Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cánh Buồm Đỏ Thắm (Song Ngữ)

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Cánh Buồm Đỏ Thắm (Song Ngữ) của tác giả Alexander Grin & Ngô Thanh Tâm (dịch). Tóm tắt Câu chuyện kể về cô bé Assol, sống cùng cha là một thủy thủ nghỉ hưu sau khi mẹ cô là Mary mất sớm. Một lần trong khi mang đồ chơi đi bán, Assol đã gặp ông già Elge. Ông kể cho cô bé nghe về cuộc sống ngoài biển cả và nói với cô rằng, lớn lên sẽ có một chàng hoàng tử lái con tàu có cánh buồm đỏ thắm đến đón cô. Thế là Assol đã tin vào điều đó mặc cho sự gièm pha, chế giễu của người dân trong làng. Cuối cùng niềm tin đã chiến thắng tất cả. Câu chuyện kết thúc với đúng những gì mà ông già Elge kia đã nói, đúng như niềm tin của Assol - một chàng hoàng tử với chiếc thuyền đỏ thắm đã đến và đưa cha con cô đi đến xứ sở của hạnh phúc! Đánh giá Cánh buồm đỏ thắm là một câu chuyện lãng mạn dành cho lứa tuổi mới lớn. Tác phẩm được viết theo phong cách lãng mạn, với những câu văn nhẹ nhàng, bay bổng, mang đậm chất thơ. Câu chuyện kể về tình yêu, ước mơ và niềm tin của con người. Nội dung câu chuyện Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là cô bé Assol. Assol là một cô bé mồ côi mẹ, sống cùng cha là người thủy thủ nghỉ hưu. Cha của Assol là người rất yêu thương con gái, ông luôn dành cho cô sự quan tâm và chăm sóc chu đáo. Assol là một cô bé có tâm hồn trong sáng, ngây thơ và luôn tin tưởng vào những điều tốt đẹp. Một lần trong khi mang đồ chơi đi bán, Assol đã gặp ông già Elge. Ông già Elge là một người kỳ lạ, ông có thể nhìn thấy trước tương lai. Ông đã kể cho Assol nghe về một lời tiên tri: một ngày nào đó, một chàng hoàng tử sẽ đến đón Assol trên một con tàu có cánh buồm đỏ thắm. Lời tiên tri của ông già Elge đã khiến Assol vô cùng vui mừng. Cô luôn tin tưởng vào lời tiên tri đó và luôn mong chờ đến ngày chàng hoàng tử sẽ đến. Cha của Assol cũng biết về lời tiên tri đó. Ông không tin vào những điều thần bí nhưng ông cũng không muốn con gái mình thất vọng. Ông luôn động viên Assol tin tưởng vào những điều tốt đẹp và luôn cố gắng sống tốt để xứng đáng với tình yêu của chàng hoàng tử trong tương lai. Những năm tháng trôi qua, Assol vẫn luôn tin tưởng vào lời tiên tri. Cô vẫn luôn chăm chỉ học tập và rèn luyện bản thân để trở thành một người con gái ngoan ngoãn, xinh đẹp. Một ngày nọ, một chàng trai tên Arthur Gray đến làng Kaperna. Arthur Gray là một chàng trai trẻ đẹp, giàu có nhưng lại không thích cuộc sống giàu sang mà muốn được sống tự do, tự tại trên biển cả. Khi đi dạo trong rừng, Arthur Gray đã gặp Assol đang ngủ. Anh đã bị vẻ đẹp trong sáng, ngây thơ của Assol thu hút. Anh đã cởi chiếc nhẫn của mình và đeo cho Assol mà cô không hề hay biết. Sau đó, Arthur Gray đã tìm hiểu về Assol và biết được về lời tiên tri mà cô tin tưởng. Anh đã quyết định thực hiện lời tiên tri đó. Anh đã mua một con tàu có cánh buồm đỏ thắm và đến đón Assol. Khi thấy con tàu có cánh buồm đỏ thắm xuất hiện, Assol vô cùng vui mừng. Cô đã tin rằng chàng hoàng tử trong lời tiên tri đã đến. Cô đã cùng cha lên tàu và cùng Arthur Gray đi đến một miền đất mới, nơi có hạnh phúc và niềm vui. Ý nghĩa câu chuyện Cánh buồm đỏ thắm là một câu chuyện lãng mạn, mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc. Câu chuyện ca ngợi tình yêu, ước mơ và niềm tin của con người. Tình yêu là một thứ tình cảm thiêng liêng và cao đẹp. Tình yêu có thể vượt qua mọi rào cản, thử thách để đến với nhau. Tình yêu của Assol và Arthur Gray là một tình yêu đẹp, chân thành và đáng trân trọng. Ước mơ là động lực để con người cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Ước mơ có thể giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đạt được thành công. Ước mơ của Assol là một ước mơ đẹp, một ước mơ đáng được ghi nhận. Niềm tin là sức mạnh giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Niềm tin có thể giúp con người đạt được ước mơ. *** “Thức tỉnh đi! Đừng có ở đó mà mơ mộng nữa, chẳng bao giờ có ông bụt hay bà tiên nào cả! Cuộc đời không giống như là mơ đâu!”. Chắc hẳn rằng, sẽ có đôi lúc, ai trong chúng ta cũng tự nhủ với lòng mình như vậy! Nhưng sống là phải có ước mơ chứ! Cho dù ước mơ của bạn chỉ nhỏ bé thôi nhưng nó lại là một ước mơ đẹp thì hãy đặt niềm tin vào đó, bạn sẽ luôn cảm thấy hạnh phúc! Nếu bạn sống trong cuộc đời này mà chưa có lấy một ước mơ cho riêng mình thì tôi khuyên bạn nên bớt chút thời gian đọc cuốn sách  Cánh buồm đỏ thắm - The Scarlet Sails  của nhà văn Aleksandr Grin, cuốn sách sẽ giúp bạn nhận ra niềm tin, ước mơ có sức mạnh to lớn đến chừng nào! Cánh buồm đỏ thắm  là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Nga Aleksandr Grin (1880-1932) - một nhà văn tiêu biểu cho chủ nghĩa tân lãng mạn. Đúng như chủ nghĩa văn học mà ông theo đuổi,  Cánh buồm đỏ thắm  cũng là một tác phẩm thuộc dòng cảm hứng ấy, nó như câu chuyện cổ tích thời hiện đại cứ dạt dào âm vang, làm sống dậy niềm tin yêu của bao thế hệ đã từng một lần đọc truyện. Đừng nghĩ rằng câu chuyện viết  chỉ  dành cho lứa tuổi thiếu niên mà chính mà ai trong các bạn cũng nên đọc một lần để thấy rằng khi không có niềm tin, có ước mơ thì cũng chúng ta đã sống hoài, sống phí cuộc đời này như thế nào!   Cô bé Assol sống với cha là một thủy thủ nghỉ hưu sau khi mẹ cô là Mary mất sớm. Khi ấy cô gái bé nhỏ chưa tròn một tuổi. Cha cô - Longren đã từ bỏ nghề thuỷ thủ mà ông gắn bó đã mười năm để ở nhà chăm sóc cô, ông làm các đồ chơi với những hình ảnh gợi về nghề thủy thủ để bán kiếm tiền. Khi Assol lớn hơn một chút ông để con gái tự mang đồ đi bán. Một lần trong khi mang đồ chơi đi ngang qua cánh rừng, Assol đã gặp ông già Elge. Ông kể cho cô bé nghe về cuộc sống ngoài biển cả và nói với cô rằng, lớn lên sẽ có một chàng hoàng tử lái con tàu có cánh buồm đỏ thắm đến đón cô. Thế là Assol đã tin vào điều đó mặc cho sự gièm pha, chế giễu của người dân trong làng. Cuối cùng niềm tin đã chiến thắng tất cả. Câu chuyện kết thúc với đúng những gì mà ông già Elge kia đã nói, đúng như niềm tin của Assol - một chàng hoàng tử với chiếc thuyền đỏ thắm đã đến và đưa cha con cô đi đến xứ sở của hạnh phúc!   Tình phụ tử - sức mạnh tinh thần bất diệt.   Mở đầu câu chuyện không hề có hình ảnh ngôi làng Kaperna yên bình, ấm no hay màu xanh tươi mát trong lành của nước biển, mà nó bắt đầu với hình ảnh của một bầu trời xám xịt, đen tối. Mary - vợ của người thủy thủ kì cựu Longren dù mệt mỏi, kiệt sức nhưng với tình yêu thương con chị vẫn cố gắng xuống phố đổi chiếc nhẫn - gia sản cuối cùng của chị để lấy tiền mua thức ăn cho con mà chẳng bận tâm đến sức khoẻ của mình. Đêm đông lạnh buốt, đói rét bao trùm đã khiến chị bị viêm phổi nặng, người phụ nữ nghèo khổ ấy đã qua đời một tuần sau đó để lại đứa con thơ. Đó là một nỗi đau lớn đối với Longren, nỗi đau tinh thần chẳng loại thuốc nào có thể chữa khỏi! Đó không chỉ là một sự mất mát vô cùng to lớn đối với ông mà đồng thời đó cũng là vết thương lòng sâu sắc, ảnh hưởng đến đứa con gái bé bỏng Assol, sinh ra mà chưa thể cảm nhận hết tình yêu thương của người mẹ. Nhân vật Longren được tác giả Aleksandr khắc họa là một người trầm tính, lạnh lùng nhưng cũng sống rất tình cảm. Hiểu được những thiếu thốn của đứa con gái thân yêu khi không được hưởng trọn vẹn tình yêu thương của cả cha và mẹ, ông càng yêu thương con hơn bao giờ hết. Longren luôn cố gắng chăm sóc và yêu thương đứa con gái Assol của mình hết mức có thể, như là một sự bù đắp cho phần bỏ trống của tình yêu từ người mẹ. Khó có thể phủ nhận rằng tình thương con sâu nặng của Longren đã chạm mạnh tới cảm xúc người đọc như thế nào. Ông là đại diện của bao người cha, người mẹ. Ông lớn lao biết bao khi dịu dàng bảo vệ con gái mình giống như những người làm cha mẹ khác. Có thể nói, Aleksandr đã rất thành công trong việc truyền tải tình cha con thiêng liêng đến bạn đọc.  Longren có thể đánh đổi tất cả để bảo vệ con gái nhưng cũng có thể tàn nhẫn bỏ mặc kẻ thù trong tình cảnh lâm nguy. Kẻ thù ấy chính là Mecne - người không bao giờ có thể đội trời chung với ông. Ông căm giận hắn đến xương tuỷ. Vì hắn mà Mary phải chết. Cũng vì hắn mà đứa con gái ông yêu quý phải sống không có mẹ. Longren là thế đấy, tốt tính nhưng cũng rất tàn bạo với những ai chà đạp lên hạnh phúc gia đình mà ông luôn cố gắng gìn giữ. Longren chính là một biểu tượng của tình thương con cao cả!   Lời tiên đoán - động lực của niềm tin, của hạnh phúc trong mơ!   Cô gái bé nhỏ với cái tên đầy dễ thương: Assol, lại mồ côi mẹ, phải sống cùng cha Longren ở một hòn đảo nhỏ. Hai cha con bị mọi người trong làng hiểu lầm bởi những suy nghĩ và hành động khác thường, đâm ra ghét bỏ và kì thị. Nhưng đâu cần một lời giải thích, cũng chẳng cần một lời thanh minh với những người không hiểu chuyện, hai cha con vẫn cứ yêu thương, đùm bọc nhau mà sống, bỏ mặc ngoài tai sự chế giễu của người đời, sống cuộc sống chỉ là của riêng hai cha con thôi nhưng đó là sự bình yên hơn bao giờ hết! Assol đã được một ông già tiên đoán rằng: một ngày nào đó, khi cô lớn lên, sẽ có một hoàng tử đến đón cô trên một con thuyền lớn với những cánh buồm màu đỏ thắm. Với người dân trong làng Kaperna, sau khi câu chuyện đến tai họ, họ cho rằng đó là một lời tiên tri thật điên rồ. Bởi vì chưa từng có và chắc chắn rằng sẽ chẳng bao giờ có con tàu lớn, hay con tàu với cánh buồm đỏ thắm nào ghé đến hòn đảo nhỏ bé, nghèo nàn này cả. Ngay cả cha cô bé khi nghe câu chuyện cũng không tin là lại có một phép màu, một lời tiên đoán nào kì diệu đến thế, ông thầm nghĩ: “ Sau này con sẽ phải nhìn thấy không phải là cánh buồm đỏ thắm mà là những cánh buồm bẩn thỉu, độc địa, trông từ xa thì có vẻ đẹp đẽ, trắng trẻo, đến gần thì rách nát, xấu xa. Một người qua đường nào đó đã đùa với con tôi”.  Dù vậy, ông cũng không nỡ cướp mất niềm tin trong trẻo của đứa con thơ, ông luôn củng cố niềm tin ấy cho con, giúp con tránh xa những điều độc ác, giúp con luôn tràn đầy niềm lạc quan, tin tưởng vào chính cuộc đời này! Chính nhờ những điều ấy mà  niềm tin của một đứa trẻ trở thành bất diệt. Assol tin vào điều đó và nuôi dưỡng giấc mơ đó từng ngày mặc kệ mọi người cười chê và cho rằng cô là người không bình thường. Cả ông già Elge nữa - người đã vẽ nên con tàu với cánh buồm đỏ thắm và tạo niềm tin đến tâm trí của cô bé Assol. Ông gieo một hy vọng đến cuộc đời của Assol với một lời tiên tri, một sự đoán trước tương lai rộng mở. Nó như một động lực để cô có thể đối mặt và bước tiếp trong cuộc sống đầy chông gai của mình. Chỉ là một cuộc gặp gỡ tình cờ thôi, nhưng chính lời tiên đoán ấy đã thắp lên sự sống, niềm tin của Assol vào tương lai! Trong cuộc đời này cũng vậy, ai trong chúng ta cũng sẽ gặp những người dẫn đường, những người đã tiếp thêm sức mạnh để ta tiếp tục phấn đấu thực hiện ước mơ.   Ở vùng đất bên kia ngôi làng cũng có một ước mơ đẹp tựa như thế... "Chàng hoàng tử" trong truyện là con trai một gia đình giàu có - Arthur Gray. Ngay từ nhỏ, cậu bé đã không thích sống trong sự giàu sang quyền quý bên trong lâu đài kia, cậu hoàn toàn không thích thú gì với cái gọi là  “làm vẻ vang dòng dõi” .  Ước mơ của cậu bé là  được trở thành một thủy thủ. Để thực hiện ước mơ ấy, cậu rời nhà ra đi mặc sự can ngăn, doạ nạt của cha, cậu xin vào làm thủy thủ tàu Anselm. Ban đầu thuyền trưởng Hop có vẻ không tin cậu thiếu niên nhà giàu này có thể chịu được khắc nghiệt nơi đầu sóng  ngọn gió , nhưng qua chuyến đi biển dài ngày cùng cậu, Gray đã hoàn toàn làm thuyền trưởng Hop nể phục. Sau này, cậu rời bỏ thuyền Anselm để tự mua một con tàu cho riêng mình - tàu  "Bí mật" . Thay vì nối gót cha trở thành một ông chủ quyền thế, cậu chọn cho mình nghề thuyền trưởng, bạn đồng hành của cậu là chiếc thuyền lớn gắn bó với biển cả mênh mông. Đâu dễ dàng gì cho nghề thuỷ thủ ấy, có những lúc Gray phải hứng chịu những đau đớn khi  "vòng dây xích neo cuốn anh ngã đập người vào boong tàu, có khi dây chão không quấn được vào cọc trụ tuột khỏi tay anh làm bong cả mảng da tay, có khi một góc buồm ẩm ướt đính những vòng sắt bị gió thốc đập mạnh vào mặt anh;...".  Nhưng trong tim chàng trai ấy luôn rực cháy sức mạnh của tình yêu nghề, của chiến thắng, không bao giờ từ bỏ quyết tâm!   Hiện thực hoá ước mơ, lời tiên tri không còn là mộng tưởng... Một hôm, trên đường đi, đoàn  tàu của Gray đi ngang qua làng Kaperna (nơi Assol đang sống), chàng chợt có hứng muốn câu cá nên thủy thủ đoàn đã dừng chân ở đây. Tại bụi cỏ gần khu rừng họ nghỉ chân, Gray tìm thấy Assol đang ngủ và ngay lập tức yêu cô. Anh cởi chiếc nhẫn trên tay và nhẹ nhàng đeo cho cô mà cô chẳng hề hay biết. Sau đó, Gray vào làng để tìm hiểu thêm về cô gái mình vừa gặp, và biết được câu chuyện về con thuyền với cánh buồm đỏ. Muốn hiện thực hoá lời tiên tri mà dân làng từ trước đến nay vẫn luôn cười nhạo cha con Assol, anh đã chuẩn bị con tàu y hệt như lời kể và đến rước cô trong sự ngỡ ngàng của dân làng. Chính Gray đã làm được điều kỳ diệu đó, anh đã tự mình hiện thực hóa chuẩn xác và hoàn hảo đến từng chi tiết trong lời tiên tri của ông già Elge. Một buổi sớm mai, Gray - chàng hoàng tử của Assol xuất hiện. Chàng đến đón cô và cha trên con tàu với những cánh buồm màu đỏ thắm. Một tình yêu trong sáng và thuần khiết, họ yêu nhau từ lần gặp đầu tiên và biết đó chính là định mệnh. Câu chuyện tình yêu lãng mạn kinh điển này đã tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho những người trẻ thêm tin vào tình yêu chân chính. Không chỉ dừng lại ở một câu chuyện  tình  lãng mạn, nhà văn đã khéo léo truyền tải thông điệp đến với độc giả về niềm tin vào những điều kì diệu: Điều kì diệu trong cuộc sống là do chính chúng ta tạo nên và nắm bắt. “Tôi đang đến với người con gái đợi và chỉ đợi mỗi mình tôi, còn tôi thì không muốn ai ngoài cô ấy, có lẽ chính nhờ cô ấy mà tôi ngộ ra được một chân lý đơn giản. Đó là phải tự tay mình tạo ra những điều kỳ diệu” Không chỉ là ước mơ, là niềm tin, câu chuyện dần khép lại trong hạnh phúc của cặp vợ chồng trẻ cùng thông điệp ý nghĩa mà Gray sau bao năm sống cuộc đời của một người thủ lĩnh nhận ra rằng: “Nhưng còn có những điều không kém phần kỳ lạ hơn: đó là nụ cười, niềm vui, lòng độ lượng và có thể chỉ là một lời cần thiết được nói đúng lúc. Có được cái đó có nghĩa là có tất cả.” Cánh buồm đỏ thắm  hệt như một câu chuyện cổ tích vậy. Assol, cô bé tin rằng - một ngày kia ước mơ sẽ quay trở lại - nhưng là trên một con tàu thực sự -  “một con tàu với cánh buồm đỏ thắm như tình yêu mà chàng hoàng tử sẽ dành cho cô” . Cuộc hội ngộ của hai nhân vật như một bản tình ca được viết nên từ những nốt nhạc thần tiên trong cổ tích, không toan tính, không vụ lợi, chẳng còn nỗi cô đơn và sự sợ hãi như cũng biến tan cùng bọt nước. Cánh buồm đâu chỉ đơn thuần là dấu hiệu để họ nhận ra nhau giữa biển cả bao la mà chính cái màu đỏ thắm ấy như ẩn dụ cho màu của niềm tin và sự trân quý những giá trị đẹp đẽ trong cuộc đời. Màu đỏ như màu nắng soi sáng cho con người để họ không đi vào con đường lầm lạc, để tâm hồn cô bé Assol không bị hoen ố, lụi tàn bởi những cái xấu xa, để chàng trai Gray không còn đắm mình trong nỗi cô đơn đến nỗi không nhận ra mình phải làm gì, phải đi kiếm tìm điều gì trong cuộc đời mênh mông vô định…   Những câu văn ngọt ngào trải dài từng trang sách mỏng, khiến người đọc phải ngất ngây trong một cảm xúc khó diễn đạt thành lời:  “Từ một nơi rất xa, rất xa, anh nhìn thấy em trong mơ và anh đã đến đây, để đem em đi mãi mãi về xứ sở của anh. Em sẽ sống với anh nơi ấy, trong một thung lũng đầy hoa hồng. Em sẽ có tất cả những gì em mơ ước, chúng ta sẽ sống thuận hoà, vui vẻ với nhau và tâm hồn em sẽ không bao giờ biết đến nỗi buồn và nước mắt” . Dịu dàng và ấm áp, chàng trai đưa cô lên thuyền, đi về xứ sở xa xăm - nơi mặt trời thức dậy và những vì sao trên trời sa xuống để đón chào ngày mới… “Câu chuyện thần thoại mà người đời sau sẽ còn nhớ mãi, có lần vào buổi sớm mai, từ phía biển khơi xa tít tắp sẽ hiện ra rực rỡ dưới ánh mặt trời một con tàu với cánh buồm đỏ thắm, uy nghiêm rẽ sóng lướt đi, tiến gần lại bờ trong tiếng nhạc du dương. Rồi từ con tàu đó, sẽ có một vị hoàng tử khôi ngô tuấn tú đứng trên thuyền, đến đây để đưa em đi mãi mãi về xứ sở của chàng”. Lời kết.  Cánh buồm đỏ thắm  là một câu chuyện lãng mạn dành cho lứa tuổi mới lớn của nhà văn Aleksandr Grin. Tác phẩm được ông tận tâm sáng tác trong sáu năm, từ năm 1916 đến 1922 mới hoàn tất và đã được hãng Mosfilm chuyển thể thành phim năm 1961, được sự đón nhận của rất nhiều độc giả ở khắp mọi nơi trên thế giới! Các bạn có thể xem phim cũng có thể đọc truyện nhưng với những ai muốn tự mình cảm nhận, muốn hiểu tận sâu ý nghĩa của câu chuyện thì hãy một lần tìm đến một trong những quyển sách tuyệt vời này nhé! Mong rằng sau khi gấp cuốn sách lại, bạn sẽ tìm ra ước mơ của chính mình, sống một cuộc đời thật ý nghĩa hơn bao giờ hết!  Review chi tiết bởi Kim Chi –  Bookademy Mời các bạn mượn đọc sách Cánh Buồm Đỏ Thắm (Song Ngữ) của tác giả Alexander Grin & Ngô Thanh Tâm (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vô Tri - Milan Kundera
Trong 'Vô tri', Milan Kundera kể câu chuyện hồi hương của Irena và Josef, và ta đọc thấy qua chuyến đi khó khăn đó, họ đồng thời trở về với những đòi hỏi sâu kín của tâm tư. Sau 20 năm sống ở nước ngoài, Irena về thăm tổ quốc Bohême và thành phố Praha của tuổi thơ cô. Thực ra, cô không háo hức với chuyến đi này lắm, vì lúc này ở Pháp cô đã sống yên ổn với công việc, căn hộ và các con. Cô về đơn giản là do sự thúc giục của chồng cô, Gustaf, một người đang thấy có nhiều cơ hội làm ăn ở Praha khi bộ máy kinh tế thị trường ở đó đang mở hết công suất. Nhưng điều làm cô đau đớn ngay trước lúc lên đường là một người bạn cô ở Paris đã xem chuyến trở về Praha này như là chuyến trở về mang ý nghĩa nhân sinh lớn lao vì không như vậy cô sẽ thiếu hẳn một chiều kích quyết định để đánh giá con người: chiều kích lịch sử. Sylvie đã phớt lờ hai mươi năm sống ở Paris của Irena - hai mươi năm ấy cô đã xây dựng cho mình một khoảng trời riêng đủ ấm áp, đủ hạnh phúc, và đủ những đường nét nhân văn chính yếu. Khi Irena nói: “Tớ sống ở đây được hai mươi năm rồi. Cuộc đời tớ là ở đây!” thì Sylvie im lặng khó chịu, ngầm muốn nói rằng (Irena) không được phép lảng tránh những sự kiện vĩ đại đang diễn ra “tại nước cậu”. Với Sylvie, đó là Cuộc Trở Về Vĩ Đại, có thể sánh với cuộc trở về của Ulysse trong sử thi Hy lạp Odyssée. Mời các bạn đón đọc Vô Tri của tác giả Milan Kundera.
Bức Thư Tình Cuối - Jojo Moyes
Anh yêu em – ngay cả khi trên trái đất này không có anh, không có tình yêu hay thậm chí không tồn tại cuộc sống này – anh vẫn yêu em. Thư Zelda gửi ScottFitzgerald Đó là vào năm 2010. Khi Jennifer Stirling tỉnh dậy trong bệnh viện, cô không thể nhớ gì - kể cả tai nạn xe hơi trước đó đã khiến cô bất tỉnh, kể cả người chồng và thậm chí bản thân cô. Cô cảm thấy mình như người xa lạ trong chính cuộc sống của mình cho đến khi cô bắt gặp lá thư tình, ký tên là B, rủ cô bỏ chồng theo anh ta. Nhiều năm sau, năm 2003, nhà báo Ellie phát hiện ra một lá thư tương tự trong xấp hồ sơ bị bỏ quên của mình. Cô bị cuốn hút bởi câu chuyện và hy vọng câu chuyện đó sẽ giúp ích cho sự nghiệp của cô. Có lẽ nếu những người yêu nhau này có kết cục hạnh phúc, cô sẽ tìm ra được một kết cục hạnh phúc cho chính cuộc đời cô. Ellie tìm kiếm mọi thứ để viết lại và giúp cô nhìn ra được sự thật trong mối quan hệ tình cảm của cô. Trong tác phẩm này, câu chuyện tình song đôi được tác giả lồng ghép khéo léo, với nhiều chi tiết hấp dẫn, lãng mạn, và đôi lúc nóng bỏng. Một ngày vào năm 1963, Jennifer Stirling tỉnh dậy trong bệnh viện, cô không thể nhớ gì - kể cả tai nạn xe hơi trước đó đã khiến cô bất tỉnh, kể cả người chồng và thậm chí bản thân cô. Cô cảm thấy mình như người xa lạ trong chính cuộc sống của mình cho đến khi cô bắt gặp lá thư tình, ký tên là B, rủ cô bỏ chồng theo anh ta. Kể từ đó, cô phải sống trong sự giằng xé nội tâm, cũng như luôn muốn tìm kiếm người kí tên B đó là ai. Song song đó là phải luôn đối phó với người chồng, một doanh nhân thành đạt, chuyên quyền và dường như ông biết về người tên B của cô… Nhiều năm sau, năm 2003, nhà báo Ellie phát hiện ra một lá thư tương tự trong xấp hồ sơ bị bỏ quên của mình. Cô bị cuốn hút bởi câu chuyện một phần là vì cô tìm thấy mình giống như nhân vật nữ trong bức thư - Jennifer và một phần hy vọng câu chuyện đó sẽ giúp sự nghiệp của cô thăng hoa. Cô nghĩ rằng có lẽ nếu Jennifer và “B” có kết cục hạnh phúc, cô sẽ tìm ra được một kết cục hạnh phúc cho chính mình. Do đó, Ellie tìm kiếm mọi thứ để viết lại câu chuyện tình yêu đó. Có thể nói, Bức thư tình cuối là câu chuyện tình yêu đẹp, sâu sắc, cuốn hút với cái kết bất ngờ. Tác giả Jojo Moyes:  Cô sinh năm 1969. Năm1992, cô nhận được học bổng cao học báo chí của tờ The Independent để theo học tại City University. Năm 1994, cô làm việc tại Hồng Kông cho tờ Sunday Morning Post. Jojo Moyes làm cho The Independent được mười năm, từ trợ lý biên tập tin tức đến phóng viên mảng truyền thông và nghệ thuật. Từ năm 2002, cô theo đuổi nghề viết tiểu thuyết, với quyển đầu tiên Sheltering Rain. Với tác phẩm Bức thư tình cuối, cô được đông đảo bạn đọc biết đến và đã đoạt giải tiểu thuyết lãng mạn năm 2011 tại Anh. Mời các bạn đón đọc Bức Thư Tình Cuối của tác giả Jojo Moyes.
Hồ Sơ Một Tử Tù - Nguyễn Đình Tú
Đọc xong cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Đình Tú, tôi nghĩ đến một khái niệm còn khá mới mẻ với nền văn học nước ta, đó là loại Tiểu thuyết tội phạm học. Khuất Quang Thụy Cũng phải nói ngay rằng đây cũng chỉ là một khái niệm tương đối mà chúng tôi nghĩ tới trong khi tìm cách tiếp cận cuốn tiểu thuyết đầu tay này của một tác giả trẻ. Nếu bạn không đồng ý với khái niệm này thì cũng chả sao, bạn có thể có một cách hình dung khác để tiếp cận tác phẩm kể trên và có thể cũng sẽ có được những kiến giải lý thú Trở lại cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú. Nội dung của cuốn sách dường như chả có gì mới. Câu chuyện xoay quanh một tên tội phạm bị khép án tử hình với một quá trình diễn biến khá phức tạp để biến một thanh niên nhà quê hiền lành chất phác trở thành một tên giết người nguy hiểm... Nhưng đọc xong cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, ta không có được cảm giác kiểu như "thế là đã rõ", "thế là xong việc", và rồi chúng ta có thể yên tâm bỏ cuốn sách xuống để chìm vào giấc ngủ hay thanh thản bước vào những công việc thường nhật mà không còn bất kỳ sự vương vấn nào về số phận của nhân vật hay về những vấn đề mà cuốn sách đã xới lên. Sự kiện cuối cùng trong cuốn sách của Nguyễn Đình Tú đặt dấu chấm hết cho số phận của nhân vật chính bằng đoạn đầu đài. Tất cả dường như rất minh bạch, rất đúng trình tự pháp luật. Nhưng không hiểu sao, đọc đến đây, chúng ta vẫn có cảm giác rằng cái chết chưa phải là sự trả giá cuối cùng cho những tội ác mà kẻ tử tù và những kẻ tòng phạm của hắn ta đã gây ra với đời. Vụ án chưa phải là đã khép lại. Vì còn có những câu hỏi quan trọng khác chưa được trả lời. Trong đó có cả câu hỏi: những ai, cái gì, hoàn cảnh nào đã xô đẩy một con người vốn có "tính bản thiện" trở thành một kẻ giết người? Khi đưa kẻ tử tội lên đoạn đầu đài, trong mỗi con người chúng ta đều xuất hiện một cảm giác giống như cảm giác của nhân vật Bằng, bạn học cũ của kẻ tử tội, nay lại là một luật sư bào chữa cho kẻ tội đồ, ấy là dường như mình cũng là kẻ có lỗi, có can dự vào quá trình trở thành kẻ tội phạm của bị cáo. Anh ta nhắc lại lời một ông thầy chung rất đáng kính của cả hai người: “Đáng tiếc, nhưng đáng tiếc hơn là tất cả chúng ta đều có lỗi mà không biết". Cái cảm giác gột rửa ấy xuất hiện khi đọc xong cuốn sách, chúng ta bỗng hiểu rằng, dường như kẻ bị đưa lên cọc xử bắn kia cũng là một nạn nhân mà mỗi chúng ta, ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp đều có lỗi, đều tham gia xô đẩy hắn ta vào con đường tội lỗi để dẫn tới kết cục bi thảm này. Trong cuộc đời nhiều khi chúng ta vô tình gây ra tội ác, hoặc gieo những mầm mống tội ác mà không biết. Đến khi cáimầm ác ấy nảy cành, xanh lá gây hoạ cho đời thì chúng ta lại dửng dưng, coi như mình là kẻ ngoài cuộc vô can, thậm chí chúng ta lại nhân danh pháp luật và đạo đức để phán xử chính những tội ác mà chúng ta đã góp phần gieo mầm và nuôi dưỡng mà không hề hay biết? Có lẽ đây chính là điều khác biệt quan trọng nhất khiến cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú vượt qua khỏi sự thường tình của những cuốn "sách hình sự" "sách vụ án" và có giá trị như một cuốn tiểu thuyết tội phạm học rất đáng được chú ý. Là một cử nhân luật và cũng từng là một cán bộ pháp lý của quân đội một thời gian trước khi trở thành nhà văn, chắc chắn Nguyễn Đình Tú có kiến thức khá vững vàng về "tội phạm học". Nhưng khi khảo sát khái niệm này ở góc độ một nhà văn, Nguyễn Đình Tú đã có những ý tưởng mới mẻ sâu sắc hơn những dòng lý luận khô khan. Anh đã cố gắng thông qua ngôn ngữ và hệ thống hình tượng để lý giải quá trình hình thành nhân cách của một con người cũng như quá trình tha hoá một nhân cách. Anh cũng đã hiểu một cách cặn kẽ khái niệm của Max - Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội - nên đã đi tìm câu trả lời từ những nguyên nhân xã hội, từ môi trường sống để tìm cách lý giải vì sao con người có thể trở thành những kẻ tội phạm, để từ đó đi đến một định đề rằng, quá trình hình thành nhân cách của một con người là một quá trình xã hội, trong đó mỗi con người chỉ có thể hoàn thiện mình thông qua sự không ngừng vươn lên chiến thắng mọi hoàn cảnh, khắc phục những hạn chế của hoàn cảnh và những cái mà chúng ta vẫn thường gọi là sự trớ trêu của số phận. Phạm Bạch Đàn, nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết sinh ra và lớn lên tại một làng quê nghèo có một nghề truyền thống khá oái oăm là nghề khai thác đá. Cái nghề khai sơn phá thạch ấy tuy gian khổ thật, nhưng chắc chắn nó cũng nuôi sống nổi nhiều kiếp người và sẽ cứ tự nhiên nhi nhiên mà sống nếu không có những sự tác động của thời cuộc. Trong cái làng nhỏ bé ấy cũng có đủ thứ chuyện do thời thế đưa lại như cải cách ruộng đất với những nỗi oan sai làm đảo lộn thang giá trị đạo đức truyền thống, với cuộc kháng chiến chống Mỹ long trời lở đất và rồi với những cái sai, cái đúng trong những chính sách quản lý kinh tế, quản lý xã hội ở nông thôn. Trầm luân là vậy nhưng cái cậu bé đẻ rơi bên gốc cây bạch đàn ngày nào vẫn vượt qua được những hạn chế của hoàn cảnh và số phận để trở thành một học sinh giỏi, thi đỗ vào một trường đại học tại thủ đô. Số phận của Phạm Bạch Đàn đã bước sang một trang mới với những thách thức mới thoạt nhìn tưởng như không ác liệt, gian khổ như bao năm sống vật vã với luống cày và hòn đá ở quê hương, ăn đói mặc rách để cắp sách đến trường, nằm trong ổ rơm nhưng vẫn mơ tới một chân trời tươi đẹp. Những gì mà cậu sinh viên mới này nhìn thấy ở trường đại học hóa ra còn có nhiều điều kinh khủng hơn, đáng ngạc nhiên hơn những gì cậu từng nhìn thấy trong suốt cả quãng đời niên thiếu cộng lại? Tiện đây cũng xin nói ngay rằng người viết những dòng này cũng không khỏi ngạc nhiên và thán phục trước sự dũng cảm, chân thành của tác giả đã khiến những người đọc yếu bóng vía như tôi toát cả mồ hôi hột khi chỉ với vài chục trang sách, tác giả đã cho ta thấy sự băng hoại đến như thế nào của "nền văn hoá và đạo đức học đường" của xã hội ta. (Tôi rất mong đó chỉ là một sự thật đã được “tiểu thuyết hoá” và nó chỉ là sự thật của một thời điểm ngắn ngủi nào đó mà thôi). Thế là từ giảng đường trường đại học, chứ không phải từ đời sống lam lũ ở làng quê là nơi Phạm Bạch Đàn đi những bước đầu tiên tới đoạn đầu đài, anh đã bị đuổi khỏi trường đại học. Dĩ nhiên những lỗi lầm của Đàn cũng có căn nguyên từ quá khứ xa xôi, từ gốc gác xuất thân của anh, nhưng điều quan trọng nhất là bản thân anh cũng chưa đủ bản lĩnh để vượt qua những thử thách đó. Không phải ở vào thời buổi ấy, tất cả sinh viên có xuất thân từ những gia đình nông dân nghèo khổ đều hư hỏng cả. Tuy vậy, Đàn cũng đã quyết tâm làm lại từ đầu. Sau một năm vừa lao động vừa học tập, anh lại thi đỗ vào Đại học. Nhưng con đường làm lại của anh lại "vướng vào cơ chế", một quy chế vu vơ nào đó được đặt ra rằng những sinh viên đã bị đuổi học thì phải hai năm sau mới được thi để trở lại trường. Anh đã nhanh nhảu đoảng trong việc sửa chữa khuyết điểm! Nếu có được cơ hội thứ hai trở lại trường Đại học, số phận Đàn có thể đã khác đi chẳng? Chán nản, thất vọng, anh trở lại làng quê trong bối cảnh ở đó đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa cơ chế cũ và cái mới đang hình thành nhưng chưa thắng thế. Anh ủng hộ cái mới, nên anh càng thất vọng hơn. Anh vừa thương cho phận mình vừa thương cho làng xóm “Đói. Đói dài rạc. Đất ấy, ruộng ấy, màu mỡ thế, tươi tốt thế mà thóc cứ lép, sản cứ thấp, sống trên đất luá mà cứ thèm gạo, sống bên núi đá mà cứ nhà tranh vách đất, cứ lầy lội lép nhép trên con đường nhão nhoét, lồi lõm ổ trâu ổ gà. Đám trai làng bạn Đàn kéo nhau đi đào vàng...." Đàn cũng buông trôi theo số phận, nhập vào cái số đông đi tìm vận may nơi rừng thiêng nước độc, để mình rơi vào một môi trường hắc ám, đầy cạm bẫy, đó chính là bước trượt dài của nhân cách, của số phận, đó là cú hích đưa anh tới con đường tội lỗi và... tới đoạn đầu đài. Những gì diễn ra sau đó trên bãi vàng dường như đã là điều tất nhiên, tuy rằng anh cũng đã có đôi lần tìm cách chống lại hoàn cảnh, chống lại số phận, chống lại cả những cái ngẫu nhiên, chống lại cả sự trôi trượt để giữ lấy chút phẩm giá còn lại, nhưng rốt cuộc anh là người bại trận. Xung quanh hình tượng trung tâm kể trên, Nguyễn Đình Tú đã có những thành công nhất định khi xây dựng nên hàng loạt nhân vật phụ, tạo nên sự đa dạng về nhân cách trên cái nền chung của xã hội nước ta ở vào một giai đoạn nhập nhằng giữa quá khứ và hiện tại. Qua những nhân vật này, chúng ta có được sự hình dung về cuộc sống của những làng quê nghèo, của trường đại học và cả một phần xã hội của những con người sống mấp mé giữa lằn ranh đen - trắng, đó là thế giới của những kẻ tội phạm và những người có thể trở thành tội phạm bất kỳ lúc nào. Cái ranh giới giữa có tội và không có tội ở đây thật mỏng manh. Vả chăng, sự mong manh ấy đâu chỉ có ở cái xã hội thu nhỏ quanh những bưởng vàng? Khảo sát những mối quan hệ nhân quả trong cuốn sách của Nguyễn Đình Tú, chúng ta còn có thể chỉ ra nhiều kẻ tội phạm vô hình khác. Đó là kẻ tội phạm mắc những tội danh không được ghi trong những bộ luật thành văn, nhưng không phải vì thế mà sẽ không bị kết án, ít ra cũng là tại toà án lương tâm. Triết lý Nhân - Quả, Thiện - Ác của đạo Phật, tình thương Cơ đốc giáo và những quan niệm đạo đức truyền thống cũng đã được tác giả huy động để làm rõ thêm cái vùng còn mờ nhoè bất cập của những thứ lý luận khô khan, duy lý về luật pháp, về tội ác và sự trừng phạt và về nhiều thứ oái oăm, nhiêu khê do con người đặt ra để tự ràng buộc mình và ràng buộc đồng loại nữa Với những vấn đề rất nghiêm túc được đặt ra trong cuốn sách, Nguyễn Đình Tú đã chứng tỏ mình là một cây bút có trách nhiệm và có tham vọng. Tuy vậy, cũng có thể dễ dàng nhận thấy anh chưa đạt được nhiều lắm cho những mục tiêu nghệ thuật, nhất là nghệ thuật tiểu thuyết. Bố cục của cuốn sách chưa thật chặt chẽ, có chương còn rời rạc. Những đoạn trích dẫn hoặc thuật kể điển tích của Phật giáo, Ki tô giáo chưa nhuyễn và hơi tham lam. Ngoài nhân vật chính, những nhân vật có hình hài, có cá tính chưa nhiều. Có một số nhân vật xuất hiện có "tính thời vụ", được tác giả tung ra khi cần thiết và sau đó thì mất hút hoặc chỉ là những cái bóng mờ nhạt... Bù lại, Nguyễn Đình Tú đã thành công khi tạo ra được cho mình một cách tiếp cận hiện thực khá mới mẻ và một lối kể chuyện có sức cuốn hút. Ít nhất khi đọc cuốn sách này, chúng ta cũng bị lay động và buộc phải suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn, ít phiến diện hơn về một số vấn đề đặt ra trong cuộc sống hôm nay. Đó chính là sự khởi đầu tốt đối với một nhà tiểu thuyết. Và sau 8 năm ra đời, Hồ sơ một tử tù cũng đã khẳng định được sức sống riêng của nó với bốn lần tái bản, một lần làm phim, hai lần vinh danh giải thưởng lớn của Bộ Công an. 8 năm ấy Nguyễn Đình Tú cũng đã chứng tỏ khả năng tiểu thuyết của mình với một loạt tác phẩm như Bên dòng Sầu Diện, Nháp và mới đây nhất là Phiên bản. Đến tiểu thuyết Phiên bản, lại một lần nữa, khái niệm tiểu thuyết tội phạm học trở nên rõ ràng hơn trong tôi, nhưng đó sẽ là nội dung của một bài viết khác khi có dịp quay trở lại vấn đề này. Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Một Tử Tù của tác giả Nguyễn Đình Tú.
Phiên Bản - Nguyễn Đình Tú
"Phiên bản" là cuốn tiểu thuyết thứ tư của Nguyễn Đình Tú. Cuốn sách có 31 khúc được sử dụng với 3 ngôi kể khác nhau, giống như một bản nhạc nhiều bè, khai mở nhiều lối đi vào chiều sâu tâm lý nhân vật. Diệu, cô nữ sinh ngây thơ trong sáng, sinh ra trong một gia đình có người anh trai phạm tội, phải đi tù. Bí bức, gia đình cô, trừ bà nội, còn bố, mẹ và cô liều lĩnh thuê tầu vượt biển đi nước ngoài. Cuộc vượt biên trốn chạy và giải thoát không thành. Hơn một trăm con người trên chuyến tầu bị bọn cướp biển giết chết hết. May mắn, cô cùng một người đàn ông theo đạo và đứa cháu trai mới chín tháng tuổi của ông - sau này nó sẽ là một nhà nghiên cứu tội phạm học - thoát chết, sống sót trở về được đất liền. Trở lại cuộc sống bên người bà, Diệu gặp Hưng, một gã lưu manh, bạn tù của anh trai Diệu, rồi từng bước một, như một định mệnh, một tất yếu không sao cởi thoát được, cô dấn thân dần dần vào cuộc đời gió bụi giang hồ. Giang hồ gió bụi ngẫm ra vậy mà có nhiều cung bậc! Hạ đẳng nhất phải kể là loại đao búa côn đồ, gặp người là đánh, thấy của là cướp. Kế đó là lớp bất tri lý, coi thường công an, chính quyền, cả gan chống lại cả người thi hành công vụ, được đồng loài mệnh danh là những kẻ thích tự sát. Loại ba là loại ma xui quỷ khiến, chuyên dùng thuốc kích thích để gia cường “bản lĩnh” chém giết, hiếp đáp, cướp giật. Đại để là vậy! Chứ còn chi ly ra thì có thể phân thành nhiều loại nữa; chẳng hạn, loại chỉ chuyên kiếm tiền, loại chỉ thích ra oai, loại trộm cắp vặt, loại đi ăn cướp chỉ vì phẫn chí, loại bần cùng mà sinh đạo tặc, loại làm ẩu vì chứng rối loạn tâm thần, loại vì tình ái mà gây thù chuốc oán, loại manh động vì ăn phải bùa mê thuốc lú... Diệu lưu manh hoá theo quy luật nội tại, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, trong khi lương tâm vẫn le lói chút tiếc nuối và vài tia ánh sáng nhân phẩm. Vì thực tình là sau cuộc vượt biển không thành trở về, thoạt kỳ thuỷ cô mới chỉ là một cô bé bán thuốc lá lẻ ở bến xe bến tầu, rồi tiến thêm một bước nữa, thấy thiên hạ bao nhiêu đứa sống được bằng ăn cắp, trong khi mình cũng có đủ hai con mắt, hai bàn tay và cái đầu được học đến tận lớp chín mà chỉ trông chờ vào lờ lãi mấy điếu thuốc thì làm sao sống nổi, nhưng cũng mới chỉ là sa chân vào tội tiếp tay cho kẻ gian, nghĩa là mang hộ đồ ăn cắp của bọn chôm chỉa đi bán để ăn hoa hồng thôi. Bước đường tha hóa tiếp diễn ngay sau đó chẳng lâu la gì đối với một kẻ tay đã nhúng chàm, ngày đêm phiêu diêu trong những dục vọng tăm tối, trên mảnh đất nhan nhản những tay anh chị khét tiếng ranh ma quỷ quái hung ác bạo tàn. Rất nhanh thôi Diệu đã lên ngôi nữ chúa, một siêu sao trong giới giang hồ, lập nên một đế chế dọc ngang không còn biết sợ ai! Tập hợp xung quanh và có quan hệ dây mơ rễ má với nữ quái này là một lũ lĩ, những là Lân "Sói", Cộc "Ba Tai", Hưng "Mã", Tùng "Hê rô", Châu "Điên", Tuấn "Chợ"… tàn ác, bạo ngược có thừa, những thành tố bất hảo của một xã hội đen, một thế giới tội phạm! Thế giới tội phạm, một lát cắt của đời sống hiện thực! Của đời sống hiện thực! Xa lạ chăng chỉ là, ở nơi đây không có cái thường quy, cái phổ biến. Thống trị ở nơi đây là cái hỗn mang chi sơ, là những bản năng kinh thiên động địa, là cái ác độc, là thói tàn bạo thâm căn. Thế giới tội phạm! Một bước lùi của lịch sử nhân loại! Nhà văn không viết chỉ bằng cảm hứng. Ortega Y Gasset, tiểu thuyết gia Tây Ban Nha nói đại ý: Chiếc rìu của một tiều phu giỏi chẳng có nghĩa lý gì trên một sa mạc không cây cối. Muốn viết được một cái gì đó cho ra hồn, nhà văn phải có chất liệu và đừng tưởng chất liệu là cái vốn tự có, là nước ở cái giếng sâu không đáy, là vỉa quặng vô tận, thả sức đào bới. Tôi đã hơn một lần rất có cảm tình và thật sự là khâm phục năng lực hiểu biết thấu đáo cái lĩnh vực đời sống, cái đối tượng nghệ thuật mà cây bút Nguyễn Đình Tú, một triển vọng đầy hứa hẹn của văn xuôi hôm nay, đã cầy xới trong tiểu thuyết Hồ sơ một tử tù và mới đây, trong cuốn sách có cái tên rất lạ tai là Nháp của anh. Tất nhiên là chàng sĩ quan - cử nhân Luật này có sẵn cái vốn liếng cơ bản về học thuật đã được trang bị của mình. Nhưng dẫu thế nào thì cái sự sống trực tiếp nhằm khám phá kỹ lưỡng vào chiều sâu bên trong cái thế giới kỳ quái này của nhà văn, vẫn là một nét nổi trội, nó khiến người đọc rơi vào trạng thái say mê với một niềm tin cậy chắc chắn là đã không bị lừa! Một cốt truyên hay! Trước nay tôi vẫn là kẻ bảo thủ, khi cho rằng, cốt truyện, với tổng số các tình tiết éo le, giàu kịch tính cùng các nhân vật có số phận độc đáo của nó, chính là cái khung thép cần có để làm chỗ dựa cho tất cả, là một nhu cầu, là cái khôn ngoan đặc biệt của tiểu thuyết, của truyện dài; vậy thì tội gì mà không tận dụng; huống hồ đây là một tiểu thuyết thuộc dòng hành động và tâm lý. Tất nhiên, cốt truyện hay của Phiên bản chỉ là một mặt mạnh và như một lẽ phải thông thường, đó cũng không phải là mặt chủ yếu nhất của cuốn tiểu thuyết này. Bởi vì, điều đáng kể hơn, sâu sắc hơn còn là, sau cái nhu cầu được nhìn thấy, được hình dung ra nhân vật trong diễn tiến của các sự kiện nối tiếp, người đọc tiểu thuyết còn cái khát khao là được lặn ngụp trong cái vùng còn đang vô cùng mung lung, bí ẩn, mơ hồ của suy tưởng. Tội phạm là vấn đề toàn cầu! Cái ác sinh ra từ khi có loài người, nhưng liệu có phải là nhân chi sơ tính bản ác và con người thì hoàn toàn bất lực, không thể triệt tiêu, không bao giờ chế ngự nổi cái ác, cái ác sẽ tồn tại mãi mãi, nó song hành cùng cái thiện? Tư duy truyền thống trước nay vẫn thường quy tội cho xã hội khi lý giải số phận của các tội phạm. Tám Bính trong Bỉ vỏ của nhà văn Nguyên Hồng cũng không ở ngoại lệ. Nhưng còn những trường hợp khác? Chi tiết nhà văn Nguyễn viết chuyện một nữ tặc sinh ra và hoành hành ở chính mảnh đất quê hương, vùng không gian sinh tỏa của nhân vật Diệu trong Phiên bản là một ẩn dụ nghệ thuật, một điểm nhấn có dụng ý của nhà văn. “Đất này dữ, trai gái đều thành nghịch tặc cả”. Cùng với câu nói đã hơn một lần bà nội Diệu đay đi đay lại với Diệu, công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Chín Tháng có nhan đề Tội phạm học dưới giác độ địa văn hoá, phải chăng chính là chủ đích của nhà văn, anh muốn dùng pháp lý đồng thời với Kinh thánh - con người là phiên bảncủa Chúa - để giải minh vấn đề? Và nếu đúng là vậy thì sự kiện Diệu bắn chết Hưng ngay trên giường ngủ của mình ở đoạn kết của cuốn tiểu thuyết có thể coi là một cuộc tự chối bỏ của cái ác từ trong tiềm thức, cái ác tự huỷ hoại cái ác, một mệnh đề mang tính tường luận khá lý thú? Phiên bản là cuốn tiểu thuyết thứ tư của Nguyễn Đình Tú. Cuốn sách có 31 khúc được sử dụng với 3 ngôi kể khác nhau, giống như một bản nhạc nhiều bè, khai mở nhiều lối đi vào chiều sâu tâm lý nhân vật. Khúc được kể bằng ngôi Thị nhằm trần thuật những diễn biến sự kiện của nhân vật chính. Khúc được kể bằng ngôi Em là dòng chảy nội tâm của nhân vật chính. Và các khúc người kể đứng ở ngôi Ta có dáng dấp một cuộc hỏi cung, một cuộc vượt thoát để tìm về bản ngã. Chắc đó cũng sẽ là những thủ pháp tạo thêm hứng thú cho bạn đọc cuốn sách này.   Mời các bạn đón đọc Phiên Bản của tác giả Nguyễn Đình Tú.