thế. Ngôn từ sử dụng rất linh hoạt và thậm chí còn sử dụng cả những từ lóng của cộng đồng mạng cho vào Sáu Đợt Thức Tỉnh Nữa cơ. Nếu để “mạn phép” chấm điểm riêng cho phần dịch thì tớ sẽ để điểm tối đa là 5/5 luôn, dịch duyên và có tâm thế chứ lị. Mặc dù vậy, Sáu Đợt Thức Tỉnh bên cạnh những ưu điểm thì còn có điểm trừ. Đó là các cuộc hội thoại giữa các nhân vật với nhau tớ cảm thấy đôi chút gượng gạo và lắm lúc trí não thuộc ban xã hội của tớ có không kham nổi những đoạn tác giả viết về mạch vi tính hay máy móc hay mọi thức liên quan đến khoa học nên có hơi bị nản. Và sự “hơi nản” này dẫn đến việc tớ có skip một số trang nhưng không sao, vẫn hiểu rõ nội dung ngon nghẻ lắm. Ngoài ra, mặc cho sự cái “dai dài” của tác phẩm nhưng Sáu Đợt Thức Tỉnh không thực sự có yếu tố xây dựng và phát triển nhân vật, chúng ta biết họ ra sao vì tác giả miêu tả vậy chứ không được khai thác sâu. Nhưng nhìn chung Sáu Đợt Thức Tỉnh là một cuốn trinh thám khá ổn, đặc biệt dành cho bạn nào thích khoa học viễn tưởng hay lập trình máy móc các kiểu đan xen một chút trinh thám thì okay, cuốn này đúng là dành cho bạn luôn. Dịch giả dịch siêu có tâm, tớ còn bị ấn tượng với dịch giả hơn cả nội dung sách ý huhu. Bạn nào muốn đổi gió đọc Mười Người Da Đen Nhỏ ngoài vũ trụ này có thể tìm đọc em ý nha, mà bạn nào muốn trau dồi khả năng dịch thì cũng có thể tham khảo cuốn nè luôn. Neverblossom Đây có lẽ là một trong những cuốn trinh thám mật thất lạ thường và cuốn hút nhất mình được đọc trong năm nay. Truyện mở ra trong một bể máu: 6 bản sao vô tính trần truồng thức dậy trên một con tàu vũ trụ, và thấy trôi lềnh bềnh xung quanh mình là máu, rất lắm máu, phòi ra từ những cái xác đã bị sát hại dã man. Lúc khám nghiệm xác, họ giật mình nhận thấy đây là xác của… chính họ. Những cái xác ấy thực chất là cơ thể cũ của họ, còn bọn họ là các thân xác mới, vừa được đánh thức dậy sau khi cơ thể cũ chết đi. Đống xác trông rất già, chứng tỏ trước khi chết, bọn họ đã cùng nhau sống trên tàu hơn mấy chục năm. Theo lý thuyết, ký ức của cơ thể cũ sẽ được máy nhân bản copy sang cơ thể mới, nhưng tất cả các bản sao mới này chẳng nhớ gì hết. Họ thậm chí còn không nhớ mình từng đặt chân lên tàu, không nhớ mình từng gặp nhau, và đương nhiên, không nhớ ai đã giết mình. Nguy hiểm hơn, lúc kiểm tra máy móc trên tàu, họ nhận thấy sau lần sao chép cơ thể mới cho mình vừa rồi, máy nhân bản đã hỏng nặng, và đây sẽ là lần đầu thai cuối cùng trong cuộc đời nhân bản của họ. Nếu xảy ra thêm một vụ tàn sát nữa, họ sẽ chết thật, không còn thân xác mới nào để sống lại cả. Bởi vậy, phi hành đoàn 6 người này bị tống vào một cuộc đua đầy chết chóc: phải khẩn trương tìm ra hung thủ, trước khi hung thủ nhớ được mình phải làm gì. Các manh mối giúp giải mã vụ án được đưa ra dưới dạng các thông tin về công nghệ nhân bản, lịch sử tương lai của thế giới, và quá khứ của từng nhân vật. Tính cách, bí mật, tội lỗi, động cơ tiềm tàng cũng như lý do từng nhân vật xuất hiện trên tàu dần dần được hé lộ, vừa tăng thêm chiều sâu và độ hấp dẫn cho từng người, vừa góp phần đưa ra gợi ý để độc giả có căn cứ đoán hung thủ là ai, song cũng tung khá nhiều hỏa mù để thủ phạm không quá dễ đoán. Vì ban đầu cần giới thiệu thế giới tương lai nên mấy chương đầu đi hơi chậm, và có nhiều tình tiết xem chừng rời rạc, nhưng sau khi xây dựng xong nền tảng thì truyện trở nên kịch tính và sâu sắc hơn hẳn, mọi thứ được xâu chuỗi hết lại, và tất cả các tình tiết ngỡ tưởng vô nghĩa ban đầu đều được hé lộ là manh mối quan trọng. Thủ phạm không hoành tráng lắm, nhưng cũng ổn và hợp lôgic. Cách lý giải bí ẩn không vi phạm nguyên tắc căn bản nào của một tác phẩm trinh thám, chẳng hạn như không tự nhiên đưa ra tình tiết mới mà độc giả không biết, không có gì siêu nhiên, không ăn may thấy manh mối,… Lúc đọc xong và ngẫm lại, mình tin đến khoảng 2/3 truyện là sẽ có thể đoán được hung thủ nếu chịu để ý từ đầu. Đặc biệt là sau khi hung thủ bị bắt, một lời giải cho một vấn đề quan trọng khác được đưa ra một cách rất bất ngờ và tài tình, và với mình thì đây là điểm sáng nhất truyện. Điểm tổng: 4/5. Rất đáng đọc. Long Tran Mời các bạn mượn đọc sách Sáu Đợt Thức Tỉnh của tác giả Mur Lafferty & Nguyễn Thành Long (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trông Lên Rất Đẹp
Trông lên rất đẹp được Vương Sóc ra để tưởng niệm thời tuổi thơ của mình. Đó là câu chuyện về khoảng thời gian từ 3 tuổi đến 8 tuổi của một đứa bé trai ở một nơi rất đặc biệt.   Phương Thương Thương sinh vào năm 1960, khi mà cả đất nước Trung Quốc đang chuẩn bị cho một cuộc Cách mạng Văn hóa rầm rộ. Không có thời gian để chăm sóc con, bố mẹ cậu bé đã gửi cậu vào một trường quản dưỡng nội trú. Ở đây, trẻ em bị thiết quân luật chặt chẽ bỡi những cô giáo giáo điều và đôi khi tàn nhẫn.   Nhưng Phương Thương Thương là một trường hợp khiến họ cũng lắm lúc không khỏi đau đầu. Cậu bé sinh ra đã cứng đầu, lập dị. Những sinh hoạt hằng ngày nơi cái trại lính nhi đồng đó đã diễn ra hết sức đa dạng, bé nhỏ nhưng vô cùng sống động. Tất cả đã tương tác với tính cách của Phương Thương Thương, tạo nên những suy ngẫm trẻ thơ, những cú sốc, những vết thương. Từ đó, không khí của thời đại tiền Cách mạng Văn hóa được khắc họa sâu sắc, chất chứa những câu hỏi về sự hình thành ra nhân cách con người trong thế kìm hãm, mất tự do của bản ngã. Thêm một tác phẩm nữa từ một thế hệ nhà văn mới của Trung Quốc, những người không tin gì cả, cười nhạo tất cả…  *** Vương Sóc sinh năm 1958 tại Bắc Kinh trong một gia đình quân nhân. Năm 1976, sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, Vương Sóc đi bộ đội, làm y tá ở một đơn vị hải quân. Năm 1978 tác phẩm đầu tay “Chờ đợi” ra đời. Năm 1980 ông được điều về toà soạn tạp chí “Văn nghệ quân giải phóng”. Sau khi phục viên ông về công tác ở Công ty Dược. Năm 1984, Vương Sóc xin thôi việc, làm nhà văn tự do, chuyên viết tiểu thuyết, kịch bản phim, tuỳ bút và phê bình văn học. Năm 1992, Văn tập Vương Sóc ra đời, gồm 4 cuốn, 31 loại, 1 triệu 60 vạn chữ. Tác phẩm chủ yếu của Vương Sóc là “Cô gái hàng không”, “Mất đứt tình yêu của tôi”, “Một nửa là ngọn lửa, một nửa là nước biển”, “Nổi lên mặt biển”, “Nghiền cho đã rồi chết”, “Chúa gàn”, “Chơi nhưng mà hồi hộp”, “Tao là bố mày”, “Ðộng vật hung dữ”, “Xin chớ coi tớ là người”... Nhiều tiểu thuyết của Vương Sóc đã chuyển thành kịch bản phim như “Khát Vọng”, “Câu chuyện ở ban biên tập”, “Anh không phải là người thường”, “Yêu em không thương lượng”.... Văn của Vương Sóc hóm hỉnh, dí dỏm, phóng túng, thường hay dùng ngôn ngữ lưu hành ở đô thị, tự xưng là “tiểu thuyết mang mùi vị đô thị mới”.   Sau một thời gian bảy năm gác bút đi buôn, lập công ty làm kinh tế, tháng 3 năm 1999, Vương Sóc lại xuất hiện trên Văn đàn với tác phẩm hoàn toàn khác trước: “Trông vào đẹp lắm” có độ dài 233.000 chữ, do Nhà xuất bản Hoa Nghệ xuất bản lần đầu 200.000 cuốn. Tháng 8 năm 2000, Vương Sóc lại cho ra cuốn phê bình tiểu luận: “Người đẹp bỏ tôi thuốc bùa mê”, dài 100.000 chữ do Nhà xuất bản Văn nghệ Trường Giang xuất bản, in lần đầu 200.000 cuốn.  *** Năm 1991, viết hơn một triệu chữ cả tiểu thuyết, kịch bản phim truyện, phim truyền hình. Năm sau đã gặp báo ứng, rơi vào khủng hoảng sáng tác. Thực tình thì đó là sự khủng hoảng của tinh thần, tôi bỗng nảy sinh mối hoài nghi rất lớn trước cuộc sống sáng tác của mình lẫn tất cả những gì đã viết ra. Còn nhớ như in thời gian, địa điểm xuất hiện cảm giác lung lay đó. Một buổi trưa, mười một giờ, trước cửa hàng bán đồ ăn Tây Bá Hà bên đường vành đai ba, tôi rẽ qua đó ăn bữa cơm. Hôm đó, chớm sang hè, nắng rất đẹp, tôi đi giữa sương khói bảng lảng bỗng chân nhũn xuống, dùng giọng lưỡi thậm xưng của đám đàn bà tiểu tư sản là tôi thấy trong tôi sụp đổ. Dĩ nhiên là không ngã xuống, nằm giữa phố, mà vẫn bước đi, có điều đầu óc quay cuồng những câu hỏi ngắn vụt tới tấp: Tôi đang làm gì? Thế này coi như tôi đang sống chăng? Cái tôi cần chính là những thứ đang ở trước mắt đây?   Bỗng dưng mất sạch hứng thú trước lối viết vốn đã rất thuần thục, cảm thấy đi cùng với nó là sự đánh mất, sự mai một những ý tưởng ban đầu, thuần thục nhưng lại để vuột mất những điều cốt tủy. Đó là chỗ lung lay cực kì rõ ràng, như lỗ thủng trên bít tất, người khác không thấy nhưng chính mình rất rõ: cái lối viết mà tôi những hô hào với rêu rao kia thực chất chỉ là đơn giản hóa cuộc sống.   Ấy là nói đỡ cho. Nghiêm khắc thì là: bóp méo cuộc sống. Cuộc sống nào cũng đan xen chằng chịt trăm thứ cảm xúc, mà nào có ai giống ai, cớ sao phản ánh vào văn chương lại thành một bộ mặt sơ sài, đơn giản, chẳng hạn: mang tính chất của thể hài kịch. Dĩ nhiên, ở đây cũng bao gồm những hạn chế tự thân của văn chương - một thứ công cụ biểu đạt: câu chuyện thường vẫn có xu hướng tìm tòi một kết thúc viên mãn, sự giới hạn về số lượng chữ khiến người ta chỉ có thể tập trung vào những phát triển chính, còn bao nhiêu sự thực khác đều không ôm đồm nổi. Cũng còn bởi vấn đề của sự thú vị. Tiếng Bắc Kinh đặc trưng khi nói có xu hướng ồn ào rôm rả, nói ra rất dễ lời tiếp lời, một chuyện giản đơn mà xoay tới trở lui viết ra hàng đống giấy, khoái cảm nơi cửa miệng khiến người nói say sưa, tưởng mình thông minh, lại càng “nổ”, càng “diễn”. Nếu đơn thuần chỉ để tạo điểm khác biệt, kiếm mấy tiếng tung hô, hoặc phụ họa cho hợp thế thời, thì cũng chả gì ghê gớm. Nhưng, không giấu quý vị, tôi còn có một “tâm nguyện ban đầu” với văn học, đó chính là: “trả lại cuộc sống nguyên vẹn”. Ý tôi là đi tìm những tác nhân thực sự ảnh hưởng đến hành động nhân vật, những thứ không bị đổi thay bởi ý thức con người, những nhân tố chi phối nguyên sơ nhất, ẩn bên trong của mọi thứ biểu cảm bề ngoài.   Bởi tôi không dám tin vào phản xạ đầu tiên của mình. Bởi hành động thường đa nghĩa. Bởi tư duy quá đỗi phức tạp, bóc tách từng chút một cũng chưa chắc đã khỏi bất ngờ sao mình lại có phản xạ như thế. Ở đây liên quan đến động cơ.   Chắc gì bạn có thể hiểu và nhìn thấu nhân vật dưới ngòi bút của chính mình. Chắc gì anh ta sẽ không mới vui đã buồn, gặp yêu sinh hận - dù nguyên mẫu chính là bạn. Động cơ không nắm rõ, hành vi trượt khỏi quỹ đạo, chỉ còn lại chút tính hài được dàn xếp sẵn, chạy theo những vui buồn yêu giận “lấy ngay”, tới đâu hay đó… trông cũng “thể diện”, nhưng rốt cuộc vẫn trơ trơ một lời tự vấn thiếu hồi đáp: vốn dĩ là vậy hay sao?   Khổ sở không chỉ mỗi điều đó. Chính bởi chưa tới được gốc gác nguồn ngọn, tự túm tóc phiêu diêu giữa lưng chừng, đã có người lôi xuống, thay mình tổng kết ra bộ ra hệ ra phương pháp nọ kia, nói mình chính là thế này thế này, lại còn được số đông chấp nhận. Tôi không nói những kẻ chê mắng tôi, quan hệ giữa tôi với bọn họ rất đơn giản, lập trường khác biệt, tình cảm, suy nghĩ tất thảy đều khác, những điều bọn họ chê tôi đại khái cũng không sai lệch, thỉnh thoảng có lạc sang tận nhà bà ngoại cũng chẳng ảnh hưởng gì. Tôi muốn nói đến những người yêu quý tôi, muốn gặp tôi, coi những thứ của tôi kia là của quý. Trước khi nói ra những lời dưới đây, tôi phải thanh minh trước: ở đây tôi nói sự việc, không nhắm vào người nào hết, tôi chỉ muốn làm rõ một số hiểu lầm từ bấy lâu nay, muốn tháo gỡ những thứ vốn không liên quan đến nhau, có thể là không công bằng, nhưng hoàn toàn không phải mượn dịp để hạ thấp ai đó, cố ý làm xấu ai đó, xin được độc giả chứng giám, xin người trong cuộc bỏ quá cho.   Tôi muốn nói tới những hình tượng nhân vật đã được điển hình hóa qua các phim ảnh chuyển thể từ tiểu thuyết của tôi, hoặc do chính tôi viết kịch bản. Diễn viên rất thành công, được khán giả quan tâm yêu thích, tôi cũng thích thế, cũng như thích những nhân vật khác trong các vở kịch vui khác đã khiến tôi bật cười. Nếu bảo loại hình tượng đó xuất phát từ những sáng tác của tôi, một cách độc đáo, thực tình chẳng dám. Như thế là ốc mò cò xơi, cướp vinh quang của người ta; bất quá như kiểu khôn ngoan của loại người: nhờ người mang thai hộ.   Họ thuộc một dạng người Bắc Kinh khác. Nói thế nào nhỉ? Chắc cũng lương thiện thật, có chút ranh ma, cực kì biết lắng (lấy) phần trong, gạn (bỏ) phần đục, vốn liếng to nhất là đầy một miệng “thấu hiểu” với “cảm thông”, sống “cặm cụi” kĩ càng, không bỏ lỡ cái gì bao giờ, bàn tính gảy rào rào trong bụng người ngoài cũng nghe thấy, một chút xúc cảm đã ngỡ là sâu sắc.   Người tốt! Người có tính như thế, trong cuộc sống này chỉ có lợi, không hại, ra trước công chúng phần lớn đều được cưng chiều, nhưng xuất hiện trong tác phẩm của tôi lại thành lầm lẫn. Toàn thể hiện sai. Chính là kết quả của sự sáng tạo lại của nghệ thuật điện ảnh.   Khác biệt giữa điện ảnh với tiểu thuyết đại để ở chỗ cho ra sản phẩm của ý chí tập thể, rất nhiều người tham gia lao động, cuối cùng đều nêu ý kiến, đều “gửi gắm” những phẩm chất ưa thích của mình vào trong nhân vật, rốt cuộc trả về cho anh một con người hoàn toàn xa lạ. Đương nhiên, điện ảnh ngày nay trước tiên phải là lợi nhuận, được ưa chuộng tức là thành công, hỏi tôi về ý tưởng trong nguyên tác, tôi nào có định như thế, viết hàng lô lốc những thứ dớ dẩn kia chỉ để dựng cho quần chúng một con người tốt. Đúng như lời người phê bình, tôi toàn viết những thứ “láo lếu”. Những lời nói có vẻ đầy nhiệt tình kia thật ra là trêu chọc. Cái thú trêu chọc người khác bắt nguồn từ cảm giác thâm căn cố đế: hơn người. Đúng vậy, tự nghĩ mình “siêu”, có sức nhào nhồi, có tài lập thân lập ngôn, rơi xuống đáy của xã hội mà không hay biết, thịt nát xương tan cái miệng vẫn còn, cho nên nói năng tự cao tự đại, như sống trong mơ, không hòa đồng cũng chẳng hòa tan. Là dạng thích ra oai, là lưu manh giả trượng nghĩa, không cam tâm sống đời hiu quạnh, nhưng rồi chẳng qua vẫn chỉ là hạng cười gắng nói gượng vô danh tiểu tốt.   Hồi nhỏ, tôi là đứa bé hư, quen nhận từ xung quanh những trách mắng và “lừ mắt”, như thế mới cảm thấy mình là mình. Bỗng một ngày, tiếng vỗ tay vang lên, lại còn có người đi theo, tôi hoang mang mất phương hướng, cảm giác đó thật lạ lẫm, đột ngột, vừa dễ chịu vừa không thoải mái, cùng lúc với dễ chịu thường là không tự nhiên, hay đó là sa ngã?   Còn nhớ năm ấy đọc được bài phê phán đầu tiên dành cho mình (trước đó cũng đã có, tôi muốn nói loạt mới khi tôi bắt đầu để mắt tới). Bài do một kẻ nhàn rỗi viết ra, đăng trên Nhật báo Bắc Kinh số cuối tuần. Nội dung phê phán không nhớ nữa, cũng chẳng quan trọng, tóm lại là nói tôi không tốt, chẳng có chỗ nào được, cũng chẳng sao, quan trọng là bài phê bình khiến cảm giác của tôi thay đổi, có thể miêu tả là “cả trái tim rơi tọt xuống ổ bụng”. So với những động viên, khen ngợi từ sau lưng, những công kích, chửi mắng vỗ ngang trước mặt càng khiến tôi nhìn rõ mình đang ở đâu, mình là cái thứ gì, nhờ vậy càng giữ được bản chất - ý tôi là: tính ăn miếng trả miếng của chó sói. Làm sói thực ra tôi không ham, thành chó tôi cũng chẳng thích, so sánh hơn thiệt phải chọn cái đỡ thiệt hơn. Đây chính là cái lợi và sự cần thiết của kẻ thù. Tôi nghĩ tôi cần kẻ thù còn hơn cần bạn bè chiến hữu. Dĩ nhiên, tôi không muốn nói người phê phán tôi đều là loại kẻ thù vác súng bắn, đó chỉ là phép tu từ, nếu nói thế không ổn, tôi rất vui lòng gọi đó là những người sáng suốt, ra roi chỉ lối.   Đó là lời nói thật, tôi cảm ơn những người phê phán tôi. Chính những phê phán “buốt tai” đó giúp tôi nhìn rõ hơn những thứ bị “trông gà hóa quốc”. Tôi nghĩ trước thực tại đó mình cũng không nên quá tiêu cực, nói cách khác là cự tuyệt với nó. Bị hiểu lầm vốn là cái nghiệp của người diễn đạt, cũng chẳng nên coi tất cả những người đó là ngu dốt hết thuốc chữa hoặc nhận định có âm mưu này khác. Một phần nguyên nhân chắc chắn là ở bản thân, chính mình diễn đạt có chỗ mâu thuẫn, để người khác túm được gáy. Tôi nghĩ có một lối viết truyện có thể đem cuộc sống mà tôi nhìn thấy - cái diện mạo vốn có của nó - lột tả một cách chân thực. Kể cũng khá thú vị, đối mặt với những phê phán và mô phỏng chế giễu, tôi lại cảm thấy tư liệu cuộc sống của mình đầy đủ và tròn trịa, vẫn giữ được sự mới lạ khi chưa bị người ta khám phá, nhận biết, giữ được hương vị hoang dã, trinh nguyên. Điều đó quả thực không gì sánh nổi, cho một người viết lách ngót chục năm mà vẫn còn rất ham muốn sáng tác. Nó cũng có nghĩa là tôi vẫn còn cơ hội xây dựng một diện mạo mới mẻ, bước lên một bậc cao hơn, hoặc nói cách khác là lại tìm thấy chốn đào nguyên trong văn học.   Có thể chỉ là tôi đang quan trọng hóa mình quá mức, quá bận tâm với chính mình, không đủ thoải mái ung dung, làm hỏng mất tác phong của kiểu người như chúng tôi. Thế thì đã sao nhỉ? Thì coi như tôi còn thiển cận đi.   Mời các bạn đón đọc Trông Lên Rất Đẹp của tác giả Vương Sóc.
99 Phờ - Răng
 Khi cả một cuộc đời giá chỉ có 99 Phờ-răng       Tại sao lại là “99 Phờ-răng”? 99 phờ-răng là giá tiền của cuốn sách bán trong các cửa hàng ở Pháp và sau khi Liên minh châu Âu dùng đồng tiền chung thì tên cuốn sách được đổi thành 14,99 euro. Trong “99 Phờ-răng” là một cuộc đời, cuộc đời của Octave - nhân vật chính và được coi là hình bóng của chính tác giả Frederic Beigbeder.    “99 Phờ-răng” là cuốn tiểu thuyết viết về thế giới quảng cáo – thế giới mà chúng ta đang sống trong đó, thế giới của những câu slogan ấn tượng, những clip quảng cáo gây nhiều tranh cãi, thế giới của những con người thông minh, sáng tạo với mức lương cao chót vót. Nhưng đằng sau thế giới đầy hào quang đó là những trăn trở, dằn vặt, là sự sám hối của một chuyên gia quảng cáo thành đạt nhưng bất ổn trong tâm hồn. Octave là một mẫu người trẻ tuổi sành điệu nhưng bế tắc, cô đơn trong cuộc sống, tình yêu và đặc biệt ác cảm với chính nghề nghiệp của mình - một nghề đầy uy lực, ma thuật nhưng lại rất trơ trẽn, bịp bợm.   Trong con người Octave là sự giằng xé giữa hai mặt của nghề, với một bên là ánh hào quang, các giải thưởng, sự thăng tiến và một bên là sự cắn rứt của lương tâm trước sự giả dối, khắc nghiệt và tàn nhẫn của nghề quảng cáo. Octave cảm thấy day dứt vì đã gia nhập vào đội quân những kẻ dối lừa người tiêu dùng. Anh ta nhận thức rất rõ rằng, “quảng cáo như con bạch tuộc bám chặt tất cả và sở hữu thế giới. Khởi đầu như trò đùa, giờ đây quảng cáo điều khiển cuộc sống của chúng ta: quảng cáo tài trợ cho truyền hình, chỉ huy báo chí, ra lệnh cho thể thao (không phải Pháp hòa Brazin ở trận chung kết World Cup mà là Adidas thắng Nike!)” Hàng năm đầu tư quảng cáo trên thể giới đạt mức nhiều tỷ đô la. “Và có thể cam đoan rằng, với khoản tiền như thế thì mọi thứ đều có thể đem bán được hết - đặc biệt là linh hồn của bạn.” Octave mệt mỏi trong cái trạng thái bất ổn đó và luôn tự đặt cho mình câu hỏi: “Vì cái gì mà người ta lại biến tôi thành Vị Chúa tể Thế gian? Ðã từ lâu, tôi muốn nhận rõ bí mật: bằng cách nào mà quảng cáo lại trở thành là Chúa tể và trị vì trên đỉnh cao của thời đại chúng ta? Chưa bao giờ trong lịch sử hai nghìn năm nay, một kẻ đần độn như tôi lại có được sức mạnh như vậy.”   Octave là đại diện cho một lớp người trẻ tuổi, thông minh, thành đạt nhưng đã mất hết niềm tin vào cuộc sống, vào tình yêu để rồi đắm mình vào thế giới của ma túy và thác loạn, để rồi đau đớn nhận ra rằng mình đang vô cùng cô độc. Thế giới của những công dân cổ cồn trắng như Octave gắn với những trò ăn chơi thác loạn trong nhà thổ, nơi chỉ có đám gái làng chơi dâm dật “mới có thể đánh thức chức năng đàn ông” trong con người anh ta, bởi anh ta không tin vào tình yêu mà mình từng có. Ðó cũng là thế giới của những gã đồng nghiệp khệnh khạng, suốt ngày dán mắt vào màn hình vi tinh chỉ để tải các bộ phim khiêu dâm, thế giới của những quý bà giám đốc béo ú như khúc giò và một đám nhân viên sáng tạo đang ra sức cười hô hô với khát khao được trông giống như các chuyên gia sáng tạo thực thụ”. Octave muốn thoát ra khỏi cái thế giới trơ trẽn đó và mong ước được cấp trên sa thải. Và cũng chính vì mục đích đó mà anh ta đã phơi bày hết chuyện bếp núc của quảng cáo. “99 Phờ-răng” là một cuốn sách châm biếm, mỉa mai ngành công nghiệp quảng cáo, trong đó tác giả bộc lộ cái nhìn không khoan nhượng về thế giới điên cuồng và đầy nghịch lý, nơi tất cả mọi người khinh bỉ nhau và tiêu phí những giá trị tốt đẹp của con người. “99 Phờ-răng” là cái tát đối với xã hội phương Tây hiện đại, là sự giễu cợt xã hội tiêu thụ với một trong những cái lò xo chính của nó là quảng cáo.   Frederic Beigbeder viết “99 Phờ-răng” như thể để trả thù những năm tháng dối lừa mà anh đã cống hiến cho xã hội tiêu dùng. Năm 2000, sau khi “99 Phờ-răng” được xuất bản lần đầu tiên tại Pháp và trở thành cuốn sách bán chạy nhất trong năm, Frederic Beigbeder đã buộc phải giã từ nghề quảng cáo để rối dấn thân vào một nghề đầy thú vị nhưng cũng đầy thách thức: viết tiểu thuyết. Anh là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy tại Pháp và châu Âu như “Kỳ nghỉ trong hôn mê”, “Tình yêu chỉ sống ba năm” hay “Cửa sổ trên tháp đôi”.   “99 Phờ-răng” đã được đạo diễn Jan Kounen dựng thành phim và chỉ trong mấy tháng từ khi công chiếu ở châu Âu ngày 26/9/2007, bộ phim đã thu được 12 triệu đô la tiền bán vé.   Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách thú vị này tới tất cả những ai muốn khám phá mặt trái của xã hội phương Tây, khám phá mặt trái của nghề quảng cáo - một nghề đang thịnh hành và đang là sự lựa chọn của nhiều bạn trẻ hiện nay. Hy vọng rằng, “99 Phờ-răng” sẽ làm bạn đọc hài lòng khi khám phá ra nhiều điều thú vị về cái thế giới kín cổng cao tường đó.   TP. Hồ Chí Minh, tháng 12/2007   PHAN AN *** Frédéric Beigbeder là nhà văn Pháp, người sáng lập ra giải thưởng Café de Flore, trao vào tháng 9 hàng năm tại Saint-Germain-des-Prés. Ông là tác giả của tác phẩm "Kẻ ích kỉ lãng mạn". Sinh năm 1965 trong một gia đình khá giả, Frédéric Beigbeder theo học tại hai trường trung học nổi tiếng rồi vào Học viện nghiên cứu chính trị Paris, tiếp đó là Trường nghiên cứu khoa học thông tin và truyền thông.   Năm 24 tuổi, Frédéric tốt nghiệp với tấm bằng cao học về marketing - quảng cáo và bắt đầu sự nghiệp khá lừng lẫy của một người đa tài: làm quảng cáo, nhà văn, phê bình văn học, làm chương trình thời luận...    Frédéric Beigbeder đã từng làm cho nhiều tạp chí như Elle, Paris Match, Voici, VSD… và làm trong nhóm phê bình văn học cho một số chương trình trên kênh Paris Première, Canal +, sau đó anh làm riêng chương trình Des livres et moi (Sách và tôi) trên kênh Paris Première. Frédéric Beigbeder cũng từng là biên tập viên cho nhà xuất bản Flammarion.   Là một người đam mê văn học thực sự, song song với những công việc trên, Frédéric Beigbeder không từ bỏ việc viết sách. Năm 1990, anh xuất bản tiểu thuyết đầu tay Mémoire d'un jeune homme dérangé (Hồi ký của một thanh niên bị quấy rầy). Năm 1994, tiểu thuyết thứ hai ra đời Vacances dans le coma (Kỳ nghỉ trong cơn hôn mê) và tiếp theo vào năm 1997 là Tình yêu kéo dài ba năm, kết thúc bộ ba tiểu thuyết về Marc Marronnier.    Tiếp sau đó, các tiểu thuyết của Frédéric Beigbeder đều giành được thành công vang dội như 99 francs - bán được 380 000 bản, được chuyển thể thành phim; hay Windows on the world - bán được 100 000 bản, giành giải Prix Interallié, bản dịch tiếng Anh được nhận giải Independent Foreign Fiction Award.    Ngoài tiểu thuyết, anh còn viết truyện ngắn, tiểu luận, truyện tranh. Frédéric Beigbeder là người sáng lập ra giải thưởng Prix de Flore vào năm 1994, giải thưởng này đã từng vinh danh những cây bút nổi tiếng như Michel Houellebecq, Amélie Nothomb, Virginie Despentes,...   Năm 2009, Frédéric Beigbeder giành Giải Renaudot với cuốn tiểu thuyết Un roman françai.   Mời các bạn đón đọc 99 Phờ - Răng của tác giả Frédéric Beigbeder.
Ba Ngày Ở Nhà Mẹ
Kết cấu Ba ngày tại nhà mẹ tôi (Giải Goncourt 2005) thật đặc biệt. Thoạt tiên là sáu "chương" (từ đầu đến trang 160) tuy tác giả không ghi là chương mà chỉ đánh số từ 1 đến 6. Người kể chuyện xưng "tôi", tự giới thiệu mình là François Weyergraf, vợ là Delphine, hai con gái là Zoé và Woglinde. "Tôi" đã gần sáu mươi, đã xuất bản mười tiểu thuyết và dựng năm bộ phim. Mẹ "tôi" thì đã tám mươi tám tuổi. "Tôi" bắt tay vào một cuốn tiểu thuyết mới, "… tôi đã tìm ra nhan đề trước khi bắt đầu viết, đó là "Ba ngày tại nhà mẹ tôi". Tôi cần phải sáng tạo một nhân vật phụ nữ đã nhiều tuổi, một bà mẹ hư cấu, bà sẽ là mẹ của người kể chuyện chứ không phải mẹ tôi […] Trong tiểu thuyết của tôi, bà mẹ goá chồng" (Trois jours..., tr.75). "Tôi" chọn người kể chuyện là một nhà văn, như thế dễ viết hơn là chọn một kẻ sát nhân, một nhà phẫu thuật hay một bộ trưởng. "Người kể chuyện trong cuốn sách sắp tới của tôi đêm đêm giam mình trong một căn phòng để làm việc [...] Tôi chấp thuận cho phép ông ta thỉnh thoảng rời căn phòng […] Đi đây đi đó, làm tình, viết văn, thật là một tam vị nhất thể tuyệt vời!" (Trois jours..., tr.95, 99, 101). Nhưng rồi việc viết lách chậm như rùa. Vợ "tôi" hỏi: "Cuốn tiểu thuyết của anh đến đâu rồi?". Mẹ "tôi" sống ở Provence, miền Nam, lần gần đây nhất lên Paris, hỏi: "- Con đưa cho mẹ xem cuốn tiểu thuyết của con chứ? Nó đâu? - Bà muốn nói là bản thảo […] Tôi đã trả lời mẹ: - Con chưa viết xong được - Thế ít ra con đã bắt đầu viết chưa?” (Trois jours..., tr.156, 157).   Từ trang 163 đến trang 234, tiếp theo sáu "chương" ấy là trang bìa, trình bày hết cả trang, như một trang bìa thật, cuốn tiểu thuyết của "tôi", với đầy đủ tên tác giả là François Weyergraf, nhan đề cuốn tiểu thuyết là "Ba ngày tại nhà mẹ tôi"… Sau trang bìa là ba chương đã hoàn thành, ghi rõ chương 1, chương 2 và chương 3. Phương thức tự sự chuyển sang ngôi thứ ba, lời kể của người trần thuật: François Graffenberg là một nhà văn; ông đã gần sáu mươi tuổi, vợ là Daphné, hai con gái là Chloé và Sieglinde. Ông định viết một cuốn tiểu thuyết lấy nhan đề là "Ba ngày tại nhà mẹ tôi", nhân vật chính, người kể chuyện trong đó tên là François Weyerstein, cũng là một nhà văn, dự định viết "Ba ngày tại nhà mẹ tôi", nhưng mãi chưa xong vì những chuyện gặp gỡ, hẹn hò. Ông quyết định gác lại tất cả, về nhà mẹ ở mấy ngày để nghỉ ngơi đôi chút và hoàn thành tác phẩm.   Cuốn Ba ngày tại nhà mẹ tôi của François Weyergraf mới được ba chương và dừng ở đây. Ba mươi trang cuối (tr.235-263) tiểu thuyết Ba ngày tại nhà mẹ tôi của François Weyergans được đánh số 7, nối tiếp với 6 "chương" mở đầu tác phẩm và trở về với phương thức tự sự ở ngôi thứ nhất. "Tôi" được tin mẹ "tôi" ở Provence bị ngã chẳng ai biết, nên một mình nằm ngoài vườn, nay đang điều trị ở bệnh viện. "Tôi" liền về Provence. "Thế là tôi về sống ba ngày, ba ngày ấy tại nhà mẹ tôi. Tại nhà mẹ tôi mà không có mẹ tôi". Tiểu thuyết kết thúc bằng mấy dòng: "Tối nay tôi rất muốn gửi cho mẹ tôi một bản fax, tôi rất muốn viết báo tin cho mẹ là tôi vừa đặt dấu chấm hết cho quyển sách mà tôi đã quyết định hoàn thành, sau khi mẹ ngã, tôi về ở ba ngày tại nhà mẹ tôi” (Trois jours..., tr.255, 263).   Nhà văn có thật François Weyergans viết cuốn tiểu thuyết với nhân vật trung tâm là nhà văn hư cấu François Weyergraf (tạm gọi là cuốn A); nhà văn hư cấu này lại viết cuốn tiểu thuyết với nhân vật trung tâm hư cấu là François Graffenberg cũng là một nhà văn (tạm gọi là cuốn B). Đến lượt François Graffenberg lại viết cuốn tiểu thuyết với người kể chuyện là François Weyerstein vẫn là một nhà văn (tạm gọi là cuốn C) và nhà văn ấy đang loay hoay viết "Ba ngày tại nhà mẹ tôi" (tạm gọi là cuốn D). Các tiểu thuyết ấy đều lấy cùng một nhan đề và triển khai cùng một nội dung. Một dạng tiểu thuyết trong tiểu thuyết và theo kỹ thuật "lồng gương" đến mấy tầng. Hai cuốn C và D mới chỉ là những dự định. Cuốn B của François Weyergraf đã xong được ba chương, Cuốn A, tiểu thuyết "có thật" của tác giả "có thật" François Weyergans thì gồm bảy "chương" đánh số từ 1 đến 7 và cả ba chương chen ngang của tác giả cuốn B kia.   Xét về một phương diện khác, cuốn D mới chỉ được nhắc đến, chưa có tên nhân vật và cũng chưa biết là theo phương thức tự sự nào. Cuốn C theo phương thức tự sự ở ngôi thứ nhất, căn cứ vào câu: "Người kể chuyện trong tiểu thuyết của ông (tức François Graffenberg - P.V.T thêm) tên là Weyerstein" (Trois jours..., tr.201). Cuốn B theo phương thức tự sự ở ngôi thứ ba. Đọc cuốn tiểu thuyết hoàn chỉnh, “thật sự" của F. Weyergans, ngôn từ kể chuyện dường như cũng luân phiên thay đổi theo kiểu "lồng gương", từ ngôi thứ nhất (cuốn A) ở 7 “chương”, sang người trần thuật ở ba chương (cuốn B) và sẽ lại trở về với ngôi thứ nhất (cuốn C)...   Một cuốn tiểu thuyết về sáng tác tiểu thuyết của một nhà văn có dự định trong đầu mà cứ trì hoãn mãi viết không xong. Cái gọi là cốt truyện theo nghĩa truyền thống hầu như chẳng có. Ba ngày tại nhà mẹ tôi lôi cuốn hứng thú của bạn đọc về phía kỹ thuật biến hoá chủ thể tự sự trong tác phẩm. Ngoài ra, có những dấu hiệu khiến ai cũng phải băn khoăn: các nhân vật nhà văn trong tác phẩm đều có tên là François như tác giả, còn các họ Weyergraf, Graffenberg, Weyerstein đều na ná dắt dây nhau và gợi nghĩ đến Weyergans. Cũng có mối liên hệ tương tự giữa tên vợ (Delphine - Daphné) và tên hai con gái (Zoé - Chloé; Woglinde - Sieglinde) của Weyergraf và Graffenberg. Dù sao, đó vẫn chỉ là những nhân vật hư cấu; các chủ thể xưng "tôi" và người trần thuật trong tác phẩm vẫn không thể đồng nhất với nhà văn. Trong tiểu thuyết này, chủ thể "tôi" có đầy đủ cả họ tên, tuổi tác, lại có vẻ gắn với những mối quan hệ xã hội, vợ con, mẹ, tình nhân, nhà xuất bản... Nhưng các tên họ dắt dây nhau, nhoà vào nhau, các sự kiện lại rất mờ nhạt, cả cuốn tiểu thuyết chỉ quanh quẩn ý chính là mãi chẳng hoàn thành. Thật không dễ dàng hình dung để phân tích "tôi" như một nhân vật theo lối mòn trước đây..."   GS. Phùng Văn Tửu   Khoa Ngữ văn - Đại học Sư phạm Hà Nội  *** François Weyergans sinh năm 1941 ở Bỉ, mẹ là người Pháp và bố là người Bỉ, nhưng chủ yếu sống ở Paris. Ông xuất thân là một nhà làm phim, tốt nghiệp IDHEC (Trường Điện ảnh quốc gia), đạo diễn cuốn phim ăn khách một thời Je t'aime, tu danses (Anh yêu em, còn em thì nhảy múa).   Dầu vậy, Weyergans được thiên hạ biết tiếng nhiều nhờ sự nghiệp văn chương hơn là nhờ mấy tác phẩm điện ảnh lẻ tẻ.   Ông bắt đầu nổi danh với tư cách là nhà văn vào năm 1973 qua cuốn Le pitre (Thằng hề). Trong số các tác phẩm đáng chú ý khác của ông còn có Le radeau de la Méduse (Chiếc bè Méduse), La vie d'un bébé (Hài nhi), Je suis écruvain (Tôi viết văn), La démence d'un boxeur (Võ sĩ điên rồ, giải Renaudot 1992), Franz et François (Franz và François).   Năm 2005 này, ông cùng lúc cho ra mắt hai cuốn Trois jours chez ma mère vừa trúng giải Goncourt và cuốn Salomé (Salomé, tác phẩm đầu tay, khởi thảo năm 1968).     Tác phẩm đoạt giải:   "Có thể rồi một ngày nào đó tôi cũng sẽ trách mình, không phải vì ít trò chuyện với mẹ, bởi hầu như chiều nào tôi cũng nói chuyện qua điện thoại với bà, mà là vì ít đến thăm bà, nhất là mấy năm sau này. Đã thượng thọ, vậy mà người mẹ yêu quý của tôi vẫn còn tỏ ra rạch ròi hơn tôi nhiều. Trong điện thoại, bà không ngớt tóm gọn tình thế: "Tóm lại, mẹ thật ít có dịp trông thấy con trên đời"".   Chính vì vậy mà, thay mặt tác giả, nhân vật François Weyergraf mong muốn được "ba ngày về với mẹ" cho phải đạo làm con.   Đây là một cuốn tiểu thuyết có cấu trúc phức tạp. Người kể chuyện François Weyergraf "bịa" ra một tác giả tên là François Graffenberg, ông Graffenberg này lại "bịa" ra một nhân vật là François Weyerstein; mỗi François lại truyền cho François khác cái xung năng sáng tạo của mình.   Ngay từ đầu, độc giả đã gặp lại nhân vật có họ na ná với họ Weyergans trong cuốn Franz et François xuất bản 8 năm trước. François Weyergraf là nhà làm phim và nhà văn (hệt như tác giả), 60 tuổi, luôn luôn thao thức, trăn trở, bất an trong lòng, nhưng rất ư uyên bác, chẳng khác gì nhà văn Bỉ danh tiếng Franz Weyergans, cha của tác giả.   Nếu như qua Franz et François, tác giả đã tỏ lời vừa kính phục vừa ganh ghét cha mình, thì cuốn Trois jours chez ma mère như một bức thư bày tỏ tình cảm gửi tới mẹ già.     Mẹ và con   Bà nay 91 rồi, nhưng vẫn minh mẫn và còn sung sức. Qua điện thoại, bà không ngớt thăm hỏi, chăm sóc đứa con trai ở tuổi 60 như nó còn bé dại. Bà dặn nó phải viết nhiều hơn, bớt hút thuốc, không thì phổi bị thủng lỗ chỗ. Một nhân vật kỳ diệu.   Nhớ tới thời bà... chưa già, vừa góa chồng là bà cặp kê ngay với một ông láng giềng chủ một xí nghiệp có vợ con. Bà cũng chẳng ngại la cà trong các quán bar, nhảy nhót với những kẻ lạ mặt. Vóc dáng, cử chỉ, lời ăn tiếng nói của bà lúc nào cũng trẻ trung, sống động, khiến cho nhiều người tưởng bà với con mình là vợ chồng chung gối với nhau.   Thế nên Francois Weyergraf/Weyergans hết mực yêu quý, tôn sùng mẹ mình. Chúng ta nghe rõ đằng sau chữ "maman" (má, mẹ, u...) mỗi khi tác giả thốt lên trên trang giấy từng cung bậc rung động của ngòi bút.   Ông khao khát được ôm mẹ vào lòng, về ở với mẹ dầu chỉ "ba ngày" vậy mà cứ mải miết bận rộn. Lại nữa, cứ mong mang về dâng tặng mẹ cuốn sách viết về cuộc đời của bà, nhưng vì nó vẫn còn trong trứng nước nên tác giả ngần ngại không dám bước chân. Mà cũng có thể vì tác giả e rằng một khi đã phơi bày cuộc đời của mẹ mình trên trang sách, biết đâu bà lại chẳng bất thần trút hơi thở cuối cùng.   Rốt cuộc, "ba ngày về với mẹ" chỉ là một giấc mơ.     Mượn cớ   Hay chỉ là cái cớ cho phép tác giả nhẩn nha "tùy bút" trên 270 trang sách, một cách hấp dẫn, lôi cuốn, nhờ ở một văn phong điêu luyện, nhưng không kiểu cách. Thành quả của bảy năm ròng miệt mài với ngôn từ, chữ nghĩa, với tư duy, suy luận.   Viện Hàn lâm Goncourt đã đúng đắn khi trao tặng Goncourt, giải quan trọng nhất của văn học tiếng Pháp, cho tác phẩm Trois jours chez ma mère của Francois Weyergans. Trong số các nhà văn từng đoạt giải này có Marcel Proust, Simone de Beauvoir, Marguerite Duras...   TRẦN THIỆN ĐẠO (Paris)    Mời các bạn đón đọc Ba Ngày Ở Nhà Mẹ của tác giả Francois Weyergans.
Người Khuyết Tật - Barabbas
Barabbas (1950) là một tiểu thuyết của văn hào Pär Lagerkvist, người đoạt Giải Nobel Văn chương năm 1951. Tác phẩm thuật lại câu chuyện về cuộc đời của Barabbas, người mà Thánh Kinh cho biết đã được tha thay vì Chúa Giê-xu. Barabbas đã dùng suốt cuộc đời còn lại của mình để tìm hiểu lý do vì sao mình được chọn để sống. Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên đồi Golgotha. Bên lề đám đông, Barabbas đứng đó. Vốn là một người bạo lực, sống ngoài vòng luật pháp và nổi loạn, Barabbas không thể nào có chút kính trọng với một người không biết phản kháng, dầu người đó đã chết thay chỗ của mình. Barabbas cũng hoài nghi về thần tánh của Chúa Giê-xu. Dầu vậy, ông cũng bị lôi cuốn về sự hy sinh của Chúa. Ông tìm gặp nhiều môn đệ khác nhau của Chúa để tìm hiểu. Tuy nhiên, những quan điểm tôn cao Chúa của họ không phù hợp với sự quan sát cụ thể của ông về Chúa. Quan trọng hơn nữa, vì Barabbas chưa bao giờ kinh nghiệm được tình yêu - vốn là nền tảng của niềm tin Cơ-đốc - nên Barabbas thấy rằng ông không thể nào hiểu được tình yêu, và do đó không thể nào hiểu được đức tin Cơ-đốc. Barabbas nói rằng ông "muốn tin," nhưng đối với Barabbas, hiểu biết là điều kiện tiên quyết để tin, do đó ông không thể tin. Sau nhiều thử thách gian truân, cuối cùng Barabbas đến Rome, nơi ông hiểu lầm cuộc hỏa hoạn tại Rome là khởi đầu của Thiên Đàng mới, do đó ông hăng hái giúp đám cháy lan rộng. Kết quả, ông bị bắt và bị đóng đinh cùng với những Cơ-đốc nhân khác như là những người tử đạo về một đức tin mà ông vẫn chưa hiểu. *** Pär Lagerkvist được trao giải vì những tác phẩm mang sức mạnh nghệ thuật và sự tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi muôn đời vẫn đặt ra trước loài người. Tiểu thuyết Barabbas là tuyệt tác của P. Lagerkvist về nỗ lực của con người tìm kiếm đức tin, đề cập đến những vấn đề cấp thiết nhất của tồn tại con người một cách hết sức xác thực và dũng cảm.   PÄR LAGERKVIST (23/5/1891 - 11/7/1974) Giải Nobel Văn chương 1951 * Nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch Thụy Điển * Nơi sinh: Vaxjo (Thụy Điển) * Nơi mất: Stockholm (Thụy Điển) Pär Lagerkvist là con một công nhân đường sắt. Ông học ngữ văn và lịch sử nghệ thuật, yêu thích văn chương và có định hướng trở thành nhà văn ngay từ thời niên thiếu. Năm 1912 P. Lagerkvist bắt đầu in thơ và truyện dài Những con người, viết báo và phê bình sân khấu. Năm 1913 ông đến Paris và chịu ảnh hưởng rất nhiều của trường phái ấn tượng, đặc biệt trong hội họa. Do ảnh hưởng của Thế chiến I nên các sáng tác thời kì đầu của P. Lagerkvist phản ánh tâm trạng lo âu, hoang mang, cô đơn và bất lực của con người trong thời kì đế quốc chủ nghĩa (Nỗi buồn, 1916). Những năm sau đó ông viết thơ, kịch, truyện, phê bình sân khấu. Năm 1925, ông cho ra đời cuốn tự truyện Vị khách của thực tại mang quan điểm nhân đạo, có tính chiến đấu, được viết bằng ngôn ngữ giản dị nhưng mang tính nghệ thuật rất cao. Cho tới năm 1930 P. Lagerkvist định cư chủ yếu tại Pháp và Ý, và sau khi trở về Thụy Điển, ông vẫn thường xuyên trở lại vùng Địa Trung Hải này. Năm 1940 ông được bầu vào Viện Hàn lâm Thụy Điển. Tiểu thuyết Barabbas (1950) là đỉnh cao sáng tác của P. Lagerkvist, kể lại cốt truyện của kinh Phúc Âm một cách chân thực và đầy sức thuyết phục, ngay lập tức được dịch sang 9 thứ tiếng và dựng thành phim. Năm sau, nhà văn nhận giải Nobel. Cho đến cuối đời ông tiếp tục viết thơ, sáng tác 5 cuốn tiểu thuyết. P. Lagerkvist có hai đời vợ. Ông mất năm 1974, thọ 83 tuổi. * Tác phẩm: - Những con người (Manniskor, 1912), truyện dài. - Nghệ thuật ngôn từ và nghệ thuật họa hình (Ordkonst och bildkonst, 1913), tùy bút [Verbal art and pictorial art]. - Sắt và người (Jam och manniskor, 1915), tập truyện. - Nỗi buồn (Angest, 1916), thơ [Anguish]. - Người cuối cùng (Den sista manniskan, 1917), kịch. - Sân khấu (Teater, 1918), tiểu luận. - Hỗn loạn (Kaos, 1919), tập thơ. - Thời khắc khó khăn I, II, III (Den svara stunden, 1918), kịch [The difficult hour I,II,III]. - Bí mật thiên đường (Himlens hemlighet, 1919), kịch [The secret of heaven]. - Những motiv (Motivs, 1919), thơ và văn xuôi. - Nụ cười vĩnh cửu (Det eviga bendet, 1920), truyện dài. - Con đường của người hạnh phúc (Den lyckliges vag, 1921), thơ. - Người vô hình (Den osynlige, 1923), kịch. - Những truyền thuyết anh hùng đáng sợ (Onda sagor, 1924), tập truyện ngắn. - Vị khách của thực tại (Gaest hos verkligheten, 1925), tự truyện [Guest of reality]. - Bài ca trái tim (Hjartats sanger, 1926), thơ [Songs from the heart]. - Cuộc sống bị chinh phục (Det besegrade livet, 1927), tự truyện [The conquered life]. - Người đã sống hết cuộc đời (Han som fick leva om sitt liv, 1928), kịch [He who lived his life over again]. - Huyền thoại loài người (Myten on manniskorna, khoảng 1930, chơa in). - Bên đống lửa (Vid legeraldem, 1932), tập thơ. - Vua (Konungen, 1932), kịch. - Tên đao phủ (Bödeln, 1933), kịch [The hangman]. - Người không có tâm hồn (Mannen utan sjal, 1936), kịch [The man without a soul]. - Chiến thắng trong bóng tối (Seger i mörker, 1939), kịch [The victory in the darkness]. - Thơ và cuộc chiến (Song och strid, 1940), tập thơ. - Thằng lùn (Dvọrgen, 1944), tiểu thuyết. - Hãy để mọi người được sống (Lat manniskam leva, 1949), kịch. - Barabbas (1950), tiểu thuyết. - Đất hoàng hôn (Aftonland, 1953), tập thơ. - Sibyllan (1956), tiểu thuyết. - Cái chết của Ahasverus (Ahasverus dod, 1960), tiểu thuyết. - Người hành hương trên biển (Pilgrim pa havet, 1962), tiểu thuyết. - Mariamne (1967), tiểu thuyết.   * Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt : - Người khuyết tật, gồm 2 tiểu thuyết Người khuyết tật (Dvọrgen), Nguyễn Thái Hà dịch và Barabbas, Dương Cầm dịch, NXB Hội Nhà Văn, 2002. - Bố và tôi, Chiếc thang máy xuống địa ngục, Nhật Chiêu dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1997. - Cha và tôi, Hàn Thủy Giang dịch, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1998. - Chiếc thang máy xuống địa ngục, Ngô Bích Thu dịch, in trong Đôi mắt lụa, NXB Văn Học, 1998; Truyện ngắn tình yêu hiện đại thế giới, NXB Văn hóa - Thông tin, 2003. - Cuộc phiêu lưu, Cốt thiêng, Tình yêu và cái chết, Chợ đồ cũ, Hà Việt Anh dịch, in trong tập Tọa độ tình yêu, NXB Hội Nhà Văn, 2004. ©  Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây