Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện

Câu chuyện dựa trên những tình tiết có thật về Georgia Tann (1891-1950), người điều hành Hội Cô nhi viện Tennessee. Bà ta đã bán và thu lợi bất chính từ những đứa trẻ "mồ côi" khoản tiền lên đến 1 triệu đô la thời bấy giờ. Khoảng 5.000 đứa trẻ đã bị bắt cóc, 22 đứa trẻ được giám hộ vẫn còn "chịu" sự chăm sóc của Tann khi cô ta chết, chỉ có hai trẻ được trả về cho cha mẹ ruột, vì các gia đình nhận nuôi từ chối chúng. Hàng ngàn gia đình ruột thịt đã không bao giờ biết có chuyện gì xảy ra với con cái họ. Bằng ngòi bút độc đáo và lối kể chuyện đan xen giữa quá khứ và thực tại, Lisa Wingate đã thổi hồn vào Bí ẩn trong cô nhi viện, khiến tác phẩm trở thành một cuốn tiểu thuyết vô cùng xúc động và chân thực đến từng chi tiết. ------------- Lisa Wingate là một cựu nhà báo, diễn giả truyền cảm hứng và là tác giả của hơn 30 tác phẩm bán chạy nhất của New York Times. Các tác phẩm của cô đã giành được nhiều đề cử cho các giải thưởng danh giá như Pat Conroy Southern Book Prize, Oklahoma Book Award, Carol Award và Christy Award. Bí ẩn trong Cô nhi viện là tác phẩm thành công nhất của Lisa Wingate với hơn 1,5 triệu bản in được bán và là tác phẩm nằm trong danh sách sách bán chạy nhất của New York Times suốt hơn một thời gian dài. Tác phẩm đã được xuất bản tại hơn 35 quốc gia trên toàn thế giới. *** Câu chuyện dựa trên những tình tiết có thật về Georgia Tann (1891-1950), người điều hành Hội Cô nhi viện Tennessee. Bà ta đã bán và thu lợi bất chính từ những đứa trẻ "mồ côi" khoản tiền lên đến 1 triệu đô la thời bấy giờ. Khoảng 5.000 đứa trẻ đã bị bắt cóc, 22 đứa trẻ được giám hộ vẫn còn "chịu" sự chăm sóc của Tann khi cô ta chết, chỉ có hai trẻ được trả về cho cha mẹ ruột, vì các gia đình nhận nuôi từ chối chúng. Hàng ngàn gia đình ruột thịt đã không bao giờ biết có chuyện gì xảy ra với con cái họ. Bằng ngòi bút độc đáo và lối kể chuyện đan xen giữa quá khứ và thực tại, Lisa Wingate đã thổi hồn vào Bí ẩn trong cô nhi viện, khiến tác phẩm trở thành một cuốn tiểu thuyết vô cùng xúc động và chân thực đến từng chi tiết. Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là truyện hư cấu liên quan đến đường dây buôn bán trẻ và nhân vật tai tiếng là Georgia Tann, tuy nhiên, ban đầu mình cảm tưởng sẽ có kịch tính và phơi bày mặt tối của cô nhi viện Tennessee hay ít nhất là đời sống bí mật của Georgia Tann theo góc nhìn của Rill, nhưng thay vào đó chỉ là hình ảnh hồi tưởng nỗi buồn da diết về Arcadia, đảo bùn, Camellia, và phân chương chẵn là của bà May và lẻ là của Avery. Ở góc độ nào đó Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện của Lisa Wingate nhẹ nhàng, giảm tải góc tối của cô nhi viện Tennessee, đơn giản mọi thứ tình tiết – thẳng chừng mà nói tình tiết có phần nhanh – việc tàn bạo và đối xử tệ bạc là điều luôn hiện thực không thể phủ nhận được, nhưng trong Rill và đàn em bị bắt cóc là một tấn bi kịch xảy ra rồi. Nó là nỗi ám ảnh kinh hoàng, và là nỗi đau da diết khi rời xa gia đình trong thời thơ ấu, rồi chứng kiến mọi thứ diễn ra trong cô nhi viện có thể gây ra điều gì đó tệ hơn bao giờ hết.Bi kịch xảy ra Hình ảnh Rill cuối cùng trước khi rời nhà thuyền Arcadia là ông bố dẫn mẹ Queener rời đi cùng với Zede già, Rill và đàn nhóc ở lại cùng với Silas, ở một đêm tối nhà thuyền là đêm cuối cùng trước khi bị dời đi đến cô nhi viện là hình ảnh hoài niệm của Rill sau này, hình như đó cũng là dòng tâm tư của tác giả muốn độc giả nhớ lại trước khi bỏ sách xuống.Đó chỉ là giai đoạn khởi đầu của tâm bi kịch xảy ra, dù cho Rill và Fern đã quay trở lại nhà sàn Arcadia thì cũng không thể khiến cho Briny quay trở lại nhịp điệu trước đây nữa, mà khiến cho Rill càng quyết tâm rũ bỏ mọi thứ mà trở lại với cuộc sống làm con nuôi khác, thế nhưng Rill đã không còn hạnh phúc trong cuộc sống sau này bởi bà đã rũ bỏ Silas thì còn hạnh phúc gì đủ để bà hạnh phúc hơn khi ở bên mối tình đầu nhỏ nhoi ấy?Tuy nhiên Rill – thực ra mình thích tên Rill này hơn tên May, chỉ là bà đã quyết định bỏ lại tất cả mọi thứ có liên quan đến vương quốc Arcadia mà lấy tên May, đại diện cho bà hướng về tương lai, nhưng đến cuối đời bà lại hướng ngược lại dòng quá khứ, tức là bà không thể nào quên được vương quốc Arcadia có mặt đầy đủ mọi người ở đó  là Queenie, Briny, Camellia, Lark, Fern, Gabion, Silas và Zede già cùng phiêu lưu trên con sông – đã cưới ba đời chồng, thì cả ba người làm nghề khác nhau, một người làm giáo viên tượng trung cho suy nghĩ, một người làm nhà truyền giáo tượng trưng cho hiểu biết và người cuối cùng là dạy cho bà về tưởng tượng. Nhưng không một ai bằng Silas, một kiểu mối tình sâu đậm và có thể hạnh phúc trên dòng sông mãi mãi, nhưng bà lại không muốn vì sợ rằng sẽ lập lại như Briny, điên dại khi mất vợ, mất con, sống trong cái cảnh nghèo khó ấy luôn là tương lai tối mù. Giả sử bà vẫn chọn cách ở với Silas thì sao? Mọi tối tăm cùng quá khứ sẽ diễn ra, và bà mãi mãi không thể tìm được các em, mà thậm chí sống trong quá khứ mãi mãi.Tấm bi kịch xảy ra trong gia đình Rill là như vậy, có lẽ, tội nghiệp nhất là đứa bé Camellia, bướng bỉnh, ngoan cố y như ông bố Briny, và đứa em không thể tìm lại là Gabion, cùng với việc rời xa Silas, mà sau này chẳng thể nghe được tin tức gì về anh ta nữa, thật tình mà nói mình thấy xót thương cho Silas nhất, tính ra anh ta không có tương lai, lang bạc để kiếm sống và đối mặt với đám cớm. Thành thử, sau này Rill kể đã không biết tin tức gì về Silas càng làm lòng người ta vừa tò mò, vừa cảm thấy xót thương nhiều hơn.Văn phong trong truyện Văn phong Lisa Wingate mượn (nếu như mình đoán không nhầm vì đôi khi dịch giả chuyển ngữ đã mất đi phần văn phong của tác giả) theo kiểu nhẹ nhàng tối đa, và giảm tải bạo lực, mặt tối của cô nhi việc Tennessee không gây ấn tượng, ở phần nào đó chỉ nâng cao trải nghiệm cuộc sống của chị em Rill rồi được nhận nuôi cho đến khi nhận ra vương quốc Arcadia đã không còn nữa mà thôi. Do đó mình chỉ ấn tượng đến thế, về mặt nào đó ở góc tối, Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện chưa thật đủ gây ra ấn tượng nhiều hơn, chỉ ở khúc nào đó bị giam nhốt trong hầm tối là cùng lắm, hay việc Camellia biến mất chưa thật sự sáng tỏ và gây ra sự buồn bã nào đó với cái chết.Mình chỉ đánh giá cao về cuộc sống từ gia đình cho tới bị tách ra rồi đưa vào cô nhi viện, sau đó nhận nuôi, trốn thoát quay trở lại dòng sông để rồi phải quay trở về nhà ông bà nhận nuôi. Trong giai đoạn này hầu hết là giai đoạn tâm tư, nhớ nhung và thương xót, không gây ra kịch tính nào, hoặc chỉ đơn giản là phơi bày mặt tối thì không đạt, thậm chí tác giả Lisa Wingate chỉ ậm ừ viết cho nhanh cho qua giai đoạn mặt tối, nhất là giai đoạn về Rill khi trở về dòng sông, biết được Briny trở nên điên loạn vì mất Queenie, để rồi khi trời mưa, Briny cắt dây cho con thuyền đến giữa sống mặc kệ cho trời mưa xối xả dẫn đến có thể giết chết Rill và Fern. Mình thấy việc tác giả Lisa Wingate không miêu tả giỏi nội tâm nhân vật là Rill, từ đầu cho tới cuối, các bạn cũng sẽ đọc tới giai đoạn Rill nhớ nhung về bố mẹ ra sao, đau khổ khi thấy Briny ra sao, nhưng lại không hề sâu sắc và diễn tả buồn vui thế nào, Camellia đã mất, nhưng tác giả không hề nhắc tới, chỉ nhắc một lần duy nhất là Camellia thiệt mạng, về sau, không một từ ngữ tiếc thương nào về người em gái như thể nó đáng chết, và phải chết. Điều này mình cảm thấy nó có chút không được tự nhiên và tác giả miêu tả quá sơ sài – dĩ nhiên mình không chê văn phong của tác giả và trình độ, cái đáng tiếc là tác giả đã mong muốn kết thúc, càng về sau tác giả càng hụt hơi và nhanh chóng kết thúc truyện nhiều hơn là giải bày bí ẩn – hẳn nhiên sẽ có người cho rằng việc kết thúc nhanh chóng như vậy chỉ vì vương quốc Arcadia của Rill đã mất, sự thật đã phơi bày rằng Rill và Fern có quay trở lại thì không thể cứu vãn gia đình vốn dĩ đã sụp đổ trước khi cả năm đứa trẻ bị bắt cóc. Nhưng đối với mình thì việc phơi bày sự thật trần truồng như vậy còn nhẹ nhõng mà không hề gây ám ảnh sau này cho Rill về khoảnh khắc ông bố đứng trên mái nhà và chửi rủa, còn bình tĩnh như thể chuyện đó là hẳn nhiên, là cần thiết xảy ra không nên đau buồn. Đó là nỗi ám ảnh của đám trẻ bị tan vỡ gia đình cơ mà? Dù cho không bị ám ảnh thì đau buồn nó vẫn hiện diện như chuyện này đã xảy ngày hôm qua nhưng mình không hề thấy Lisa Wingate có miêu tả một sự đau đớn nào cho từng nhân vật mà chỉ đơn giản là khoảnh khắc hiện diện trước mặt là chuyện buồn rồi sẽ nhanh chóng qua trên khuôn mặt của May.Tuy nhiên mình không chê truyện Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là dở, cái dở ở trong  truyện chỉ vài điều và nó không nói lên rằng truyện không hay, có những khoảnh khắc mà Rill cùng Fern trốn khỏi gia đình nhận nuôi trở về Arcadia là khoảnh khắc chúng ta nhận ra rằng vương quốc Arcadia ấy đã không còn, đã biến mất hoàn toàn kể từ khi các chị em bị bắt đi và mẹ Queenie mất đi là lúc tâm trí của bố Briny đã biến mất, chẳng thiết tha sự sống của mình và của hai đứa con.Tóm lạiBí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là câu chuyện trong thời kỳ nạn buôn bán trẻ em, tuy nhiên chưa thật sự lột tả được sự tối tăm của con người Georgia Tann và cô nhi viện của bà ta như thế nào, chủ yếu tác giả tập trung vào Avery con của chính trị gia, khám phá ra lịch sử của gia đình mình để rồi biết được lịch sử bà nội mình, đằng sau câu chuyện nhận nuôi. Nhưng không thể lột tả trần trụi sự thật tối tăm vốn dĩ bản chất của việc này chẳng mấy sáng sủa hay ho gì, tuy nhiên, mình cảm thấy Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là chưa đủ nói lên sự bí ẩn lớn lao nào như tựa đề mang lại nên chưa thật sự hài lòng về việc tác giả đã đặt tên như vậy.Tuy nhiên, ngoài các chi tiết ấy thì mọi thứ điều ổn thỏa, nhẹ nhàng và đem lại ấn tượng về một gia đình tan nát, Rill bị bắt cóc cho đến quay trở về vương quốc Arcadia thì nhận ra sự thật rằng gia đình của Rill đã mất hoàn toàn, và rồi phải tự quyết định rũ bỏ vương quốc; nơi mà mình đã từng là công chúa, ra đi cùng với gia đình mới. Một ý nghĩa truyền tải đơn giản là gia đình của Arney, nếu như một đứa trẻ sống trong một gia đình đối xử bạo hành, có nghĩa bạn nên rời khỏi nơi đó, hoặc cứ như Rill đón nhận gia đình nuôi sau khi gia đình cũ bị tan nát, chấp nhận sự thật này rồi tương lai sẽ đón nhận điều mới của chúng ta. *** Dành tặng hàng trăm người đã biến mất và hàng ngàn người vẫn còn tồn tại. Cầu mong câu chuyện của các bạn sẽ không bao giờ bị lãng quên. Đồng thời dành tặng cho những ai từng giúp đỡ trẻ mồ côi ngày nay tìm được mái ấm vĩnh viễn. Chúc các bạn luôn hiểu rõ giá trị công việc và tình yêu của mình. "Bạn có biết rằng, ở tại vùng đất của sự tự do và ngôi nhà của lòng quả cảm này, có một thị trường buôn bán trẻ em cực lớn? Và cổ phần sang tay... không chỉ đơn thuần là những tờ giấy hứa hẹn số cổ tức tài chính nào đó, mà là những đứa bé bằng xương bằng thịt vẫn đang quẫy đạp đầy sinh khí." Trích bài Thị trường buôn trẻ em Thời báo Tối Thứ Bảy, số ngày 1 tháng 2 năm 1930 "Georgia Tann nhiều lần nói rằng trẻ em như tấm bảng trắng. Chúng được sinh ra không chút tì vết, và nếu bạn nhận nuôi chúng từ lúc nhỏ, cho chúng tiếp cận điều hay và nền giáo dục tốt, chúng sẽ trở thành con người như bạn mong muốn." Barbara Bisanta Raymond Tên trộm trẻ thơ *** Baltimore, Maryland Ngày 3 tháng 8 năm 1939 Câu chuyện của tôi bắt đầu vào một đêm tháng Tám oi ả, tại nơi tôi sẽ chẳng đời nào để mắt tới. Căn phòng tước đoạt sinh mạng ấy chỉ nằm trong trí tưởng tượng của tôi. Mất nhiều ngày tôi mới gợi nhớ được hình ảnh về nó. Bốn bức tường trắng tinh sạch sẽ, tấm vải lanh trải giường cứng đờ như chiếc lá rơi xuống vệ đường. Dãy phòng riêng được trang bị mọi thứ tốt nhất. Bên ngoài, làn gió thổi nhẹ uể oải và ve sầu kêu rộn rã trên cây cao, nơi ẩn nấp xanh tươi của chúng nằm ngay dưới khung cửa sổ. Chiếc quạt trần kêu lạch cạch trên đỉnh đầu thổi tấm màn lưới tạt vào trong, lôi kéo luồng không khí ẩm ướt chẳng buồn cựa quậy. Mùi gỗ thông thoảng nhẹ vào phòng, và tiếng gào thét thật to của một người phụ nữ vang lên khi y tá giữ chặt cô ta trên giường. Mồ hôi đầm đìa, tuôn xối xả xuống mặt và tay chân cô ta. Nếu tỉnh giấc trong tình cảnh này, cô ta sẽ sợ chết khiếp cho xem. Cô ta rất xinh. Một linh hồn dịu dàng mỏng manh. Không phải kiểu người sẽ cố tình gây ra tình huống thảm khốc này. Trong cuộc sống ngần ấy năm muôn màu muôn vẻ, tôi đã nhận ra rằng hầu hết mọi người đều cố hết sức để tự mình xoay xở. Họ không hề có ý định tổn hại bất cứ ai. Chẳng qua đó chỉ là hậu quả phụ khủng khiếp của nỗ lực để tồn tại mà thôi. Đó không phải là lỗi của cô ta, tất cả chỉ là một giọt nước tràn ly, một cú đẩy cuối cùng tàn nhẫn, không chút thương xót. Cô ta tạo ra điều cuối cùng mà bản thân mong muốn. Một sinh linh thinh lặng chào đời - bé gái nhỏ xíu có mái tóc vàng nhạt, đẹp như búp bê, nhưng lại xanh xao và im lìm. Người phụ nữ ấy sẽ không thể nào biết được số phận của con mình, hoặc giả nếu như cô ta có biết thì thuốc men cũng sẽ làm cho ký ức ấy nhạt nhòa cho tới hôm sau. Cô ta ngừng quẫy đập và đầu hàng tình trạng nửa tình nửa mê, được ru ngủ nhờ những liều moócphin và thuốc gây mê giúp cô ta đánh bại cơn đau. Cũng như giải thoát cô ta khỏi mọi thứ. Một cuộc trò chuyện đầy cảm thông diễn ra trong lúc các bác sĩ khâu vết thương và y tá dọn dẹp những thứ còn sót lại. "Thật đáng buồn khi chuyện lại xảy ra như thế. Một mạng sống thậm chí còn chưa được một lần hít thở trên cõi đời này." "Đôi khi chúng ta phải tự hỏi... tại sao... khi người ta khao khát một đứa trẻ thì..." Tấm khăn liệm được hạ xuống, che đi đôi mắt nhỏ xíu. Đôi mắt ấy sẽ không bao giờ nhìn thấy gì. Người phụ nữ kia vẫn nghe được nhưng chẳng thể nắm bắt ý. Mọi âm thanh cứ lọt vào tầm nghe rồi tan biến. Như thể cô ta đang cố bắt lấy đợt thủy triều, nhưng nước lại chảy hết qua kẽ bàn tay nắm chặt, và cuối cùng cô ta đành thả mình trôi theo dòng nước. Một người đàn ông đang đợi gần đó, có lẽ là ở trong hành lang ngay bên ngoài cửa. Trông ông ta oai vệ, cao quý và không quen rơi vào tình huống bất lực như thế. Đáng lý hôm nay sẽ là ngày ông ta trở thành ông ngoại. Cảm giác mong chờ tuyệt diệu đã tiêu tan thành nỗi đau quặn thắt ruột gan. "Thưa ngài, tôi thực sự xin lỗi." Bác sĩ nói ngay khi vừa rời khỏi phòng. "Chúng tôi cam đoan rằng chúng tôi đã cố gắng hết sức làm dịu cơn đau lâm bồn của con gái ngài và cứu lấy đứa trẻ. Tôi hiểu chuyện này rất khó khăn. Xin gửi lời chia buồn sâu sắc đến cha đứa trẻ khi nào ngài liên lạc được với anh ấy ở nước ngoài. Sau khi chịu nhiều nỗi thất vọng, gia đình ngài chắc đã nuôi niềm hy vọng lớn lao như vậy." "Con bé còn khả năng sinh nở nữa chứ?" "Đó là điều không nên đâu." "Đây sẽ là dấu chấm hết cho con bé. Và cả mẹ nó nữa, một khi bà ấy biết được việc này. Ông biết đấy, Christine là đứa con duy nhất của chúng tôi. Một đứa trẻ sắp sửa chào đời... sự khởi đầu của một thế hệ mới..." "Tôi hiểu, thưa ngài." "Con bé sẽ gặp rủi ro gì nếu như..." "Mạo hiểm tới mạng sống. Và rất khó có khả năng là con gái ngài sẽ mang thai lần nữa. Nếu cô ấy cố thử thêm, kết quả có thể..." "Tôi hiểu rồi." Vị bác sĩ đưa một tay lên an ủi người đàn ông đang đau khổ ấy, hay có lẽ điều đó chỉ xảy ra trong trí tưởng tượng của tôi mà thôi. Và mắt họ cứ thế giao nhau. Rồi vị bác sĩ ngoái ra sau để đảm bảo là các y tá không thể nghe thấy. "Thưa ngài, tôi có thể đề nghị một chuyện này được chứ?" Ông ta khẽ nói với vẻ nghiêm trang. "Tôi biết một người phụ nữ sống ở Memphis..." Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện của tác giả Lisa Wingate & Mokona (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Năm Chú Heo Con
Giới thiệu tóm tắt tác phẩm: Câu chuyện lấy ý tưởng từ một bài đồng dao của trẻ em Anh, với năm nhân vật là nghi phạm trong một vụ án: Chú heo con này đi ra chợ Chú heo con này ở nhà trông  Chú heo con này ăn bò nướng  Chú heo con này bụng rỗng không  Chú heo con này khóc “oa oa oa” suốt đường về nhà Nhiều năm trước, một vụ án mạng xảy ra làm kinh động xã hội: bà Crale bị buộc tội đầu độc chồng – một họa sĩ tài hoa, và nhận án chung thân. Bà chết sau một năm thụ án. Nhưng con gái bà không tin mẹ mình là thủ phạm, cô đã đề nghị thám tử lừng danh Poirot điều tra lại vụ án này. Poirot đã tiếp cận năm người có mặt khi sự việc xảy ra – năm nghi phạm, và lần về quá khứ 16 năm trước để vén bức màn bí mật, tăm tối quanh cái chết của họa sĩ lừng danh Amyas Crale. Tiểu thuyết đỉnh cao này là một câu chuyện tinh tế và tài hoa, một chuyện tình sâu sắc và một đại diện tiêu biểu của nghệ thuật kể chuyện, trong đó có năm cách kể khác nhau của cùng một vụ giết người. Theo bình chọn của nhiều độc giả, đây là tác phẩm hay nhất của nữ hoàng truyện trinh thám Agatha Christie. *** GIỚI THIỆU CARLA LEMARCHANT Hercule Poirot nhìn người phụ nữ trẻ đang được dẫn vào phòng với sự tò mò thích thú. Không có gì đặc biệt trong lá thư cô viết. Đó chỉ là một lá thư xin hẹn gặp mà không hề có thêm ẩn ý gì bên dưới lời yêu cầu. Một lá thư ngắn gọn và thuần công việc. Chỉ có nét chữ dứt khoát kia biểu lộ Carla Lemarchant là một phụ nữ trẻ. Giờ cô đã xuất hiện bằng xương bằng thịt – một phụ nữ trẻ cao ráo mảnh dẻ mới vừa đôi mươi. Kiểu phụ nữ trẻ mà người ta không thể không ngoái nhìn. Trang phục chỉn chu, áo choàng cắt may đắt tiền cùng với váy và khăn choàng lông thú sang trọng. Vẻ thông minh đĩnh đạc, cô có hàng chân mày xếch, chiếc mũi nhỏ thanh tú, và một chiếc cằm cương nghị. Trông cô đầy sức sống. Hơn cả vẻ đẹp của cô, chính vẻ ngoài đầy sức sống đó mới là thứ giúp cô trở nên nổi bật trong mắt người khác. Trước khi cô đến, Hercule Poirot đang tự thấy mình thật già cỗi, giờ đây ông như trẻ lại lần nữa… người tràn đầy sức sống… mãnh liệt! Khi tiến đến chào cô gái, Poirot nhận ra đôi mắt xám sẫm của cô đang chú mục vào ông. Cô quan sát ông với một sự nghiêm túc cao độ. Cô ngồi xuống và nhận điếu thuốc ông mời. Sau khi châm lửa, cô ngồi yên hút thuốc trong một hai phút, vẫn tiếp tục nhìn ông với vẻ nghiêm túc kia, ánh mắt đầy suy tư. Poirot ôn tồn lên tiếng. “Vâng, trước sau gì cô cũng phải quyết mà, đúng không?” Cô giật mình. “Ông nói gì cơ?” Cô sở hữu một giọng nói thu hút, có một chút khàn khàn dễ chịu trong giọng nói ấy. “Cô đang cân nhắc, đúng không, rằng tôi có phải là một tên bịp bợm, hay chính là người cô cần?” Cô mỉm cười, nói. “Vâng, đúng vậy… đại loại thế. Ông thấy đó, ông Poirot, ông… trông ông chẳng giống tí nào với hình dung của tôi cả.” “Và tôi già rồi, phải thế không? Già hơn cô tưởng?” “Vâng, cả chuyện đó nữa.” Cô ngập ngừng. “Ông thấy đó, tôi sẽ thẳng thắn vậy. Tôi muốn… tôi phải có được người giỏi nhất.” “Cô yên tâm đi,” Hercule Poirot nói. “Tôi chính là người giỏi nhất!” “Ông chẳng khiêm tốn gì cả… Dù vậy, tôi muốn tin ông.” Carla trả lời. Poirot điềm tĩnh nói. “Cô biết đó, người ta không phải lúc nào cũng dùng đến cơ bắp. Tôi không cần phải lăn lê, đo dấu chân hay nhặt những đầu lọc thuốc lá và quan sát những ngọn cỏ gãy. Đối với tôi, chỉ cần ngồi trên ghế và suy luận là đủ. Chính là cái này,” ông gõ gõ vào cái đầu hình quả trứng của mình, “nó mới là thứ hoạt động!” “Tôi biết,” Carla Lemarchant nói. “Đó là lý do tôi đến tìm ông. Ông thấy đó, tôi muốn nhờ ông làm một việc có hơi kỳ quặc!” “Nghe có vẻ hứa hẹn!” Hercule Poirot đáp. Ông nhìn cô gái chờ đợi. Carla Lemarchant hít một hơi dài. “Tên tôi,” cô nói, “không phải Carla. Mà là Caroline. Giống với tên mẹ tôi. Tôi được đặt tên theo bà.” Cô ngập ngừng. “Và tuy là trước nay tôi vẫn dùng họ Lemarchant… nhưng họ thật của tôi là Crale.” Trán của Hercule Poirot thoáng nhăn lại đăm chiêu. Ông lẩm bẩm. “Crale… hình như tôi có nhớ…” Cô nói. “Cha tôi là họa sĩ, một họa sĩ khá nổi tiếng. Vài người nói ông từng là một họa sĩ xuất chúng. Tôi cũng thấy thế.” Hercule Poirot nói. “Amyas Crale ư?” “Đúng thế.” Cô ngập ngừng, rồi tiếp. “Còn mẹ tôi, Caroline Crale, bị xét xử vì tội sát hại ông ấy!” “À ha,” Hercule Poirot nói. “Giờ thì tôi nhớ ra rồi… nhưng vẫn mơ hồ lắm. Lúc đó tôi đang ở nước ngoài. Cũng đã lâu lắm rồi.” “Mười sáu năm,” cô gái đáp. Gương mặt cô giờ trắng bệch, còn đôi mắt thì như hai ngọn đèn rực sáng. Cô nói. “Ông có hiểu không? Mẹ tôi bị đưa ra xét xử và kết án… Bà không bị treo cổ vì họ thấy là có vài tình tiết giảm nhẹ, thế nên hình phạt được giảm xuống còn khổ sai chung thân. Nhưng bà chết chỉ một năm sau đó. Ông thấy không? Chuyện đã qua lâu lắm rồi…” Poirot lặng lẽ hỏi. “Rồi sao nữa?” Cô gái với cái tên Carla Lemarchant ép chặt hai tay vào nhau. Cô nói chậm rãi và đứt quãng nhưng với một sự nhấn mạnh rõ ràng, kì lạ. Cô nói. “Ông phải hiểu – hiểu cho chính xác – chuyện của tôi bắt đầu từ đâu. Tôi chỉ mới năm tuổi khi vụ việc… xảy ra. Quá bé để hiểu được nội tình của nó. Tôi nhớ được mẹ và cha tôi, dĩ nhiên, và tôi nhớ việc mình rời khỏi nhà vô cùng đột ngột… bị đưa đến vùng thôn quê. Tôi nhớ những chú heo và vợ một người nông dân mập mạp tốt bụng, mọi người đó đều rất tử tế, và tôi còn nhớ khá rõ cái nhìn kỳ lạ họ dành cho tôi, tất cả mọi người đều thế, kiểu khi ta lén lút nhìn gì đó. Dĩ nhiên tôi biết, trẻ con luôn biết, rằng có gì đó không ổn… nhưng tôi không rõ đó là gì. “Rồi tôi lên một con tàu, một chuyến đi mới vui làm sao, cuộc hành trình kéo dài suốt mấy ngày, tôi đến Canada và chú Simon gặp tôi, tôi sống ở Montreal với chú ấy cùng cô Louise, và mỗi khi tôi hỏi về cha hay mẹ thì họ trả lời rằng cha mẹ tôi sẽ đến đây sớm thôi. Và rồi… và rồi tôi nghĩ mình đã quên mất… tôi chỉ mơ hồ biết là họ đã chết mà không nhớ nổi có ai thực sự báo tin cho tôi hay không. Bởi lúc đó, như ông thấy, tôi không còn nghĩ về họ nữa. Tôi đã rất hạnh phúc, ông biết đó. Chú Simon và cô Louise rất thương tôi, rồi tôi đến trường, có nhiều bạn bè, và tôi gần như đã quên hẳn là mình từng có một cái tên khác không phải Lemarchant. Ông thấy đó, cô Louise nói với tôi rằng đó là tên của tôi ở Canada và tôi thấy có lý lắm, Lemarchant chỉ là cái tên Canada của tôi thôi, nhưng như đã nói dần dà tôi quên mất là mình còn một cái tên khác nữa.” Cô hất chiếc cằm cương nghị lên. Cô nói. “Nhìn tôi xem. Nếu ông thấy tôi, hẳn ông sẽ nói: ‘Kia là một cô gái vô ưu vô lo!’, đúng không nào? Tôi khá giả, sức khỏe tuyệt vời, tôi nhìn cũng không đến nỗi nào, tôi có thể tận hưởng cuộc sống. Ở tuổi hai mươi, tôi chẳng mong đổi chỗ với cô gái nào khác trên thế giới cả. “Nhưng ông biết đó, tôi bắt đầu đặt câu hỏi. Về cha mẹ ruột của tôi. Họ là ai và họ đã làm gì? Tôi hẳn đã được định trước là sau này sẽ rõ mọi chuyện… “Và đúng như thế, họ đã kể tôi nghe sự thật. Khi tôi hai mươi mốt tuổi. Họ phải làm thế thôi, bởi lẽ tôi đến tuổi được hưởng số tiền của mình. Và rồi, ông thấy đó, còn vì lá thư nữa. Lá thư mẹ để lại cho tôi khi bà chết.” Biểu cảm của cô thay đổi, dịu đi. Mắt cô không còn là hai đốm sáng rực nữa mà như hai hồ nước mờ tối. Cô nói. “Đó là lúc tôi biết được sự thật. Rằng mẹ tôi đã bị kết án vì tội giết người. Điều đó thật… khủng khiếp.” Cô ngừng lại. “Có một chuyện nữa tôi phải nói ông biết. Tôi đã đính ước. Người ta nói chúng tôi phải đợi, chúng tôi chỉ có thể cưới nhau khi tôi hai mươi mốt tuổi. Khi tôi biết mọi chuyện, tôi hiểu ngay lý do.” Poirot cựa mình và bây giờ mới cất tiếng. Ông hỏi. “Và hôn phu của cô phản ứng như thế nào?” “John ư? John không quan tâm. Anh nói với anh chẳng có gì khác biệt cả. Anh và tôi vẫn là John và Carla, còn quá khứ không ảnh hưởng gì hết.” Cô chồm về phía trước. “Chúng tôi vẫn đính ước. Nhưng dù như thế, ông biết không, chuyện rõ ràng là có ảnh hưởng. Nó ảnh hưởng đến tôi. Và nó cũng ảnh hưởng đến John nữa… Không phải quá khứ ảnh hưởng đến chúng tôi, mà chính là tương lai.” Cô siết chặt hai tay. “Chúng tôi muốn có con, ông thấy đó. Cả hai chúng tôi đều muốn có con. Và chúng tôi không muốn chứng kiến cảnh con mình lớn lên và sợ hãi.” Poirot nói. “Cô không biết là ai ai cũng có ông bà tổ tiên với quá khứ bạo lực và độc ác à?” “Ông không hiểu rồi. Dĩ nhiên là có. Nhưng mà này, không phải ai cũng biết về quá khứ của họ. Còn chúng tôi thì biết. Quá khứ đó quá gần với chúng tôi. Và đôi khi… tôi thấy John nhìn tôi. Một cái nhìn lướt qua, chỉ chớp qua thôi. Giả sử là chúng tôi lấy nhau và có một trận cãi nhau đi, rồi nếu tôi thấy John nhìn tôi và… và anh nghi ngại?” Hercule Poirot hỏi. “Cha cô bị giết như thế nào?” Giọng Carla rõ ràng và dứt khoát. “Ông ấy bị đầu độc.” Hercule Poirot đáp. “Tôi hiểu rồi.” Một thoáng im lặng. Rồi cô gái nói tiếp bằng một giọng bình tĩnh, đều đều. “Ơn chúa, ông thật tinh ý. Ông thấy là chuyện đó ảnh hưởng thế nào, và nó can hệ ra sao. Ông không cố tìm cách khỏa lấp hay buông ra những lời an ủi.” “Tôi hiểu rất rõ,” Poirot nói. “Cái mà tôi không hiểu là cô muốn gì ở tôi?” Carla Lemarchant nói đơn giản. “Tôi muốn cưới John! Và tôi sẽ cưới John! Và tôi muốn có ít nhất hai đứa con gái và hai con trai. Và ông sẽ là người khiến chuyện đó thành sự thực!” “Ý cô là… Cô muốn tôi đi nói chuyện với hôn phu của cô ư? À không, tôi nói thế có ngốc không chứ! Cô đang đề nghị tôi làm một chuyện khác hẳn. Nói tôi nghe cô đang nghĩ gì trong đầu nào.” “Nghe này, ông Poirot. Tôi muốn ông hiểu, và hiểu cho rõ. Tôi muốn thuê ông điều tra một vụ án mạng.” “Ý cô là…?” “Đúng, chính là chuyện đó. Một vụ án mạng vẫn cứ là án mạng dù cho nó mới xảy ra hôm qua hay mười sáu năm trước đi nữa.” “Nhưng cô gái thân mến ơi…” “Chờ đã, ông Poirot. Ông vẫn chưa nghe hết chuyện đâu. Còn một điểm vô cùng quan trọng nữa.” “Là?” “Mẹ tôi vô tội,” Carla Lemarchant nói. Hercule Poirot cọ cọ mũi. Ông lẩm bẩm. “Ừ thì, thông thường… tôi hiểu…” “Đó không phải là cảm tính. Có lá thư của mẹ tôi. Mẹ để lại cho tôi trước khi bà chết. Lá thư được định là sẽ trao cho tôi khi tôi hai mươi mốt tuổi. Bà để lại chỉ nhằm khẳng định điều đó, tôi khá chắc như vậy. Trong thư chỉ nói về mỗi việc này. Rằng bà không phải hung thủ, bà vô tội, và tôi luôn có thể chắc chắn về nó.” Hercule Poirot đăm chiêu nhìn gương mặt trẻ trung đầy sức sống kia đang chiếu ánh mắt chăm chú vào mình một cách vô cùng nghiêm túc. Ông chậm rãi nói: “Dù sao đi nữa…” Carla mỉm cười. “Không, mẹ tôi không như thế! Ông đang nghĩ là bà nói dối… nói dối để tôi yên lòng ư?” Cô sốt sắng chồm tới trước. “Nghe này, ông Poirot, có những thứ trẻ con biết rõ. Tôi có thể nhớ được mẹ của mình, dĩ nhiên chỉ là những ký ức rời rạc thôi, nhưng tôi nhớ khá rõ bà là người như thế nào. Bà không nói dối… dù là nói dối vì mục đích tốt. Nếu có gì đó gây ra đau đớn bà cũng sẽ nói thẳng ra cho ta hay. Đi nha sĩ, hay gai đâm vào ngón tay – những thứ đại loại như vậy. Sự thật như là… là một thôi thúc tự nhiên trong con người bà. Tôi không nghĩ ngày đó tôi thực sự yêu quý mẹ lắm, nhưng tôi tin bà. Tôi vẫn tin bà! Nếu mẹ nói rằng bà không giết cha tôi thì tức là bà không giết ông ấy! Bà không phải là loại người long trọng viết ra những lời dối trá khi biết mình sắp chết.” Hercule Poirot chậm rãi, gần như miễn cưỡng, gật đầu. Carla tiếp tục. “Đó là lý do tôi có thể an tâm cưới John. Tôi biết mình có thể. Nhưng anh thì không. Anh tin rằng việc tôi nghĩ mẹ mình vô tội là lẽ tự nhiên thôi. Chuyện này phải được làm rõ, ông Poirot ạ. Và ông sẽ là người làm việc đó!” Hercule Poirot chậm rãi lên tiếng. “Cứ cho những gì cô nói là sự thật đi, thưa cô, nhưng đã mười sáu năm rồi!” Carla Lemarchant đáp ngay. “Ồ! Dĩ nhiên là chuyện này sẽ khó khăn lắm chứ! Không ai ngoài ông làm được cả!” Hercule Poirot khẽ hấp háy mắt. Ông nói. “Cô thật khéo nói, nhỉ?” Carla nói. “Tôi từng nghe danh của ông. Những vụ ông đã làm. Cái cách mà ông giải quyết chúng. Ông hứng thú với tâm lý học, đúng không? Vâng, thứ đó không thay đổi theo thời gian đâu. Những thứ vật chất đã mất rồi: đầu lọc thuốc lá và các dấu chân, những ngọn cỏ gãy. Ông không thể tìm thấy những thứ đó nữa. Nhưng ông có thể xem lại toàn bộ tình tiết vụ án, và có lẽ là nói chuyện với những người liên quan lúc đó nữa, tất cả họ đều còn sống, và rồi… và rồi, như ông vừa mới nói đây thôi, ông có thể ngả người ra ghế và suy luận. Và ông sẽ biết được chính xác chuyện gì đã xảy ra…” Hercule Poirot đứng lên. Một tay vuốt bộ ria mép. Ông nói: “Thưa cô, tôi rất vinh hạnh! Tôi sẽ không phụ lòng tin của cô. Tôi sẽ điều tra vụ án mạng giúp cô. Tôi sẽ lục lại những sự kiện từ mười sáu năm trước và tôi sẽ tìm ra sự thật.” Carla đứng lên. Mắt cô lấp lánh. Nhưng cô chỉ nói. “Tốt quá.” Hercule Poirot lúc lắc ngón tay trỏ đầy dứt khoát. “Chờ tí đã. Tôi nói là tôi sẽ tìm ra sự thật. Nhưng cô hiểu cho, tôi không thiên về phía nào cả. Tôi không tin lời cam đoan mẹ mình vô tội của cô đâu. Nếu bà ấy có tội thật… ây chà, thì sao đây?” Carla kiêu hãnh ngẩng đầu lên. Cô nói. “Tôi là con gái của bà. Tôi muốn sự thật!” Hercule Poirot đồng ý. “Được, vậy thì, tiến tới. À, nói thế không đúng. Phải là ngược lại. Trở về…” Mời các bạn đón đọc Năm Chú Heo Con của tác giả Agatha Christie & Trương Trung Tín (dịch).
Trùm Phản Chúa
Review của Quang Huy Nguyễn.​ "Tình, có cha vốn là địa chủ bị du kích cộng sản bắn chết. Bản thân hắn trốn vào Nam theo Chúa năm 1954. Lúc này Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA muốn triển khai chiến dịch "Phá Cộng sản ngay trong lòng Cộng sản". Chúng dự định tung gián điệp vào "mật khu" để chống phá từ bên trong. Và Tình được chúng tung về xây dựng "mật khu", dưới chiêu bài rước Chúa ra Bắc, mang bí danh N1. Bắt đầu từ đây diễn ra trận chiến thầm lặng nhưng gian nan, không kém phần khốc liệt giữa 1 bên là CIA và Chi Cục Tình báo Trung ương Mỹ ở miền Nam và 1 bên là Ty Công an Ninh Bình và Cục Phản gián Bộ CA. Với lợi thế 30 năm làm công an, tác giả đã dựng nên bối cảnh cuộc chiến đấu trí ác liệt giữa hai bên. Qua đó cho thấy tài trí của các chiến sĩ tình báo Việt Nam. Cái hay là bên cạnh nghiệp vụ tình báo được miêu tả nhuần nhuyễn, tác giả còn tập trung phân tích chiều sâu tâm tư, tâm lý nhân vật trong truyện rất sắc sảo. Nhất là những dằn vặt, đấu tranh tâm lý của Tình. Lần trước trốn vào Nam hắn cố gắng mang vợ con theo. Nhưng rồi con thì chết, vợ cũng không theo cùng được. Lần này quay về Tình đấu tranh dữ dội giữa hai lựa chọn. Theo vợ, theo Việt Minh thì hắn sẽ phản bội Chúa. Theo CIA thì vợ chồng hắn có thể sẽ chết. Thân phận làm kẻ gián điệp đứng giữa ngã ba đường, Tình rơi vào cuộc chiến khủng khiếp trong chính con người hắn. Hẳn sẽ làm gì đây? Làm theo lời Chúa hay làm kẻ phản Chúa? Trả thù cha hay quên đi mối hận thù và đi theo cách mạng? Sự giằng xé của Tình càng tăng thì kịch tính của truyện cũng càng căng thẳng và gay cấn. Liệu Tình có chiến thắng được con ác quỷ phục thù xấu xa trong trái tim hắn, liệu hắn có xứng đáng với tình yêu vô bờ bến vợ hắn dành cho hắn? Liệu chiến dịch "Phá Cộng sản ngay trong lòng Cộng sản" của CIA có thành công? Lâu lắm mới được đọc một tác phẩm trinh thám phản gián tuyệt vời đến thế. Tác phẩm đậm chất tình báo Việt Nam ngày xưa. Tác giả đã tái hiện một thế giới tình báo không tiếng súng, nhưng sự gian nan, khốc liệt và hiểm nguy của nó không thua gì súng đạn trên chiến trường. Tuy nhiên, tác giả không chỉ chứng tỏ thế mạnh ở vốn kinh nghiệm trinh thám tình báo, mà còn cho thấy tài năng khi tập trung mô tả những suy nghĩ, giằng xé trong con tim Tình. Phải nói đọc những trang đấu tranh nội tâm của Tình mình rất phê, những trang viết miêu tả tận cùng đớn đau, tận cùng đau khổ và dằn vặt của cả hai vợ chồng hắn. Thêm vào đó tác giả đã lột tả được mâu thuẫn dai dẳng, nhức nhối giữa chính quyền cách mạng và đồng bào theo Công giáo. Một bên là cách mạng, một bên là Chúa. Bức tranh một xóm đạo trong thời buổi loạn ly hiện lên sinh động và rõ nét. Tác phẩm Trùm Phản Chúa là một trong ba tiểu thuyết nằm trong Tập 1 Tuyển tập của Nhà văn Trần Diễn. Mình sẽ cố gắng đọc thật nhanh và review hết các tập truyện còn lại trong tập này, cũng như trong hai tập khác còn lại. Chỉ tiếc rằng tác phẩm xuất bản từ năm 2003, đến nay có lẽ không còn trên hiệu sách." *** Trần Diễn (sinh 14 tháng 10 năm 1944) là một nhà văn công an Việt Nam, Đại tá Công an Nhân dân Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam và Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Giám đốc, Tổng biên tập Nhà xuất bản Công an nhân dân[1], Tổng biên tập Tạp chí Sách và đời sống. Trần Diễn được độc giả Việt Nam biết đến với nhiều cuốn tiểu thuyết hình sự - tâm lý xã hội về đề tài Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống, thuộc số ít nhà văn Việt Nam viết về đề tài tình báo, phản gián, trinh thám (ở đề tài này Việt Nam có các tên tuổi như Phạm Cao Củng, Trần Diễn,...). Trần Diễn sinh năm 1944 tại Hà Nam, lớn lên tại Ninh Bình.Nhà văn Trần Diễn từng làm nhiều công việc khác nhau trước khi làm việc tại Nhà xuất bản Công an nhân dân. Tại Nhà xuất bản Công an nhân dân, ông làm biên tập viên, rồi lần lượt giữ cương vị Trưởng phòng, Phó Giám đốc rồi Giám đốc - Tổng biên tập Nhà xuất bản cho đến lúc nghỉ hưu vào năm 2005. Trần Diễn đến với văn chương một cách tự nhiên, như một người có nhu cầu giãi bày tâm sự, ông viết từ những thúc bách của nghề nghiệp, từ những điều ông được chứng kiến, viết văn là cách hay nhất để ông có thể nói ra được những điều mình muốn nói. Ông được học qua hơn 10 trường lớp dài hạn, ngắn hạn với nhiều ngành nghề khác nhau, nhưng chưa từng học về văn chương. Tháng 11 năm 2011, nhà văn Trần Diễn bị đột quỵ, liệt nửa người bên trái nhưng trí tuệ của ông không bị ảnh hưởng, ông vẫn đảm nhiệm chức vụ Tổng biên tập Tạp chí Sách và đời sống, lấy nhà riêng làm tòa soạn. *** Mật điện. (khẩn) Gửi Trưởng ty Công an Ninh Bình. Theo mật điện số 5 của Ty, hồi 13 giờ hôm nay báo cáo về chiếc thuyền lạ, Bộ nhận định đó là thuyền của bọn gián điệp biệt kích Mỹ-ngụy đã xâm nhập vào vùng biển Kim Sơn. Ty cho dùng ngay phương án truy lùng. Một giờ một lần báo cáo kết quả về Bộ. Cục trưởng Cục Phản gián. Nguyễn Quý Dương Sau khi nhận được chỉ thị của Bộ, các tổ truy lùng của tỉnh và Công an huyện Kim Sơn bắt tay ngay vào chiến dịch. Họ đã lùng sục suốt đêm trên tất cả các đồng cói, kênh rạch, nhưng vẫn chưa có kết quả. Thiếu uý Đặng Văn Thành, tổ trưởng tổ truy lùng số 8, vóc người tầm thước, da ngăm đen, dừng tay chèo, ngắm nhìn những hạt sương trên tàu cói, cành sú vẹt. Phía trước anh, màu đỏ hồng cả một vùng trời và biển gặp nhau. - Báo cáo đồng chí, chắc nó đã trốn vào nơi nào đó chứ không thể nằm ngoài đồng cói này được đâu! - Có thể, nhưng chúng ta phải chấp hành mệnh lệnh. Trung sĩ Lân, khoảng hai mươi mốt tuổi, hai má bầu bầu, đưa tay phải dụi mắt, nói: - Đi suốt đêm rồi. Nghỉ vài tiếng được không anh? Thượng sĩ Mạnh nước da xanh, khép áo bạt cho đỡ lạnh vì gió biển và hơi sương, nheo đôi mắt ngái ngủ. Thiếu uý Thành rút hai điếu thuốc lá đưa cho hai người: - Nghỉ một lúc rồi đi tiếp! Cả ba người ngả lưng xuống thuyền. Thiếu uý Thành cởi áo khoác ngoài, xoải tay vươn vai rồi ngồi lên mũi thuyền nhường cho Lân và Mạnh nằm. Họ ngủ được hơn một tiếng, Thành đánh thức hai người dậy. Mạnh xoải tay vươn vai rồi lấy khăn hứng từng giọt sương lau mặt. Thành cầm nắm cơm nguội to như quả bưởi bẻ từng miếng đưa cho Mạnh và Lân rồi mở gói thức ăn. - Muối vừng để ở thành thuyền này này. ​​Mời các bạn đón đọc Trùm Phản Chúa của tác giả Trần Diễn.​
Bao Thanh Thiên
Những vụ án li kỳ, hấp dẫn, hài hước, lôi cuốn người đọc Tài trí thông minh, bảo vệ chính nghĩa, phá án nhanh gọn Chấp pháp nghiêm, không khiếp sợ uy quyền hay vị nể tư tình Thanh liêm, chính trực, chí công vô tư, yêu nước, thương dân như con Hình ảnh vị quan Bao Hắc Tử - chuyên gia phá án đời Tống sẽ được khắc họa trong tập truyện thú vị này. Các bạn cùng đón đọc để thử tài phá án cùng Bao Thanh Thiên. *** Bao Tam Hắc từ nhỏ đã thông minh, lanh lợi được thầy giáo vô cùng yêu quý. Thầy đặt tên cho cậu là Bao Chửng, có nghĩa là cậu nhất định sẽ trở thành dường cột trong việc trị an. Năm 28 tuổi, Bao Chửng đỗ tiến sĩ và bước chân vào con đường làm quan. Ông từng giữ các chức: tri huyện, quan châu, phủ doãn, từng làm sứ giả sang vương quốc Khiết Đan ở Trung - Bắc Á thời đó. Ông cũng nắm những vị trí quan trọng trong lĩnh vực tài chính, giám sát và làm quan tới chức Tể phụ (quan cố vấn riêng của Hoàng đế). Bao Chửng làm quan rất công bằng, không bao giờ tư lợi, ông thanh liêm, thẳng thắn, rành mạch, rõ ràng, phá án như thần, yêu thương dân chúng, được mọi người ca ngợi là “Bao Thanh Thiên” (Ông Bao Trời Xanh). *** Bao Chửng người Hợp Phì, Lư Châu (nay là thành phố Hợp Phì, tỉnh An Huy, Trung Quốc). Cha ông là Bao Nghi, từng giữ chức đại phu trong triều. Sau khi qua đời, Bao Nghi được phong Hình bộ thị lang. Lúc còn bé, Bao Chửng đã nổi tiếng là đứa con hiếu thảo, đôn hậu, sống mực thước. Năm 1027, ông thi đậu tiến sĩ, được cử đến nhậm chức Tri huyện Kiến Xương (nay thuộc tỉnh Giang Tây), nhưng vì song thân già yếu, ông không thể làm quan xa nên xin khoan nhận việc, để ở nhà chăm sóc cho cha mẹ. Sau khi cha mẹ qua đời, Bao Chửng đi nhậm chức Tri huyện Thiên Trường (nay thuộc tỉnh An Huy), sau đó là Tri châu Đoan Châu[4] (nay thuộc Thành phố Triệu Khánh, tỉnh Quảng Đông). Nghe tiếng Bao Công tận tụy và thanh liêm, nhà vua cho triệu ông về kinh giao cho chức Trung thừa, rồi lần lượt thăng các chức Giám sát ngự sử, Trực học sĩ Long đồ các, Tam tư Hộ bộ Phó sử, đến Thiên Chương các Đãi chế (nên người đời sau còn gọi ông là Bao Đãi chế). Năm 1050, vì đàn hặc quốc trượng Trương Nghiêu Tá làm phật lòng hoàng đế Nhân Tông, ông bị thuyên chuyển đến Hà Bắc làm Nhậm đốc chuyển vận sứ. Bốn năm sau, ông mới được triệu về kinh nhậm chức Phủ doãn phủ Khai Phong. Đây là chức vị rất quan trọng, tương đương thị trưởng Bắc Kinh ngày nay, lo việc trị an kinh thành. Lúc ở phủ Khai Phong, Bao Công thường ngồi hướng Nam để tỏ lòng tôn kính hoàng đế, nhưng khi thăng đường ông lại ngồi theo hướng Bắc, do vậy trong các phim về Bao Công có câu "Bao Công đồ đảo tọa Nam nha Khai Phong phủ". Bao Công làm quan phủ doãn phủ Khai Phong chỉ trong vòng 1 năm. Thời gian còn lại, ông được thăng chức Thừa tướng, Ngự sử đài. Chức vụ cao nhất mà Bao Công đảm nhận ở cuối đời là Khu mật Phó sứ, tương đương với chức Phó Tể tướng. Thống kê ghi lại, những người bị Bao Chửng trừng trị không dưới 30 người là đối tượng quyền quý, hoàng thân quốc thích trong xã hội đương thời. Thậm chí ngay cả quốc trượng Trương Nghiêu Tá – cha đẻ của Trương quý phi được vua Nhân Tông sủng ái cũng bị Bao Chửng đàn hặc mà mất chức. Nhà văn đời Tống Âu Dương Tu đã dành cho Bao Chửng những lời bình luận: “Thuở nhỏ hiếu thuận, tiếng thơm khắp xóm làng, cuối đời chính trực, lưu danh khắp triều đình”. Trong 27 năm làm quan, vị trí công việc rất đa dạng: làm Tri huyện Thiên Trường; Tri phủ Đoan Châu, Doanh Châu, Dương Châu, Lư Châu, Triệu Châu; Tri phủ Giang Ninh rồi Phủ doãn phủ Khai Phong, nắm giữ toàn bộ việc hình pháp, trị an trong kinh thành. Bao Công nhận mệnh đi sứ Khiết Đan, rồi về kinh làm Lễ bộ Thị lang, Tam ti Hộ bộ… Trước sau gánh vác công việc ở các bộ Công, Hình, Binh, Lễ. Chức vụ lớn nhất của Bao Công trước khi qua đời là Khu mật Phó sứ, tương đương phó tể tướng. Sau ông được phong hàm Thiên Chương các đãi chế, Long Đồ các trực học sĩ, Khu mật trực học sĩ. Năm 1062, ông lâm bệnh mất ở nơi làm việc, hưởng thọ 63 tuổi, điều đáng nói ở đây, là thời gian từ lúc lâm bệnh cho đến khi mất chỉ có 13 ngày, nên người ta nghi ngờ rằng ông mất một phần do thuốc của hoàng đế ban cho, do lúc sinh thời Bao Chửng từng xử những vụ án vạch mặt bọn thái y, nên bị bọn chúng căm ghét (từ lúc uống thuốc đến khi phát bệnh mất chỉ là 9 ngày). Sau này, các nhà khoa học thuộc Phòng Nghiên cứu năng lượng vật lý cao Học viện Khoa học Trung Quốc đã phối hợp với Viện Bảo tàng tỉnh An Huy tiến hành xét nghiệm những mảnh xương của Bao Công. Kết quả cho thấy: Hàm lượng các nguyên tố thủy ngân, sắt và canxi trong xương Bao Công cao hơn nhiều so với xương của người hiện đại, trong khi đó hàm lượng chì và arsen (thạch tín) lại thấp hơn người thường. Ngày xưa, độc dược được sử dụng chủ yếu là tì sương (thạch tín) và chu sa (thủy ngân), chúng có độc tính cực mạnh. Kết quả này sơ bộ loại trừ khả năng Bao Công bị trúng độc cấp tính do uống phải thuốc có chứa thạch tín.[5] Hoàng đế Tống Nhân Tông đích thân làm chủ lễ truy điệu, phong cho Bao Công là Lễ bộ Thượng thư, ban cho thụy hiệu "Hiếu Túc", có nghĩa là hiếu đạo và thiết diện vô tư và còn phái một đoàn ngự lâm quân hộ tống linh cửu ông về mai táng ở quê nhà ông. *** Chuyện xảy ra đúng vào mùa thu hoạch. Trời hãy còn tờ mờ sáng, trong ánh sáng yếu ớt của ban mai thoang thoảng mùi hương cỏ cây và mùi nhựa thông. Phía đông đầu thôn, một nông phu cường tráng ra đồng cắt lúa. Trong tiếng soàn soạt của chiếc liềm, từng hàng từng hàng lúa ngã rạp ngay ngắn trên mặt bùn. Chăm chú làm việc, nhưng lòng chàng lại cảm thấy bất ổn, nên chốc chốc lại ngừng tay liềm, ngẩng nhìn về thôn trang. “Cù – cú,” tiếng cú kêu như báo trước có điềm chẳng lành xảy ra. Năm Bắc Tống khánh lịch⦾, vùng đất Trung Châu là nơi vừa phồn thịnh lại hỗn loạn, bọn người tranh loạn phát tài mọc lên như nấm, khiến thiên hạ mất đi cảnh an vui thái bình. Thôn này tên gọi Bảo Thạch, cách huyện thành Khải Khánh 30 dặm, là một bồng lai tiên cảnh ngoài thế sự loạn lạc. Do đất đai màu mỡ phì nhiêu, nguồn nước sung túc, bóng cây râm mát, thoạt nhìn đã tạo cho ta cảm giác đây là nơi tốt nhất để trăm họ an cư lạc nghiệp. Bảo Thạch thôn có nhiều đồng lúa rộng lớn, sinh sản ra giống gạo thơm nổi tiếng khắp xa gần, ngay cả Tống Hoàng đế cũng biết tiếng. Thế nhưng, người đời vốn sợ nổi tiếng là giàu có, bởi càng giàu có thì bọn đạo chích càng để ý đến. Chàng nông phu cuối cùng đành phải dừng tay, một phần có thể là vì ra đồng sớm nên bụng đói, một phần vì lòng chàng thấp thỏm không yên nên đành phải quay về nhà. Chàng là một phú nông, tên gọi Vương Thế Bân cả nhà từ đời này qua đời khác bám ruộng lúa, cha truyền con nối vì thế mà giàu có. Phụ thân chàng là Vương Thiện Nhân, tuổi đã cao không thể lo liệu việc đồng áng, nên toàn bộ công việc đều giao cho con trai. Chàng nổi tiếng khắp thôn về tính cần cù, một tay lo liệu trong ngoài. Tuy mướn người làm, nhưng chàng không để họ ra đồng sớm, mà muốn chính mình là người đầu tiên đổ mồ hôi trên cánh đồng yêu quý. Vợ của Vương Thế Bân là Quỳnh Nương, con gái nhà họ Trần trong huyện thành, tính nết dịu dàng, dáng người đẹp đẽ, từ khi gả về nhà họ Vương, sớm hôm lo phụng sự cha mẹ chồng, nhất mực hiếu thuận, ngoại trừ cách đây vài năm có xảy ra một nhầm lẫn nhỏ, mọi người trong nhà đều sống hết sức thân mật, thương yêu nhau. Còn cách nhà không xa mấy, Vương Thế Bân đã vội lên tiếng gọi: “Nương tử! Nương tử!” Đáp lời chàng chỉ là tiếng gà vịt kêu. Chàng đẩy cửa bước vào phòng, mền gối đã được xếp gọn gàng ngăn nắp, nhưng Quỳnh Nương thì không có ở đó. Chàng chạy vội vào bếp, hy vọng vợ mình đang chuẩn bị bữa sáng, nhưng vẫn không thấy. “Nương tử! Nương tử!” Vương Thế Bân lo lắng kêu to, cảm giác bất ổn càng lúc càng vây chặt lấy chàng. Lúc bấy giờ trời đã sáng tỏ, người làm đều đã dậy, đang rửa mặt ngoài giếng, nghe thấy chủ nhân tìm vợ, bọn họ đều vây lấy chủ nhân để hỏi xem đã xảy ra chuyện gì. “Các ngươi có nhìn thấy phu nhân ta đâu không?” Mọi người đều lắc đầu đáp: “Không thấy, không thấy, chúng tôi thức dậy đã không thấy phu nhân. Mà lạ thật! Bình thường phu nhân luôn dậy sớn hơn chúng tôi, chuẩn bị cơm nước sẵn sàng, hôm nay vẫn ngỡ phu nhân chưa dậy!” Đúng lúc mọi người đang bàn luận xôn xao, Vương Thế Bân bỗng nhìn thấy bóng người lảo đảo đi trên con đường nhỏ trước cổng. Khắp người đầy máu, đến ngạch cửa, người đó như không còn sức chịu đựng. “Ầm!” – y đổ nhào xuống đất. Vương Thế Bân chạy bổ về phía trước, chàng nhận ra đây chính là Tiến An, tên gia đồng của nhà Quỳnh Nương vừa đến hôm qua. Phụ thân của nàng bệnh nặng nên sai Tiến An đi mời nàng về chăm sóc. “Tiến An! Tiến An! Ngươi sao vậy?” Vương Thế Bân đỡ y lên, lay nhẹ đầu hỏi. “Chủ nhân! Chủ nhân, phu nhân…” Tiến An kinh hoàng đáp. “Quỳnh Nương ở đâu, nàng làm sao? Ngươi nói mau!” Vương Thế Bân trợn trừng mắt nhìn y. “Phu nhân, phu nhân bị người ta giết chết rồi!” Tiến An đưa bàn tay đầy máu che mặt bật khóc. “Sao?” Vương Thế Bân như sét đánh ngang mày, ngã ra bất tỉnh. Mọi người vội đặt chủ nhân lên giường, vấy nước cho chàng tỉnh dậy. Vương Thế Bân tỉnh lại, rất lâu vẫn không nói được lời nào, một lúc sau mới cất giọng khàn đặc lẩm bẩm: “Không nghe lời ta, sao không nghe lời ta!” Một người tỉnh táo nói: “Thưa chủ nhân, hay là mau đi tìm thi thể của phu nhân về?” Vương Thế Bân bấy giờ như tỉnh cơn mê, gật đầu vội nhảy ra khỏi giường, lấy trúc cột lại thành bó, dẫn theo một người làm, cùng với Tiến An đi tìm Quỳnh Nương. Tiến An lảo đảo chạy vội về phía rừng Hắc Phong. Đây là khu rừng tự nhiên nằm trên đường nối giữa Bảo Thạch thôn và huyện thành, trong rừng đồi núi nhấp nhô, thông xanh dày đặc, địa hình cực kỳ phức tạp, dã thú thoắt ẩn thoắt hiện khiến khu rừng vốn âm u càng tăng thêm phần nguy hiểm. Ngoài ra mấy năm gần đây, nơi này thường có đạo tặc hoành hành cướp phá khách bộ hành, nên sự sợ hãi của dân chúng đối với khu rừng càng lúc càng tăng. Trên một đám cỏ bị quần nát, Vương Thế Bân lờ mờ nhìn thấy thi thể bầm nát lẫn lộn thịt và máu của vợ mình. Vai trái của nàng bị chém đứt chỉ còn dính lại sợi gân trắng, tay phải đã rớt lìa nằm bên cạnh, bu quanh là đàn kiến, thân dính đầy máu, khuôn mặt càng thương tâm hơn, bị vô số những nhát chém, hầu như không còn hình dạng… “Nương tử! Nương tử!” Vương Thế Bân quỳ xuống bên cạnh thi thể Quỳnh Nương khóc nức nở. Một lúc sau chàng mới từ từ bình tĩnh, một mặt lo kêu người đào huyệt mộ, mặt khác cởi lấy chiếc áo đầy máu của vợ mình, quyết tâm đến nha huyện kêu oan. Trước cửa nha huyện, bên phải có treo một cái trống to, Vương Thế Bân vội cầm lấy dùi trống đánh ba tiếng. Quỳ ở công đường, chàng ngẩng nhìn lên. Kỳ lạ thay! Vị đại quan ngồi trước Điêu Hoa án không phải là quan huyện lệnh, mà là vị lão gia mặt đen, thân hình to lớn, ông đưa đôi mắt đầy uy lực nhưng không hung ác nhìn chàng. Ô! Sao mà quen thuộc đến thế? Vương Thế Bân nghĩ. Chàng sực nhớ ra, suýt chút nữa thì bật kêu lên: Đây có phải là Thanh Thiên đại lão gia Bao Công? Đúng vậy, Đại Tống Thiên Chương Các đặc chế, Long Đồ Các học sĩ, Bao Chưởng phủ doãn phủ Khai Phong, tuần sát đến huyện Khải Khánh, nghe báo có vụ án giết người nên đã thân hành đứng ra điều tra. Vương Thế Bân tạ ơn trời đất. Có Bao đại nhân đứng ra xét xử thì nỗi oan của Quỳnh Nương nhất định sẽ được điều tra ra! Hung thủ nhất định trốn không thoát. Bao Công như đọc được ý nghĩ của chàng bèn hỏi: “Vương Thế Bân phu nhân của ngươi hà cớ gì mà phải rời nhà để đi qua rừng Hắc Phong? Ngươi hãy thành thật khai rõ.” “Vâng, thưa đại nhân.” Vương Thế Bân bắt đầu kể lại: Hôm qua, lúc chập choạng tối thì Tiến An, tên gia đồng của nhà Trần đại nhân vội vội vàng vàng đến, báo cho Quỳnh Nương hay lão quan mấy ngày nay bị cảm phong hàn, muốn con gái về lo thuốc thang, săn sóc cha già cho đỡ nỗi nhớ thương. Quỳnh Nương nghe nói cha bị nhuốm bệnh, trong lòng không yên, hận mình không có đôi cánh để bay về báo hiếu. Nhưng muốn đi thì phải bàn bạc cùng chồng, đợi chàng đồng ý mới được. Lúc bấy giờ Vương Thế Bân vẫn chưa về, không thể quyết định ngay, nên nàng bảo Tiến An hãy ăn cơm trước, đợi chàng về.   ​​Mời các bạn đón đọc ​Bao Thanh Thiên của tác giả Trương Hiểu Nhiên & Ngô Bảo Hòa.
Bánh Xe Nghiệt Ngã
Tiểu thuyết “BÁNH XE NGHIỆT NGÔ của tác giả PHI TRƯỜNG đưa bạn đọc đi sâu vào một cơ sở sản xuất của nền công nghiệp hiện đại Hoa Kỳ, hé cho ta thấy bí quyết thành công của nó : những giám đốc năng nổ, tháo vát làm việc mười hai mười bốn tiếng một ngày, những kỹ sư tận tụy yêu nghề luôn tìm cách ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất để nâng cao chất lượng sản phấm, tổ chức lao động chặt chẽ trong nhà máy mẹ kết hợp với hệ thống xí nghiệp vệ tinh qui tụ những tay nghề cao, bộ máy quảng cáo và dịch vụ thương mại rộng khắp thuận tiện cho người tiêu dùng… Đồng thời tác giả cũng phanh phui những mâu thuẫn đang ngáng trở nền sản xuất lớn tư bản. Chủ nghĩa phát triển thậm chí có nguy cơ sa sút : sự cạnh tranh tàn nhẫn giữa các công ti cá mập, nạn ô nhiễm môi trường sống, tệ phân biệt chủng tộc và nạn mafia có mặt khắp nơi dùng khủng bố tàn bạo để bòn rút công nhân, số đông người lao động bần cùng nổi giận… Qua câu chuyên xoay quanh một nhà máy sản xuất ôtô lớn với nhiều gương mặt rất khác nhau, chủ tịch công ty, quản đốc phân xưởng, công nhân bình thường, da trắng và da đen, những cặp vợ chồng chung thủy và những cô nhân tình quí phái… bạn đọc có thể cảm nhận được ánh hào quang kỳ diệu nhưng đầy lo lắng của một hình thái kinh tế xã hội đang tìm cách thích nghi để tồn tại. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như: Bản Tin Chiều Lời Chẩn Đoán Cuối Cùng Phi Trường Tập 1 Phi Trường Tập 2 Nhà Băng Khách Sạn Phi Trường (Người dịch: DgHien) Bánh Xe Nghiệt Ngã ... *** Chủ tịch hãng Động Cơ Thông Dụng bực mình, cả đêm qua mất ngủ : chiếc chăn điện trở chứng liên tục và mỗi lần như thế ông lại thức giấc vì lạnh. Lúc này vẫn mặc bộ đồ ngủ, choàng áo khoác, ông rón rén đi lục tìm khắp ngôi nhà vắng lặng rồi mang bầy lên nửa còn lại của chiếc giường lớn nhiều thứ dụng cụ đồ nghề, bắt đầu tháo bộ phận điện trong khi Côrali vợ ông vẫn còn ngủ. Ông phát hiện ngay chỗ tiếp xúc kém. Vừa cằn nhằn các tay sản xuất chăn điện làm ẩu, ông mang xuống xưởng riêng dưới hầm để sửa. Người vợ vươn vai. Chỉ vài phút nữa đồng hồ báo thức sẽ đánh chuông. Lúc ấy bà mới dậy lo bữa điểm tâm trong khi vẫn còn ngái ngủ. Ở thị trấn Blumfin Hin cách Đitơroi mười lăm kilômét này bây giờ vẫn còn tối. Sáng sớm hôm đó chủ tịch hãng ĐCTD, người khô khan, cử chỉ lanh lẹn nhưng bản tính nói chung điềm tĩnh có hai cớ để bực mình : chiếc chăn điện tất nhiên là một, còn một nữa là cách xử sự rất đáng giận của Imơcxơn Vên. Mấy phút trước đây qua chiếc đài bán dẫn đặt trên bàn ngủ mở thầm đủ nghe ông đã nhận ra giọng nói chua ngoa quen thuộc và dễ ghét của nhà “phê phán xe hơi” cỡ lớn này. Bữa qua trong cuộc họp báo ở Oasinhtơn một lần nữa Imơcxơn Vên lại công kích ba người đáng ghét nhất xưa nay của lão : Động Cơ Thông Dụng, Fo và Craixlơ. Lên án ba ông Lớn về tội “tham lam, tụ tập bè đảng lưu manh, bội tín, cưỡng đoạt tiền của dân chúng”. Vì ba Ông Lớn đã hoàn toàn thỏa thuận cùng nhau ngăn cản việc phát triển loại xe “sạch sẽ” thay cho xe chạy xăng, loại xe chạy hơi nước hoặc chạy điện là những loại Vên cho rằng “đã sẵn sàng lăn bánh”. Lời buộc tội chẳng có gì mới. Nhưng Vên vốn rất khôn khéo trong sự giao tiếp với công chúng và giới báo chí nên đã lồng vào lời tuyên bố những tư liệu mới làm nó có giá trị thông tin, thu hút được người đọc. Vị chủ tịch hãng công nghiệp lớn nhất thế giới tốt nghiệp kĩ sư một trường nổi tiếng ngồi sửa bộ phận hâm nóng của chiếc chăn điện với niềm vui thích thường thấy khi có thì giờ làm các việc trong gia đình. Rồi ông đi tắm, cạo mặt, bận quần áo, tới dùng bữa sáng với Côrali. Trên bàn ăn có tờ Đitơroi Tự Do. Vừa trông thấy tên và ảnh Imơcxơn Vên in trên trang nhất ông chửi thề và quăng tờ báo xuống đất. Côrali đặt trước mặt chồng các món của bữa điểm tâm theo chế độ “chống tăng côléttêrôn” : bánh mì nướng không phết bơ, lòng trắng một quả trứng luộc, cà chua xắt khoanh, fomát trắng. Sáng nào vợ ông chủ tịch ĐCTD cũng tự tay soạn bữa ăn đầu tiên này và cùng ăn với chồng mặc dầu chồng phải đi làm sớm. Côrali ngồi xuống trước mặt chồng, nhặt tờ báo mở ra và nói : “Theo Imơcxơn Vên, chúng ta đã có đủ trình độ kỹ thuật để đưa người lên mặt trăng hoặc sao Hỏa thì ngành kỹ nghệ xe hơi cũng phải cho ra được loại xe hoàn hảo, không có khuyết điểm gì và không gây ô nhiễm không khí”. Người chồng đặt khăn xuống. “Định làm tôi ăn mất ngon đấy à ? Bữa ăn đã chẳng có gì lại còn…” Người vợ tủm tỉm cười. “Em thấy hình như anh đã hết ngon miệng rồi thì phải ! Ông Vên còn trích dẫn Kinh thánh nói về ô nhiễm nữa cơ. - Lay Chúa Kitô ! Kinh thánh nói gì về cái đó được ! - Không phải Chúa Kitô đâu. Đoạn này trích trong kinh Cựu Ước. - Thì đọc đi vậy. Đằng nào bà cũng định đọc”. Người chồng lầu bầu, vẻ tò mò muốn biết. “Thánh Giêrêmi: Ta cho ngươi tới xứ sở xanh tươi như một khu vườn để các người được ăn những trái quả tươi ngon nhất. Nhưng sau khi đến các người đã làm ô trọc xứ sở của ta, biến gia tài của ta thành thứ ghê tởm.” Bà rót cà phê vào tách. “Em thấy tay ấy viết khá tài tình”. - Chẳng ai cho cái thằng đểu ấy là kém thông minh. Người vợ đọc tiếp. “Ngành kỹ nghệ xe hơi và dầu mỏ đồng tình kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật đáng lẽ từ lâu đã dẫn đến việc phát minh ra xe chạy điện hoặc hơi nước. Lập luận của họ rất đơn giản : loại xe này sẽ biến thành số không toàn bộ khoản tiền khổng lồ đầu tư vào loại động cơ đốt trong đang đầu độc khí quyển”. Bà đặt báo xuống. “Bài này có gì đúng sự thật không ? - Rõ ràng Vên cho tất cả những điều ấy là đúng. - Anh thì không ? - Nhất định không. - Không có một tí nào ? - Đôi khi có thể thoang thoảng tí chút sự thật trong một lời tuyên bố ngoa ngoắt. Chính bằng cách đó mà những kẻ như Imơcxơn làm ra vẻ mình có lý”. Người chồng đáp lại, vẻ bực bội. - Anh sẽ bác bỏ những điều lão nói chứ ? - Có lẽ không. - Sao vậy ? - Vì nếu Động Cơ Thông Dụng nện Imơcxơn, người ta sẽ lên án cái Hãng lớn như thế mà đi đè bẹp một cá nhân tầm thường. Nếu không đập lại thiên hạ cũng sẽ nguyền rủa bọn anh, nhưng dù sao họ không thể trích dẫn lời bọn anh để xuyên tạc. - Sao không để một người nào khác đập lại ? - Nếu có tay nhà báo kha khá nào đó đụng đến Hăngri Fo xem, có lẽ ông ta sẽ trả miếng - ông mỉm cười - có điều là Hăngri sẽ nói toạc móng heo và sẽ không công bố lời ông ta được. - Ở địa vị anh, có lẽ em sẽ nói một cái gì. Tất nhiên nếu em tin chắc mình có lý. - Cám ơn lời khuyên của em. Vị chủ tịch ĐCTD chấm dứt bàn cãi ngồi ăn xong bữa. Nhưng cuộc tranh luận với những lời châm chọc cố tình mà Côrali cho là thỉnh thoảng đưa ra sẽ bổ ích cho ông, đã làm tiêu tan nỗi bực dọc từ sáng. Ông nghe phía ngoài cửa bếp bước chân người hầu gái đang vào. Như vậy là lái xe đón cô ta dọc đường đã về và đang đợi ông dưới kia. Ông đứng lên, ôm hôn vợ. Mấy phút sau, khoảng sáu giờ sáng chiếc Cađilắc chở ông theo đường Têlêgráf đi về phía đường FriUê và khu trung tâm. Vào một sáng tháng mười trong trẻo có từng cơn gió tây bắc báo hiệu mùa đông đang về. Thành phố Đitơroi bang Misigân, thủ đô thế giới của công nghiệp xe hơi bắt đầu tỉnh giấc. Ở Blumfin Hin, cách nhà ông chủ tịch ĐCTD mười phút đi bộ, phó chủ tịch hãng Fo cũng đang sửa soạn ra sân bay Mêtrôpôlitên của thành phố. Ông đã dùng xong bữa sáng, một mình. Người nữ nhân viên phục vụ bưng khay thức ăn vào tận văn phòng chiếu sáng yếu ớt trong đó ông ngồi đọc các bản báo cáo từ năm giờ sáng (phần lớn các báo cáo đều viết trên loại giấy xanh đặc biệt mà văn phòng phó chủ tịch dùng cho các văn kiện về thực hiện đề án mới) và ghi vào băng từ những chỉ thị rõ ràng, chính xác. Gần như ông không ngẩng lên nhìn khi bữa điểm tâm được mang vào và cũng chẳng nhìn xem mình đang ăn gì. Trong có một giờ ông làm xong khối công việc người khác phải làm trong cả một ngày hoặc hơn nữa mới xong. Phần lớn các quyết định xoay quanh việc xây dựng thêm xưởng máy mới hoặc mở rộng những nhà máy hiện có, tốn kém hàng mấy tỉ đô la. Phó chủ tịch ngoài nhiều nhiệm vụ khác, có trách nhiệm phê chuẩn hoặc bác bỏ các đề án được đệ trình và định thứ tự ưu tiên. Hôm có người hỏi ông phê duyệt những khoản lớn như vậy có thấy run tay không, ông đáp lại : “Không, bởi vì bao giờ tôi cũng thầm bỏ bớt ba chữ số cuối. Thành ra cũng không khó hơn khi cân nhắc mua một ngôi nhà”. Câu trả lời rõ ràng, bật ra rất nhanh, nói lên bản lĩnh của người vốn là anh bán xe xoàng xĩnh chỉ trong thời gian kỉ lục đã trở thành một trong mười hai ông chủ có quyền quyết định trong vương quốc xe hơi. Cũng chính cách làm ăn kiểu đó giúp ông trở thành siêu triệu phú. Vấn đề cần xem xét là sự tiến bộ và sự giàu sang có đáng với cái giá phải trả không. Phó chủ tịch làm việc mỗi ngày mười hai có khi mười bốn tiếng, thường là bẩy ngày trong một tuần với nhịp độ dồn dập. Như ngày hôm nay, trong lúc phần đông dân thành phố còn đang ngủ ông đã phải lên máy bay riêng của hãng bay đi NiuYoóc, trong lúc ngồi trên máy bay ông tranh thủ nghiên cứu thị trường với các nhân viên dưới quyền, vừa đến nơi phải chủ tọa ngay cuộc họp với các giám đốc địa phương cũng về vấn đề đó. Cuộc họp vừa xong ông phải tranh cãi gay gắt với hai mươi đại lý bang NiuGiơdi về việc bảo hành và các dịch vụ hậu mãi. Sau dó đến Manhattan dùng bữa trưa với một nhóm chủ ngân hàng, đọc một bài diễn văn. Rồi họp báo, đương đầu với các phóng viên. Buồi trưa trở về Đitơroi cũng bằng chiếc máy bay đó, ông có nhiều cuộc gặp gỡ để giải quyết công việc thường lệ cho đến bữa chiều. Trong ngày, vào một lúc nào đó chưa sắp xếp được, phải đưa đầu cho thợ đến tận nơi cắt tóc. Bữa tối ăn trên sân thượng sẽ được điểm xuyết bằng cuộc trò chuyện với người phụ trách các ban quan trọng về kiểu xe mới. Cuối cùng sẽ đến vĩnh biệt một đồng nghiệp mới từ trần tối qua vì nghẽn động mạch vành, (tại nhà thờ tang lễ Hêminhtơn, một chặng trên con đường đưa các ông Lớn ngành xe hơi tới nghĩa trang Út Lên). Sau tất cả những việc đó cuối cùng phó chủ tịch mới được về nhà ôm theo chiếc cặp căng phồng hồ sơ phải nghiên cứu để chuẩn bị cho ngày mai. Lúc này ông đẩy khay điểm tâm ra xa, thu gom giấy từ rồi đứng lên. Bốn bức tường của phòng làm việc đều có giá xếp đầy sách. Đôi khi, vào những buổi không bận rộn tối tăm mắt mũi như sáng nay ông ném lên chúng một cái nhìn tiếc nuối và thèm muốn. Vì nhiều năm trước đây có một thời ông đọc rất nhiều. Có thể ông đã trở thành sinh viên nếu đời ông đi theo hướng khác. Bây giờ thì không có thì giờ đọc sách nữa. Ngay cả việc đọc tờ báo hàng ngày cũng phải rình chộp thời cơ tranh thủ liếc thật nhanh. Nên ông cầm tờ báo còn nguyên nếp gấp khi nhân viên phục vụ mang tới và nhét luôn vào cặp. Vì thế mãi sau ông mới biết những lời công kích mới nhất của Imơcxơn Vên và nguyền rủa hắn như những người khác trong ngành xe hơi đã nguyền rủa từ sớm. Tại sân bay ban tham mưu cùng đi với ông đã tề tựu trong phòng đợi của đoàn Vận chuyển hàng không Hăngri Fo. Ông ra lệnh giọng khô khan. “Lên đường”. Động cơ chiếc Jết Xta bắt đầu chạy, trong lúc cả đoàn tám người lên máy bay. Những người lên sau chưa kịp đeo dây an toàn máy bay đã lăn bánh. Chỉ những người thường đi máy bay riêng mới thấy rõ cái lợi về tiết kiệm thì giờ so với đi máy bay công cộng. Máy bay lăn nhanh ra đường băng cất cánh trong lúc mọi người mở cặp đặt trên đầu gối. Phó chủ tịch mở đầu ngay cuộc thảo luận. “Kết quả thu được ở khu vực đông bắc mấy tháng gần đây không được khả quan. Các ông đều đã nắm được số liệu, cũng như tôi. Tôi đòi hỏi sự giải thích tình hình đó. Và muốn biết những biện pháp nào đã được thi hành”. Ông vừa nói xong thì máy bay cất cánh. Phía chân trời vầng dương đỏ quạch nhô dần, sáng lên giữa những đám mây xám trôi rất nhanh. Dưới cánh máy bay đang nâng độ cao, ánh sáng ban mai làm nhìn rõ thành phố và các vùng phụ cận trải dài. Khu trung tâm Đitơroi, ốc đảo vuông mỗi cạnh một cây số giống như một Manhattan thu nhỏ; tiếp liền sau đó là những héc ta đường phố buồn tẻ, nhà cao tầng, nhà máy, nhà ở, phần lớn cáu bẩn. Một thành phố công nghiệp dơ dáy phát sợ vì không chịu vung tiền cho công việc quét dọn vệ sinh. Phía tây thành phố, Điếcbơn sạch sẽ xanh tươi hơn, tận cùng bằng tổ hợp công nghiệp khổng lồ của LơRu. Ngược lại ở đầu phía đông, khu Mũi Lớn, phô những rặng cây thẳng tắp : đó là thiên đường của những kẻ giầu có. Phía Nam là khu công nghiệp Vianđốt mù mịt khói; đảo Bel-In nép sát bờ sông Đitơroi như chiếc sà lan mầu rỉ đồng chở khẳm. Bờ sông bên kia là lãnh thổ Canada, thành phố Oaixo cũng xấu xí cũng gớm ghiếc không kém Đitơroi trên đất Mĩ. Và trên khắp mọi miền, ánh sáng ban ngày làm nổi rõ mật độ giao thông dầy đặc trên mạng đường sá. Hàng vạn con người như đàn kiến cỏ (hoặc đàn chuột len-mút tùy theo cách nhìn từng người) gồm thợ thuyền, nhân viên, viên chức lũ lượt kéo nhau bước vào một ngày sản xuất mới trong vô vàn xí nghiệp lớn nhỏ. Đitơroi kiểm soát và điều khiển nền sản xuất xe hơi của cả nước, nên khi ngày làm việc bắt đầu thì nhịp xuất xưởng lập tức hiện trên tấm bảng lớn đặt tại điểm giao thông lộ các con đường đi tới Fo và tới Craixlơ, những con đường đầy ứ xe. Nhờ sử dụng một hệ thống thống nhất trong cả nước, từng phút một số lượng xe xuất xưởng trong năm hiện lên bằng những con số cao một mét rưỡi trên bảng. Mỗi khi có thêm một dây chuyền khởi động thì tổng số lại tăng lên. Lúc này đã có hai mươi chín nhà máy trong vùng đông bắc làm việc, gửi số liệu lên bảng, số liệu tăng vọt sau khi mười ba xưởng lắp ráp của trung tâm tây và sáu xưởng của Califoócnia khởi động. Những người chạy xe trên đường nhìn tấm bảng với tâm trạng của người bác sĩ nhìn số đo huyết áp, của kẻ đầu cơ chứng khoán khi nhìn bảng giá ở ngân hàng. Có những người còn cá cược nhau về tổng số lúc sáng, lúc chiều. Những xưởng gần nhất cách đây khoảng 1,5km là của Craixlơ, nói chính xác là các xưởng Đốt và Plai-mao mỗi giờ cho ra hơn trăm xe. Trước đây viên chủ tịch hội đồng quản trị của Craixlơ thỉnh thoảng đến giám sát việc bắt đầu chế tạo một sản phẩm mới và tự mình thử khi sản phẩm ra đời. Gần đây ít khi ông làm thế. Buổi sáng hôm đó ông vẫn còn ngồi nhà đọc từ nhật báo Phố Uôn và uống ly cafê do vợ pha trước khi bà đi dự cuộc họp Hiệp hội Nghệ thuật. Hồi đó ông tổng giám đốc hãng Craixlơ (mới nhậm chức chủ tịch gần đây) tất bật chạy ngược chạy xuôi khắp nhà máy không hề mệt mỏi, phần vì nhà máy thiếu máu đang rất cần một giám đốc năng nổ, phần khác là vì bản thân ông đang muốn dứt khoát dứt bỏ cái nhãn “kế toán” người ta thường gán cho những người ngoi lên theo con đường của ngành tài vụ chứ không qua ngạch kỹ sư hoặc chuyên viên thương mại. Dưới quyền ông, hãng đã trải qua nhiều bước thăng trầm : sáu năm thịnh vượng gây được lòng tin cho các cổ đông tiếp theo là sáu năm sa sút đến mức báo động. Sau đó bằng những cố gắng ghê gớm và những tiết giảm khắc nghiệt hãng đã vượt qua cơn hiểm nghèo, khiến có người cho rằng chưa bao giờ hãng hoạt động tốt bằng trong thời kì khó khăn. Tuy nhiên thời khó khăn đã qua, không ai cho rằng chiếc Pentátta đời mới nhất của Craixlơ có thể lại mất cái vị trí nó đã chiếm được. Vị chủ tịch có thể rảnh rang một chút, suy nghĩ nhiều hơn, đọc những thứ thấy thích đọc. Lúc này ông đang đọc bài của Imơcxơn Vên; bài đăng trên nhật báo Phố Uôn có phần kín đáo hơn trên từ Đitơroi Tự do. Nên làm ông chán ngấy, ông thấy lời chỉ trích của lão cùn mòn, không có bản sắc. Nên ông chỉ lướt qua rồi chuyển qua mục bất động sản có sức thuyết phục hơn. Không mấy người biết ít lâu nay Craixlơ đang chăm lo xây dựng một vương quốc bất động sản, trước mắt làm cho hoạt động kinh doanh của công ti phong phú hơn, và sao lại không ? trong vài thập kỷ nữa sẽ đưa “số ba” lên ngang hàng hoặc cao hơn Động Cơ Thông Dụng. Trong khi chờ đợi ngày đó, vị chủ tịch hài lòng ghi nhận nhịp độ sản xuất trên mức khả quan của các nhà máy Craixlơ. Như vậy đó, sáng nay cũng như tất cả các buổi sáng, Ba Ông Lớn vật lộn ráo riết để giữ vững ngôi thứ của mình trong khi một hãng khác ở bang Uýtcơnxin, hãng Động Cơ Mĩ bé nhỏ hơn cũng góp vào dòng lũ xe hơi này một phần tuy ít ỏi hơn nhưng hiện đại hơn. Mời các bạn đón đọc Bánh Xe Nghiệt Ngã của tác giả Arthur Hailey.