Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tội Ác Của Sylvestre Bonnard

Sylvestre Bonnard, một học giả già lỗi lạc đang gặp các vấn đề bất ngờ khi ông bắt tay vào tìm kiếm một vài tài liệu văn học cổ xưa của Giáo Hội để mang từ Paris đến Sicily và ghi dấu vào lịch sử cuộc đời của chính mình. Vì lợi ích của công lý và tình yêu, ông cố gắng hoàn thành công việc sao cho tốt nhất nhất là tính hợp pháp nghi ngờ. Với "Tội phạm của Sylvestre Bonnard", Anatole France (1844-1924) đã viết một cuốn tiểu thuyết vừa thông minh và khôn ngoan và theo cách thức của các bậc thầy vĩ đại của phong cách văn học - một cuốn sách đầy đủ lẫn hồi hộp từ đầu đến cuối. *** Một câu chuyện cảm động và kết thúc đẹp như mong ước, một cái kết gần giống như kết của 'Những người khốn khổ' (Les Miserables), với một đôi trẻ hạnh phúc, nhưng không kém phần hồi hộp khiến ta phải lo âu theo dõi. Sylvestre Bonnard, người kể chuyện, một ông lão tuổi ngoài 60 sống tại Paris, nước Pháp nửa sau thế kỷ XIX, sống cuộc sống độc thân giản nhị nhưng không quá túng thiếu với Thérèse người quản gia cũng già đã phục vụ ông qua mấy chục năm. Một con người khá cô độc nhưng không ghét loài người, sống bình lặng với người quản gia, con mèo, cùng công việc yêu thích là nghiên cứu các văn bản cổ, và dịu dàng, nhân ái với mọi người. Phần 1 - 'Khúc củi' với diễn biến về sau khá bất ngờ, khi ông theo đuổi một bản thảo cổ từ Ý trở lại Paris, trong quá trình đó gặp một người phụ nữ bí ẩn, và cuối cùng bản thảo bị người phụ nữ bí ẩn trả giá cao trong cuộc bán đấu giá. Người phụ nữ, hóa ra từng là vợ của một người nghèo khổ sống cùng tòa nhà với ông, nay đã là mệnh phụ, sẵn lòng mua bản thảo với giá cao để đáp lại ân tình của Bonnard khi trước. Một kết thúc theo kiểu gieo nhân nào gặp quả nấy. Phần 2 - 'Tiểu thư Jeanne Alexandre' là sự quyến luyến của ông lão Bonnard đối với Jeanne, cô bé là cháu gái của Clementine, người con gái mà ngày còn trẻ ông mến mộ. Do phá sản, bố mẹ cô khi mất đã để Jeanne bơ vơ giữa đời phải sống trong một trường nội trú với những điều kiện khắc nghiệt và người giám hộ không được tử tế. Nhờ danh vị thành viên Học viện mà Bonnard được cô Préfère nể trọng đón tiếp tử tế và cuộc sống của Jeanne đỡ khổ ải hơn. Nhưng khúc quanh của câu chuyện khá bất ngờ khi cô cấm ông Bonnard không được đến thăm Jeanne tại trường và cô bé lại tiếp tục chịu cuộc sống hà khắc dưới quyền cô. Người đọc hồi hộp theo dõi liệu ông lão Bonnard có thể phạm tội ác gì (theo hướng chống lại cô Préfère) nhằm giành giật lại cô bé mà ông yêu quý và muốn bù đắp cho. Kết cục, như ta đã biết là tốt đẹp, và cô bé Jeanne cũng đã có hạnh phúc lứa đôi với chàng công chức cùng nghề với Bonnard, khi còn là sinh viên đã tìm đến ông để trao đổi về học thuật. Trong Phần 2 này những trao đổi giữa ông lão Bonnard và chàng sinh viên Gélis về lịch sử (trang 224 - 225 - 226, Bản dịch của Nguyễn Xuân Phương, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, tháng 4.2001) là khá thú vị, hay trao đổi giữa Bonnard và cô Thèrése về giáo dục (trang 156) đến bây giờ vẫn hoàn toàn đúng đắn. Cũng ở Phần 2 này theo lời kể của Bonnard ta cũng thấy nước Pháp những năm 1800 vẫn còn chia rẽ khá sâu sắc giữa những người ủng hộ Napoleon (những kẻ cướp vùng Loire) và những người bảo hoàng Bourbons. - Con người (mặc giáp sắt thời Trung cổ) được bọc sắt như con bọ hung. Sự yếu đuối của họ là ở bên trong. (trang 18) - hãy đối xử rộng lượng với đồng loại để họ rộng lượng với chúng ta (trang21) - Người nghèo không tham vọng là có món tài sản vĩ đại nhất, hắn tự kiềm chế được mình, còn người giàu mà thèm muốn thì chỉ là một tên nô lệ khốn khổ (trang 22). - cái thú chuyện trò với một trí tuệ ưu việt và ôn hòa, cái thú ăn tối với một anh bạn thân (trang 22) - những thèm muốn thuở hoa niên là ghê gớm biết bao nhiêu (trang 22) - chúng cháu (tuy là người lớn) mãi mãi là trẻ con, chúng cháu không ngừng đuổi theo những đồ chơi mới lạ (trang 28) - người thiếu phụ ấy không trở nên xấu cũng không trở nên tốt. Hãy đợi chị ta kết thúc cuộc đời mới nên phán xét (trang 29) - điệu bộ bạo dạn ở những kẻ nhát gan (trang 37) - với ba xu, tôi có thể ăn, uống và rửa mặt tất tần tật với một lát dưa hấu bày trên chiếc bàn con (trang 38) - Phải thương xót họ: của cải vây quanh lấy họ mà không thấm thấu vào họ; họ đáng thương, nội tâm cùng quẫn. Sự khốn khổ của người giàu thật thê thảm. (trang 43) - Những người yêu tha thiết không viết về hạnh phúc của mình (trang 45) - người ta có học được đôi điều qua sách vở, nhưng người ta càng học tập được nhiều hơn khi đi đây đi đó. (trang 47) - những nỗi buồn, đó là một cách tiêu khiển quan trọng. (trang 51) - người mà ta yêu thương mãi mãi chỉ là một hình bóng, nhưng kỷ niệm về nàng mãi mãi là niềm mê say của đời ta. (trang 76) - con người chỉ làm chủ thời gian khi chia no ra thành giờ, thành phút, thành giây, nghĩa là thành những khoảng cách cân đối với đời người ngắn ngủi, bởi vì thời gian chính là cuộc đời. (trang 81) - đối với phái yếu, mọi việc đều đượcphép, mọi hành động của họ là đặc ân, là sủng ái. (trang 90) - Có trí thức chẳng là gì hết, tưởng tượng sáng tạo mới quan trọng. Chỉ cái gì người ta suy nghĩ sáng tạo ra mới tồn tại. (trang 91) - Nhân loại hầu như toàn là người chết. So với số người đã chết thì người còn sống chẳng là bao nhiêu. Cuộc đời này là gì, ngắn ngủi hơn trí nhớ, ngắn ngủi hơn con người. (trang 100) - cuộc đừi là vĩnh hằng, ta phải yêu quý nó trong những hình thái không ngừng đổi mới (trang 100-101) -điếc như bao than, chậm chạp như tổ chức tư pháp. (trang 108) - Hãy trù liệu cho những việc lớn, nên biết rằng ý định là thực tế duy nhất trên đời. (trang 109) - Hãy coi trọng vỏ bánh mì khô trong chiếc đãy hai túi của anh hơn những chim sẻ vườn được quay trong bếp của lãnh chúa. (trang 110) - Tất cả chúng ta đều có trong người một Don Quixote và một Sancho mà chúng ta nghe theo, và cả đang khi Sancho thuyết phục chúng ta thì chính là Don Quixote mà chúng ta phải khâm phục. (trang 110) - Thời gian chỉ êm dịu đối với những ai khoan thai thận trọng đón nhận nó. (trang 112) - thực tế vũ trụ là phản ảnh của tâm hồn chúng ta. (trang 113) - Goethe ví đại có sức sống lạ thường, thực sự tin rằng người ta chỉ chết khi người ta muốn, nghĩa là khi tất cả sức mạnh chống lại sự phân hủy cuối cùng, khi toàn bộ khí lực làm nên sự sống bị hủy diệt đến tận cùng. Nói cách khác, ông nghĩ rằng người ta chỉ chết khi khôn muốn sống nữa. (trang 141-142) - tôi vẫn thích sự đam mê điên rồ hơn sự đứng đắn dửng dưng. (trang 144) - một thằng ngu, không phải bằng ba chữ mà đúng là bằng mười hai tập. (trang 147) - Những kẻ không có nhược điểm thì thật ghê gớm; không ai tác động đến họ được. (trang 150) - điều thực sự xấu xa trong thời đại chúng ta là khôn ai bằng lòng địa vị của mình, trong xã hội, trong mọi tầng lớp, từ trên xuống dưới, bao trùm sự túng thiếu, nỗi khắc khoải lo âu, sự khát khao hạnh phúc. (trang 153) - Không có thời đại nào con người lại thèm muốn sự túng thiếu. Họ luôn luôn tìm cách cải thiện địa vị xã hội của mình. Sự cố gắng kiên trì này đã sản sinh ra những cuộc cách mạng trường kỳ. Nó tiếp tục, thế thôi. (trang 153) - nghệ thuật giảng dạy chỉ là nghệ thuật kích thích tính tò mò ham biết của những tâm hồn non trẻ, tiếp đó là thỏa mãn tính tò mò ham biết đó, và tính tò mò ham biết chỉ mãnh liệt và lành mạnh trong những đầu óc sung sướng. Dùn quyền lực nhồi nhét kiến thức vào những đầu óc thông minh là bịt chúng lại, bóp nghẹ chúng. Trí thức phải được nuốt vào một cách ngon lành thì mới tiêu hóa được. (trang 155-156) *** Anatole France (tên thật là François-Anatole Thibault, 16 tháng 4 năm 1844 – 13 tháng 10 năm 1924) sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học).   Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì “những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực”…   A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire.     Tác phẩm chính:   - Những câu thơ vàng (Poèmes dorés, 1873), thơ.   - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, 1881), tiểu thuyết.   - Sách của bạn tôi (Le Livre de mon ami, 1885), hồi ký.   - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, 1894), tiểu thuyết.   - Vườn Epicure (Le jardin d'Epicure, 1894), tập cách ngôn.   - Lịch sử hiện đại (L'histoire contemporaine), gồm 4 tiểu thuyết:    + Cây du trên đường dạo chơi (L'orme du mail, 1897)   + Hình người bằng cây liễu (Le mannquin d'osier, 1897)   + Chiếc nhẫn tử thạch anh (L'anneau d'amethyste, 1899)   + Ông Bergeret ở Paris (Monsieur Bergeret à Paris, 1901)   - Hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, 1912), tiểu thuyết   - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, 1914), tiểu thuyết.     Những tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:     - Quyển truyện của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Vũ Thị Hay và Lê Ngọc Trụ dịch, Trung tâm Học liệu xuất bản, 1962, tái bản 1972   - Sách của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Hướng Minh dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, 1988, tái bản 2009.   - Đảo Panhgoanh (L'Île des Pingouins tiểu thuyết), Nguyễn Văn Thường dịch, NXB Văn Học, 1982.   - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, tiểu thuyết), Đoàn Phú Tứ dịch, NXB Văn Học, 1987.   - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, tiểu thuyết), Nguyễn Trọng Định dịch, NXB Phụ Nữ, 1989.   - Các hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, tiểu thuyết), Trần Mai Châu dịch, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1990.   - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1996.   - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001.   - Thais-Vũ nữ thoát tục, (Thaïs, tiểu thuyết), Hoàng Minh Thức dịch, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1989.   - Mối tình người thợ gốm, (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, Hà Nội 1987. ***  Tôi xỏ chân vào giày vải, khoác lại áo mặc trong nhà rồi lau giọt nước mắt do cơn gió bấc thổi ngoài bến tàu làm cho tôi tối tăm mặt mũi. Lửa rực sáng trong lò sưởi phòng làm việc của tôi. Những tinh thể băng tuyết hình lá dương xỉ phủ đầy bên ngoài mặt kính các cửa sổ, che lấp con sông Seine, các cây cầu và cung điện Louvre des Valois.   Tôi đẩy ghế bành và bàn di động đến gần lò sưởi chiếm lấy chỗ của chú mèo Hamilcar. Nó nằm khoanh tròn trên chiếc ghế lông, bốn chân ôm lấy mũi, ở đầu các thanh gác củi. Một làn gió đều đều phe phẩy bộ lông dày và nhẹ của nó. Thấy tôi đến gần, nó hé hai hàng mi, đưa cặp mắt mã não ra nhìn dịu dàng rồi nhắm lại ngay, nghĩ rằng: “Không hề gì, đó là bạn ta.” “Hamilcar!”. Tôi vừa kéo chân vừa gọi nó – “Hamilcar, ông hoàng ngủ gà của khu nhà sách, người canh gác ban đêm ơi! Mày chống lũ gặm nhấm hèn hạ, bảo vệ những bản thảo và ấn phẩm mà nhà bác học già nua đã mua với số tiền dành dụm ít ỏi là lòng nhiệt thành không mệt mỏi. Hamilcar, trong chốn thư viện im lặng này được các đức tính nhà binh của mày bảo vệ, mày hãy ngủ ung dung đài các như một bà hoàng! Bời vì ở mày hội tụ được dáng vóc tuyệt vời của một quân nhân Hung Nô với vẻ yêu kiều của một phụ nữ phương Đông. Hỡi chú Hamilcar anh hùng và thích khoái lạc, hãy vừa ngủ vừa chờ cơ hội lũ chuột nhảy múa dưới ánh trăng, trước giáo đường của nhà thông thái giáo phái Bông-lăng”.   Lời mở đầu bài diễn văn này làm vui lòng con Hamilcar, nó phụ theo bằng một tiếng khò khò trong họng như tiếng reo trong ấm nước sôi. Nhưng khi tôi cất cao lời nói, con Hamilcar cụp tai xuống, nhăn cái trán vằn, có ý cảnh cáo tôi nói năng cầu kỳ hoa mỹ như vậy là nghe chướng và nó nghĩ:   “Con người sách vở này nói năng chẳng đâu vào đâu, còn bà quản gia thì bao giờ cũng chỉ tuôn ra những lời lẽ đầy ý nghĩa, chứa đựng sự việc, hoặc báo tin một bữa ăn hoặc một trận đòn. Người ta biết chắc điều gì bà nói. Còn ông già này ghép lại những âm chẳng có ý nghĩa gì hết”.   Con Hamilcar nghĩ như vậy đó. Để mặc cho nó suy tư, tôi mở một cuốn sách và chăm chú đọc. Đó là cuốn danh mục các bản thảo. Tôi thấy không có gì dễ dàng hơn, thú vị hơn, êm đềm hơn bằng đọc một cuốn danh mục. Cuốn danh mục tôi đọc, do ông Thompson, cán bộ thư viện của ngài Thomas Raleigh, soạn thảo vào năm 1824 là cuốn sách hỏng, đúng thế, vì sự vắn tắt quá đáng và không thể hiện chút nào thứ chính xác mà các nhà lưu trữ thế hệ tôi đầu tiên đưa vào các tác phẩm về ngoại giao và về khoa chữ cổ. Nó chưa hoàn hảo, phái đoán mò. Có lẽ vì thế mà khi đọc nó, theo một bản tính tưởng tượng phong phú hơn bản tính của mình, tôi có cái cảm giác đáng được gọi là sự mơ mộng. Tôi lâng lâng thả mình trong dòng suy tư lơ mơ thì chị quản gia bằng một giọng cáu kỉnh bảo tôi biết có ông Coccoz yêu cầu nói chuyện với tôi.   Quả nhiên, một người nào đó lặng lẽ theo chị đi vào thư viện. Đó là một con người bé nhỏ, một con người bé nhỏ thảm hại, vẻ mặt ốm yếu, mặc chiếc áo mỏng dài đến đầu gối. Anh tiến về phía tôi, cúi chào mỉm cười nhiều lần, một cách tự tin. Anh rất đỗi xanh xao, tuy còn trẻ và nhanh nhẹn, nhưng hình như đang ốm. Nhìn anh, tôi nghĩ tới một con sóc bị thương. Anh cầm trong tay một mảnh vải bọc hàng màu xanh, đặt lên ghế, rồi mở bốn đầu mối của mảnh vải, để lộ một lô sách màu vàng.   - Thưa ông – lúc ấy anh cất tiếng – tôi không có hân hạnh được ông quen biết. Thưa ông, tôi là người môi giới cho hiệu sách. Tôi làm việc này cho các nhà buôn chính ở thủ đô, và với hy vọng rằng ông vui lòng cho tôi được hết sức tự hào về sự tin cậy của ông, tôi xin tự tiện mời ông một vài cuốn sách mới.   Trời đất ơi! Sách mới gì mà con người Coccoz nhỏ bé này mời tôi mua thế. Tập thứ nhất anh ta đặt vào tay tôi là cuốn Lịch sử tháp chiến Nesle với những chuyện dan díu giữa Margurite de Bourgogne và đại tá Buridan.   - Đó là cuốn sách lịch sử. – Anh vừa cười vừa bảo tôi. – Một cuốn sách đích thực.   - Trong trường hợp này – tôi đáp – thì chán lắm, bởi vì những cuốn sách lịch sử mà không nói láo thì đều buồn thiu buồn thỉu. Chính tôi đã viết những sách xác thực kia và nếu chẳng may cho anh, anh đi từ nhà này sang nhà khác giới thiệu cuốn nào, anh sẽ có nguy cơ suốt đời giữ nó lại trong cái bọc vải xanh của anh, không bao giờ tìm ra một chị cấp dưỡng nào khá kém chín chắn mua cho anh.   - Thưa ông, tất nhiên – Con người nhỏ bé đáp lại hoàn toàn chiều theo ý tôi.   Và vừa cười, anh ta đưa cho tôi cuốn Những chuyện dan díu của Héloise và Abeilard, nhưng tôi làm cho anh hiểu ngay rằng ở tuổi tôi, tôi chẳng làm gì với một chuyện tình.   Vẫn nụ cười trên môi, anh đề nghị tôi mua cuốn Luật về trò chơi đông người bài pikê, bài béji, bài các tê, bài uýt, bài súc sắc, bài con đam, cờ tướng.   - Chao ơi! – Tôi bảo anh ta – nếu anh muốn tôi nhớ lại luật chơi bài béji, anh hãy trả lại ông bạn già Bignan của tôi đã cùng tôi chơi bài mỗi buổi chiều, trước lúc ông ấy được năm viện hàn lâm long trọng đưa đến nghĩa địa, hoặc anh hãy làm xẹp sự thông minh trang trọng của con Hamilcar mà anh thấy nằm ngủ trên chiếc gối này, đối với chuyện phù phiếm về các trò chơi của con người, vì ngày nay, nó là người bạn duy nhất trong các buổi tối của tôi.   Nụ cười của con người nhỏ bé trở nên mơ hồ và hốt hoảng.   - Đây – anh bảo tôi – một tập mới xuất bản về các trò giải trí đông người, những câu pha trò, những trò chơi chữ, với những cách đổi một hoa hồng đỏ thành hoa hồng trắng.   Tôi bảo anh rằng từ lâu tôi đã rối lên với những hoa hồng, còn đối với những câu pha trò thì tôi chỉ cần những câu nào tôi được phép dùng một cách tự nhiên trong quá trình tiến hành các công việc khoa học.   Con người bé nhỏ lại đưa cho tôi cuốn sách cuối cùng với nụ cười lần chót. Anh nói:   - Đây là Sách giải mộng, giải thích tất cả mọi giấc mộng của người đời: mộng được vàng, mộng thấy mình là kẻ trộm, mộng thấy mình chết, mộng thấy từ trên cao trơi xuống… Đủ cả!   Tôi cầm cái gắp than, vung mạnh và trả lời ông khách luôn:   - Đúng, anh bạn ạ, nhưng những giấc mơ đó và muôn nghìn giấc mơ khác, vui có, buồn có, tóm lại chỉ là một mà thôi, đó là giấc mộng cuộc đời, và cuốn sách bìa vàng nhỏ của anh có cho tôi cái chìa khóa để giải giấc mộng đó không? Mời các bạn đón đọc Tội Ác Của Sylvestre Bonnard của tác giả Anatole France.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Thời Say Đắm - Danielle Steel
Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** - Nào! Bây giờ con hãy nhắm mắt lại. Tygue ngồi im bên cạnh nàng trong xe, mắt nhắm lại. Nàng nhận ra xe sắp đến khúc quanh cuối cùng trước khi tiến vào thành phố. Nàng tự hỏi không biết nó nghĩ gì khi nhìn thấy cảnh vật trong thành phố lớn lần đầu tiên. Những tòa nhà cao vút bắt đầu hiện ra trước mắt. - Được rồi. Bây giờ con hãy mở mắt ra nào! Nó mở mắt ra nhìn mọi vật nhưng vẫn còn im lặng không nói gì. Kate ngạc nhiên. - Con nghĩ gì? - Về điều gì? - Về San Francisco. Kia là những tòa nhà lớn nhất thành phố. Tygue chưa bao giờ thấy nhà cao hơn bốn tầng. - Con nghĩ nó có quá nhiều dốc. Giọng nó có vẻ thất vọng. Nàng không biết nói gì nới nó, khi nó ngồi nhìn thẳng trước mặt. Nó muốn về nhà nhưng nàng lại muốn nó ưa thích San Francisco. Nàng và Felicia đã hoạch định nhiều điều. Nàng sẽ ở đây cả tuần. - Con có muốn xem những con đường ngoằn ngèo nhất trên thế giới không? - Chắc chắn có. Nó ôm chặt chú gấu Willie trong tay. - Con có đói không? Nhưng nó lắc đầu. Nàng hỏi tiếp. - Ăn kem nhé! Nó mỉm cười gật đầu. Nàng tìm chỗ đậu xe và đưa Tygue vào một quán kem. Nó ăn kem một cách thích thú đến nỗi kem dính cả lên mũi và cằm. Khi họ rời quán kem, nó bắt đầu vui vẻ và nàng khó mà bắt nó lên xe được. - Chúng ta sẽ đi dạo sau. Trong suốt một tuần ở San Francisco, nàng và Felicia đã đưa Tygue đi chơi mọi nơi. Đó là tuần lễ của Tygue và cả hai người đàn bà đều mệt nhoài. - Dì Licia, lớn lên cháu sẽ làm nhân viên trên xe điện. Felicia cười: - Ý kiến thật vĩ đại. Bỗng Felicia như chợt nhớ ra. - Còn quyển tiểu thuyết của em thì sao, Kate? Nàng đang cố gắng để quên đi. Chỉ còn vài ngày nữa là đến ngày xuất bản sách. - Đó là vấn đề của họ. Em đã viết nó. Bây giờ họ có thể bán nó. - Nghe có vẻ đơn giản quá nhỉ! Felicia nhướng mày nhìn Kate. - Em viết truyện. Em có nghĩ rằng họ sẽ cần em giúp họ để bán truyện không? - Làm sao em biết họ cần gì? Vả lại bán sách được hay không cũng không thành vấn đề với em. - Ồ! Thật à? Thế thì cái gì mới thành vấn đề. - Em không muốn làm điều gì mà em không cảm thấy thoải mái. - Đừng dại dột như thế Kate. Hãy nghe chị. Em tậht điên rồ nếu không làm gì để giúp cuốn tiểu thuyết của em được nổi tiếng. Đây là cơ hội tốt nhất cho em. nếu em chịu khó lần này, quyển truyện tới đây sẽ nổi tiếng hơn nữa. Em mãi mãi thành công trong lĩnh vực văn chương. Em sẽ không bao giờ có cơ hội nữa. - Làm sao chị biết họ cần em? Những độc giả đâu cần đến tác giả. Em không thích đưa mặt mình lên truyền hình để bị ném bánh hay một mũi dao xuyên qua tim. Em sẽ không nhận cơ hội này đâu, Licia. - Em thật sự là người đàn bà cứng đầu. Có lẽ Stu Weinberg sẽ làm em thay đổi ý kiến. Kate và Tygue rời San Francisco vào trưa chủ nậht. Felicia đã nghỉ cả tuần để đi với họ, ngày mai nàng mới bắt đầu đi làm lại. Còn Tom thật tội nghiệp, nàng đã không thăm anh trong hai tuần nay. Tuần trước khi đi San Francisco nàng bận nên đã không ghé anh. Sáng hôm sau, việc đầu tiên là nàng sẽ ghé thăm anh. Nàng không thể đưa Tygue đi cùng với nàng đến chỗ Tom. ... Mời các bạn đón đọc Một Thời Say Đắm của tác giả Danielle Steel.
Lối Về - Danielle Steel
Sau khi chồng mất, Amanda Robbins rơi vào tình trạng ưu phiền, khủng hoảng. Bà nhận được sự quan tâm, chia sẻ của ông thông gia góa vợ Jack Watson và dần dần bình tâm trở lại. Một tình yêu lại nảy sinh giữa hai người và kết quả của tình yêu đó là một bé trai đang tượng hình. Đây là một điều khá thú vị vì cả hai người đều không còn trẻ để làm cha làm mẹ. Họ gặp phải sự phản đối gay gắt từ phía các con nhưng cuối cùng sức mạnh tình yêu đã chiến thắng tất cả... *** Là tác giả của những tiểu thuyết mang những cái tên như "Hẹn yêu", "Chuyện của trái tim", "Bây giờ và mãi mãi"… nhưng Danielle Steel vẫn khẳng định, tác phẩm của bà không phải là văn học lãng mạn. Đến nay, Danielle Steel là tác giả của 113 đầu sách. Trung bình mỗi năm bà xuất bản 3 cuốn. Sách của Steel đã tiêu thụ được 590 triệu bản trên toàn thế giới. Trong các sáng tác, nhà văn thường xây dựng hình ảnh những phụ nữ mạnh mẽ, tự chủ, vượt lên mọi thách thức trong cuộc sống và tình yêu. Nhưng trong cuộc phỏng vấn với CBS, Steel khăng khăng rằng, tác phẩm của bà "không phải là tiểu thuyết lãng mạn"… "Thực sự tôi đề cập sâu hơn đến những vấn đề của nhân loại. Lãng mạn chỉ là một yếu tố trong đó thôi". Hiện tại, nhà văn đang viết dở hai cuốn sách mới. Ngoài tiểu thuyết, bà còn sáng tác thơ dành cho thơ, truyện thiếu nhi và các thể loại phi hư cấu. Bà là nhà văn được xếp thứ tư trong danh sách 10 tác giả kiếm tiền giỏi nhất thế giới trong năm 2009 - 2010 của tạp chí Forbes. *** Tối hôm đó, gã Jack làm cơm tối cho nàng ăn. Tự nhiên gã ít tiếng hẳn. Nàng lo vì có thể sự việc của Jan và Paul đã khiến gã rồi bời. Khi nàng hỏi gã nói không sao cả. Gã vẫn bình thường, tự tin, hai người ngồi xuống ghế vải cùng ngắm sao, gã nắm tay nàng nhoài người tới trước, ôm hôn nàng. Một buổi tối êm ả. “Anh có vài điều hỏi em,” suy nghĩ hồi lâu, gã mới nói. Nàng không nghĩ ra được chuyện gì. Nàng ngoái nhìn, hơi nhíu mày. “Cả chiều nay em suy nghĩ. Nói thật, gần đây em nghĩ nhiều lắm. Chuyện sắp xếp cho Jan và Paul nhận đứa bé thật dễ dàng. Để anh quyết việc đó càng dễ dàng hơn.” “Ta muốn giúp bọn trẻ đó mới là chuyện hệ trọng.” Nàng không vừa ý. Nàng không hiểu nổi mình đang nghĩ chuyện gì. “Đúng rồi. Em làm được việc đó thật quá sức tưởng tượng. Nhưng không phải lúc nào cũng đúng. Có thể dù cho có thiên sứ trên cao hiểu rõ chuyện này, giúp Jan có thai được đứa con.” Gã ngưng ít phút. “Anh muốn mình giữ đứa bé... anh thấy rất cần có nó.” Mắt nàng ngấn lệ long lanh, trong đêm tối nàng không hay biết. “Anh nói thật sao?” đã hai lần cùng trong ngày nàng thấy yếu đến độ chỉ quệt nhẹ cũng té ngã. “Anh đã chắc chưa?” “Anh cam đoan chắc chắn. Anh chán cái lối sống tân thời này lắm rồi. Anh muốn cưới em. Ngay bây giờ. Ngày mai cũng được. Nhanh đi. Anh không muốn thấy thằng bé là đứa con ngoài giá thú.” “Anh phải chờ bốn tuần nữa.” Nàng Amanda nhìn gã cười. Không biết gã có nói thật không hay là gã làm ra vẻ như vậy. “Anh chả phải yêu cầu điều đó. Ta yêu thương nhau đến thế thì cũng như đã lấy nhau từ lâu rồi.” “Thế càng hay. Sao không thu xếp cho xong. Cứ lặng lẽ sắp xếp. Anh ở Malibu, em ở Bel Air, cứ mỗi cuối tuần gặp nhau, được chứ? Anh muốn gần em để chăm sóc con, cho tới khi nó chập chững biết đi, rồi mọc răng cho đến khi tóc em đổi màu, và rồi...” Gã cười nhìn nàng. Nàng đáp. “Em ghét không muốn nói anh nghe, anh quên mất rồi. Mười năm rồi anh còn nhớ chứ?” “Thế thì anh phải nhớ hết phần còn lại. Anh không hiểu mình đã nghĩ gì nữa. Anh biết lo cho riêng mình suốt hai mươi năm, quên lo chuyện của em. Cái đáng trách nhất anh đã quên cái ý nghĩa cao quý của cuộc sống. ANh không muốn chia cắt cái khoảng thời gian đó, cuộc sống đó. Anh muốn ôm trọn tất cả. Mỗi lúc em đau ốm có anh ngay, chia sẻ buồn vui. Rồi anh lại muốn em đến với anh những lúc thiếu vắng em. Nếu anh có khao khát thì nó cũng theo y như bố nó.” Gã sờ nhẹ tay trên vùng bụng căng đầy, nàng kéo tay gã đặt trên môi hôn. “Em cũng muốn đến cùng với anh,” nàng nhỏ nhẹ. “Anh cũng phải có mặt tại chỗ.” Bất chợt nàng thấy lo. “Anh không nên lo xa, hãy còn quá sớm phải không?” Lần này được nghe tiếng cười to của gã. “Amanda, anh yêu em. Có bao giờ em nhìn lại mình chưa? Chỉ mới thấy một nửa. Không, chưa phải là quá sớm. Đừng để trễ phút nào. Tuần sau ta làm đám cưới. Anh sẽ báo tin cho bọn trẻ, nếu có đứa nào phiền trách điều gì, ta sẽ truất quyền thừa kế, ta nói cho bọn nó thế. Kể cả con Louise. Đến đây thì bọn nó phải ra tay giúp sức để có qua có lại dù là một việc đơn giản thay vì cướp đi niềm vui của em hoặc buộc em phải nghe theo bọn nó. Và hãy báo bọn trẻ biết chỉ nên nói những điều có lợi mà thôi. Ta chỉ muốn nhìn thấy những nụ cười, nghe lời chúc tụng. Bọn chúng nợ ta điều đó.” Nàng nhìn mắt gã, rõ ràng không có đùa, nàng thương gã ở chỗ đó. Ngày hôm sau gã ra tay ngay. Gã cho gọi bọn trẻ đến báo tin đám cưới của gã với Amanda. Tổ chức thứ bảy tuần sau. Gã nhờ một bạn cố tri, ông quan tòa, đứng ra chủ lễ. Lễ cưới tổ chức tại cửa hiệu Julie’s, khách mời ăn mừng có đến hai trăm, Jack và Amanda đứng ra tổ chức. Phần lớn công việc không kham nổi, nàng nhờ gã lo giùm vì quá mệt. Gã tìm mua cho nàng một bộ áo lụa Gazar màu kem mặc vào phất phơ như cánh hoa thật đẹp. Nàng cài hao trên tóc, tay cầm bó hoa ly ly, lan,... Hai đứa con gái cho hay sẽ đến chúc mừng. Gã Jack còn đề nghị chúng tới cửa hàng chọn đồ dự tiệc. Jan nhận lời cọn Louise tuyệt nhiên không nhận. Cô ta chỉ trả lời qua điện thoại, sẽ dự lễ cưới. Cô bực vì gã báo tin qua máy. Đáng lẽ Amanda nên gọi. Cô lúc nào cũng bực dọc đủ chuyện. Ngày cưới đến, Jack và nàng dạo một vòng bãi biển Malibu rồi về thay áo cùng các con. Hai đứa phụ nàng. Nàng cũng cảm động như bao cô dâu trẻ, tay run run mặc áo cưới. Thợ tóc tới tận nơi làm theo kiểu tóc búp yêu thích của nàng, một cô dâu lộng lẫy mang thai tám tháng rưỡi. ... Mời các bạn đón đọc Lối Về của tác giả Danielle Steel.
Hẹn Yêu - Danielle Steel
Là tác giả của những tiểu thuyết mang những cái tên như "Hẹn yêu", "Chuyện của trái tim", "Bây giờ và mãi mãi"… nhưng Danielle Steel vẫn khẳng định, tác phẩm của bà không phải là văn học lãng mạn. Đến nay, Danielle Steel là tác giả của 113 đầu sách. Trung bình mỗi năm bà xuất bản 3 cuốn. Sách của Steel đã tiêu thụ được 590 triệu bản trên toàn thế giới. Trong các sáng tác, nhà văn thường xây dựng hình ảnh những phụ nữ mạnh mẽ, tự chủ, vượt lên mọi thách thức trong cuộc sống và tình yêu. Nhưng trong cuộc phỏng vấn với CBS, Steel khăng khăng rằng, tác phẩm của bà "không phải là tiểu thuyết lãng mạn"… "Thực sự tôi đề cập sâu hơn đến những vấn đề của nhân loại. Lãng mạn chỉ là một yếu tố trong đó thôi". Hiện tại, nhà văn đang viết dở hai cuốn sách mới. Ngoài tiểu thuyết, bà còn sáng tác thơ dành cho thơ, truyện thiếu nhi và các thể loại phi hư cấu. Bà là nhà văn được xếp thứ tư trong danh sách 10 tác giả kiếm tiền giỏi nhất thế giới trong năm 2009 - 2010 của tạp chí Forbes. *** Marie thức giấc lúc rạng đông. Nàng thấy tinh thần tỉnh táo phấn khởi, như chưa bao giờ thấy thế. Vài tiếng đồng hồ nữa thôi là nàng hoàn toàn thoải mái tự do, dứt hẳn với quá khứ hẹn ước hai năm trước đây. Chính hẹn ước như trẻ thơ ngày đó đã ràng buộc nàng rất nhiều trong hai năm quạ Nàng cũng không buồn dùng bữa sáng, chỉ uống hai tách cà phê, rồi ra xe đã thuê sẵn. Nàng định khoảng mười giờ là tới nơi. Rồi trở về khách sạn khoảng quá trưa, lấy máy bay trở về San Franciscọ Khoảng xế chiều là tới nhà, có thể còn gặp Peter ở sở, đủ làm ông ngạc nhiên. Tội nghiệp, ông ta rất bình tĩnh nhẫn nại trước chuyến đi này của nàng. Nàng vừa lái xe vừa nghĩ đến Peter. Nàng mong là ông có thể hiểu nàng hơn sau cuộc du lịch ngắn ngủi này. Nàng yêu ông. Điều đó không còn gì nghi ngờ nữa. Marie lái xe xuyên qua vùng quê New England, không chú ý gì lắm đến cảnh vật hai bên đường cũng một màu xanh như ngày nào. Tựa hồ cảnh miền quê trong hai năm qua cũng bị chôn vùi trong ký ức. Lúc nàng đi nàng Revere Beach thì đã chín giờ rưỡi. Đây là nơi đã tổ chức hội chợ năm kia. Tim nàng như se lại khi nhận ra chỗ cũ. Nàng cho xe đi theo một con đường đất dọc theo bờ biển, rồi đến một nơi nàng ngừng lại, ra khỏi xe. Nàng không mệt nhưng cảm thấy tê cả chân taỵ Tâm trí thì hơi bấn loạn. Nàng phải làm chuyện này thôi... phải làm thôi... Nàng đứng nhìn một hồi lâu cái cây xanh mà trước đây nàng đã dựa. Tựa hồ nó biết rõ lịch sử những bí mật của nàng. Tựa hồ nó đang chờ nàng. Rồi nàng bước đến, như đón chào một người bạn cũ. Nhưng, cũng giống như những đồ vật mà những người nàng từng yêu, bây giờ cái cây cũng trở nên xa lạ với nàng chứ không là người bạn cũ. Nó tựa như một cái mộ bia trên nấm mồ của Nancy McAllister! Nàng bước chầm chậm tới chỗ tảng đá. Tảng đá năm xưa vẫn yên đó. Nhưng nàng và Michael thì đã di chuyển về hai hướng đời đối nghịch, đến hai thế giới khác lạ nhau. Nàng đứng một hồi lâu, tựa hồ để có thời gian thu hết sức lực và can đảm mà cúi xuống xê dịch tảng đá. Xong nàng lấy một nhánh cây moi đất dưới tảng đá lên, tìm món vật mà nàng đã chôn ở đấy. Nhưng chẳng có gì cả. Kẻ nào đã lấy mất chuỗi hột của nàng. Nàng xô tảng đá lại chỗ cũ. Chưa kịp thở lấy hơi bỗng nàng nghe một giọng nói sau lưng: - Cô không tìm được đâu! Nó là của người khác. Của một người mà tôi yêu. Của một người mà tôi không bao giờ quên được. Nước mắt long lanh, Michael nhìn nàng say đắm. Anh đã chờ gần nửa đêm để gặp nàng ở đây. Anh đã thuê một chuyến máy bay để có thể đến được đây trước khi nàng đến. Anh đưa tay ra, và Marie nhìn thấy chuỗi hột trong bàn tay anh. Chuỗi hột vẫn còn dính cát. Nước mắt nàng tuôn trào. Michael vẫn nhìn nàng và nói: - Anh đã hứa không bao giờ nói lời từ biệt... - Vậy mà anh đâu có đi tìm em! - Họ bảo với anh rằng em đã chết. ... Mời các bạn đón đọc Hẹn Yêu của tác giả Danielle Steel.
Đợi Chờ - John Le Carré
Tại lầu chót của một khách sạn kiến trúc kiểu Staline, nằm trên một đại lộ ở Matxcơva, hội chợ audio đầu tiên được British Council tổ chức để quảng bá văn hóa nước Anh, sắp bước vào giai đoạn bế mạc. Lúc 17 giờ rưỡi .Hôm ấy là một ngày mùa hè, thời tiết thay đổi một cách kỳ cục : suốt buổi sáng, những trận mưa rào lớn đã đổ xuống thành phố, nhưng bây giờ ánh mặt trời lấp lánh trong các vũng nước và hơi nhè nhẹ bốc lên từ các lề đường ..... *** John le Carré (sinh năm 1931) tên thật là David John Moore Cornwell. Trước khi trở thành nhà văn Anh gạo cội, ông từng làm việc cho cơ quan tình báo MI5 và MI6. Sau thành công lớn của tiểu thuyết thứ ba, The spy who came in from the cold (1963), ông rời MI6 để cống hiến toàn bộ thời gian cho nghiệp viết. Đến nay ông đã cho ra đời hàng chục tiểu thuyết, trong đó có thể nhắc tới The ppy who came in from the cold; Tinker, tailor, soldier, spy; The tailor of panama; The constant gardener và A most wanted man. Các nhân vật của John le Carré thường được đặt trong một bối cảnh chính trị cụ thể, luôn mang mối băn khoăn trước tính nước đôi về mặt đạo đức trong công việc của mình, hoài nghi về tính đúng đắn của nền dân chủ phương Tây và các cơ quan ngầm bảo vệ. Tác phẩm của ông khác với những câu truyện xoay quanh kiểu mẫu người hùng hành động như James Bond, với kịch tính thể thể hiện qua diễn biến tâm lý phức tạp, những tình tiết cân não hơn là những cuộc phiêu lưu hay đấu súng ngoạn mục. *** Các màn ảnh của chúng tôi cho biết lúc 18 giờ Barley bước ra khỏi văn phòng Nhà xuất bản Tháng Mười. Có một lúc chúng tôi đã kinh hoàng nghĩ rằng, có thể là Barley say, vì Zapadny cũng là một bợm rượu như ông ta, và rất có thể hai người đã cùng nhau làm một chầu Vodka trong cuộc thăm viếng từ giã này. Zapadny tiễn Barley ra tận cửa. Ở đó, hai người ôm hôn nhau thắm thiết, Zapadny có những cử chỉ như bị kích động, còn Barley thì trái lại, cứng đơ như một cái cọc. Vì vậy, các trinh sát sợ rằng Barley say, nên đã quyết định chụp hình ông ta trong lúc ấy, với ý nghĩ kỳ cục rằng như thế sẽ có thể làm cho ông ta bớt say. Tấm hình ấy là tấm hình chót trong hồ sơ, và tôi đã nghiên cứu kỹ tấm hình ấy. Barley ôm lấy Zapadny trong vòng tay mình. Người ta có thể nói Barley nâng đỡ Zapadny để truyền qua cho anh chàng tội nghiệp này lòng can đảm để anh ta giữ lời hữa. Và màu hồng có vẻ lạ lùng. Trụ sở của Nhà xuất bản Tháng Mười nằm tại đường Bolchaia Bronnaia ở trung tâm thành phố Matxcơva, trước kia là một ngôi trường cũ được xây cất từ đầu thế kỷ, với những cửa sổ lớn và một mặt tiền bằng thạch cao, năm nay được sơn lại màu hồng nhạt. Trên tấm ảnh màu này đã chuyển thành màu cam rực rỡ, chắc là vì có những tia mặt trời đỏ chói chiếu vào. Do đó, quanh đầu của Barley và Zapadny có một vòng hào quanh đỏ thắm và sáng lên một cách lạ lùng. Một trong những người trinh sát đi vào tiền sảnh với lý do đến quầy giải khát, để tìm cách chụp hình cảnh tượng ấy dưới một góc độ khác, nhưng không chụp được, vì có một người đàn ông cao lớn đứng che tầm nhìn của anh ta. Barley trở về khách sạn của mình. Ở đó ông uống một ly rượu với một nhóm bạn bè đều là những nhà xuất bản, trong đó có Henziger. Henziger đã khẳng định rằng Barley không say rượu, trái lại ông ta rất bình tĩnh và có vẻ trầm tư. Điều ấy làm cho êkíp ở Luân Đôn cảm thấy nhẹ nhõm. Vào lúc bảy giờ tối, Barley kêu đói bụng. Henziger và Wicklow dẫn ông ta đến nhà hàng Nhật Bản cùng với hai thiếu nữ xinh đẹp làm việc cho Nhà xuất bản Simon and Schuster. Trong bữa ăn tối, Barley tỏ ra hấp dẫn đến nỗi hai cô gái này mới ông ta tháp tùng họ đến nhà hàng National, nơi đó một nhóm nhà xuất bản Mỹ có tổ chức một cuộc tiếp tân, Barley trả lời rằng ông ta có một cuộc gặp mặt đã hẹn trước rồi. Đúng 20 giờ theo đồng hồ của Wicklow, có người muốn gặp Barley nơi máy điện thoại của nhà hàng và Barley đến bắt máy chỉ cách bàn ăn chưa đầy năm mét. Wicklow và Henziger dỏng tai nghe, theo phản xạ nghề nghiệp. Bây giờ Wicklow nhớ lúc đó đã nghe: “Đó là tất cả những gì đáng kể”, và Henziger tin rằng lúc đó đã hiểu “đồng ý” hay “không đồng ý”, hay ngay cả “còn chưa đồng ý”. ... Mời các bạn đón đọc Đợi Chờ của tác giả John Le Carré.