Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Số Không

“Số không” - tác phẩm cuối cùng trong sự nghiệp Umberto Eco khiến người đọc không ngừng tự vấn: “Đâu mới là sự thật trước những gì truyền thông đang trưng trổ, phơi bày?”   Bên dưới một Milano hiện đại là “một Milano của cha tôi, của anh tôi”, một Milano mang trong lòng nó nhiều bí ẩn. Ở đó, người ta chứng kiến những đổi thay diễn ra hằng ngày nhưng vì mỏi mệt nên chẳng màn lưu tâm hoặc vì chén cơm manh áo mà đành ngoảnh mặt. Tờ Ngày mai và 12 Số Không Một nhóm 6 cây bút, nếu không muốn nói là 6 người thất bại, được tập hợp lại chuẩn bị cho sự ra đời của tờ Ngày mai gồm 12 Số Không từ 0/1, 0/2 đến 0/12 trong vòng một năm, dưới tay trụ cột Simei. Viễn cảnh của tờ Ngày mai sẽ chẳng được như cái tên sáng lạng, đầy tương lai của nó, bởi nó là một tờ báo ‘ma’ “chỉ in ít bản, để ông chủ đánh giá rồi chuyển cho ai tùy thích” nhằm uy hiếp những nhân vật quyền thế với mục đích bước vào thánh địa ‘tài chính, ngân hàng và có lẽ là những tờ báo lớn’ của Vimercate - ông chủ tờ báo - nhân vật kiểm soát “hàng chục khách sạn bên bờ biển Adriatic, rất nhiều viện dưỡng lão, một loạt các phi vụ buôn bán gây xôn xao dư luận, một vài kênh truyền hình địa phương...” Colonna, trợ lý chủ bút, bề ngoài có nhiệm vụ thống nhất phong cách, chủ trương của tờ báo với nhóm phóng viên, thực chất là viết cuốn sách về tờ báo này với tên gọi Ngày mai - hôm qua. Điều này, tất nhiên, chỉ có Simei và Colonna biết. Chủ trương để tờ báo hoạt động là tránh càng xa càng tốt các vấn đề liên quan đến tài chính, môi trường, mafia, quan chức… Tóm lại, tránh xa tất tần tật những thứ có thể mang lại rắc rối cho tờ báo cũng như gây hấn đến bất kỳ bang hội nào. Thứ duy nhất mà nó hướng đến là độc giả bình dân “không hề đọc nổi một cuốn sách nhưng có thể kể vanh vách cuốn sách nào đang bán chạy” bằng cách tập trung chúi mũi vào tin tức giật gân nhằm kích hoạt trí tò mò của họ, những ám dụ kỳ thị vùng miền hay mục tử vi vô thưởng vô phạt có thể “áp dụng cho tất cả mọi người, từ cô nữ sinh 16 tuổi cho đến bà cụ 80”. Những chiêu trò của giới làm báo được Eco phơi bày đầy giễu nhại và hài hước. “Không phải tin tức làm nên tờ báo mà tờ báo làm nên tin tức” - Simei dõng dạc. Và nhiều lần tái khẳng định: “Chính chúng ta là những người tạo tin, và chúng ta cần biêt cách để nó tự nổi lên đằng sau những con chữ”. Viết báo, không đơn giản là viết để chuyển tải sự thật mà còn là cắt ghép như thế nào để người đọc tự rơi vào ‘bẫy’, khám phá những điều nhà báo ám chỉ. “Cái ám chỉ lợi hại nhất là nêu ra những dữ kiện vốn chẳng có giá trị nào nhưng lại có thật, không phủ nhận được”. “Các cơ thể hồng hào của thiên thần là gì nếu không phải lớp vỏ bọc lừa dối khoác ngoài mọt bộ xương, cho dù có thuộc nơi thiên đàng đi nữa”.  “Sự thực còn vượt quá trí tưởng tượng và giờ chẳng ai có thể tưởng tượng điều gì nữa” Song song với hành trình của tờ Ngày mai, những bí ẩn bên của Milano dần dần lật mở qua cuộc điều tra của Braggadocio - một cây bút có tiểu sử gia đình dính dấp đến phe phát xít, luôn hoài nghi và không bao giờ nhằm mắt tin vào bất cứ thông tin gì, trừ phi có bằng chứng hẳn hoi: “Báo chí dối trá, truyền hình dối trá, các nhà sử học cũng nối dối nốt”. Bối cảnh châu Âu, cụ thể hơn là cách vận hành của thể chế, xã hội Ý từ sau chế độ độc tài Mussolini tan rã được tái hiện qua cuộc trò chuyện với tần suất ngày một nhiều và dày đặc thông tin giữa Colonna và Braggadocio. Bên thắng cuộc không ngừng công kích, trừng phạt, xỉ vả bên thua cuộc, ca ngợi những huyền thoại đẫm lệ, hùng tráng mà không màn đến sự thật hoặc bỏ qua sự thật, không đủ bình tĩnh để kiểm chứng hay không muốn chấp nhận sự thật? Những-thịt-da, máu mủ nhuộm đỏ quảng trường trong cơn hả hê của những ‘hung thần lên cơn khát’, những cái bóng ẩn dật của các phe phái, thiết chế chính trịnh cất giữ hàng loạt bí mật, bưng bít sự thật. Khiếp sợ thể chế, báo chí thời điểm đó cùng tiếp tay tung hê, đưa những thông tin rời rạc thay vì kiếm tìm và đi đến tận cùng của sự thật, của lịch sử. Có gì ngạc nhiên đâu khi trong dòng chảy truyền thông được xác lập và bị chi phối bởi những mưu đồ kinh tế, chính trị, báo chí ngày càng rời xa hiện tại. Điều cốt lõi, sự thật ở đây là gì không quan trọng. Quan trọng là bạn tung nó ra vào thời điểm nào! Có không ít sự thật dễ dàng bị che lấp bởi nhiều thông tin khác, bởi đôi khi người ta cố tình thổi phồng một sự việc để giảm bớt sự chú ý vào một sự việc khác. Khi vở kịch hạ màn thì một nhúm người lưu tâm chỉ còn biết há hốc mồm bởi: “sự thực còn vượt quá trí tưởng tượng và giờ chẳng ai có thể tưởng tượng điều gì nữa”. Và vỡ lẽ: “Chẳng có gì là mảng tối mảng sáng trong nghệ thuật Baroque nữa, tất cả đều được phơi bày dưới ánh sáng ban ngày, như thể được các họa sĩ theo trường phái Ấn Tượng vẽ vậy: nạn tham nhũng được dung thứ, mafia ngồi ngay trong nghị viện, trốn thuế ngay trong chính phủ, trong tù chỉ có lũ trộm chó trộm gà thôi”. Sự thật đó biến kẻ cầm bút còn biết chút tự vấn thành những kẻ chạy trốn, đồng thời là những con ma thất bại, cay đắng như Maia, như Colonna, tự ủi an: “thanh thản mà chấp nhận sống trong nghi ngờ cái thế giới quanh mình. Cuộc đời là có thể chịu đựng được, miễn là phải biết tự hài lòng”. Còn số đông ư? “Vẫn tiếp tục bầu cho bọn du côn vì họ sẽ chẳng tin vào BBC, hoặc bởi họ chẳng xem những chương trình như thế này vì còn đang dán mắt vào mấy chương trình lá cải”. Sự thật chua chát như Maia từng có lần thốt lên rằng: “Tôi chưa bao giờ hiểu được cái mốt nói lời chính thức xin lỗi là tín hiệu của sự nhún nhường hay trơ trẽn nữa: anh làm cái gì đó lẽ ra không được làm, rồi lên tiếng chính thức xin lỗi, thế là phủi tay coi như xong.” Cái chết của một con người hay của một tờ báo Cái chết không rõ nguyên do cuối truyện không chỉ là cái chết của một con người mà còn của một tờ báo, sự giãy chết của một xã hội thông tin chuộng những trò lố bịch, rẻ tiền, khước từ sự thật liên quan đến số phận con người. Từ sau năm 1945 cho đến năm 1992, thời điểm tờ Ngày mai hoạt động, gần 50 đã trôi qua nhưng có vẻ như bản chất của nền báo chí Milano không hề thay đổi qua ám dụ ký hiệu của Umberto Eco “ngày mai - hôm qua”, “quá khứ - hiện tại” trong lời đề từ Eco mượn của nhà tiểu thuyết Anh - E. M. Forster “Only Connect”. Kỷ nguyên mới ra đời, thông tin tràn ngập, thậm chí nhiễu loạn, sự hoài nghi ngày càng gia tăng tỷ lệ với khả năng tiếp cận sự thật. Chỉ có kết nối giữa quá khứ và hiện tại mới tạo nên tương lai, mới giảm thiểu được những thế hệ lạc loài, ngu muội. Chỉ có lòng dũng cảm đón nhận sự thật dù trái tai và đầy đớn đau, người ta mới có quyền kỳ vọng vào một ngày mai tốt đẹp, một nền báo chí tốt đẹp, đứng về phía người bình dân, cùng khổ. *** Thứ Bảy mồng 6 tháng Sáu năm 1992, 8 giờ sáng Sáng nay vòi nước không chảy. Toóc, toóc hai tiếng như tiếng trẻ con ợ, rồi tịt ngóm. Tôi gõ cửa hàng xóm: ở nhà họ mọi thứ vẫn ổn. Bà hàng xóm bảo: hay cậu lại khóa van tổng rồi. Cháu á? Nó ở đâu cháu còn chẳng biết nữa là. Cháu cũng mới chuyển đến, mà bác thấy đấy, cháu đi làm suốt, tối mịt mới về. Ôi Trời! Thế khi cậu đi vắng cả tuần cũng không khóa van nước và gas à? Rõ là bất cẩn. Để tôi vào xem thế nào. Bà ta mở chiếc tủ nhỏ dưới bồn nước, vặn vặn cái gì đó thế rồi nước chảy ra. Thấy chưa? Cậu khóa van vào còn gì. Xin lỗi bác, cháu lơ đễnh quá. Ôi giời, xinh-gờ độc thân như chú! ôkê-gâu: vâng thế mời bà đi cho! Giờ thì đến bà hàng xóm cũng nói tiếng Anh kia đấy! Bình tĩnh nào. Không có chuyện ma quỷ gì ở đây hết, những thứ đó chỉ có trong phim ảnh mà thôi. Tôi cũng không mắc chứng mộng du, mà ngay cả khi có bị mộng du đi chăng nữa, tôi cũng chẳng biết cái van nằm ở chỗ nào, nếu không thì hẳn tôi đã đóng nó lại khi không ngủ được rồi, bởi vòi hoa sen trong nhà tắm bị rỉ nước nên lúc nào tôi cũng có nguy cơ thức chong chong cả đêm vì tiếng róc rách nhỏ giọt, khác nào Chopin trên đảo Valldemossa![1] Quả thật, nhiều khi đã ngủ rồi lại tỉnh, tôi phải ra khỏi giường, đi đóng cửa nhà tắm và cửa phòng ngủ tại để khỏi phải nghe tiếng nước róc rách khó chịu đó. Cũng không có chuyện chập điện hay gì gì đó (vì van là van tay vặn, cái tên nó cũng đủ để hiểu là cơ chế vận hành bằng tay rồi), mà chuột có chạy qua cũng không thể đủ mạnh để làm quay nắp van có dạng bánh xe sắt kiểu cổ lỗ sĩ (mọi vật dụng trong cái nhà này phải có từ ít nhất năm mươi năm trước rồi), lại còn han gỉ nữa chứ. Cho nên hẳn phải có tay người (hay mang hình dáng người) ở đây. Tôi cũng chẳng có ống khói lò sưởi để cho con đười ươi phố Morgue[2] trèo vào. Thử nghĩ xem nào. Người ta nói cái gì cũng có nguyên nhân của nó cả. Loại bỏ khả năng có điều kỳ diệu nào xảy ra, bởi đó chỉ là cái vòi hoa sen chứ có phải Biển Đỏ đâu mà Chúa đoái hoài tới. Cho nên kết quả tự nhiên thì nguyên nhân cũng phải tự nhiên. Đêm qua trước khi lên giường tôi có uống một viên thuốc ngủ, như vậy là cho tới lúc đó nước vẫn chảy. Sáng nay thì không. Cho nên Watson[3] thân mến ơi, van nước đã bị khóa đêm qua, mà không phải do mi. Ai đó đã vào nhà, hắn, hay chúng, sợ rằng tôi tỉnh dậy, không phải do tiếng động chúng gây ra (chúng hẳn êm như ru rồi), mà bởi tiếng nhỏ giọt của vòi nước, khiến chính chúng cũng phát điên, có khi còn tự hỏi sao nó lại không đánh thức tôi dậy. Thế nên, vốn láu cá, chúng đã đóng van nước lại, y như bà hàng xóm hẳn đã làm. Thế rồi sao? Đống sách vở vẫn để lộn xộn như thường, cho dù toàn bộ mật thám trên thế giới có qua đây lật từng trang sách đi chăng nữa thì tôi cũng chẳng nhận ra. Có xem trong ngăn kéo hay mở tủ ở hành lang chăng nữa cũng vô ích. Thời buổi này nếu muốn tìm gì thì chỉ có một chỗ: lục trong máy tính. Có khi để tiết kiệm thời gian, chúng đã sao lại tất cả rồi trở về nhà. Và lúc này, sau khi đã mở đi mở lại từng tài liệu, chúng hẳn đã nhận ra trong máy tính không có thứ gì đáng quan tâm. Chúng hy vọng tìm được gì? Hẳn là thứ gì đó liên quan tới tờ báo (tôi chẳng thấy có khả năng nào khác). Chúng không ngu đâu, chúng nghĩ tôi đã ghi chép toàn bộ công việc diễn ra tại tòa soạn, và do đó, nếu biết điều gì về vụ Braggadocio, hẳn tôi đã ghi lại vào đâu đấy. Giờ thì chúng đoán ra sự thật rồi, tức là tôi giữ mọi thứ trong một đĩa máy tính. Đương nhiên đêm qua chúng đã ghé thăm cả phòng làm việc, và không tìm thấy cái đĩa nào của tôi cả. Do đó chúng bây giờ mới suy ra rằng có lẽ tôi giữ nó trong túi. Hẳn chúng đang tự rủa sao lại ngu thế chứ, đáng lẽ phải tìm trong túi áo khoác của nó. Ngu ư? Lũ khốn. Nếu khôn thì hẳn đã không làm cái nghề bẩn thỉu này rồi. Chúng sẽ thử lại lần nữa, ít nhất là sẽ giở chiêu lá thư bị đánh cắp[4] ra với tôi, chúng sẽ giả làm lũ móc túi mà tấn công tôi trên đường. Cho nên tôi phải nhanh chân lên, trước khi chúng quay lại, phải gửi cái đĩa tới một địa chỉ nào đó, rồi xem lúc nào có thể tới lấy được. Trời ơi sao tôi lại có thể nghĩ những điều vớ vẩn thế được kia chứ? Đã có một xác chết rồi, còn Simei đã phải tháo chạy. Ai cần biết tôi có biết gì hay không đâu: để cho chắc, chúng sẽ loại tôi đi cho rảnh nợ. Tôi chẳng thể lên báo mà trình bày mình chẳng biết gì về vụ việc này, bởi chỉ riêng việc nhắc tới nó thôi đã để lộ ra là mình biết về nó. Tại sao tôi lại rơi vào vũng lầy này? Tôi tin mọi chuyện là do giáo sư Di Samis và việc tôi biết tiếng Đức mà ra cả. *** Tại sao tôi lại nghĩ tới Di Samis? Đã bốn mươi năm trôi qua rồi còn gì. Bởi tôi vẫn luôn đổ lỗi cho ông về việc mình chưa bao giờ tốt nghiệp đại học, và chỉ vì chưa bao giờ tốt nghiệp đại học nên bây giờ tôi mới bị cuốn vào âm mưu này. Còn Anna đã bỏ tôi hai năm sau khi cưới, nói rằng cô ấy nhận thấy tôi là một kẻ bỏ đi, một tên thất bại. Chẳng rõ ngày trước tôi đã kể với cô ấy những gì để tỏ ra mình hay ho đẹp đẽ. Tôi chưa bao giờ tốt nghiệp đại học bởi tôi biết tiếng Đức. Bà tôi là người vùng Alto Adige nên đã luyện cho tôi nói tiếng Đức từ bé. Từ năm thứ nhất đại học, tôi đã nhận dịch sách tiếng Đức để trang trải chi phí. Thời đó, chỉ cần biết tiếng Đức thì đã coi như có một nghề rồi. Ai đọc và dịch được những cuốn sách Đức mà người khác không hiểu (và do đó được coi là quan trọng) sẽ được trả công cao hơn so với tiếng Pháp, thậm chí cả tiếng Anh. Ngày nay tôi nghĩ cũng tương tự như ai biết tiếng Trung hay tiếng Nga. Nói ngắn gọn thì hoặc dịch tiếng Đức, hoặc tốt nghiệp. Làm cả hai thì không được. Quả thật, dịch tức là ở trong nhà, cả khi trời nóng lẫn khi trời rét, làm việc mà chân vẫn xỏ dép đi trong nhà, và nhất là học được khối thứ. Sao lại phải lên lớp, theo các bài học ở trường làm gì? Vốn tính biếng nhác, tôi đã quyết định đăng ký vào khoa tiếng Đức, tự nhủ như thế chẳng phải học gì nhiều, bởi tôi đã biết hết rồi. Thuở đó, giáo sư Di Samis đã tạo ra cái mà đám sinh viên vẫn gọi là tổ đại bàng, trong một tòa nhà xây theo lối ba rốc nay đã cũ nát, nơi phải trèo lên một cầu thang rộng để tới sảnh lớn. Một bên là tới văn phòng của thầy Di Samis, một bên là khán phòng lớn, như cách giáo sư gọi thật khoa trương: phòng học chỉ có sức chứa khoảng năm mươi sinh viên. Ta chỉ có thể vào văn phòng của thầy Di Samis nếu xỏ dép đi trong nhà vào. Thế nhưng ngoài cửa chỉ có đủ số dép cho các trợ lý của giáo sư và hai hoặc ba sinh viên. Ai không có dép thì đứng ở bên ngoài chờ tới lượt mình. Tôi nghĩ mọi thứ ở đây đều được đánh sáp bóng loáng, kể cả đống sách trên tường, kể cả khuôn mặt của các trợ lý đã già, tự cổ lai hỵ vẫn đang ngồi chờ tới lượt mình được lên chức giảng viên. Phòng học có mái vòm rất cao và cửa sổ theo lối gô tích (chẳng hiểu nổi sao lại có lối kiến trúc như thế trong một tòa nhà ba rốc), với kính màu xanh. Khi tới giờ, tức là đúng mười bốn phút sau giờ lên lớp, giáo sư Di Samis rời phòng làm việc. Đi cách ông một mét là vị trợ lý già, và cách hai mét là các trợ lý trẻ hơn, chỉ dưới năm mươi thôi. Vị trợ lý già mang sách hộ giáo sư, các trợ lý trẻ vác máy ghi âm - vào thời cuối những năm năm mươi, đống máy ghi âm vẫn còn to đùng, chẳng khác gì chiếc xe Rolls-Royce. Thầy Di Samis bước qua mười mét ngăn cách phòng làm việc và phòng học như thể khoảng cách là hai mươi mét vậy: ông không đi đường thẳng, mà đường cong (đường cong parabol hay đường elip, tôi cũng chẳng rõ nữa), vừa đi vừa nói to "tới đây, tới đây!", rồi bước vào phòng học, ngồi xuống cái ghế bành chạm trổ cầu kỳ - thiếu mỗi nước ông bắt đầu tự xưng là Thánh Ishmael nữa thôi. Ánh sáng chiếu qua tấm kính cửa sổ màu xanh khiến cho khuôn mặt ông trở nên nhợt nhạt, ông mỉm cười nham hiểm trong lúc các trợ lý bật máy ghi âm, rồi bắt đầu lên tiếng: "Trái với những gì mà vị đồng nghiệp đáng kính của tôi - giáo sư Bocardo - đã nói gần đây..." và cứ thế suốt hai tiếng đồng hồ. Thứ ánh sáng xanh le lét đó khiến tôi luôn rơi vào trạng thái thiu thiu ngủ. Mắt các trợ lý cũng chẳng khá gì hơn. Tôi biết nỗi khổ của họ. Sau hai giờ giảng, trong khi lũ sinh viên chúng tôi ùa ra khỏi phòng học, giáo sư Di Samis cho tua lại đoạn băng rồi rời khỏi ghế bành, ngồi xuống hàng ghế đầu cạnh các trợ lý đầy dân chủ. Thế rồi tất cả cùng nghe lại bài giảng dài hai tiếng đồng hồ, giáo sư gật gù thỏa mãn mỗi khi tới đoạn ông cho là quan trọng. Cần phải biết rằng khóa học có chủ đề là bản dịch Kinh Thánh sang tiếng Đức của Martin Luther. Thật là quá sức tưởng tượng! Lũ sinh viên cùng lớp tôi vẫn nói thế với ánh mắt đau khổ. Vào cuối năm thứ hai, sau khi theo rất ít bài giảng, tôi liền đánh bạo xin làm đề tài khóa luận về tính châm biếm trong các tác phẩm của nhà thơ Heine (tôi thấy được an ủi với cách ông đối mặt những mối tình bất hạnh, cái cách mà tôi gọi là những lời châm biếm chua cay cần thiết - tôi đang chuẩn bị cho nỗi bất hạnh trong tình yêu của chính mình). Thầy Di Samis thất vọng nói: "ôi giới trẻ bây giờ chỉ chăm chăm bập ngay vào các tác giả hiện thời..." Trong một phút thông minh bất thình lình, tôi nhận ra rằng không hy vọng gì vào việc viết luận với thầy Di Samis. Tôi nghĩ tới giáo sư Ferio, trẻ hơn, nổi tiếng thông minh sáng suốt. Mảng nghiên cứu của ông là thời kỳ lãng mạn và các thời kỳ lân cận. Nhưng các bạn học lớn tuổi hơn đã cảnh báo tôi rằng muốn gì thì gì, tôi vẫn phải có thầy Di Samis là giáo viên hướng dẫn thứ hai, rằng tôi không được tiếp cận giáo sư Ferio một cách chính thức, nếu không Di Samis sẽ biết ngay và biến tôi thành kẻ thù vĩnh viễn. Tôi phải đi lách, phải giả bộ là chính Ferio đã yêu cầu tôi làm khóa luận với thầy, như thế Di Samis sẽ giận ông ta, chứ không giận tôi. Di Samis ghét Ferio, bởi một lý do đơn giản là chính Di Samis đã giúp Ferio có được cái chức giảng viên này. Tại trường đại học thuở ấy (tôi nghĩ cả ngày nay cũng vậy), mọi thứ đều đảo ngược so với thế giới thông thường: không phải con ghét cha, mà là cha ghét con. Tôi nghĩ sẽ có thể giả vờ tình cờ tiếp cận Ferio tại một trong các hội thảo hằng tháng do Di Samis tổ chức ở phòng học của ông, vốn được rất nhiều đồng nghiệp tham dự bởi ông luôn mời được các nhà nghiên cứu nổi tiếng. Nhưng mọi chuyện không diễn ra như vậy: ngay sau hội thảo là thời gian dành cho tranh luận, do các giáo sư độc diễn, rồi tất cả rời đi vì diễn giả được mời tới nhà hàng Con Rùa - nhà hàng ngon nhất trong vùng, với phong cách giữa thế kỷ mười chín, thậm chí những người phục vụ ở đó còn mặc bộ áo đuôi tôm. Từ tổ đại bàng tới nhà hàng, cần phải đi qua một phố lớn hai bên là những mái vòm, rồi quảng trường cổ kính, rẽ tại góc một tòa nhà trang trí cầu kỳ và cuối cùng đi qua một quảng trường nhỏ. Suốt dọc con phố có mái vòm, vị diễn giả được các giáo sư bao quanh, cách họ một mét là các giáo viên hợp đồng, cách hai mét là cánh trợ lý trẻ hơn, và cách đó xa xa là đám sinh viên mạnh dạn nhất. Khi tới quảng trưởng cổ, các sinh viên tản đi, tới góc tòa nhà, cánh trợ lý rút lui, các giáo viên họp đồng đi hết quảng trường nhỏ, nhưng cáo lui trước ngưỡng cửa nhà hàng, chỉ diễn giả và các giáo sư bước vào trong. Thế nên thầy Ferio không biết tới sự tồn tại của tôi. Mà bấy giờ tôi cũng hết hứng thú với môi trường ấy, cho nên không tới lớp nữa. Tôi làm công việc dịch thuật như một cái máy, chấp nhận dịch bất cứ cái gì khách hàng yêu cầu. Có lúc tôi còn đắm mình trong cái lãng mạn của trọn bộ ba tập về vai trò của nhà lý thuyết kinh tế Friedrich List trong việc sáng lập ra Liên minh quan thuế Đức Zottverein. Thế nên có thể hiểu được tại sao sau đó tôi từ bỏ việc dịch tiếng Đức, nhưng lúc ấy thì cũng đã quá muộn để quay trở lại trường đại học rồi. Vấn đề nằm ở chỗ ta không chịu chấp nhận sự thật: ta cứ tiếp tục sống mà đinh ninh rằng một ngày nào đó sẽ hoàn thành tất cả các bài thi và luận văn. Và khi sống mà nuôi hy vọng bất khả thì ta đã là kẻ thất bại rồi. Khi nhận ra điều đó thì chẳng còn cách nào khác là từ bỏ. Ban đầu tôi tìm được công việc gia sư cho một thằng bé Đức quá ngu không thể đến trường tại vùng núi Thụy Sĩ Engadina. Khí hậu rất tốt, cô quạnh trong mức có thể chịu đựng được, tôi ở đó một năm vì tiền công cao. Thế rồi một hôm, bà mẹ thằng bé xán lại sát người tôi trong hành lang, ám chỉ bà ta sẵn lòng chiều tôi. Bà ta răng vẩu, mép lún phún ria. Tôi lịch thiệp nói cho bà ta hiểu mình chẳng mặn mà gì. Ba hôm sau tôi bị đuổi việc với lý do thằng bé không đạt tiến bộ gì trong học tập.   Mời các bạn đón đọc Số Không của tác giả Umberto Eco.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cành Hoa E Ấp - Pearl S. Buck
“Ai giống nhau thường hợp nhau” ngạn ngữ Tây phương có nói thế. Nhưng người ta có thể quên được câu này để kết hôn ngoài giới của mình, ngoài xứ sở về nòi giống của mình không? Hoặc không hề đến một mối tình đằm thắm, phải lưu ý đến nói của tri năng? Hoặc cuối cùng, tình yêu khác mạnh để vượt tất cả những trở ngại ngăn cách hai người khác nhau? Đó là đề tài khó khăn và đau thương của cuốn tiểu thuyết này của Pearl Buck. Ở Kyoto, dưới thời bị chiếm đóng, một thiếu nữ Nhật xinh đẹp gặp một sĩ quan Mỹ và nhận lời kết hôn với chàng. Từ đó, hai gia đình ra sức chống lại cuộc hôn nhân này. Tôn giáo, màu da, những truyền thống ngàn xưa và biết bao yếu tố đã xen lẫn trong cuộc tranh luận đau thương này mà tình yêu cố bám víu vào để khỏi bị chìm ngập. Với sự hiểu biết sâu xa về Đông phương và tâm linh người Nhật, về tâm lý của dân tộc Mỹ và tình cảm đặc biệt của người Mẹ, Pearl Buck đã viết tác phẩm Cánh hoa e ấp, một trong những tác phẩm nổi trội nhất của bà. Giá trị của tác phẩm là trình bày cho độc giả biết một vấn đề điên đảo mà sự tiến triển của thế giới nẩy sinh ra hàng ngày. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng. Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** Josui đi yên lặng trong một đường phố ở Los Angeles. Ngày hôm ấy, nàng sửa soạn một công việc thật khổ tâm, không sao tránh được. Nàng dậy sớm và sau khi trang điểm kỹ lưỡng, nàng mặc một bộ quần áo màu xanh nước biển mới nguyên, chiếc áo khoác ngoài che thân hình đầy mập của nàng. Số tiền cha nàng gửi ở một ngân hàng ở San Francisco đủ cho nàng ăn mặc, trả tiền phòng và tiền ăn trong một ký túc xá tầm thường. Những gì còn lại, nàng phải trông chờ vào cứu tế cuộc. Nàng đã hỏi một người xa lạ địa chỉ một tổ chức bảo vệ thiếu nhi. Chính đến cơ quan này, ở một hộ khá nghèo mà nàng tới sáng nay. Cửa mở, Josui đi vào. Người nữ thư ký ngập ngừng nhìn nàng. — Xin cho biết quí danh. — Sakai. — Xin mời cô vào. Josui tuân lời. Nàng đứng trước một người đàn bà tuổi trung niên vẻ mặt hiền hậu ngồi ở một bàn giấy, sắc mạo không xứng với chân giá trị của mình. — Cô Sakai, tôi biết giúp ích gì cho cô? — Tôi nghe nói ở đây có săn sóc trẻ con… — Cô sắp sinh nở? — Vâng, không ngay lúc này, nhưng tôi phải sửa soạn trước. — Cô có gia đình không? — Không. Người nữ thư ký ghi nhận những lời khai của Josui. — Cô có muốn giữ đứa bé không? — Không, tôi có một mình, tôi không thể giữ nó được. Nàng đã tập luyện nói câu này và nói không chút khó khăn. Ồ! Lennie, nàng dỗ dành, an ủi mãi tận trong đáy lòng! Nó mới yên tĩnh làm sao! Tưởng như nó nghe thấy những lời nàng nói. ...Mời các bạn đón đọc Cành Hoa E Ấp của tác giả Pearl S. Buck.
Yêu và Hận - Teresa Medeiros
Với một lần đổ súc xắc, hành động đáng xấu hổ đã được thực hiện. Nam tước Lindsey Fordyce đã chơi và thua, bây giờ con gái xinh đẹp của ông, Rowena, sẽ phải trả giá. Bị đưa đến một lâu đài hùng vĩ, cô gái ngây thơ sôi nổi ấy ép mình phục vụ một hiệp sĩ tăm tối và kinh khủng bị buộc tội sát nhân… và nhiều thứ nữa. Hiệp sĩ Gareth xứ Caerleon đẹp trai, ủ ê đang chờ đợi cơ hội phục thù. Nhưng khi hắn mưu tính sử dụng nàng Rowena thật thà để tiêu diệt những bóng ma trong quá khứ đày ải của mình, hắn không bao giờ hình dung được sẽ bị ngã vào trong chiếc bẫy lụa do chính hắn giăng – trở thành nô lệ cho một nỗi khao khát không thể nào dập tắt… *** Teresa Medeiros sinh năm 1962 tại Mỹ, là tác giả chuyên viết tiểu thuyết lãng mạn. Đến nay, sáng tác của cô đã bán được 7 triệu cuốn và dịch ra hơn 17 thứ tiếng.  Medeiros ra mắt tác phẩm đầu tay năm 21 tuổi (1983). Nhưng đến năm 1989, cái tên Medeiros mới trở thành hiện tượng, khi tác phẩm Quý bà chốn tình trường (Lady of Conquest) của cô đoạt giải Tác phẩm Văn học hay nhất của năm, thuộc thể loại Lịch sử - Lãng mạn. Medeiros hấp dẫn độc giả bởi những cốt truyện đa dạng, không chỉ đơn thuần lãng mạn như một câu chuyện Lọ Lem - Hoàng tử đẹp tựa cổ tích mà có lúc mang hơi hướng trinh thám như Đóa hồng xôn xao, lúc lại giằng xé cuộc tình tay ba như như Kẻ cắp trái tim hoặc như một biến tấu lạ như trong bộ tác phẩm Người tình Bóng tối và Dạ tiệc lúc nửa đêm…    Người tình bóng tối và Dạ tiệc lúc nửa đêm khiến người xem hồi hộp đến ngạt thở bởi những câu chuyện diễn ra trong bối cảnh đêm tối, gió mưa, bóng ma với những ma cà rồng chuyên ăn thịt người lúc ẩn lúc hiện. Sau trang sách, thông điệp được gửi đến vẫn là tình yêu, là niềm tin vào cái đẹp trong cuộc sống, như Julian trong Người tình bóng tối đã nói: “Dù là một ma cà rồng hay là một người đàn ông, anh cũng sẽ chỉ yêu một mình em”.  *** Nước Anh năm 1279 .   Chàng trai lẻn vào trong nhà không một tiếng động. Bước chân hắn ngập ngừng khi mùi hương thoang thoảng của lá hương thảo như những chiếc móng vuốt tinh vi cào nhẹ vào xương sống hắn. Hắn nhắm mắt một thoáng, để cho hương thơm bao phủ hắn như đêm hôm trước, khi mẹ kế của hắn nhún chào hắn trong phòng khiêu vũ. Sự mềm mại của những lọn tóc loăn xoăn đen nhánh của bà ta chải nhẹ vào má hắn khi bà ta dạy hắn từng bước của vũ điệu mừng Giáng Sinh với sự kiên nhẫn ngọt ngào nhất đã làm hắn thối chí. Hắn mở mắt; đôi bờ mi sẫm màu viền quanh đôi hố sâu ảm đạm.   Hắn không nên đến đây. Việc viết nhạc có thể học tại bàn của cha hắn. Bài học về tác phong nhã nhặn có thể học trong sảnh lớn. Hắn có thể học kỹ năng hiệp sĩ nào trong phòng ngủ của mẹ kế của hắn được chứ? Cha hắn sẽ trở về từ cuộc chiến trong khoảng hai tuần nữa. Hắn chỉ muốn gặp bà – để nói lời cám ơn về sự tử tế và những chăm sóc của bà khi cha hắn vắng mặt.   Những ngọn giáo va loảng xoảng bên ngoài ô cửa sổ để mở, tiếp theo sau là tiếng cười ầm ĩ.  Khu vực sân sau bên dưới, nơi những người cận vệ đang đấu thương, dường như là một thế giới tách biệt. Trước mắt hắn, ánh nắng thấm đẫm căn phòng ngủ trống trải. Thất vọng và nhẹ nhõm cùng lúc chụp lấy hắn khi hắn lướt về phía trước với một vẻ duyên dáng vượt xa hơn lứa tuổi mười bốn.   Những tấm màn lụa màu xanh lộng lẫy, thăm thẳm, tương tự màu mắt của bà, bị kéo khỏi chiếc giường lộn xộn. Hắn nép vào bên dưới bức trướng chạm trổ, bàn tay hắn run rẩy khi chạm vào chỗ hõm trên chiếc gối lông vũ nơi đầu bà đã nghỉ ngơi. ... Mời các bạn đón đọc Yêu và Hận của tác giả Teresa Medeiros.
Người Lạ Trong Nhà - Leila Slimani
Tác phẩm "Người lạ trong nhà" đề cập về những mối quan hệ trong gia đình, đặc biệt là đời sống vợ chồng thị dân trẻ với nhiều thay đổi trong xã hội hiện đại. Nhu cầu được sống cho bản thân luôn là nỗi trăn trở của những người phụ nữ đã lập gia đình. Ngoài công việc và các mối quan hệ xã hội là những lo toan vun vén cho gia đình chồng con. Đó là những điều khiến bất kỳ người vợ, người mẹ nào cũng từng một lần cần đến bàn tay của "người lạ" để giúp đỡ công việc gia đình - một người chẳng hề quen thân nhưng lại phải tin tưởng.  Hiểu được điều đó, tác giả Leila Slimani với nỗi đồng cảm chân thành và ngòi bút tinh tế đậm chất phụ nữ đã cho ra mắt tác phẩm Người lạ trong nhà. Cuốn sách phản ánh hết sức sâu sắc và tinh tế cuộc sống hiện đại của những cặp vợ chồng trẻ thị dân, không chỉ ở Pháp mà còn rất gần gũi với bối cảnh Việt Nam hiện nay. Lối kể chuyện thông minh và am hiểu xã hội đã giúp Người lạ trong nhà trở thành một trong những câu chuyện tiêu biểu và xứng đáng giành giải Goncourt - một trong những giải thưởng văn học uy tín nhất nước Pháp. *** Đứa con trai bé hơn đã chết. Chỉ sau vài giây. Bác sĩ khẳng định nó không bị đau đớn gì. Người ta đặt nó vào trong cái túi vải màu xám rồi kéo khóa che kín thân hình mềm nhũn bập bềnh giữa đống đồ chơi. Còn đứa bé gái, nó vẫn sống khi đội cứu hộ tới nơi. Nó đã chiến đấu như một con thú hoang. Người ta tìm thấy nhiều dấu vết vật lộn, những mẩu da bên dưới móng tay mềm xèo của nó. Trong xe cứu thương chở nó đến bệnh viện, con bé bứt rứt, bị những cơn co giật giày vò. Hai mắt lồi ra, như thể nó đang cố hớp lấy không khí, cổ họng nó đầy máu. Phổi nó bị đâm thủng và đầu nó bị va rất mạnh vào chiếc tủ màu xanh. Người ta đã chụp ảnh hiện trường. Cảnh sát đã lấy dấu vân tay và đo diện tích phòng tắm cũng như phòng trẻ. Trên sàn nhà, tấm thảm in hình công chúa đẫm máu. Chiếc bàn thay tã bị lật nghiêng. Đồ chơi được bỏ vào những chiếc túi nhựa trong suốt, được niêm phong rồi mang đi. Kể cả chiếc tủ màu xanh cũng sẽ được dùng trong phiên tòa. Người mẹ vẫn đang sốc nặng. Nhân viên cứu hộ nói vậy, cảnh sát nhắc lại như thế và báo chí đưa tin tương tự. Khi bước vào căn phòng nơi hai đứa con nằm bất động, cô đã hét lên một tiếng, tiếng hét như dội về từ âm phủ, tiếng hú của một con sói cái. Mấy bức tường rung lên. Màn đêm như đổ ập xuống cái ngày tháng Năm đó. Cô nôn mửa, cảnh sát phát hiện ra cô trong bộ quần áo bẩn thỉu, ngồi thu lu trong phòng ngủ, nấc cụt như một người điên. Cô la hét tưởng đến rách phổi. Nhân viên cứu thương kín đáo gật đầu ra hiệu, đỡ cô dậy, mặc cho cô chống cự, mặc cho cô giãy đạp. Họ từ từ kéo cô lên và cô sinh viên y khoa nội trú thuộc SAMU[1] đã tiêm cho cô một mũi an thần. Cô gái đang thực tập tháng đầu tiên. ... Mời các bạn đón đọc Người Lạ Trong Nhà của tác giả Leila Slimani.
Công Viên Cứu Hộ Loài Người - Y Ban
Tôi gặp Y Ban vào một ngày không mưa, không nắng. Trái hẳn với sự đồn thổi và cái vẻ táo tợn bên ngoài là sự dịu dàng, tốt bụng của một người đàn bà. Ở cái đất nước quỷ quái này muốn tìm một nơi tĩnh lặng hòng cho tâm hồn thư thái một chút cũng khó. Chúng tôi chẳng biết đi đâu đành rủ nhau sang đền Đô. Muốn tiêu cho hết thời giờ cũng không phải dễ. Tôi định đưa cô bạn dịch giả mới từ Nga về Nguyễn Thị Kim Hiền và Y Ban sang thăm nhà lưu niệm Văn học Nga bên Phù Lưu mà không thành. Nói không thành cũng không đúng. Chỉ là không làm cách nào liên lạc được với dịch giả Thuý Toàn. Hơn chục cuộc gọi đều rơi vào hư vô. May mà cuối cùng nhờ người hàng xóm tốt bụng mở cửa cho chúng tôi vào xem. Chắc ông thấy chúng tôi đứng bần thần khá lâu bên tấm biển đồng nên mủi lòng. Thật ra tôi đã sáng kiến đặt máy ảnh chế độ tự động, chụp cả bọn bên tấm biển. Nó là bằng chứng, rằng chúng tôi đã có mặt như đã hẹn trước từ chiều qua với bác Thuý Toàn. Còn khối thì giờ, chúng tôi kéo lên đê sông Hồng chụp vài bức hình làm kỷ niệm. Chỗ chúng tôi chụp ảnh vắng tanh, vắng ngắt, nghe rõ cả tiếng gió thì thào lướt trên mặt sông. Yên tĩnh quá. Tôi cứ có cảm giác mình đang ở đâu đó thâm sơn cùng cốc, chứ không phải chỉ cách cái ồn ào náo nhiệt có nửa bước chân... **** Vẫn còn thì giờ. Y Ban kéo chúng tôi về nhà cô. Sau một hồi uốn lượn xe chúng tôi cũng dừng lại trên một vạt đất của nhà ai bỏ quên, chưa kịp xây. Cỏ lún phún xanh.  Tổ ấm của Y Ban rất đáng yêu. Chồng cô là nhà điêu khắc có biệt danh "Cơ Điên" - vì quá yêu mến mà anh em trong giới đã tặng cho. Cơ dùng luôn tầng một làm xưởng. Chân dung đàn ông, đàn bà, cao thấp, to nhỏ bày la liệt. Những cái đầu bằng đất với đôi mắt hoắm sâu chả gợi cho tôi điều gì. Có chăng là sự dư thừa tiền bạc. Cậu con trai cao vổng, thừa hưởng những gì ưu việt nhất từ bố mẹ. Trần Đăng Khoa thốt lên: - Nhà thím quá tuyệt vời. Rộng rãi, yên tĩnh. Không khí gần sông trong lành. - Nhà em sắp phải chuyển đi chỗ khác rồi đấy. Nằm trong diện giải tỏa mà anh.  - Thím sống ở đây được mấy năm rồi mà phải chuyển thì tiếc thật. Giá mà dinh tê cả nhà cửa, cây cối, vườn tược đi theo thì tốt quá... - Chỗ họ đền bù cho nhà em xa lắm. Mà chả được rộng như thế này, chỉ mấy chục mét vuông thôi. **** Y Ban pha trà mời khách. Cô mang ra một nải chuối, một đĩa hoa quả gọt sẵn. Cô còn cho chúng tôi thưởng thức món su hào mà cô tự tay muối. Trần Đăng Khoa nắc nỏm khen ngon. Y Ban cười rất tươi nói lúc về sẽ tặng chúng tôi mỗi người một túi. Chúng tôi theo Y Ban dạo một vòng xem cơ ngơi của cô. Nhìn cái góc xinh xinh nơi mà từ đó những trang viết theo nhau nằm dưới tay bạn đọc, tôi tự nhủ: "Thì ra, mọi cái to tát, sóng gió của cuộc đời, mọi cái nhỏ nhoi, tinh tế của người đàn bà đâu cần nhiều không gian lắm. Tất cả được dồn nén, chất chứa trong cái đầu xem ra chả có gì khác thường của người đàn bà kia." Cái tên Y Ban lâu nay gợi cho tôi nhớ về một mùa hoa ban nơi góc rừng Tây Bắc của một thời xa xưa. Những cuốn truyện dưới bút danh Y Ban từng làm tôi, làm bạn đọc tưởng cô là người dân tộc. Trong một lần vui chuyện cô kể mới té ngửa ra cái bút danh Y Ban chả có gì bí hiểm. Chỉ đơn giản là cô làm trong ngành Y tên Ban, khi viết truyện cô bèn lấy luôn "Y Ban" cho tiện. Y Ban kéo chúng tôi lên sân thượng, chỉ cho chúng tôi con sông đang nhoà đi trong cái nắng heo hắt. Mấy cây hoa cô trồng mọc hồn nhiên như nó vốn có. Tôi thích điều này. Những thứ được tỉa tót, chăm bón kỹ nơi dinh thự của những dân ăn chơi, sành điệu, lắm tiền làm tôi khó chịu. Nó cứ giả giả như chủ nhân của nó vậy. Của đáng tội, nhiều người bạn của tôi cũng từng đã có lúc mơ giấc mơ về chúng. Giấc mơ no đủ. Chồng Y Ban là một ông chủ hiếu khách. Ngoài dịch giả Kim Hiền đã quen, Trần Đăng Khoa, tôi và nhà thơ Hoàng Xuân Tuyền đều lần đầu tiên đến đây. Chủ nhà kể cho chúng tôi câu chuyện anh chứng kiến trên máy bay trong một lần công tác từ nước ngoài về. Say rượu. Tây ta đều như nhau cả. Trong cơn say, người ta thường khó mà kiềm chế được những hành động khiếm nhã, những cử chỉ thô tục. Và để kết thúc câu chuyện "Cơ Điên" nở một nụ cười hiền. Nhìn Cơ cười, ai dám bảo anh là người có cá tính bạo liệt, có lúc như điên điên cơ chứ.  **** Ngoài những lúc viết sách, Y Ban luôn bận rộn. Ngoài trách nhiệm chăm lo phần hồn cho thiên hạ, cô còn là người mẹ chỉn chu trong công việc nội trợ, chăm lo con cái, chăm sóc gia đình. Tôi cũng từng biết có những cặp vợ chồng văn nghệ sĩ khác. Họ, mỗi người mơ giấc mơ của mình. Con cái thả phóng. Hồn nhiên chơi, hồn nhiên lớn.  Chia tay bà chủ ngôi nhà, chúng tôi ra về với lời hẹn, lần sau gặp lại. Dẫu biết rằng cái lần sau ấy lâu lắm. Ai cũng bận rộn. Cái hẹn bị chìm lấp bởi cái bề bộn mưu sinh thường ngày. Hồi đi Trại sáng tác trên Tam Đảo, tôi nhận lời mời đến chơi nhà của họa sĩ Nguyễn Quốc Thái, vậy là phải mười ba năm sau tôi mới thực hiện được. Tôi thực sự may mắn và hạnh phúc khi có được những người bạn. Dẫu không thường xuyên gặp nhau nhưng đâu đó trong một góc khuất, nhỏ nhoi của tâm hồn, luôn có hình bóng của nhau. Với tôi, điều này là quá đủ. Mùa thu 2017. LÊ THANH MINH *** Câu chuyện xuyên rừng cứu em của Minh được cả bản trong bản ngoài, cả xã trong xã ngoài, cả huyện đều biết đến. Hôm đến trường Minh được cô giáo trao cho một tấm giấy khen. Cả trường vỗ tay hoan hô Minh. Có mấy đứa con gái xinh cứ liếc mắt nhìn Minh khâm phục. Thi thoảng nhà Minh lại đón khách. Có người từ một bản rất xa mang theo xôi và gà đến tặng Minh. Sau khi thăm Minh rồi mọi người muốn thăm Lém Lỉnh, Tom, An và Lành. Bốn người bạn đó không quay về rừng nữa mà sống chung cùng với gia đình Minh. Em Thu rất thân với An nhưng nó không thể hiểu được An nói gì. Cha thưng sàn dưới thành căn phòng ấm áp để cho An và Lành. Lém Lỉnh và Tom được lăng xăng chạy lên chạy xuống. Mẹ và cha nói với Minh: - Từ khi loài người xuất hiện thì loài người và loài vật không bao giờ hiểu được tiếng nói của nhau nữa. Nay con lại biết nói và hiểu được tiếng nói của loài vật quả là một sự bất thường. Cha mẹ rất lo lắng về điều đó. Nếu có người xấu biết việc này thì họ sẽ bắt cóc con và các bạn con mất. Bây giờ không có việc gì mà bọn người xấu không dám làm. - Cha mẹ ơi, con chỉ biết nói chuyện với các bạn của con thôi mà. - Vì thế nên cha mẹ càng lo lắng hơn, cha mẹ cũng yêu các bạn của con như con, chẳng may một bạn nào bị bắt cóc thì cha mẹ cũng đau buồn lắm. - Vậy chúng ta phải làm gì, cha mẹ ơi? - Cha mẹ đã nghĩ kỹ việc này, bây giờ tuyệt đối con không để cho ai biết con có thể nói chuyện được với các bạn. Hãy làm như các bạn ấy chỉ như những con vật khác mà chúng ta nuôi trong nhà thôi. Minh bật khóc khi nghe cha mẹ nói như thế: - Không thể, các bạn ấy là bạn của con chứ không phải con vật. Lém Lỉnh và Tom đã hóng ngoài cửa từ khi nào, thấy Minh khóc các bạn liền nhảy bổ vào lòng Minh. Tom nói: - Ẳng ẳng ẳng, đừng khóc thế Minh ơi, cha mẹ nói đúng mà. Chúng mình vẫn là bạn thân của nhau, chúng mình chỉ vờ như là không phải bạn bè thôi. Thi thoảng bạn nên quát tớ hoặc đá vào bụng tớ một cái cũng được, tớ không đau đâu. Minh ôm chặt Tom vào lòng: - Tớ mà lại đá vào bụng cậu ư? Chân tớ sẽ rụng đấy. Lém Lỉnh nhảy lên vai Minh kêu rống lên: - Khẹc khẹc khẹc, thi thoảng bạn cũng nên nhốt tớ vào lồng. Hoặc bạn có thể chơi xỏ tớ một chút, bạn nắm cơm trộn với mắm tôm đưa cho tớ, khiến tớ phát khiếp lên được. - Tớ không bao giờ chơi xỏ cậu như thế đâu Lém Lỉnh ơi. Nếu sống giữa loài người mà cứ phải phòng bị thế này thì chúng ta cùng vào rừng sâu để sống với nhau. Cha hắng giọng mấy cái rồi buồn buồn nói với Minh: - Con trai ơi, con không hiểu lòng của cha mẹ rồi. Cha mẹ chỉ lường trước các tình huống xấu có thể xảy ra với con và các bạn con thôi mà. Mẹ tiếp lời cha: - Căn nhà của cha mẹ luôn luôn là nơi bình yên con trai ơi. Con và các bạn của con sẽ được ăn no và ấm áp, không có nơi nào trên thế giời này bình yên hơn ngôi nhà của cha mẹ. Cha mẹ lo là lo ở ngoài thế giới rộng lớn kia, khi cha mẹ không đi theo các con từng bước được. An và Lành cũng đứng hóng tự lúc nào. An nói với Minh: - Cha mẹ nói rất hay. Minh nghe lời cha mẹ đi. Lành tiếp lời An: - Chúng ta cùng nhau đi làm. Tom ở nhà trông nhà. Lém Lỉnh đi học cùng bạn Minh và em Thu. Tớ sẽ đi cày nương với mẹ. An đi xuống suối bắt cá và lấy mật ong rừng. Như thế có được không các bạn. Lém Lỉnh sung sướng kêu toáng lên: - Khẹc khẹc khẹc. Được đi học, được đi học. Tom dỗi nằm bẹp dí bụng xuống sàn: - Suốt ngày phải ở nhà trông nhà không được đi đâu à. Minh nâng Tom đứng lên: - Bạn đừng buồn, tớ chỉ phải đi học 5 ngày một tuần, hai ngày cuối tuần tớ sẽ đi cùng với bạn vào rừng săn dúi nhé. Lém Lỉnh ơi, bạn không đi học với tớ được đâu. Bạn mà đến trường thì tất cả các bạn chỉ thích chơi với bạn thôi không chịu học đâu, bạn ở nhà với Tom nhé hoặc là đi rẫy với mẹ. - Tớ thích đi học cơ. ... Mời các bạn đón đọc Công Viên Cứu Hộ Loài Người của tác giả Y Ban.