Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Bóng Đen

Cám ơn Page Duyên Sách đã gửi đến DTV eBook cuốn sách này. Nơi "Bán sách cũ và nhận tìm các tựa sách hơi hơi hiếm :-)" Các bạn muốn tìm mua sách cũ, có thể qua page Duyên Sách để nhờ Admin kiếm giúp. JONATHAN KELLERMAN SỰ HẤP DẪN CỦA TIỂU THUYẾT TRINH THÁM PHÂN TÍCH HÀNH VI   Một trong những tác giả có sách bán chạy nhất ở Mỹ liên tục trong hai chục năm qua, là Jonathan Kellerman. Vậy J. Kellerman là ai? Sinh năm 1949 tại New York, nhưng Los Angeles là nơi ông gắn bó, nơi ông thành đạt trong nghề nghiệp bác sĩ và với tư cách một tác giả tiểu thuyết. Khởi đầu công việc viết văn từ năm 22 tuổi, song phần lớn những năm tuổi trẻ ông dành để nghiên cứu tâm lý trẻ em. Năm 24 tuổi, ông nhận bằng tiến sĩ, chuyên ngành tâm lý trẻ em. Sau đó là những năm làm việc trong các bệnh viện, trung tâm bệnh trẻ em ở Los Angeles, điều trị tâm lý cho các trẻ em bị ngược đãi, lạm dụng... Năm 1980-1981, ông xuất bản những cuốn sách về y học liên quan đến trẻ em: Psychological aspects of childhood cancer và Helping the pearful child. Năm 1985, J. Kellerman xuất bản cuốn sách hư cấu đầu tiên When the bough breaks (Khi cành cây gãy - tên bản dịch tiếng Việt do Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành năm 2007 là Ba bóng đen). Ngay lập tức cuốn sách trở thành hiện tượng bestseller được bầu chọn trên tờ New York times, và tác giả nhận được giải thưởng Edgar Poe và giải thưởng Anthony Boucher cho tiểu thuyết đầu tay hay nhất. Tiểu thuyết này năm 1986 được dựng thành phim truyền hình phát trên kênh NBC và đã thu hút 28 triệu người xem. Từ đó đến nay, mỗi năm một cuốn sách (có năm 2 cuốn), in ở nhiều nước trên thế giới và bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, tên tuổi Jonathan Kellerman liên tục có mặt trên bảng xếp hạng của New York times. The master of psychological suspense - bậc thầy của tiểu thuyết trinh thám tâm lý, báo chí nói về ông như thế khi lần đầu tiên ông xuất hiện trên văn đàn, và sự tôn vinh ấy đã không ngừng được nhắc lại hơn hai chục năm nay, trên các báo, trên các website, và quan trọng nhất, ông vẫn là một nhà văn không hề cũ đối với công chúng. Nhân vật chính trong các tiểu thuyết của ông, Alex Delaware phần nào đó là hình bóng của chính nhà văn. Nhận bằng tiến sĩ năm 24 tuổi, là bác sĩ tâm lý trẻ em, Alex khám phá ra đằng sau những sự cố của trẻ nhỏ luôn ẩn chứa những vấn đề của người lớn, của xã hội. Trong cuốn sách đầu tiên When the bough breaks, Alex Delaware 30 tuổi, sống độc thân và bắt đầu hẹn hò với Robin. Vì có người bạn thân là thanh tra Milo Sturgis ở trong sở cảnh sát, anh được mời chữa trị cho các em nhỏ nạn nhân của một vụ xâm hại, rồi làm tư vấn đặc biệt cho cảnh sát. Vụ đầu tiên anh tham gia là vụ một bác sĩ tâm lý bị giết cùng người bạn gái là cô giáo dạy ở trường dành cho các trẻ có khiếm khuyết. Nhân chứng duy nhất của vụ án là một bé gái 7 tuổi bị bác sĩ cho uống quá liều thuốc an thần đã trở nên gần như ngơ ngẩn. Những ám ảnh của bé gái có ý nghĩa gì? Liệu thực sự cô bé đã chứng kiến một tội ác? Lần theo mối dây của các nạn nhân, Alex tìm tới một trung tâm từ thiện nuôi dạy các trẻ mồ côi và khuyết tật lớn ở Los Angeles. Xới tung hàng chục mối quan hệ, lần lại những trang hồ sơ cũ, đào bới quá khứ của những gương mặt đang hiện diện ở tầng thượng lưu của xã hội, Alex Delaware đã tìm ra sự thật về những con quỷ đội lốt người, những kẻ có xu hướng tình dục bệnh hoạn, nhưng kẻ say mê quyền lực, những kẻ bị khống chế bởi quá khứ tội lỗi, đã biến trung tâm từ thiện kia thành hang ổ trụy lạc, lạm dụng tình dục của hàng trăm trẻ nhỏ. Trong Blood test (Thử máu - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2005), khi cố gắng giúp đỡ cậu bé Woody mắc bệnh ung thư, Delaware phải đối mặt với hàng bao rắc rối và dò trong mớ bòng bong các quan hệ, anh đã đi đến tận cùng sự thật khủng khiếp trong gia đình cậu bé: những tín ngưỡng rùng rợn và quan hệ loạn luân được che đậy trong rất nhiều năm, mà bất hạnh đổ lên số phận những đứa trẻ là chị em và cũng là mẹ con Nona và Woody. Trong Bad love (Tình yêu dối trá - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2004), vụ án Delaware khám phá liên quan tới một hội nghị khoa học mà các nghi can đều là những nhà khoa học liên quan đến tâm lý -giáo dục trẻ em.   Trong The Clinic (Bệnh viện tư - bản dịch tiếng Việt của Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2007 là Ba nhát đâm bí ẩn), khi điều tra về cái chết của nữ giáo sư tâm lý học Hope Devane, Delaware đã xé toang tấm màn bao phủ số phận của Hope và bác sĩ giải phẫu Cruvic, những nhà khoa học đã lạm dụng khoa học để thực hiện những cuộc thí nghiệm, giải phẫu tàn bạo đối với con người. Những đao phủ sạch sẽ này là sản phẩm bệnh hoạn của gia đình họ, được nuôi dưỡng từ tuổi thơ ấu, nhưng cuối cùng chính họ sẽ lại trở thành mục tiêu trả thù cho cơn phẫn nộ từ một nạn nhân oan uổng của họ. Cộng tác với cảnh sát với tư cách là chuyên gia tâm lý, nhưng trong tất cả các vụ án, bác sĩ Delaware đã tham dự như một thám tử chuyên nghiệp, mà bên cạnh anh chàng thám tử to béo Milo Sturgis chỉ còn giữ vai trò bổ khuyết cho vai chính. Không giắt súng trong lưng, không có phương tiện hỗ trợ như một cảnh sát thực thụ, nhưng Delaware có sự mẫn cảm đặc biệt để dò ra những ngóc ngách tâm lý, những mối quan hệ của con người, dù quan hệ đó có được che giấu tinh vi thế nào đi nữa. Không có nhiều những pha bắn giết hay rượt đuổi, cách của J. Kellerman là bóc tách dần các chân dung, các quan hệ. Ông đẩy độ căng thẳng lên dần dần, ông lừa người đọc vào những cao trào khiến người ta lầm tưởng đó đã là cú cuối, song thực sự cú cuối chỉ nằm ở trang cuối, khi bạn đọc sắp sửa gấp sách lại. Kellerman thường bẫy người đọc trong những câu chuyện có vẻ rời rạc ở ban đầu, tung ra nhiều nhân vật, đưa nhiều lộ trình, tạo ra một mớ rối tung quan hệ, nhưng rồi những hướng rời rạc sẽ gắn kết ở một điểm, ở đó những gương mặt nhân vật, những lộ trình hành vi đột ngột sáng tỏ. Tuy nhiên, không như một tác phẩm trinh thám thông thường với đích cuối của câu chuyện là vạch mặt thủ phạm, với J. Kellerman, thủ phạm không phải là sự thật ghê gớm nhất; sự thật shock nhất nằm ở cú vỡ bung cuối cùng soi sáng tận cùng nguyên do của tội ác. Blood test, Over the edge, Private eyes, Bad love, Devil’s Waltz - Vũ điệu quỷ, Nhà xuất bản Công an nhân dân 2007, cho đến cuốn sách mới nhất Gone, mỗi một vụ án là một ca tâm lý, mỗi một nhân vật là một dạng tâm bệnh che đậy, bắt đầu từ thời thơ ấu. Có thể thấy quan điểm của Kellerman, không có tội ác nào trong hiện tại lại không có nguyên do từ một hoàn cảnh bất thường hay một xu hướng bệnh hoạn trong thời thơ ấu. Những câu chuyện của ông chứa đựng một lời cảnh báo: hãy quan tâm đến trẻ nhỏ; bạo hành, stress, lạm dụng... đối với trẻ nhỏ, tức là đang gieo mầm cho bạo hành, lạm dụng, giết người... cho tương lai. Trinh thám của Kellerman đậm tính phân tích. Mỗi một câu chuyện trinh thám, suy cho cùng là một quá trình truy nguyên căn gốc hành vi đầy phức tạp, gay cấn. Bối cảnh tiểu thuyết của ông là Los Angeles thời hiện đại, với đầy rẫy những bạo hành, stress, lạm dụng; một Los Angeles có vô vàn những vấn đề tâm bệnh, nơi mà xã hội thượng lưu khoác mặt nạ che đậy bên dưới hằng bao dối trá, dục vọng. Kellerman không mô tả tội ác ở những tầng lớp dân nghèo, ông nhằm vào phân tích sự mục ruỗng, méo mó nhân cách ở những tầng lớp trên, nơi những người có tiền, có quyền, có tri thức. Bằng vào sự nhạy cảm, khả năng phân tích, suy luận của nhân vật Alex Delaware, ông dò tìm những bí mật của tâm lý - hành vi ẩn dưới đời sống đĩnh đạc của những bác sĩ, giáo sư đại học, của những thẩm phán, luật sư, cha cố... Kinh nghiệm của một bác sĩ tâm lý đã giúp ông trở thành một nhà văn phân tích hành vi xuất sắc. Hành vi con người, đó là mối quan tâm của ông, là điều ông theo đuổi trong suốt cuộc đời và vì nó mà ông đã viết - trong một bài trả lời phỏng vấn, ông đã nói đại ý như thế. Có thể nói, tiểu thuyết của Jonathan Kellerman là tiểu thuyết trinh thám - hành vi, một sự kết hợp tài tình giữa tiểu thuyết trinh thám điển hình và tiểu thuyết tâm lý. Nếu con đường của văn chương là khám phá bí mật về con người, thì J. Kellerman đang đi trên con đường đó, từng ngày, bằng những cuốn sách của mình, ông cuốn hút hàng triệu độc giả ở khắp hành tinh trong hành trình mê mỏi khám phá không ngưng nghỉ bí ẩn của hành vi con người. Trần Thanh Hà   *** JONATHAN KELLERMAN Là nhà văn hàng đầu của Mỹ về hành vi phân tích, ông sinh năm 1949 tại New York, khởi đầu công việc viết văn từ năm 22 tuổi. Đến nay đã có tới hơn 11 triệu bản tiểu thuyết của ông được in và bán trên khắp thế giới với những tác phẩm nổi tiếng như: Ba bóng đen (When the bough breaks), Thử máu, Vượt qua rào cản, Bom hẹn giờ, Thám tử tư, Tình yêu dối trá, Ba nhát đâm bí ẩn (The Clinic), Vũ điệu quỷ... Hiện ông sống cùng vợ - Faye Kellerman – nhà văn chuyên viết tiểu thuyết – và bốn người con tại Los Angeles.  *** Trời đang hửng sáng, hứa hẹn một ngày tươi đẹp. Cầu Chúa hôm nay không phải nghe đến hai từ “án mạng”. Hai ngày qua, dòng Thái Bình Dương đã liên tục chảy miết, đẩy những thứ rác rưởi tới Pasadena. Nhà tôi nằm nép mình dưới chân đồi phía Bắc Bel Air, đỉnh một đường mòn cương ngựa chạy ngoằn ngoèo quanh Beverly Glen, nơi sự giàu có và những điều đáng sợ nhất cùng chung sống. Đó là khu vực của những chiếc xe Porsches và những kẻ vô lại, hệ thống thoát nước tồi tàn và những dòng lạch đơn độc. Nhà tôi rộng 74 mét vuông, xung quanh có những cây gỗ tím vỏ màu bạc, những viên đá cuội đã bị nắng mưa bào nhẵn và kính màu. Ở ngoại ô, đây chỉ như một cái lều nhỏ; còn ở đây dưới những quả đồi, đó là một nơi ẩn náu dân đã. Xung quanh có nhiều thùng, vũng và mô đất nhấp nhô, nhiều chỗ tạo cho người ta sự bất ngờ khi mục kích. Ngôi nhà trước kia của một nghệ sỹ do ông tự thiết kế. Sau đó ông bị phá sản phải đem bán tất cả những tác phẩm nghệ thuật của mình cho các nhà trưng bày nghệ thuật ở La Cienega. Vào những ngày đẹp trời - giống như hôm nay - từ nơi này có thể nhìn thấy được đại dương, một mảnh đại dương màu xanh biếc e dè trộm nhìn Palisades. Tôi ngủ một mình, cửa sổ mở toang, không có trộm cắp và những kẻ phá hoại. Mãi 10 giờ mới tỉnh giấc, trần như nhộng. Chăn mền đã bị xô xuống nền nhà giữa những giấc mơ, tỉnh dậy tôi chẳng nhớ gì. Trong cảm giác lười lười ngấy ngấy, tôi chống khuỷu tay kéo chăn mền lên giường và nhìn những lớp ánh nắng màu nâu nhạt chui xuyên qua khe hở của căn nhà. Cuối cùng, tôi đã bị kéo khỏi giường bởi sự xâm nhập của một con ruồi bay quanh nhà tìm kiếm bữa sáng, nó cứ nhằm đầu tôi tấn công. Tôi cố lê bước vào nhà tắm, xả nước vào bồn, rồi đi xuống bếp kiếm cái gì đó để cho vào bụng. Con ruồi vẫn cứ bám chặt lấy tôi. Tôi pha một tách cà phê, xắt một lát hành tươi làm bữa điểm tâm. Con ruồi cũng xông vào xí phần. 10 giờ 20 sáng thứ Hai đẹp trời, chẳng biết đi đâu và làm gì. Có lẽ đã nửa năm từ cái ngày lấy quyết định nghỉ hưu non, tôi vẫn còn ngạc nhiên về sự thoải mái khi đang từ một anh chàng lúc nào cũng đầu tắt mặt tối trong công việc trở thành một anh chàng buông tuồng thế này. Tôi trở lại nhà tắm, đặt mông lên rìa bồn, mồm tóp tép nhai và vẽ ra một kế hoạch mơ hồ cho ngày hôm nay: thong thả tắm xong, đọc báo buổi sáng và có lẽ sẽ đi bách bộ về phía hẻm núi rồi quay lại, tráng qua người và tới thăm... Tiếng chuông cửa kéo tôi ra khỏi sự mơ màng. Tôi cuốn khăn tắm quanh eo và đi tới cửa kịp lúc nhìn thấy Milo bước vào. - Cửa không khoá - Anh giải thích rồi đóng rầm cánh cửa lại. Ném tờ Times lên ghế bành, anh gióng mắt nhìn tôi; tôi đang thắt chặt thêm chiếc khăn tắm. . - Chàng trai của trời đất, tôi chúc anh một buổi sáng tốt lành!  Tôi khoát tay mời anh vào trong. - Này anh bạn, anh nên khoá cửa. Anh không biết chứ, ở Sở cảnh sát, tôi còn cả đống hồ sơ về chuyện xảy ra với các người không đóng cửa khi ngủ nghỉ đấy. - Chào Milo, tôi cũng chúc anh một buổi sáng tốt lành. Tôi sải bước vào bếp và rót hai tách cà phê. Milo bước theo tôi giống như một cái bóng ì ạch rồi mở tủ lạnh lấy một dĩa pizza mà chính tôi cũng không nhớ mình đã để đó từ lúc nào. Anh lại theo tôi ra ngoài phòng khách, sà xuống chiếc ghế bành bọc da đã cũ - một món đồ cổ mang từ văn phòng của tôi ở Wilshire về. Tôi tắt nước trong nhà tắm và ngồi đối diện với anh trên chiếc ghế dài đệm bọc da lạc đà. Milo là một tay lực lưỡng - cao 1 mét 85 - khi ngồi hay nằm, chân tay anh xoãi lòng thòng, tư thế của những kẻ có dáng người kềnh càng. Sáng nay, anh trông chẳng khác gì một con búp bê rách, đổ bẹp xuống ghế - một con búp bê có cái mặt bành bạnh và khôi hài, gần giống mặt của một cậu bé con nếu không có những hút trứng cá nham nhở khắp nơi và đôi mắt mệt mỏi. Đôi mắt màu xanh có sức hút kinh ngạc bao quanh bởi những quầng đỏ, bộ lông mày mầu đen thẫm, tóc dày cộm kiểu Kennedy. Mũi to, sống mũi cao, cặp môi đầy đặn, cong như môi trẻ con. Tóc mai anh có lẽ đã 5 năm chưa cạo nên trễ dài xuống tận má. Như thường lệ, anh mặc bộ Brooks Brothers: áo vét ga- ba-đin màu ô liu, cúc không cài, ca-ra-vát sọc vàng xanh, đuôi đỏ sẫm. Toàn bộ trang phục của anh tạo ra một cảm giác kỳ dị. Anh không thèm để ý đến tôi mà chúi mũi vào đĩa pizza. - Tôi mừng vì anh đã dùng đĩa pizza đó cho bữa sáng của mình.  Tới khi chẳng còn gì trên đĩa, anh mới mở miệng hỏi. - Tình hình anh dạo này thế nào? - Tốt. Chả mấy khi rồng đến nhà tôm, chắc là có chuyện gì hả, Milo? - Cứ phải có chuyện gì mới đến chắc? - Anh phủi những mẩu pizza rơi trên vạt áo xuống thảm trải nền - Thế bạn hè không thể đến với nhau được hay sao? - Anh lén lén lút lút vào nhà tôi vôi vẻ mặt hình sự chắc chắn không phải là đến chơi suông rồi!   Mời các bạn đón đọc Ba Bóng Đen của tác giả Jonathan Kellerman & Đặng Thị Huệ (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ác Quỷ Thành Phố Trắng
“Ác quỷ thành phố trắng” là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất của tác giả Erik Larson, và được tờ The New York Times bình chọn là cuốn sách best seller. Năm 2004, cuốn sách nhận giải thưởng Edgar cho hạng mục Tác phẩm về tội phạm có thật xuất sắc nhất.  Cuốn sách thuật lại hành trình xây dựng Hội chợ thế giới của nhóm kiến trúc sư tài hoa ở Chicago sau khi thành phố này giành quyền đăng cai tổ chức hội chợ. Thành phố Chicago nhanh chóng thành lập một công ty chính thức mang tên là: “Công ty hội chợ thế giới Hoa Kì”, nhằm cung cấp tài chính và xây dựng. Và nhà thiết kễ chính là Burnham và Root, được yêu cầu phải xây dựng gần như cả một thành phố và vượt lên trên sự tuyệt vời của hội chợ Paris, gánh nặng đè lên vai, việc thất bại là không thể vì nó sẽ ảnh hưởng đến danh dự và tổn hại của quốc gia. Quá trình xây dựng được bắt đầu, nhưng không ai ngờ rằng chỉ cách khu hội chợ quy mô và hấp dẫn nhất thế giới vào thời kì ấy chỉ vài bước chân, tên sát nhân hàng loạt đã xây dựng một khách sạn được trang bị bàn mổ, lò thiêu và những thùng axit. Cả thành phố hối hả với hội chợ mà “bỏ lỡ” kẻ sát nhân tàn ác với những thủ đoạn tinh vi. Thời gian diễn ra hội chợ hắn đã giết chết hàng chục người, đa số là phụ nữ trẻ. “Tôi sinh ra với ác quỷ trong mình. Tôi không thể thay đổi sự thật rằng tôi là kẻ sát nhân, giống như các nhà thơ biến cảm hứng thành vần điệu”.Vậy hắn là ai mà giết chóc nhiều như vậy nhưng không bị phát hiện? *** Erik Larson là tác giả nổi tiếng với dòng truyện phi hư cấu về lịch sử và trong đó không thể không nhắc tới cuốn “Sống sót ở Berlin”. Cuốn sách nói về lịch sử nước Đức ngày càng chìm sâu trong bóng tối sau thời khắc Trùm Phát xít Adolf Hitler trở thành Thủ tướng của Đế chế Đức vào năm 1933. Kể từ đó trở đi, nước Đức xảy ra bạo lực liên miên và nạn phân biệt chủng tộc, đặc biệt đối với người Do Thái, Hitler quan ngại với người Do Thái bởi chính sự tài năng của nhóm người đó sẽ làm ảnh hưởng, cản trở đối với quyền lực của hắn. Đúng vào thời điểm đó, ông William E.Dodd – một giáo sư lịch sử được cử sang Berlin làm Đại sứ Hoa Kỳ tại Đức. Ông cùng cô con gái – Martha sớm được trải nghiệm một nước Đức kỳ lạ, tươi đẹp, nhưng cũng đầy rẫy hiểm nguy bủa vây. Trong khi đó, Hitler lại ngày càng tỏ ra thiện chí và ưa chuộng hòa bình. Nhưng liệu mọi người nghe thấy, nhìn thấy và ngửi thấy gì? Các nhà ngoại giao và du khách giải thích những sự kiện diễn ra xung quanh họ như thế nào? Và có ai thấy được bộ mặt thật của Trùm Phát xít Hitler và ngăn hắn lại khi quá muộn???... *** CÁI ÁC ẨN HIỆN (GHI CHÚ) Tại Chicago vào cuối thế kỷ XIX, giữa làn khói công nghiệp và tiếng còi tàu vang vọng, xuất hiện hai người đàn ông, cả hai đều đẹp trai, mắt xanh và đều lão luyện một cách bất thường trong các kĩ năng của họ. Mỗi người là hiện thân của một yếu tố trong động lực vĩ đại đặc trưng cho sự hối hả tiến vào thế kỷ XX của nước Mỹ. Một người là kiến trúc sư, đã xây dựng rất nhiều những công trình quan trọng bậc nhất của Mỹ, trong đó có tòa nhà Flatiron tại New York và Nhà Ga Trung Tâm của Washington, D.C.; người còn lại là một tên sát nhân, một trong những kẻ khát máu nhất trong lịch sử và là điềm báo của một hình mẫu Mỹ: Kẻ giết người hàng loạt tại đô thị. Mặc dù cả hai không bao giờ gặp nhau, ít nhất là một cách chính thức, số phận của họ lại được liên kết bởi một sự kiện huyền diệu độc nhất, dù hiện tại không còn được nhớ đến nhiều, tuy nhiên vào thời điểm bấy giờ thì lại sở hữu một sức mạnh có khả năng làm xáo trộn gần tương đương với cuộc nội chiến. Trong những trang tiếp theo, tôi sẽ kể câu chuyện của hai người đàn ông và sự kiện này, nhưng tôi phải thông báo trước: Dù một vài sự kiện sau đây có kỳ lạ hoặc rùng rợn đến đâu chăng nữa, đây không phải là một tác phẩm hư cấu. Bất cứ điều gì nằm trong dấu ngoặc kép đều đến từ một lá thư, hồi kí, hoặc các văn bản khác. Sự việc chủ yếu diễn ra ở Chicago, nhưng tôi xin độc giả lượng thứ khi thỉnh thoảng lại đảo qua ranh giới bang khác, như khi Thám tử Geyer đau buồn nhưng kiên cường bước vào căn hầm khủng khiếp cuối cùng. Tôi cũng mong độc giả kiên nhẫn khi đọc các cuộc hành trình bên lề thường xuyên diễn ra theo yêu cầu của câu chuyện, bao gồm cả những chuyến du ngoạn vào ngành kinh doanh xác chết nhằm mục đích y tế và việc sử dụng cây phong lữ Hoàng Tử Đen trong cảnh quan của Olmsted. Phía sau làn khói, máu me và mùn đất, cuốn sách này viết về sự phù du của cuộc sống và lí do tại sao một số người chọn cách lấp đầy thời gian trên cõi đời ngắn ngủi của mình bằng việc thực hiện những điều không tưởng, trong khi những người khác tạo ra nỗi buồn đau. Cuối cùng, đây là một câu chuyện của những xung đột không thể tránh khỏi giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Thành Phố Trắng và Thành Phố Đen. ERIK LARSON SEATTLE  Mời bạn đón đọc Ác Quỷ Thành Phố Trắng của tác giả Erik Larson.
Kẻ Cướp Cuối Cùng
David Loogan, biên tập viên của tạp chí trinh thám Gray Streets, tìm thấy một bản thảo bên ngoài văn phòng làm việc. Trong đó là danh sách với ba cái tên: Henry Kormoran, Sutton Bell và Terry Dawtrey. Hai người vừa bị sát hại, người còn lại ở trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Cách đây 17 năm, họ bị dụ dỗ tham gia vào một kế hoạch cướp ngân hàng. Vụ cướp đổ bể và họ bị bắt. Giờ đây, cuộc sống của cả ba đã rẽ sang những hướng khác nhau, người hoàn lương, kẻ tù tội. Nhưng còn một bí mật chưa được tiết lộ: Danh tính của Kẻ Cướp Cuối Cùng, người đã chạy thoát khỏi tay cảnh sát. Cảnh sát tin rằng tập bản thảo mô tả cách thức gây án chỉ là câu chuyện hư cấu. Một người vô tội bị bắt vì tội ác mình không phạm phải. Một nhà báo đang điều tra lại vụ cướp bỗng dưng mất tích. David cảm nhận được sự hiện diện của kẻ thủ ác và những người sẵn sàng bao che cho hắn vì lợi ích bản thân. Anh cùng nữ cảnh sát Elizabeth quyết tâm tìm ra tên sát nhân trước khi hắn ra tay lần nữa. Họ cần bảo vệ kẻ cuối cùng trong danh sách tử thần và lật tẩy danh tính kẻ cuối cùng tham gia vụ cướp năm xưa. *** “Kẻ cướp cuối cùng” tạo sức hút với phong cách viết sắc nét và các nhân vật cá tính của Harry Dolan, khiến độc giả bị cuốn vào câu chuyện ngay lập tức. Tác giả Harry Dolan sinh trưởng ở Rome, New York trước khi chuyển đến sống tại Ann Arbor, Michigan. Ông đã lấy chính thành phố nơi mình sinh sống làm bối cảnh chủ yếu cho series tác phẩm về nhân vật David Loogan, giúp câu chuyện trong cuốn sách thêm phần chân thực. Hiện hai cuốn sách sách trong series đã được phát hành tại Việt Nam là Vòng xoáy tội ác và mới đây nhất là Kẻ cướp cuối cùng. Cuốn cuối cùng trong series là The Last Dead Girl cũng sẽ sớm ra mắt bạn đọc Việt Nam. Kẻ cướp cuối cùng bắt đầu với việc David Loogan, biên tập viên của tạp chí trinh thám Gray Streets, tìm thấy một bản thảo bên ngoài văn phòng làm việc. Trong đó là danh sách với ba cái tên: Henry Kormoran, Sutton Bell và Terry Dawtrey. Hai người vừa bị sát hại, người còn lại ở trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Cách đây 17 năm, họ bị dụ dỗ tham gia vào một kế hoạch cướp ngân hàng. Vụ cướp đổ bể và họ bị bắt. Giờ đây, cuộc sống của cả ba đã rẽ sang những hướng khác nhau, người hoàn lương, kẻ tù tội. Nhưng còn một bí mật chưa được tiết lộ: Danh tính của kẻ cướp cuối cùng, người đã chạy thoát khỏi tay cảnh sát. Cảnh sát tin rằng tập bản thảo mô tả cách thức gây án chỉ là câu chuyện hư cấu. Một người vô tội bị bắt vì tội ác mình không phạm phải. Một nhà báo đang điều tra lại vụ cướp bỗng dưng mất tích. Nhưng David cảm nhận được sự hiện diện của kẻ thủ ác và những người sẵn sàng bao che cho hắn vì lợi ích bản thân. Anh cùng nữ cảnh sát Elizabeth quyết tâm tìm ra tên sát nhân trước khi hắn ra tay lần nữa. Họ cần bảo vệ kẻ cuối cùng trong danh sách tử thần và lật tẩy danh tính kẻ cuối cùng tham gia vụ cướp năm xưa. Kẻ cướp cuối cùng vẫn duy trì được sức hút như ở Vòng xoáy tội ác, với phong cách viết sắc nét và các nhân vật cá tính, khiến độc giả bị cuốn vào câu chuyện ngay lập tức. Nhịp truyện nhanh và các âm mưu được xây dựng chặt chẽ. Câu hỏi quan trọng, và cũng là điểm mấu chốt của cả câu chuyện, là tại sao có kẻ lại muốn giết họ sau từng ấy năm, được giữ kín cho đến nửa sau của cuốn sách. Trong cuốn sách thứ hai, nhân vật David Loogan tiếp tục giữ vai trò một biên tập viên nhiều thuyết âm mưu và một thám tử nghiệp dư liều lĩnh. Giờ đây, đồng hành bên anh còn có nữ cảnh sát Elizabeth Waishkey điềm tĩnh và mạnh mẽ. Truyện dành cho Elizabeth và cô con gái thông minh của mình, Sarah, nhiều cơ hội tỏa sáng. Câu chuyện bắt đầu bằng lời tự thuật của David Loogan, sau đó được chuyển đổi góc nhìn giữa các nhân vật khác nhau, để người đọc có thể hình dung những gì đang xảy ra bên ngoài tầm ảnh hưởng của nhân vật chính. Mặc dù được tiếp xúc với tên sát nhân qua điểm nhìn của hắn ngay từ những chương đầu, độc giả vẫn khó lòng suy ra toàn bộ âm mưu phía sau. Khi một nhà báo láu cá, một thượng nghị sĩ sắp nghỉ hưu, ứng cử viên Thượng nghị sĩ Callie Spencer cùng cha mình, viên cảnh sát bị bắn trong vụ cướp cách đây 17 năm, lần lượt xuất hiện trong cuốn sách, câu chuyện nhanh chóng trở nên phức tạp và khó đoán vô cùng. *** Trong văn phòng của tôi có một chuỗi hạt thủy tinh. Nó được treo trên thanh ngang của chiếc đèn bàn, đung đưa theo từng rung động nhỏ nhất. Những hạt thủy tinh có màu xanh thẳm như nền trời đêm. Khi ánh sáng nhảy múa trên đó, chúng toát lên vẻ dịu dàng, rạng rỡ và đầy sức sống. Tôi sẽ kể cho các bạn xuất xứ của chuỗi hạt này. Elizabeth đã đeo nó khi chúng tôi trao nhau nụ hôn đầu. Chuyện đó xảy ra ngay tại đây, trong văn phòng này vào một đêm đông, sáu tầng nhà bên trên phố Main ở Ann Arbor. Elizabeth là thám tử. Tối hôm đó, cô được triệu tập tới hiện trường một vụ tai nạn xe hơi: Những đống kim loại nát bét, kính vỡ khắp nơi. Ba người chết, trong đó có một trẻ em. Đó là loại tai nạn bạn không bao giờ muốn chứng kiến, còn khi đã thấy rồi, bạn chỉ còn biết hi vọng mình có thể quên được nó. Cô đã nhìn thấy mọi chuyện và sau đấy muốn tránh khỏi đó càng xa càng tốt. Rồi cô đến chỗ tôi. Hôm đó, tôi ở lại làm việc muộn, nghe thấy tiếng cửa mở cùng tiếng chân cô bước qua văn phòng trống không phía ngoài. Và rồi cô đứng đó, trước ngưỡng cửa văn phòng. Elizabeth vốn có vóc người cao, chiếc áo khoác dài chỉ càng khiến cô trông cao hơn. Trên vai áo cô, mấy bông tuyết đang tan. Hai tà áo khoác mở rộng, chiếc áo cánh cô mặc bên trong cũng không cài cúc cổ áo. Ngón tay cô mân mê những hạt thủy tinh màu xanh dương đeo trên cổ. Nhưng toàn thân cô thì vẫn bất động. Tôi biết ngay có điều gì đó không ổn. Mặt cô tái nhợt, mái tóc đen nhánh và óng ả như cánh quạ buông xõa quanh khuôn mặt. Tôi đứng dậy khỏi bàn và bước tới chỗ cô, nhưng sự bất động của cô khiến tôi e ngại không dám đụng tới. Sau cùng, tôi đặt một bàn tay lên vai cô, rồi rút tay lại. Tuyết rơi nhẹ ngoài cửa sổ văn phòng. Chúng tôi đứng bên nhau một lúc lâu, tôi chẳng hỏi cô bất cứ điều gì. Tôi chờ đợi và rồi cô bắt đầu kể. Cô kể lại cho tôi nghe mọi điều, tất cả những gì cô đã chứng kiến. Lời nói tuôn ra như dòng chảy không ngừng. Những ngón tay cô lần trên chuỗi hạt sau mỗi tình tiết kinh hoàng. Kể xong, cô quay mặt đi. Ngượng ngập, gần như lúng túng. Và cũng lúng túng không kém, tôi lùi lại phía sau. Không biết phải làm gì, tôi mời cô một ly từ chai Scotch cất sâu trong ngăn kéo bàn. Nhưng cô không muốn uống. Tôi nhìn cô cởi áo khoác vắt lên lưng ghế, nhìn cô tiến tới gần, mắt cô nhìn thẳng vào mắt tôi. Cô vẫn mở mắt khi hôn tôi, đôi mắt cũng xanh như chuỗi hạt thủy tinh. Nụ hôn đầu thật chậm rãi, vương vấn và khoan thai. Cả hai đều hiểu đó là gì: Một hành động thách thức. Đó là bản tính tự nhiên của con người. Ta đối diện cái chết, thách thức nó, tự chứng tỏ với bản thân là ta vẫn đang sống. Những ý nghĩ đó lướt qua tâm trí tôi, nhưng tôi chẳng có thời gian mà nghiền ngẫm. Nụ hôn thứ hai mãnh liệt và hứng khởi hơn. Tôi cảm thấy tay cô choàng qua vai mình ra sau cổ, cảm thấy những ngón tay cô xoắn lấy tóc tôi. Cô ép sát người vào tôi và chúng tôi ôm chặt lấy nhau. Tôi có thể cảm nhận rõ ràng hơi ấm, sức sống, nghị lực tiềm tàng trong cô. Tôi chỉ muốn chia sẻ kỉ niệm này một cách có chừng mực thôi và giờ tôi cho rằng chúng ta đã đạt tới giới hạn đó rồi. Những gì còn lại là bí mật của riêng hai chúng tôi. Tuy thế, đó chính là xuất xứ chuỗi hạt mà tôi cất trong văn phòng. Elizabeth đã để nó lại vào đêm hôm ấy. Không phải bỗng dưng tôi kể cho các bạn chuyện này đâu. Nó liên quan tới động cơ hành động. Nếu bạn đưa chuỗi hạt này cho một người thợ kim hoàn, hẳn là ông ta sẽ nói rằng nó chẳng có giá trị gì. Chỉ là mấy hạt thủy tinh được xâu lại bằng một sợi dây thôi. Ở một chừng mực nào đó, tôi biết đó là sự thật. Nhưng tôi cũng biết nếu một tên trộm cố đánh cắp nó, tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để ngăn hắn lại. Thậm chí, tôi sẽ không ngần ngại giết hắn nếu cần thiết. Câu chuyện tôi kể sau đây không phải là về chuỗi vòng, mà là về động cơ khiến con người giết hại lẫn nhau. Tôi khá rành về chủ đề này, một phần vì tôi là biên tập viên và mọi người gửi truyện giết chóc tới chỗ tôi suốt ngày. Tên tôi là David Loogan. Phần lớn bản thảo gửi tới chỗ tôi đều dở tệ, nhưng một vài trong số đó cũng có chút tiềm năng. Tôi lọc ra những bản thảo khá nhất, chỉnh sửa lại rồi cho xuất bản trên tạp chí truyện trinh thám mang tên Gray Streets. Vậy nên, có lẽ cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi vai trò của tôi trong câu chuyện này cũng bắt đầu từ một tập bản thảo. Sự việc thật ra khá đơn giản. Tôi tìm thấy nó vào một tối thứ Tư khoảng giữa tháng Bảy, trên hành lang phía ngoài văn phòng. Chuyện này chẳng có gì lạ. Các nhà văn trong vùng để lại bản thảo của mình ở đó thường xuyên hơn mọi người vẫn tưởng. Tuy vậy, đây là một bản thảo rất đặc biệt. Nó dài chưa tới mười trang, được bỏ trong một chiếc phong bì trắng trơn, không ghi địa chỉ. Đó là câu chuyện về ba vụ giết người, hai vụ đã xảy ra, một sắp được tiến hành. Và đây chẳng phải chuyện hư cấu. Không có chữ ký hay tên tác giả. Người viết bản thảo này không muốn để lộ danh tính. Hắn ta đã viết nó trên máy tính và đem in ở một hiệu photocopy. Dĩ nhiên, khi đó tôi chẳng thể biết được. Sau này, Elizabeth mới khám phá ra điều đó. Khi đưa tập bản thảo cho cô, tôi có chút hi vọng mong manh rằng nó có thể cung cấp chứng cứ xác thực nào đó. Thời buổi này, phòng giám định có thể làm được những điều kỳ diệu với tóc, sợi vải và ADN. Tôi chắc rằng phải có dấu vân tay trên trang giấy, ngoài vân tay của chính tôi. Nhưng khi cô gửi tập bản thảo tới phòng thí nghiệm, mọi thứ đi vào ngõ cụt. Nó chẳng hé lộ bí mật nào - ai là tác giả tập bản thảo và động cơ của hắn ta là gì? Muốn giải đáp những câu hỏi này, chúng ta phải quay ngược thời gian, tới trước cả cái ngày trung tuần tháng Bảy đó. Chúng ta cũng phải gạt bỏ những quy tắc thông thường, vì câu chuyện này chẳng hề tuân theo chúng. Nó bao hàm những ý nghĩa riêng. Mặc dù đây là câu chuyện của tôi và của cả Elizabeth nữa, thực ra nó không bắt đầu từ chúng tôi. Mọi chuyện khởi đầu ở vùng phía bắc Michigan, tại thành phố Sault Sainte Marie, trong một phòng khách sạn. Chuyện bắt đầu từ một cuốn sổ tay.   Mời các bạn đón đọc Mục Tiêu Cuối Cùng của tác giả Harry Dolan.
Kẻ Đoạt Hồn
Kẻ đoạt hồn của Sebastian Fitzek được Phan Ba dịch, do Nhà Xuất Bản Hồng Đức năm 2018. Cuốn sách nói về: Một ông giáo sư mời các sinh viên của ông tham gia một thí nghiệm khác thường. Những người tham gia thí nghiệm cần phải đọc một tập hồ sơ bệnh án mà người ta tìm thấy trong số đồ vật còn để lại của một bác sĩ tâm lý. Tập hồ sơ bệnh án này được viết giống như một quyển tiểu thuyết, thuật lại sự việc đã xảy ra tại một bệnh viện tâm thần trước đây, cũng là nơi mà các sinh viên phải ngồi đọc. Câu chuyện thuật về ba người phụ nữ – trẻ trung, xinh đẹp, hoạt bát – mất tích không để lại một dấu vết. Chỉ một tuần là đủ để hung thủ biến họ thành những cái xác không hồn. Khi cảnh sát phát hiện ra thì họ nằm bất động, không có phản ứng lại với thế giới bên ngoài, nhưng vẫn không chết. Cũng vì vậy mà giới báo chí đã đặt cho hắn cái tên “Kẻ Đoạt Hồn”. Ngay trước lễ Giáng Sinh, Kẻ Đoạt Hồn này lại xuất hiện, lần này thì ở trong một bệnh viện tâm thần tư nhân sang trọng. Toàn bộ bệnh viện bị cắt đứt với thế giới bên ngoài vì một cơn bão tuyết, và ở giữa họ là “Kẻ Đoạt Hồn”. Đêm kinh hoàng trong bệnh viện đã bắt đầu như vậy, và Kẻ Đoạt Hồn không cho bất cứ ai trốn thoát. Đây là một quyển nhiều thành công của Sebastian Fitzek. Đọc hết sức hồi hộp. Đọc đến chừng một nửa thì thật không muốn bỏ xuống. Cái tài của ông là để cho hiện thực với quá khứ hòa vào nhau, để cho người đọc có cảm giác như mình giống như những người sinh viên đang đọc tập hồ sơ bệnh án kinh hoàng đó. *** 71 NGÀY TRƯỚC CƠN SỢ HÃI Trang 1 và tiếp theo sau đó của hồ sơ bệnh nhân số 131071/VL   Thật may, tất cả chỉ là một giấc mơ. Cô không trần truồng. Và chân cô cũng không bị cột chặt vào chiếc ghế khám bệnh phụ khoa cổ lỗ, trong khi tên điên đó đang sắp xếp những dụng cụ của hắn trên một cái bàn phụ đã rỉ sét. Khi hắn quay lại, lúc đầu cô không nhận ra được rằng hắn đang cầm cái gì trên bàn tay vấy máu khô. Thế rồi, khi nhìn thấy, cô muốn nhắm mắt lại, nhưng không làm được. Cô không thể rời mắt khỏi cái mỏ hàn nóng đỏ rực đang tiến tới gần chỗ mình. Kẻ xa lạ với gương mặt bị bỏng nước sôi đó đã kéo hai mi mắt của cô lên và dùng máy dập ghim khí nén kẹp chặt nó vào gờ ổ mắt. Cô nghĩ rằng cô sẽ không còn phải chịu đựng cơn đau nào khủng khiếp hơn thế nữa trong phần ngắn ngủi còn lại của cuộc đời mình. Nhưng khi cái mỏ hàn biến mất khỏi tầm nhìn của cô và ở giữa hai chân cô càng lúc càng nóng hơn, cô cảm nhận được rằng đau đớn của những giờ vừa qua chỉ là màn dạo đầu. Thế rồi, trong khoảnh khắc mà cô tin rằng mình đã ngửi được mùi thịt bị cháy sém, thì mọi thứ trở nên trong suốt. Căn hầm ẩm ướt lạnh lẽo nơi cô bị lôi đến, ngọn đèn halogen chớp tắt trên đầu cô, chiếc ghế của kẻ tra tấn và cái bàn bằng kim loại - tất cả đều bốc hơi biến mất, chỉ còn lại một khoảng không đen kịt. Ơn Chúa, cô nghĩ thầm, chỉ là một giấc mơ thôi. Cô mở mắt ra, và hoàn toàn không hiểu gì cả. Cơn ác mộng mà cô vừa mới bị giam hãm bên trong không hề mất đi hình dạng của nó, mà chỉ biến đổi. Mình đang ở đâu đây? Xét theo nội thất thì đây là phòng của một khách sạn đã xuống cấp. Tấm phủ đầy vết bẩn trên chiếc giường đôi cũ rích cũng dơ dáy và đầy lỗ cháy do đầu mẩu thuốc lá giống như cái thảm trải sàn nhà màu nâu xanh. Cô có thể cảm nhận được những sợi thảm thô cứng dưới chân mình, nên cô co rút người lại nhiều hơn nữa trên chiếc ghế gỗ khó chịu. Mình đi chân đất. Tại sao mình không mang giày nhỉ? Và tại sao mình lại ở trong một cái khách sạn rẻ tiền bẩn thỉu và nhìn trừng trừng vào hình ảnh kiểm tra tín hiệu truyền hình đầy đốm trắng trên một cái ti vi đen trắng cơ chứ? Các câu hỏi bật nảy thật mạnh như những trái bi da trong đầu cô. Bất thình lình, cô giật bắn người, như thể có ai đó đã đánh cô một phát, rồi nhìn xem tiếng ồn phát ra từ đâu. Từ cửa phòng. Cánh cửa lung lay một lần, rồi thêm lần nữa, và cuối cùng bật tung ra. Hai viên cảnh sát lao vào. Cả hai đều mặc cảnh phục và mang súng - cô chỉ có thể nhận thấy được ngần ấy. Lúc đầu, họ chĩa súng vào thân trên của cô, nhưng rồi họ từ từ hạ súng xuống. Sự hồi hộp, căng thẳng trên gương mặt họ nhường chỗ cho sự kinh hoàng, sửng sốt. "Mẹ kiếp, có chuyện gì thế này?", cô nghe người nhỏ con hơn nói. Chính người này đã đạp cánh cửa và lao vào đầu tiên. "Cứu thương", người kia hét lên. "Gọi bác sĩ đi. Chúng tôi cần giúp đỡ ngay lập tức!" Ơn Chúa, cô nghĩ thầm, đây là lần thứ hai cô cầu Chúa trong vòng vài giây. Cô sợ tới mức gần như không thở được nữa. Cô đau toàn thân, cả người đầy mùi phân với nước tiểu. Tất cả những điều đó, và việc cô không biết cô đến đây bằng cách nào, khiến cho cô gần như phát điên lên, nhưng giờ thì ít ra cũng có hai cảnh sát đứng trước cô và gọi trợ giúp cứu thương. Điều này không tốt lắm, nhưng vẫn tốt hơn một tên điên với cái mỏ hàn rất nhiều. Chỉ vài giây sau, một bác sĩ cấp cứu hói đầu đeo hoa tai lao vào phòng và quỳ xuống bên cạnh cô. Rõ ràng là dịch vụ cấp cứu đã đến đây cùng với một chiếc xe cứu thương. Đó cũng không phải là một dấu hiệu tốt. "Cô có nghe tôi nói không?" "Có…", cô trả lời ông bác sĩ. Những quầng thâm trên mắt trông như được xăm vĩnh viễn lên gương mặt ông. "Cô ấy có vẻ không hiểu tôi." "Có chứ, có chứ," cô muốn giơ cánh tay lên, nhưng cơ bắp của cô không tuân lệnh. "Cô tên gì?" Ông bác sĩ lấy ra từ túi áo một cái đèn pin trông giống như cây bút và chiếu vào mắt cô. "Vanessa", cô cất giọng khàn khàn, rồi nói thêm, "Vanessa Strassmann." "Cô ấy chết rồi à?" Cô nghe một người cảnh sát hỏi từ phía sau. "Chết tiệt, con ngươi hầu như không phản ứng lại với ánh sáng nữa. Và cô ấy dường như không nghe thấy và cũng không nhìn thấy chúng ta. Cô ấy bị căng trương lực*, có lẽ là hôn mê rồi." "Thật vô lí quá!" Vanessa hét lên và muốn đứng dậy, thế nhưng cô thậm chí còn không thể nhấc tay lên được. Chuyện gì đang xảy ra thế này? Cô nhắc lại thật to ý nghĩ đó và cố gắng nói càng rõ ràng càng tốt. Dường như không ai muốn lắng nghe cô. Thay vào đó, tất cả mọi người đều quay lưng lại với cô và nói chuyện với một người nào đó cô chưa thấy bao giờ. "Chị nói là cô ấy đã không rời gian phòng này bao lâu rồi?" Đầu của vị bác sĩ che mất tầm nhìn của cô ra cửa. Giọng một phụ nữ trẻ tuổi vang lên, "Chắc chắn là ba ngày rồi. Có thể còn lâu hơn nữa. Lúc cô ấy làm thủ tục nhận phòng, tôi đã nghĩ có cái gì đó không ổn với cô ấy rồi. Nhưng cô ấy nói không muốn bị quấy rầy." Chị ta nói cái gì vớ vẩn thế nhỉ? Vanessa lắc đầu. Tôi sẽ không bao giờ tự ý vào đây đâu. Một đêm cũng không! "Lẽ ra tôi không định gọi cô ấy đâu, nhưng mà tiếng thở khò khè đáng sợ đó cứ mỗi lúc một to hơn, và…" "Nhìn kìa!" Giọng nói của viên cảnh sát nhỏ người hơn vang lên ngay bên tai cô. "Cái gì?" "Ở đây có cái gì đó. Đây này." Vanessa cảm thấy ông bác sĩ gỡ ngón tay cô ra và dùng nhíp cẩn thận gắp một cái gì đó ra khỏi bàn tay trái của cô. "Cái gì thế?" Viên cảnh sát hỏi. Vanessa cũng ngạc nhiên như tất cả những người khác trong phòng. Cô không hề nhận ra là mình có cầm một cái gì đó. "Một tờ giấy ghi chú." Ông bác sĩ mở tờ giấy được gập làm đôi ra. Vanessa cố liếc mắt để có thể đọc được, thế nhưng cô chỉ thấy những chữ viết tượng hình khó hiểu. Những chữ trên đó được viết bằng một thứ tiếng hoàn toàn lạ lẫm đối với cô. "Nó viết gì thế?" Viên cảnh sát đứng gần cửa lên tiếng hói. "Thật lạ," ông bác sĩ cau mày đọc, "Người ta chỉ mua nó để ném nó đi ngay thôi." Lạy Chúa. Ông bác sĩ cấp cứu đọc những chữ đó mà không ngần ngừ. Việc này khiến cho cô thấy rõ toàn bộ nỗi kinh hoàng của cơn ác mộng đang giam giữ cô. Không hiểu vì lí do gì mà cô đã mất mọi khả năng trao đổi. Trong khoảnh khắc này, Vanessa không thể nói hay đọc, và cô đoán rằng thậm chí cô còn không thể viết được nữa. Ông bác sĩ lại chiếu đèn thẳng vào con ngươi của cô, và rồi bất thình lình, tất cả các giác quan còn lại của cô dường như cũng bị gây mê. Cô không còn ngửi được mùi hôi của cơ thể, không còn cảm nhận được chiếc thảm dưới đôi chân trần của mình nữa. Cô chỉ nhận thấy nỗi sợ hãi trong cô càng lúc càng lớn hơn và những tiếng nói lộn xộn quanh cô mỗi lúc một nhỏ đi. Bởi lẽ, khi ông bác sĩ vừa mới đọc xong dòng chữ ngắn ngủi đó, một sức mạnh vô hình đã chiếm lấy cô. "Người ta chỉ mua nó để ném nó đi ngay thôi." Một sức mạnh đang vươn bàn tay lạnh giá của nó tới và kéo cô xuống dưới - trở lại nơi mà cô không bao giờ muốn nhìn thấy lần nữa trong đời, nơi cô vừa mới rời bỏ vài phút trước. Đây không phải là một giấc mơ. Hay đúng là mơ? Cô cố ra dấu cho ông bác sĩ, thế nhưng khi hình dáng của ông ấy tan biến dần thì cô bắt đầu hiểu được, và một nỗi kinh hoàng trần trụi chiếm lấy cô. Họ thực sự không nghe thấy những lời cô nói. Cả ông bác sĩ lẫn cô nhân viên tiếp tân và các viên cảnh sát đều không thể nói chuyện với cô. Bởi lẽ cô chưa từng tỉnh dậy trong cái khách sạn tồi tàn này, thậm chí là ngược lại. Khi ngọn đèn halogen ở phía trên cô lại bắt đầu lóe lên, cô nhận ra rằng cô đã bất tỉnh khi cuộc tra tấn bắt đầu. Không phải tên điên đó, mà căn phòng khách sạn mới là một phần của giấc mơ. Giấc mơ ấy giờ đây đã trốn chạy, nhường chỗ cho hiện thực tàn khốc. Hay là mình lại nhầm lẫn nữa rồi? Cứu. Cứu tôi với! Tôi không còn có thể phân biệt được gì nữa. Cái gì là thực? Cái gì là mơ? Và tất cả mọi thứ lại giống như trước đó - căn hầm ẩm thấp, cái bàn kim loại. Cô bị trói chặt trên chiếc ghế khám phụ khoa. Trần truồng. Trần truồng tới mức cô cảm nhận được hơi thở của tên điên đó giữa hai chân mình. Hắn hà hơi vào người cô, ở đúng chỗ nhạy cảm nhất trên cơ thể cô. Rồi gương mặt đầy thẹo của hắn xuất hiện trong giây lát trước mắt cô, và cái miệng không môi cất tiếng nói, "Chỉ đánh dấu thêm lần nữa thôi. Bây giờ có thể bắt đầu rồi." Hắn nắm lấy cái mỏ hàn. Mời bạn đón đọc Kẻ Đoạt Hồn của tác giả Sebastian Fitzek & Phan Ba (dịch).
Bí Mật Đen Tối
Câu chuyện mở màn bằng một cuộc gọi đến sở cảnh sát. Roger Eriksson, một thiếu niên bị mất tích trong thị trấn thuộc tỉnh lị Västerås. Cuộc tìm kiếm nhanh chóng được tổ chức và một nhóm hướng đạo sinh trẻ tuổi trong lần khảo sát đầm lầy đã phát hiện ra sự thật khủng khiếp: Roger bị chết thảm. Cùng lúc đó, Sebastian Bergman - chuyên gia tâm lí học, điều tra viên hình sự đồng thời là chuyên gia hàng đầu Thụy Điển về các vụ giết người hàng loạt - đang ở Västerås thu xếp điền sản của mẹ mình sau cái chết của bà. Sebastian đã rút chân khỏi ngành cảnh sát sau cái chết của vợ và con gái trong trận sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004. Khi Cục Điều tra Tội phạm nhờ Sebastian giúp sức trong vụ án mạng Roger, với tính kiêu ngạo của mình, ban đầu Sebastian tỏ ra xa cách với đồng đội. Nhưng rồi khi đi sâu vào vụ án, ông bắt xóa bỏ dần khoảng cách và cùng đội điều tra phát hiện ra những bất thường tại trường tư thục Roger đang theo học. *** Tác giả: Michael Hjorth & Hans Rosenfeldt. Dịch giả: Nguyễn Hữu Công. Thể loại: Trinh thám Thụy Điển, tâm lý xã hội . Mức độ ưa thích: 6/10. Cậu bé Roger Eriksson 16 được tìm thấy đã chết rất thảm ở vùng đầm lầy Listakarr. Quá trình điều tra diễn tiến chậm chạp với sự tắc trách của cảnh sát địa phương, do đó Riskmord – Đơn vị chống tội phạm giết người quốc gia được mời vào cuộc. Người phụ trách Riskmord là Torkel Hoglund vì cả nể tình bạn xưa cũ với Sebastian Bergman nên đã đồng ý để ông tham gia điều tra trong sự phản đối của các thành viên khác. Sebastian vốn là chuyên gia tâm lý học, điều tra viên hình sự đồng thời là chuyên gia hàng đầu Thụy Điển về các vụ giết người hàng loạt, nhưng lần này ông ở Vasteras chỉ để lo thủ tục bán nhà sau khi mẹ ông qua đời. Càng điều tra, họ càng thấy mình như đang bước vào một mê cung vô cùng rối rắm chứa đầy những bí mật đen tối. Khi biết quyển sách này hơn 700 trang, mình bị thôi thúc bởi ý nghĩ “phải đọc”. Vốn đã quen với các thể loại trinh thám Mỹ thiên về loại hình siêu anh hùng, tốc chiến tốc thắng, không quá lắt léo đau lòng nên khi đọc “Bí mật đen tối”, nhịp văn chậm kiểu trinh thám Bắc Âu, quá nhấn mạnh vào cảm xúc + hành động sai trái của nhân vật, đọc hoài không có tiến triển gì mới – khiến mình hơi chán. Có một chi tiết trong truyện sau 500 trang cảnh sát vẫn chưa đoán được thì mình đoán đúng từ sớm. Cũng sau 500 trang thì mình mới thấy câu chuyện bắt đầu thú vị hơn, nhưng lúc kết thúc quyển sách thì mình không có được cảm giác hài lòng quen thuộc sau khi đọc một tuyệt phẩm. Trong cả truyện, mình chỉ tìm được vài đoạn hài hước hiếm hoi, thường là hài hước kiểu châm biếm sâu cay. “…chiếc túi chứa thứ gì đó, mà ông đoán chừng chắc trước kia là phó-mát, nhưng giờ nó chẳng khác nào dự án nghiên cứu trong phòng thì nghiệm chuyên về nấm mốc rất thành công”. Sau khi đọc “Tàn thế” và “Dị chủng”, mình có một tư duy lối mòn là cuốn nào do hai tác giả chấp bút thì cuốn đó đều rất dày và rất hay, nhưng cốt truyện trong “Bí mật đen tối” không gây ấn tượng sâu sắc với mình. Có lẽ các tác giả muốn nhấn mạnh tính thực tế tàn nhẫn của xã hội, nên các nhân vật trong truyện đều bị mô tả đầy khuyết điểm, từ chính diện đến phản diện. Chưa bao giờ mình đọc quyển sách nào mà mình ghét tất cả các nhân vật như quyển này, đặc biệt ghét nhân vật chính vì cách ông ta [dùng tình dục để lãng quên nỗi đau mất vợ con trong quá khứ]. Dù xã hội ông đang sống có nghĩ thoáng đến đâu, dù những người phụ nữ hoàn toàn tự nguyện trong những chuyện tình một đêm của ông thì mình vẫn cho rằng hành động đó […] vẫn gây ra rất nhiều tổn thương cho người khác. Ngay trong quyển này, độc giả sẽ thấy Sebastian phải trả giá cho những chuyện ông đã làm. Bìa sách bình thường, giấy màu ngà rất đẹp, chữ in to rõ, không có lỗi in ấn, trình bày đẹp, có kèm bookmark cùng thiết kế với bìa sách. Với một tác phẩm đồ sộ như “Bí mật đen tối” thì phần dịch thuật quả thật rất được chăm chút, nhưng dường như vẫn còn một chỗ viết nhầm “Bergman” thành “Berman”. Vì mình không thích cốt truyện nên không thích quyển này nhưng đối với một số độc giả khác, nhất là những ai thích “Bạch Dạ Hành” hoặc các quyển của Donato Carrisi thì có lẽ “Bí mật đen tối” sẽ là một tác phẩm rất đáng đọc và sở hữu. (Sea, 21-7-2019) Camellia Phoenix *** Suốt chiều dài hơn 700 trang, tác phẩm có nhiều chi tiết thừa, những nhân vật có cũng được, không có cũng chẳng sao, chỉ có tác dụng tung hỏa mù làm cho người đọc bối rối, hoang mang. Tuy nhiên, cách dẫn chuyện vẫn có nét hấp dẫn riêng, khiến cho người đọc cứ phải lật hết trang này đến trang khác để xem tác giả đưa mình đến đâu. Mỗi nhân vật sẽ tự kể câu chuyện cuộc đời họ trong một chừng mực. Họ có riêng "sàn diễn" để mặc sức vẫy vùng. Câu chuyện mở màn bằng một cuộc gọi đến sở cảnh sát. Roger Eriksson, một thiếu niên bị mất tích trong thị trấn thuộc tỉnh lị Västerås. Cuộc tìm kiếm nhanh chóng được tổ chức và một nhóm hướng đạo sinh trẻ tuổi trong lần khảo sát đầm lầy đã phát hiện ra sự thật khủng khiếp: Roger bị chết thảm. Cùng lúc đó, Sebastian Bergman - chuyên gia tâm lý học, điều tra viên hình sự đồng thời là chuyên gia hàng đầu Thụy Điển về các vụ giết người hàng loạt - đang ở Västerås thu xếp điền sản của mẹ mình sau cái chết của bà. Sebastian đã rút chân khỏi ngành cảnh sát sau cái chết của vợ và con gái trong trận sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004. Khi Cục Điều tra Tội phạm nhờ Sebastian giúp sức trong vụ án mạng Roger, với tính kiêu ngạo của mình, ban đầu Sebastian tỏ ra xa cách với đồng đội. Nhưng rồi khi đi sâu vào vụ án, ông bắt xóa bỏ dần khoảng cách và cùng đội điều tra phát hiện ra những bất thường tại trường tư thục Roger đang theo học. Một cách tiếp cận vấn đề khiến người đọc có phần… sốt ruột và thôi thúc việc đọc không thể ngừng nghỉ, chỉ với một mục đích: đọc đến trang cuối cùng để tìm thấy ánh sáng, để nhìn rõ sự thật. Bằng lối viết tinh tế, sắc sảo, Michael Hjorth và Hans Rosenfeldt dẫn dắt bạn đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Những chi tiết được khéo léo cài cắm, đầy những nút thắt, mở và cũng rất nhiều chi tiết tưởng như không cần thiết nhưng đến cuối, bạn sẽ hiểu tại sao chi tiết ấy lại xuất hiện. Trong các tiểu thuyết trinh thám không thiếu những cảnh tra tấn và giết người, nhưng ở “Bí mật đen tối” thì quá trình đó được miêu tả chân thực và rùng rợn đến mức chúng ta không tưởng tượng được làm thế nào tác giả lại có thể nghĩ ra những chi tiết đó một cách tài tình đến như vậy. Quả tim của nạn nhân đã biến mất, chi tiết mở đầu tiểu thuyết đã đủ lôi cuốn trí tò mò của người đọc.  Tác giả đã rất biết cách xây dựng một vụ án vừa đáng sợ vừa hóc búa và gay cấn đến phút cuối cùng, khiến cho người đọc tuy sợ nhưng cũng phải mau chóng lia mắt đọc tới dòng tiếp theo vì họ hoàn toàn không muốn bỏ lỡ bất kỳ tình tiết nào trong chuyến hành trình tìm ra sự thật. Bên cạnh những chi tiết hấp dẫn, gây tò mò, độc giả cũng sẽ bắt gặp những dòng văn nhẹ nhàng nhưng không kém phần sâu sắc, giản dị. Con người gai góc của Sebastian cũng có lúc lắng sâu, thâm trầm khi ông nhận ra thứ đơn giản như nước mắt: "Những năm gần đây, đó là điều biến đổi. Nước mắt. Thật lạ lùng, ông nghĩ, từng tuổi này, mình lại phải phát hiện ra thứ đơn giản như nước mắt". Nếu bạn là một độc giả yêu thích thể loại truyện trinh thám, chắc chắn "Bí mật đen tối" sẽ không làm bạn thất vọng. *** Gàkhông phải là kẻ giết người. Gã lặp lại trong đầu khi kéo xác thằng bé xuống dốc: Mình không phải là sát nhân. Sát nhân là tội phạm. Sát nhân thật kinh tởm. Bóng tối đã nuốt chửng linh hồn họ, và vì nhiều lý do họ đã nương theo và chào đón nó, quay lưng lại với ánh sáng. Gã không kinh tởm. Ngược lại là đằng khác. Chẳng phải gần đây gã không chứng minh được điều hoàn toàn ngược lại sao? Chẳng phải gã đã không gạt cảm xúc, ao ước của riêng mình sang một bên, mà tự kiềm chế, tất cả vì hạnh phúc của người khác? Làm ngơ – đó là những gì gã đã làm. Chẳng phải sự hiện diện của gã ở bãi lầy này, giữa một nơi xa xôi hẻo lánh với thi thể thằng bé càng chứng tỏ rằng gã muốn làm điều lương thiện sao? Phải làm điều lương thiện? Như thể gã chẳng bao giờ muốn làm việc tốt một lần nào nữa? Gã dùng chân và thở ra một hơi dài. Dù thằng bé chưa thật sự trưởng thành nhưng nó rất nặng. Rắn chắc. Nhiều giờ đã đổ ra ở phòng tập thể hình. Nhưng quãng đường không còn quá xa. Gã túm lấy hai ống quần, từng mang màu trắng nhưng giờ đây hầu như đã chuyển sang đen trong bóng đêm. Thằng bé máu me đầm đìa. Đúng, giết người là sai. Điều răn thứ năm nói rằng: Ngươi không được giết người. Nhưng có những ngoại lệ. Ở nhiều nơi, Kinh Thánh thực ra biện hộ cho giết chóc. Có người xứng đáng được như thế. Sai có thể thành đúng. Không có gì tuyệt đối cả. Rồi thế nào đây nếu lý do đằng sau việc giết người không phải vì ích kỷ? Nếu mất đi một nhân mạng mà cứu được những người khác? Thì hãy cho những người đó cơ hội. Cho họ được sống. Vào hoàn cảnh này, hành động ấy chắc chắn không thể liệt vào loại tàn ác. Nếu có động cơ tốt. Gã dừng chân bên làn nước đen của cái ao. Thường ngày, ao sâu chừng vài thước, nhưng cơn mưa gần đây đã làm mặt đất úng thủy, và giờ đây nó giống cái hồ giữa bãi lầy ứ đọng hơn. Gã cúi xuống và túm lấy hai vai chiếc áo phông của thằng bé. Cũng khá nhọc công, gã vần cho đến khi xác chết gập lại. Trong thoáng chốc, gã nhìn thẳng vào mắt thằng bé. Nó đã nghĩ gì trước khi chết? Liệu có đủ thời gian cho ý nghĩ cuối cùng? Nó có biết mình sắp chết không? Có tự hỏi tại sao không? Nó đã nghĩ về những thứ chưa làm được trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, hay về những thứ đã thật sự làm được? Không còn quan trọng nữa. Tại sao gã lại tra tấn bản thân thế này – hơn cả cần thiết? Gã không còn cách nào khác. Gã không thể làm họ thất vọng. Không một lần nào nữa. Tuy nhiên, gã đã do dự. Nhưng không, họ chẳng cảm thông đâu. Sẽ không tha thứ. Sẽ không làm ngơ, như gã đã làm. Gã đẩy thằng bé và thi thể nó rớt xuống nước, nghe rõ tiếng nước bắn tóe. Gã giật bắn người bởi thứ âm thanh không mong đợi vang lên trong khoảng không thinh lặng, mù mịt. Thi thể thằng bé chìm xuống nước và dần biến mất. Gã đàn ông không phải là sát nhân cuốc bộ về chiếc xe hơi của mình, đang đậu ở con đường mòn dẫn vào rừng, rồi lái xe về nhà. “Cảnh sát thành phố Västerås, Klara Lidman nghe đây.” “Tôi muốn báo con trai mình đã mất tích.” Giọng người phụ nữ nghe có vẻ ái ngại, như thể cô không chắc là mình gọi đúng số, hay cô không nghĩ là người ta tin mình. Klara Lidman với tay lấy xấp giấy ghi chú dù cuộc nói chuyện đang được ghi âm. "Vui lòng cho biết tên cô?" “Eriksson, là Lena Eriksson. Con trai tôi là Roger. Roger Eriksson.” “Con cô bao nhiêu tuổi?" “Mười sáu. Tôi vẫn chưa gặp lại nó kể từ chiều hôm qua." Klara chú ý đến độ tuổi thằng bé và nhận ra mình phải hành động ngay. Tất nhiên là nếu thằng bé đã mất tích. “Hồi mấy giờ chiều hôm qua?” “Nó dông mất lúc năm giờ.” Vậy là hai mươi hai giờ trước. Hai mươi hai giờ mấu chốt nếu đó là một vụ mất tích. “Cô có biết con mình đi đâu không?” “Có, đi gặp Lisa." “Lisa là ai?” “Bạn gái nó. Hôm nay tôi đã gọi cho con bé, nhưng nó bảo con tôi rời khỏi chỗ nó lúc mười giờ tối qua." Klara gạt bỏ con số “hai mươi hai” và thay bằng “mười bảy”. “Sau đó thằng bé đi đâu?" “Con nhỏ không biết. Nó nghĩ là về nhà. Nhưng con trai tôi vẫn chưa về nhà. Nó không hề về nhà cả đêm hôm qua. Và bây giờ sắp hết một ngày nữa rồi.” Và cô đã không gọi điện báo cho đến tận bây giờ, Klara nghĩ. Trong cô bỗng bật ra ý nghĩ rằng người phụ nữ ở đầu dây bên kia đã không cuống lên. Mà thờ ơ. Cam chịu. “Họ của Lisa là gì?” “Hansson." Klara ghi lại họ của con bé. “Roger có dùng điện thoại di động không? Cô thử gọi cho thằng bé chưa?” “Rồi, nhưng không ai trả lời.” "Và cô không biết nó có thể đi đâu? Liệu thằng bé có qua đêm ở chỗ bạn bè hay nơi nào đại loại như thế không?” “Không, như thế thì nó đã gọi cho tôi rồi.” Lena Eriksson ngưng lại một chút và Klara đoán chừng là người kia đang nghẹn ngào, nhưng khi nghe làn hơi rít vào ở đầu dây bên kia, cô nhận ra là cô ta đang kéo một hơi thuốc dài. Cô nghe thấy Lena thổi khói thuốc ra. “Nó đã biến mất.” Mời bạn đón đọc Bí Mật Đen Tối của tác giả Michael Hjorth & Hans Rosenfeldt & Nguyễn Hữu Công (dịch).