Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đông Lai Bác Nghị - Dương Tấn Tươi

Nếu không có tài dàn xếp của bao sự ngẫu nhiên thì đâu có quyển Đông-Lai bác nghị nầy ! Đầu tiên, một vị túc nho của chốn Thần kinh, lúc tản cư vào Sài-thành, ngẫu nhiên đến trú ngụ cạnh phòng khám bịnh của chúng tôi. Đó là việc hệ trọng : vì đối với chúng tôi, bực đại nhân ấy là một người thầy đáng kính, mặc dầu Cụ vẫn có nhã ý tự xem mình là bạn vong niên ; vì đối với quyển sách này, bực lão thành ấy mới thật là người cha tinh thần, mặc dù Cụ ấy vẫn một mực chối từ không nhìn nhận. Vả lại, vì muốn giữ vẹn cốt cách của nhà ẩn dật, Cụ yêu cầu chúng tôi đừng nêu danh Cụ vào trong sách ! Thật đáng phục thay đức tính khiêm tốn của bực nho phong, mà cũng khổ cho chúng tôi vì phải dài dòng nhắc lại tiểu sử của bổn dịch mà chỉ được phép dùng một chữ « Cụ » vỏn vẹn để kể cho tròn câu chuyện ! Thì cũng bởi vai tuồng quan trọng của vị túc nho ấy trong khi phiên dịch cho nên chúng tôi xin độc giả niệm tình tha thứ khi thấy chúng tôi lắm lời nói về thân thế của một người đương cầu xin đời đừng nhắc đến tên. Sanh trưởng trong một thế gia của chốn đế đô, cha làm Thượng thơ bộ Lễ, thì khi vào sân Trình, Cụ chiếm bằng cử nhân, việc ấy, theo chúng tôi, cũng chưa đáng kể. Đáng nể là khi rời cửa Khổng để theo tân học, chỉ trong mấy năm Cụ theo kịp các bạn đồng niên nơi lớp tú tài « Tây » ! Rồi sang Pháp để trau giồi học mới, rồi xông pha nơi bể hoạn, rồi cuối cùng nối được chức của cha, thì với sức học đó, với thông minh đó, âu cũng là một việc có thể đoán trước được. Ngày nay, đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, Cụ chỉ còn giữ lại một ham muốn là tận hưởng chữ « nhàn » trong thời hưu trí. Muốn được thế, Cụ ẩn mình trong đám rừng người để thưởng thức một câu thơ đẹp với chén trà ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương : « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ». Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận : « Thiếu Hán học là một sự thiệt thòi rất lớn ». Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc. * Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính, thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu. Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình. Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc » bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi : « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc quyển Đông-Lai bác nghị rồi ? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận : « Chẳng những chưa được đọc mà như phần đông người Việt-Nam, chúng tôi chưa từng nghe đến tên ! » Vì bác-sĩ khen ngợi văn học cổ Trung-Hoa, trí tôi vùng nhớ lại câu chuyện hai mươi năm về trước khi còn thơ ngây cặp sách vào trường để ăn mày chữ. Trong những giờ các bạn được nghỉ ngơi hoặc nô đùa chạy giỡn thì chúng tôi bị ông bác ngồi kèm bên cạnh ép buộc đọc một vài trang Đông-Lai bác nghị. Đó là lời phê-bình về hành vi và hạnh kiểm của các nhân vật đời Đông-Chu. Câu văn huyền diệu, lập luận chặt chẽ, tâm lý sâu sắc là ba đặc điểm của tác phẩm bất hủ đó. Nhưng đối với bộ óc non nớt của đứa trẻ lên mười thì làm sao thưởng thức nổi vẻ đẹp của câu văn hay và sự điêu-luyện của bài luận khéo ? Vậy mà, ông bác vẫn bắt buộc chúng tôi « ê » « a » đọc cho xong vì : « nơi trường, thầy dạy cháu làm văn ; nơi đây, bác dạy cháu làm người ». Lời của bác thật là chí lý ! Thời-đại Đông-Chu là khoảng đen tối nhứt của lịch-sử Trung-Hoa, vì lúc ấy, xã hội đương vươn mình thay đổi lốt, nên gây ra bao sự xáo trộn lớn lao. Bực thánh phải chung đụng với sát nhân, hiền triết phải ăn ở cùng gian tà, rồi tranh đấu chống chọi nhau nẩy sanh ra trăm ngàn việc, hay dở đều có. Tất cả hai mặt – tốt và xấu, thanh với tục – của con người đều phô bày. Nếu gặp một nhà phê-bình có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, lại thông tâm lý, hiểu chánh trị, khảo sát thời kỳ ấy thì chắc chắn sẽ để lại cho đời một tác phẩm vô cùng hữu ích. Lữ Đông-Lai có đủ điều kiện ấy cho nên quyển Bác-nghị là một chiếc thuyền đã cắm sào ở ngoài dòng thời gian… Khi đọc quyển Đông-Lai, chúng ta có cảm giác đương nghe một tay thợ chuyên môn giải thích về các bộ phận trọng yếu của guồng « máy lòng » rồi chỉ cho chúng ta thấy các nguyên do thường làm cho động cơ ấy chạy. Cũng bởi « động cơ » và nguyên do ấy không thay đổi cho nên lời của Đông-Lai luận về một thời vẫn có thể giúp ích cho người trong muôn thuở. Vì lẽ đó, lúc trẻ, chúng tôi oán trách ông bác bao nhiêu, thì ngày nay, đã tránh được nhiều kinh nghiệm chua cay, chúng tôi lại cám ơn ông bác bấy nhiêu ! Đáp lời yêu cầu, ông Trương-Quan phải nhờ người về tận Thượng-hải mua giùm cho chúng tôi một bổn. Của báu cầm tay, chúng tôi đến nhờ Cụ dẫn giải giùm điều thắc mắc : « Tại sao một tác phẩm giá trị dường kia, mà từ xưa, trong xứ ta chưa từng nói đến ? » Cụ giảng : « Những sách Trung-Hoa được phiên dịch và truyền bá ở Việt-Nam phần nhiều vì ba cớ : Một là bởi có nhiều người bị bắt buộc phải đọc đến, cho nên bàn tới cũng nhiều, dịch ra không ít, đó là những sách có tên trong chương trình thi cử. Hai là các thứ sách quyến rủ người vì cốt chuyện, ấy là lịch sử tiểu thuyết tức là truyện. Còn về loại thứ ba là vận văn, vì đọc lên nghe êm tai, lại dễ nhớ, nên có nhiều người ưa thích. « Đông-Lai bác nghị không đứng vào ba hạng đó. Vì là văn phê bình nên đòi hỏi ở độc giả một trí phán đoán mà người đời ít hay dùng đến. Và là văn nghị luận nên khô khan mà bắt buộc người đọc phải suy xét mới thưởng thức. Không có vần, thiếu cốt chuyện hấp dẫn, lại không được ghi vào chương trình thi cử, như vậy ít người biết đến thì cũng là một chuyện không lạ. Nói thế không phải bảo sách ấy không có độc giả ! Ngoài số thí sinh hiếu kỳ nên tìm Đông-Lai đọc trước khi vào đình thí, phần đông, các người mê thích sách đó toàn là những kẻ đã đỗ đạt, ra làm quan, ưa dùng quyển Bác-nghị để kiểm điểm hành động trong lúc chăn dân hay khi xử thế. Rồi đến lúc chiều tà bóng xế, khi đã mỏi mệt thì trí muốn yên nghỉ hơn là dịch sách ? Vả lại đối với các bực tiền bối ấy, dịch hay viết sách là một sự ngoài tưởng tượng. Đối với họ, học là hành nghĩa là đem ra áp dụng, để làm tròn bổn phận của mình, chớ không dám học để truyền cho ai cả. » * Rồi theo lệ thường, Cụ giải thích, chúng tôi ghi chép. Cả thảy được tám mươi bốn bài. Mỗi bài là một sự ngạc nhiên. Trong văn chương Trung-Hoa, chúng ta thường bực mình vì gặp lời nhiều hơn ý. Với Lữ Đông-Lai, câu văn đẹp đẽ vẫn đi kèm với tư tưởng cao thâm. Lắm bài không đầy gang tấc mà chất chứa ý dài muôn vạn dặm. Càng suy xét, càng thấy sâu rộng. Về mặt tâm lý thực nghiệm và chánh trị thực hành, chưa chắc có quyển sách nào trong văn chương Âu-Mỹ sánh kịp Đông-Lai bác nghị. Ấy là chưa bàn đến lý luận, phần cốt yếu của sách. Mở đầu cho mỗi bài, tác giả nêu ra một tư tưởng căn-bản, nhiều khi không dính-líu với cốt chuyện đem ra phê-bình. Độc-giả còn tưởng nhà văn lạc đề, thì chỉ vài câu, đã móc dính đầu-đề với ý-niệm căn-bản. Rồi dùng câu chuyện đem phê-bình để chú-thích tư-tưởng chánh ghi trên đầu bài. Trước với sau, đầu với đuôi đều ăn khớp, các bộ-phận liên-lạc cùng nhau một cách tế-nhị làm cho độc-giả tưởng là đương nghe nhà toán-học khéo chứng-minh một định-lý của hình-học. * Rồi một hôm, mấy người bạn tình-cờ đến viếng giữa giờ giảng dạy của cụ, đó là ngẫu nhiên thứ ba. Cũng như chúng tôi, các bạn đều bị câu văn trong-sáng và lập-luận huyền-diệu của Đông Lai hấp-dẫn nên mới khuyên chúng tôi cho xuất-bản. Từ-chối là sự dĩ-nhiên, vì bổn-tâm của chúng tôi là chỉ học cho mình… Lý-luận của các bạn thật cũng chặt-chẽ : « Hiện nay, quốc-văn đương nghèo… học-sanh thiếu món ăn tinh-thần, v.v…. Trong lúc các tiểu-thuyết khiêu-dâm chường mặt trên báo và trong hàng sách thì ôm giữ cho mình một tác-phẩm có giá-trị là một việc… ích kỷ, một tội to đối với nền học-vấn ». Không phương chối-cãi, đành phải nghe theo. Từ đây mới gặp bao nỗi khó … * Trước hết, nếu cho in vỏn-vẹn tám mươi bài nghị-luận của Đông-Lai mà chẳng có những đoạn Xuân-Thu, Tả-Truyện thì làm sao độc-giả lãnh-hội được ? Vả lại, lắm khi, vì bắt-bẻ một câu hoặc một chữ của Tả-Truyện mà Đông-Lai viết thành bài « bác-nghị ». Vậy dịch Xuân-Thu và Tả-Truyện song-song theo « bác-nghị » là một sự tối-cần. Cũng là một điều quá khó. Các bạn chắc đều biết Xuân-Thu là một trong năm quyển kinh của Đức Khổng-tử. Đó là bộ sử nước Lỗ do Ngài sửa-định, chép từ đời Lỗ Ẩn-công cho đến Lỗ Ai-công gồm có 240 năm (từ 721 tới 481 trước tây lịch). Với quan-niệm hiện-tại về sử học khi chúng ta trịnh-trọng lật quyển Xuân-Thu thì sẽ vô-cùng ngạc-nhiên hay thất-vọng. Vì đó chỉ là một mớ sử liệu chép rời-rạc, dường như gặp chuyện thì ghi, không màng đến sự liên-lạc hay tương-quan. Lại có nhiều việc quan-trọng mà không chép. Khi chép thì quá vắn-tắt gần như đơn-sơ. Thí-dụ : bà Khương-thị vì thương con không đồng nên gây ra cuộc xung-đột giữa Trịnh Trang-công và em là Cung Thúc-Đoạn thì nào là quỷ-kế của anh, nào là tham-vọng của em, nào là lời bàn của bá-quan rồi đến trận đánh, với cuộc vây thành phá lũy, cho đến khi cùng đường Thúc-Đoạn chạy vào xứ Yển. Trịnh Trang-công giam mẹ, thật là bao nhiêu gây cấn mà trong Xuân-Thu chỉ có một câu : « Mùa hạ, tháng năm, Trịnh-bá thắng Đoạn tại Yển ». Có lúc còn vắn tắt hơn, như « Tề cứu Hình » hoặc « Địch đánh Vệ ». Vậy thì chân giá trị của bộ Xuân-Thu ở đâu mà vẫn được xem là quyển kinh để « định công luận, đoán án cho muôn đời » ? Tại sao chính Đức Phu-Tử cũng yêu cầu người đời « biết cho ta » hay « buộc tội cho ta » thì nên do bộ Xuân-Thu ? Như vậy, bực thánh và dư luận cổ kim đã lầm chăng ? Hoặc giả, vì quan niệm về sử học của xưa với nay quá khác nhau mới có điều chinh lịch đó ? Nếu thật thế thì tại sao một học giả của thời đại nầy, cụ Nguyễn-Văn-Tố, một người mà chưa ai dám ngờ vực về sức học uyên thâm, cũng chưa ai dám nghi đến sự thận trọng của ngòi bút, đã viết : « Muốn thưởng thức cái hay của bộ Xuân-Thu, phải nhận thấy hương nồng của triết lý, thơm ngát của luân lý, mùi vị của chánh trị ở trong kinh đó. » Làm sao những câu văn vắn-tắt sơ sài kia lại chứa được bao nhiêu mùi, hương và vị ? Chỉ vì Đức Phu-Tử khéo dùng một phương pháp kín đáo : quên TÊN và VIỆC. Sự quên hữu ý, sự cố tâm quên có nghĩa là chê bai, là khiển trách. Như trong thí dụ trên, không chép tên Trịnh Trang-công chỉ gọi Trịnh-bá là chê lỗi chẳng biết dạy em. Như Thúc-Tôn Kiểu-Như, đại phu nước Lỗ chuyên chế mạng lịnh qua rước vợ ở nước Tề thì Xuân-Thu chép : « Vợ Kiểu-Như tên Phụ-Hỉ ở Tề về. » Như vua của nước Châu, tên Thiệt, chức là công, thường gọi là Châu-công, vì sợ loạn nên bỏ xứ trốn qua Tào, sau cùng qua triều Lỗ, Xuân-Thu chỉ chép : « Thiệt đến ». Còn vua nước Kỷ, tước là bá, khi qua triều Lỗ lại dùng lễ của man di, Xuân-Thu chỉ biên : « Kỷ đến triều ». Chẳng những thiếu là chê, có khi thừa cũng là khiển trách, như thêm tên tộc của các vị vua có lỗi. Muốn chỉ trích vua Vệ dùng kế tiểu nhơn để chiếm nước Hình thì Xuân-Thu ghi : « Mùa xuân, tháng giêng, ngày bính ngọ, Vệ-hầu tên Hủy diệt Hình. » Khi muốn tỏ sự hư hèn của Tống Chiêu công thì chép : « Mùa đông, tháng mười một, người Tống giết vua tên là Chử-cữu. » Nhưng phần nhiều khi Xuân-Thu thêm tức là khen, nếu ghi cả chức tước. Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống – công tử Ấn và Đãng Ý-Chư – Xuân-Thu chép : « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan đại tư thành trốn qua Lỗ ». Như câu : « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết. Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý. Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường : được một tiếng khen của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa bao nhiêu nỗi khó : phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn lo-sợ thừa lời. * Thiếu một chữ là chê bai, không chép một việc là trách phạt, thật là cực kỳ tinh khéo ! Nhưng chỉ khéo đối với những độc-giả thông lịch-sử Trung-Hoa thời Đông-Chu ; còn với những người khác, không thấy chép, tưởng không có chuyện, thì sự thưởng phạt sẽ vô hiệu quả. Vì vậy bộ Xuân-Thu cần có chú-giải. Chính là Tả-Truyện, một quyển sử đi song song với kinh Xuân-Thu do ngọn bút cứng rắn của Tả Khâu-Minh chép. Nơi đây, cần mở một dấu ngoặc để bàn về tên của nhà sử trứ-danh ấy. (Có nhiều học-giả – trong số ấy có thầy của chúng tôi – đọc là : Tả kỳ Minh. Vậy nên theo phần đông đọc Khâu hoặc Khưu hay theo các cụ mà đọc là Kỳ ? Sự chinh lịch nầy do tục cữ tên mà sanh ra. Số là khi có tên Khâu hay Ni (tức Khổng-Khâu, Trọng-Ni, tên của Đức Phu-Tử), hoặc Kha (tức Mạnh-Kha tên của thầy Mạnh) thì sách nho đều ghi ba chữ « nên đọc Mỗ » thành ra Khổng-Mỗ, Trọng-Mỗ và Mạnh-Mỗ. Lâu ngày – theo lời của ông Nhượng-Tống – bản in mòn đi, chữ Mỗ mất hết một nét sổ nên thành chữ Kỳ. Bọn hậu-sanh chúng tôi không phải thiếu lòng thành kính thánh hiền, nhưng thấy cần đọc cho đúng, mà chắc các đấng Phu tử, Mạnh tử, và các cụ cũng đã tha thứ khi chúng tôi đọc đến Ni và Kha. Vì vậy, từ đây nên đọc là Tả Khâu-Minh và đóng lại dấu ngoặc.) Có phải vì đứng gần cụ Khổng, một cây cổ-thọ của văn hóa Trung Hoa nên bị tàn che bóng lấp mà thân thế của Tả Khâu-Minh bị vùi mất trong biển thời gian chăng ? Chỉ còn nhớ là vị quan coi về sử của nước Lỗ noi theo ý chí của Phu tử chép lại những chuyện của kinh Xuân-Thu. Vi Khổng-tử cân nhắc ngòi bút để thưởng phạt như một vì thiên tử, nên được gọi là « Tố vương » – nhà vua không ngôi – và vì đó Tả Khâu-Minh được gọi là « Tố thần ». Nhiệm vụ của tử gia ấy là theo mỗi câu Xuân-Thu để kể chuyện. Và tất nhiên nhắc lại những đoạn không có chép trong kinh, để tỏ sự biếm nhẽ của Phu tử. Theo lối viết sử ngày xưa, mỗi bài đều có luân lý, ở đây là « lời bàn của người quân tử ». Chúng ta chớ lầm tưởng vì là quyển truyện cho nên kể lể dông dài như… bài tựa nầy. Trái lại, vừa đẽo gọt vừa cân nhắc nên câu văn trở nên gọn gàng và cứng rắn. Như tả Lỗ Trang-công đi cùng Tào Uế đánh Tề ở Trường câu : « Ngồi chung xe đến Trường-câu. Trang-công sắp ra lịnh đánh trống thúc quân. Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Chờ quân Tề xong ba hồi trống. Tào Uế bảo : « Đến lúc ! » Thua to, quân Tề chạy. Trang công sắp ra lịnh đuổi theo, Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Xuống, xem dấu xe của Tề, trở lên đứng trông lại. Bảo : « Đến lúc ! « mới có lịnh đuổi theo. Toàn thắng. » Như khi Khuất Hà đánh trận Bồ-tao, vì hoài nghi, hỏi Đấu Liêm : « – Sao không bói thử ? - Bói là để quyết điều nghi. Không nghi cần gì bói ! Rồi đem quân đánh thắng Viên, chiếm Bồ tao, minh hội xong, kéo về. » Câu văn có khi trở nên trục trặc, gút mắt vì bị bóp chặt hay thâu quá ngắn « Cho đánh trống. Tiến quân. Toàn thắng. Tiêu diệt hạ Nhược Ngao ». Trong nhiều đoạn, Tả-Truyện chỉ ghi lại vài cử chỉ mà cũng vẽ được một tâm lý phức tạp của nhân vật. Muốn tả lòng căm tức và chí gấp báo thù của vua Sở khi được tin Thân Vô-Uý bị Tống giết, Tả-Truyện chép : « Vua Sở hay, giũ áo đứng lên, đi chơn vào thất. Vào đến cung, giày đem tới. Ra cửa cung, gươm dưng tới. Đến chợ Bồ tiêu, xa giá đẩy tới. Mùa thu, tháng chín, Sở vây kinh thành Tống. » Dùng câu văn tuy vắn mà sâu để thuật lại những mẩu chuyện tuy đơn sơ mà đầy ý nghĩa có thể làm gương đáng theo hay nên tránh cho muôn đời, Tả-Truyện thành một áng văn tuyệt tác, chẳng những được văn nhân sùng bái mà còn được võ tướng kỉnh mộ. Chính những tay cung kiếm lại mắc phải « bịnh Tả-Truyện », là vì đi đến đâu, trong hổ trướng hay khi điều khiển ở trận tiền đều giữ cận bên mình quyển sử của Khâu-Minh. Nhìn nhận giá trị của văn Tả-Truyện là nhìn nhận sự khó dịch của bộ sử đó. Vì diễn tả một tư tưởng của người bằng tiếng của mình, việc đó còn có thể làm được. Còn chuyển dịch một câu văn hay từ tiếng nầy qua tiếng nọ thật là một chuyện quá khó. * Lẽ tất nhiên, muốn dịch hai quyển Xuân-Thu và Tả-Truyện, chúng tôi hoàn toàn nhờ nơi Cụ. Từng chữ, từng lời. Cụ kiên tâm giải thích rồi chịu khó kiểm duyệt. Khi nghe các bạn khuyên tôi xuất bản, thản nhiên, Cụ dạy : « Tùy nơi anh ! Nếu thấy có thể giúp ích được thì cứ tự tiện. Còn tôi chỉ là người của thế hệ trước. Đã qua rồi. Theo thế hệ đó, muốn đọc sách thánh hiền cần phải thông Hán học mới trọn hiểu tinh thần. Anh chớ quên : theo chúng tôi, Hán-văn là sự cần thiết, không thể không ; còn phiên dịch là sự bất đắc dĩ… Anh cũng nên nhớ giùm tánh tôi ưa thanh tịnh, ít ham đời nói đến tên… » Lời nhắc nhở ấy – đối với chúng tôi – là một mạng lịnh. Vì sự yêu cầu đó mới có lời phân trần lè nhè nầy. Chớ đâu phải vì chúng tôi. Nào có muốn phô trương thằng tôi khả ố nầy làm gì cho rườm tai độc giả ! Vì công lớn của cụ trong sự phiên dịch ; Vì sự giúp đỡ của các bạn : trước là ông Trương Quan cho sách, sau là các bạn Đỗ-Thiếu-Lăng giúp tài liệu, bạn Nguyễn-Duy-Cần cho xem vài bài Đông-Lai đã dịch từ lâu. Nhứt là anh Lê-Thọ-Xuân, cặn kẽ lúc chỉ bảo, tận tình khi sửa chữa, tỉ mỉ trong ấn loát. Một người « Anh » với nghĩa tốt đẹp của danh từ ; Vì sự lương thiện của trí óc trong khi trước tác ; Vì sự thành thật đối với mình, với đời, với nền văn học ; Chúng tôi trân trọng xin đọc giả nhận rõ điều nầy : Khi gặp những câu dịch gọn gàng, ăn khớp với nguyên văn, bạn nên nhớ đó là công, đó là tài của Cụ, thầy chúng tôi ; Khi thấy câu văn bất thành cú, khi gặp những lỗi lầm, chỗ dịch sai, bạn nên chắc chắn là vì sự dốt nát của DƯƠNG-TẤN-TƯƠI Mời các bạn đón đọc Đông Lai Bác Nghị của bác sĩ Dương Tấn Tươi.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giải Mã Cách Ngôn Tây Du Ký (Thuật Xử Thế)
Tây Du kí của tác giả Ngô Thừa Ân, ra đời cách đây hơn năm trăm năm, là một trong bốn cuốn tiểu thuyết lớn hay nhất của Trung Quốc (Tam quốc chí, Thủy hử, Tây du kí, Hồng lâu mộng). Tây du kí là bộ tiểu thuyết vĩ đại, mượn thế giới thần thoại để phản ánh hiện thực xã hội đen tối lúc bấy giờ. Do bắt nguồn từ những câu chuyện dân gian, nên ngôn ngữ Tây du kí dùng nhiều thành ngữ, tục ngữ, các nhà nghiên cứu gọi là cách ngôn, là những hạt minh châu lấp lánh, tạo thêm vẻ sáng, vẻ đẹp cho tác phẩm. Mỗi câu cách ngôn như một ngọn đèn soi sáng trí tuệ, lương tri; có thể giúp người ta nâng cao phẩm đức, tự thay đổi tính cách, bỏ điều xấu, làm điều tốt, cải biến vận mệnh, lịch lãm trong việc đối nhân xử thế, thành công trong sự nghiệp và sống đẹp hơn. Đó là tính giáo dục của cách ngôn, là mục đích của nền giáo dục nhân bản. Sách tổng cọng có 79 câu ngắn gọn, dễ nhớ, thông dụng và với 79 câu chuyện minh họa được trích từ trong sử sách. Mỗi câu cách ngôn như chiếc cầu nối giữa thế giới thần thoại với cõi người, giữa sự tưởng tượng kì ảo, biến hóa, với hiện thực sinh động; tạo nên điều kì thú của sách. Có người cho rằng, khi đọc sách không nên quá câu nệ là sách đã viết gì ? Mà hãy hỏi là những gì sách đã gợi, đã đánh thức những cái vốn có trong ta ? Từ khi ra đời, đến lúc lớn khôn, ai cũng thuộc một số câu thành ngữ, tục ngữ, cách ngôn, gần gũi, chân quê, do cha ông truyền lại. Do đời sống bận rộn, hoặc không lưu tâm, nên chúng chìm khuất, như một túi khôn quý giá, bị bỏ quên cùng năm tháng. Khi đọc sách cuốn sách này, những câu cách ngôn, tục ngữ, thành ngữ dân dã xưa cũ ấy, sẽ được đánh thức; túi khôn cha ông truyền lại vẫn mới mẻ tinh khôi, giúp ích cho chúng ta rất nhiều trên những nẻo đường đời. *** Về nguyên tác Tây Du Ký: Tây du ký là đỉnh cao sáng tạo trong lịch sử phát triển về tiểu thuyết cổ điển của Trung Quốc). Chủ nghĩa lãng mạn tích cực là đặc sắc nghệ thuật chủ yếu của nó. Nó đã kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của thần thoại cổ đại Trung Quốc, đã thể hiện sức sáng tạo vĩ đại và sức tưởng tượng phong phú của dân tộc Trung Hoa. "Chủ nghĩa lãng mạn là cơ sở của thần thoại" (lời của M.Goocki) Tây du ký chính là một bộ tiểu thuyết thần thoại trường thiên vĩ đại, lãng mạn tích cực. Thông qua hình thức ảo tưởng thần kỳ và nội dung bắt nguồn ở hiện thực mà cao hơn hiện thực. Tây du ký đã phản ánh đầy đủ, khúc chiết, phức tạp lý tưởng cao quý và đời sống hiện thực của nhân dân. ... Tây du ký có nội dung bắt nguồn ở hiện thực mà lại cao hơn hiện thực. Nó thông qua hình tượng nhân vật mà biểu hiện ra. Hình tượng nhân vật của Tây du ký đều có đầy đủ ý nghĩa hiện thực, nhưng đều không na ná hoặc đơn giản bắt chước hiện thực, cũng không khái quát chung chung mà cao hơn hiện thực nhiều. ở đây thiện thì càng thiện, ác thì càng ác, đều từ trên phương hướng của bản thân mình vượt cao hơn hiện thực mà đi vào phạm vi ảo tưởng hóa, lý tưởng hóa. Trong Tây du ký hình thức kỳ ảo kết hợp với nội dung hiện thực cực lớn, đã đạt tới sự thống nhất khéo léo. Chính vì thế sự tưởng tượng của Tây du ký mới được biểu hiện ra có ý nghĩa biết bao, khỏe khoắn tốt đẹp, sinh động và thú vị biết bao! Hợp tình hợp lý khiến người tin phục và sáng ngời trí tuệ biết bao! Tây Du Ký (phồn thể: 西遊記; giản thể: 西游记; bính âm: Xī Yóu Jì; Wade-Giles: Hsi Yu Chi), là một trong những tác phẩm kinh điển trong văn học Trung Hoa. Được xuất bản với tác giả giấu tên trong những năm 1590 và không có bằng chứng trực tiếp còn tồn tại để biết tác giả của nó, nhưng tác phẩm này thường được cho là của tác giả Ngô Thừa Ân. Tiểu thuyết thuật lại chuyến đi đến Ấn Độ của nhà sư Huyền Trang (Đường Tam Tạng) đi lấy kinh. Trong tiểu thuyết, Trần Huyền Trang (陳玄奘) được Quan Âm Bồ Tát bảo đến Tây Trúc (Ấn Độ) thỉnh kinh Phật giáo mang về Trung Quốc. Theo ông là 4 đệ tử - một khỉ đá tên Tôn Ngộ Không (孫悟空), một yêu quái nửa người nửa lợn tên Trư Ngộ Năng (豬悟能) và một thủy quái tên Sa Ngộ Tĩnh (沙悟淨) - họ đều đồng ý giúp ông thỉnh kinh để chuộc tội. Con ngựa Huyền Trang cưỡi cũng là một hoàng tử của Long Vương (Bạch Long Mã). Những chương đầu thuật lại những kì công của Tôn Ngộ Không, từ khi ra đời từ một hòn đá ở biển Hoa Đông, xưng vương ở Hoa Quả Sơn, tìm sư học đạo, đại náo thiên cung, sau đó bị Phật Tổ Như Lai bắt nhốt trong Ngũ Hành Sơn 500 năm. Truyện kể lại Huyền Trang trở thành một nhà sư ra sao và được hoàng đế nhà Đường gửi đi thỉnh kinh sau khi hoàng đế thoát chết.[cần dẫn nguồn] Phần tiếp của câu chuyện kể về các hiểm nguy mà thầy trò Đường Tam Tạng phải đối đầu, trong đó nhiều yêu quái là đồ đệ của các vị Tiên, Phật. Một số yêu tinh muốn ăn thịt Huyền Trang, một số khác muốn cám dỗ họ bằng cách biến thành những mỹ nhân. Tôn Ngộ Không phải sử dụng phép thuật và quan hệ của mình với thế giới yêu quái và Tiên, Phật để đánh bại các kẻ thù nhiều mánh khóe, như Ngưu Ma Vương hay Thiết Phiến Công chúa,... Cuối cùng khi đã đến cửa Phật, thầy trò họ lại phải đổi Bát vàng của Hoàng đế Đường Thái Tông tặng để nhận được kinh thật. Đây cũng được tính là một khổ nạn cho bốn thầy trò. Khi qua sông Thông Thiên, Tam Tạng gặp lại Lão Rùa năm xưa chở ông qua sông. Khi đang chở Tam Tạng qua giữa sông, Lão Rùa hỏi Tam Tạng rằng ông có hỏi Phật Tổ giúp lão rằng bao giờ lão tu đắc chính quả không, vì Tam Tạng quên hỏi nên bị Lão Rùa hất cả bốn thầy trò lẫn kinh văn xuống sông. Kinh văn bị ướt, sau khi phơi khô một số bị rách. Vì thế mà kinh về đến Trung thổ không được toàn vẹn. Mời các bạn đón đọc Giải Mã Cách Ngôn Tây Du Ký (Thuật Xử Thế) của tác giả Đông A Sáng.
12 Quy Luật Cuộc Đời: Thần Dược Cho Cuộc Sống Hiện Đại
Nếu được hỏi chính mình một câu thật thẳng thắn thì chắc chắn chúng ta sẽ muốn bắt đầu bằng câu hỏi này: “Tại sao cuộc sống lại xấu xa, nặng nề và mệt mỏi đến thế?” Chẳng phải là mọi lúc, mọi nơi, nhưng đấy là câu hỏi vẫn đeo đẳng mỗi chúng ta; có lúc nó như động cơ thôi thúc chúng ta sống, sống để tìm ra câu trả lời cuối cùng; có lúc nó như hòn đá tảng cản đường, như muốn lấy nốt đi của chúng ta chút ý chí cuối cùng, khiến chúng ta muốn hủy hoại cuộc sống của mình. Cứ thế cho đến tận cùng. “Mọi người đều hành động như thể nỗi đau của họ là có thật – để rồi sau cùng nó là thật. Nỗi đau quan trọng hơn cả những vấn đề vật chất.” Có cách nào không, để mỗi chúng ta tìm thấy được ý nghĩa của cuộc sống và vượt qua được những xấu xa, nặng nề và mệt mỏi của nó mà sống một cuộc đời an vui? Rất nhiều người đi tìm câu trả lời, tìm trong triết học, tìm trong khoa học, tìm trong văn chương và nghệ thuật; và cho dù đã có rất nhiều câu trả lời được công bố bằng cách này hay cách khác, thì dường như điểm chung của chúng đều nằm ở kết luận rằng: Chúng ta mệt mỏi với cuộc sống là vì đã sống sai ở đâu đó; để tốt đẹp và thoải mái hơn, hãy biết tuân theo các quy luật! “12 Quy luật cuộc đời: Thần dược cho cuộc sống hiện đại” của Jordan B. Peterson đem đến cho người đọc 12 nguyên lý mà tác giả cho là phép màu giữa cuộc sống đầy hỗn độn hiện nay. Việc hiểu được thế giới đã từng như thế nào, hiện nay đang ra sao và ngày mai có thay đổi gì hoàn toàn không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện; mục đích là biết phải ứng xử thế nào trước thế giới ấy. Các quy luật của Jordan Peterson sẽ dẫn dắt bạn đi trên con đường tìm ra các lựa chọn ứng xử phù hợp nhất. *** [Review Sách] "12 Quy Luật Cuộc Đời": Đứng Thẳng Và Hiên Ngang - Quy Luật Sống Đầy Ý Nghĩa Hãy tìm kiếm nguồn cảm hứng để trở thành con tôm hùm chiến thắng vinh quang, với trí tuệ thực tiễn đã đúc kết qua 350 triệu năm. Và hãy đứng thẳng thật hiên ngang. Có thể bạn là một kẻ thất bại. Và cũng có thể không phải – nhưng nếu đúng thế, bạn không nhất thiết duy trì tình trạng này. Có thể bạn chỉ có một thói quen xấu. Thậm chí có thể bạn chỉ là một người tập hợp các thói quen xấu. Tuy nhiên, nếu thực tình là bạn có một phong thái thảm hại. Như Jordan B. Peterson – tác giả của cuốn 12 quy luật cuộc đời có viết rằng: “Điều này sẽ khiến bạn ít hạnh phúc, u buồn và lo lắng nhiều hơn, cũng như nhiều khả năng chùn bước trong khi phải đứng lên bảo vệ chính mình”. Nó cũng sẽ làm giảm khả năng mà bạn được sống trong một khu dân cư tốt, tiếp cận với các nguồn tài nguyên chất lượng cao nhất và có được một người bạn đời khoẻ mạnh, đáng ao ước. Nó sẽ khiến bạn lạm dụng cocain hay bia rượu, vì bạn đang sống trong thực tại của một thế giới với đầy những tương lai không chắc chắn. Nó sẽ khiến bạn tăng khả năng mắc bệnh đau tim, ung thư và chứng suy giảm trí lực. Suy cho cùng, điều này không hề tốt. Vậy làm thế nào để thoát khỏi thảm cảnh trên? Chỉ có một cách “ĐỨNG THẲNG VÀ HIÊN NGANG” Đứng thẳng hiên ngang nghĩa là chấp nhận trách nhiệm kinh hoàng của cuộc sống với đôi mắt mở to. Nó đồng nghĩa bạn đã tự nguyện quyết định biến đổi những hỗn loạn tiềm ẩn thành hiện thực của một trật tự mà bạn chịu được. Nó đồng nghĩa bạn đã chấp nhận gánh nặng của sự dễ tổn thương mà bạn tự ý thức được và chấp nhận sự kết thúc của “Thiên Đường” vô thức thời thơ ấu, nơi mà sự hữu hạn và chết chóc chỉ được lĩnh hội một cách mơ hồ. Nó đồng nghĩa bạn đã sẵn sàng chấp nhận những hy sinh cần thiết để hình thành ra một thực tại hữu ích và đầy ý nghĩa (hay hành động để làm hài lòng Thượng thế theo cách nói cổ xưa). Đứng thẳng hiên ngang đồng nghĩa bạn đang xây dựng một con thuyền lớn của Nô-ê để bảo vệ thế giới khỏi trận đại hồng thủy, dẫn đường cho con người băng qua sa mạc sau khi họ thoát khỏi ách bạo tàn, lên đường rời xa đất nước và quê nhà yên bình và lên tiếng cảnh báo những kẻ bỏ mặc trẻ em và góa phụ. Nó đồng nghĩa với vác một cây thánh giá, đánh dấu X lên chỗ giao nhau khủng khiếp giữa bạn với Hữu thể. Nó đồng nghĩa với đánh đuổi cái trật tự chết chóc, khắc nghiệt và bạo tàn trở về chốn hỗn loạn nơi nó sinh ra; nó đồng nghĩa bạn luôn đứng vững trước sự không chắc chắn tiếp theo và sau cùng tạo nên một trật tự mới tốt đẹp, ý nghĩa và hữu ích hơn. Vì vậy, hãy chú ý kỹ phong thái của mình. Hãy thôi ủ rũ và khom người. Hãy nói ra những suy nghĩ của mình. Hãy thúc đẩy khao khát của bản thân, như thể bạn có quyền làm thế – chí ít cũng có quyền như người khác. Hãy bước hiên ngang và nhìn thẳng về phía trước. Hãy dám đương đầu với hiểm nguy. Hãy thúc đẩy chất serotonin cuồn cuộn chảy qua các đường dẫn truyền thần kinh đang khao khát sự tác động êm dịu của nó. Mọi người, bao gồm cả bạn, sẽ bắt đầu cho rằng bạn có năng lực hoặc có tài (chí ít nhất cũng không kết luận ngay điều ngược lại). Khi bạn cảm nhận được những phản ứng tích cực đang khuyến khích mình, bạn sẽ bắt đầu thấy bớt lo lắng. Sau đó, bạn thấy mình dễ bận tâm hơn đến những gợi ý tinh tế trong xã hội mà mọi người trao đổi khi họ giao tiếp. Các cuộc trò chuyện của bạn cũng sẽ trôi chảy và bớt bị ngắt quãng một cách ngượng ngùng hơn. Điều này tạo thêm cơ hội cho bạn gặp gỡ mọi người, tương tác và gây ấn tượng với họ. Cứ như thế, bạn sẽ không chỉ thực sự tăng khả năng mang những điều tốt đẹp đến với mình – mà còn giúp bạn cảm thấy khá hơn khi điều tốt đẹp ấy xảy đến nữa.Như vậy, khi được củng cố và khích lệ, bạn có thể lựa chọn đón nhận Hữu thể và thúc đẩy, cải thiện nó. Khi được truyền thêm sức mạnh, bạn có thể đứng vững ngay cả khi người thân yêu của mình mắc bệnh, khi cha mẹ qua đời và cho phép người khác tìm kiếm sức mạnh cùng với mình, thay vì để họ đắm chìm trong nỗi tuyệt vọng. Khi được khích lệ, bạn sẽ bắt đầu chuyến du hành của cuộc đời mình để mình được lên tiếng và tỏa sáng trên ngọn đồi Thiên Đường, cũng như theo đuổi vận mệnh chân chính của bản thân. Và rồi, ý nghĩa cuộc đời bạn sẽ đủ để giữ cho những tác động hủy hoại của nỗi tuyệt vọng chết chóc tránh xa. Sau đó, bạn có thể chấp nhận gánh nặng khủng khiếp của Thế giới, và tìm thấy niềm vui. Cuốn sách “12 rules for life: An Antidote to Chaos” là một quyển sách được xuất bản vào năm 2018 và vươn lên trở thành cuốn sách Best seller của nhiều nước trên thế giới như Canada, Mỹ, Anh… Công ty Cổ phần Văn hóa Sách Sài Gòn (Saigon Books) đã mua được bản quyền và dự kiến sách sẽ được xuất bản vào tháng 02/2020 với tựa tiếng Việt là 12 quy luật cuộc đời: Thần dược cho cuộc sống hiện đại. *** “THẦN DƯỢC” NÀO CHO CUỘC SỐNG CỦA CHÚNG TA? Nếu được hỏi chính mình một câu thật thẳng thắn thì chắc chắn chúng ta sẽ muốn bắt đầu bằng câu hỏi này: “Tại sao cuộc sống lại xấu xa, nặng nề và mệt mỏi đến thế?” Chẳng phải là mọi lúc, mọi nơi, nhưng đấy là câu hỏi vẫn đeo đẳng mỗi chúng ta; có lúc nó như động cơ thôi thúc chúng ta sống, sống để tìm ra câu trả lời cuối cùng; có lúc nó như hòn đá tảng cản đường, như muốn lấy nốt đi của chúng ta chút ý chí cuối cùng, khiến chúng ta muốn hủy hoại cuộc sống của mình. Cứ thế cho đến tận cùng. “Mọi người đều hành động như thể nỗi đau của họ là có thật - để rồi sau cùng nó là thật. Nỗi đau quan trọng hơn cả những vấn đề vật chất.” Có cách nào không, để mỗi chúng ta tìm thấy được ý nghĩa của cuộc sống và vượt qua được những xấu xa, nặng nề và mệt mỏi của nó mà sống một cuộc đời an vui? Rất nhiều người đi tìm câu trả lời, tìm trong triết học, tìm trong khoa học, tìm trong văn chương và nghệ thuật; và cho dù đã có rất nhiều câu trả lời được công bố bằng cách này hay cách khác, thì dường như điểm chung của chúng đều nằm ở kết luận rằng: Chúng ta mệt mỏi với cuộc sống là vì đã sống sai ở đâu đó; để tốt đẹp và thoải mái hơn, hãy biết tuân theo các quy luật! Thế là các quy luật cứ lần lượt ra đời, khiến người ta tò mò lúc đầu, hứng thú lúc sau và nhiều khi thất vọng lúc cuối cùng. Nhưng, cho dù có chút băn khoăn hay e dè chăng nữa thì cũng chưa thấy có ai thờ ơ hay chối bỏ các quy luật bao giờ; chúng có sức hấp dẫn riêng, bởi chí ít chúng cũng giúp chúng ta yên lòng. Và lần này cũng vậy, quyển sách 12 Quy luật cuộc đời của Jordan B. Peterson đem đến cho người đọc 12 nguyên lý mà tác giả cho là phép màu giữa cuộc sống đầy hỗn độn hiện nay; quyển sách nhanh chóng được đón nhận và được đánh giá rất cao. “Hãy tìm nguồn cảm hứng để trở thành con tôm hùm chiến thắng, với trí tuệ thực tiễn đã đúc kết qua 350 triệu năm. Và hãy đứng thẳng thật hiên ngang.” Ngay ở quy luật đầu tiên, tác giả đã làm người đọc sửng sốt: Thế ra một sinh vật được xem là cấp thấp mà đã biết khẳng định bản thân mình để tìm chiến thắng, từ hàng triệu năm vẫn thế, thì cớ gì mà con người không làm được! Việc hiểu được thế giới đã từng như thế nào, hiện nay đang ra sao và ngày mai có thay đổi gì hoàn toàn không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện; mục đích là biết phải ứng xử thế nào trước thế giới ấy. Các quy luật của Jordan Peterson sẽ dẫn dắt bạn đi trên con đường tìm ra các lựa chọn ứng xử phù hợp nhất. Chúng ta muốn làm bạn với ai? Hẳn nhiên phải là những người lành mạnh và tốt đẹp. Nhưng đấy lại không phải là chuyện dễ dàng. “Một người tốt lành và lành mạnh là hình mẫu lý tưởng. Nó đòi hỏi bạn phải có sức mạnh và lòng can đảm để đứng gần bên một người như thế.” Thất vọng về bản thân vì thua kém người khác ư? “Sự nghiệp của bạn chán ngắt và vô nghĩa, kỹ năng làm việc nhà thuộc hàng thứ cấp, khẩu vị thì tệ kinh khủng, còn cơ thể thì béo hơn bạn bè đồng trang lứa; và chẳng ai thèm đoái hoài đến những buổi tiệc của bạn. Ai thèm quan tâm bạn có phải thủ tướng Canada hay không, khi một người khác đã thành tổng thống Mỹ?” Chẳng hề hấn gì! “Nếu bạn không thành công ở cách này, bạn có thể thử cách khác. Bạn có thể chọn ra thứ gì đó phù hợp hơn với tổ hợp các thế mạnh, điểm yếu và hoàn cảnh có một không hai của minh. Không những thế, nếu việc thay đổi trò chơi không hữu hiệu, bạn có thể sáng chế ra một trò khác.” Và còn nữa. “Một đứa trẻ biết chú ý, thay vì lơ ngơ, có thể chơi đùa mà không than khóc, hài hước mà không làm phiền, cũng như rất đáng tin cậy - đứa trẻ đó sẽ luôn có bạn bè ở bất cứ nơi nào chúng đến. Các thầy cô của nó đó cũng sẽ yêu thích nó như cha mẹ vậy. Nếu nó tỏ ra lễ phép với người lớn, nó sẽ được họ săn sóc, cười đùa và vui vẻ chỉ bảo nó. Nó sẽ vươn mình từ một thế giới rất dễ trở nên lạnh nhạt, hiềm khích và thù địch.” Nếu bạn nuôi con mình với tâm thế đó thì bạn hoàn toàn có quyền hy vọng vào tương lai của đứa trẻ, và vào tương lai của chính bạn. Hãy giữ cho căn nhà của mình ngăn nắp trước khi chỉ trích cả thế giới, và nên theo đuổi những gì có ý nghĩa chứ đừng nên theo đuổi lợi lạc. “Những thứ vị lợi chỉ có hiệu nghiệm trong khoảnh khắc. Nó nhất thời, bốc đồng và hạn chế. Trái lại, những điều có ý nghĩa là sự sắp xếp những thứ vị lợi đơn thuần vào bản giao hưởng của Hữu thể. Ý nghĩa là những lực thúc đẩy mạnh mẽ hơn cả lời ca được thể hiện trong “Khúc hoan ca” của Beethoven… khi mọi nhạc cụ đều chơi tròn vai, khi những giọng ca quy củ xếp trên tất cả những thứ ấy, và trải rộng đến toàn bộ hơi thở xúc cảm của con người, từ sự tuyệt vọng đến niềm hân hoan.” Uyên bác trong từng câu viết, Jordan Peterson mời người đọc du hành trên trang sách, xuyên qua các câu chuyện của Kinh Thánh, chìm vào các tư tưởng triết học và dạo quanh các chi tiết của văn chương, để cùng truy vấn và tìm câu trả lời cho câu hỏi: Mỗi con người nên ứng xử như thế nào trước cuộc đời? “… Rằng sự tự nguyện gánh vác trách nhiệm cũng giống hệt như quyết định sống một cuộc đời ý nghĩa. Nếu mỗi người chúng ta sống đúng đắn, thì chúng ta sẽ lớn mạnh cùng nhau.” “Không có gì chắc chắn và bất biến. Thậm chí, Mặt trời cũng có những chu kỳ bất ổn của nó. Tương tự, không có gì tùy biến đến mức không thể cố định lại được. Mỗi cuộc cách mạng lại tạo ra một trật tự mới. Mỗi cái chết đồng thời cũng là một sự biến đổi.” “Hãy hỏi, rồi bạn sẽ nhận được. Hãy gõ, rồi cửa sẽ mở. Nếu bạn hỏi như thể bạn muốn biết, và gõ cửa như thể bạn muốn bước vào, thì bạn có thể sẽ nhận được cơ hội để cải thiện cuộc đời mình từng chút một.” “Thần dược” cho cuộc sống không phải là thứ chúng ta có thể mua được hay tìm được ở bên ngoài, mà là kết quả của một quá trình tự vấn có mục đích, có phương pháp, và hơn hết nó phải chuyển chở ý chí lãng mạn ở mức độ cao nhất: Sự lãng mạn cần thiết để vươn tới một cuộc sống đầy đủ trách nhiệm và có ý nghĩa, là sứ mệnh của sự tồn tại của chúng ta trên cõi đời này. Vũ Thái Hà, MBA Giám đốc Công ty Tư vấn & Đào tạo INNMA Mời các bạn đón đọc 12 Quy Luật Cuộc Đời - Thần Dược Cho Cuộc Sống Hiện Đại của tác giả Jordan B. Peterson & Bùi Cẩm Tú (dịch).
Lòng Tốt Của Bạn Cần Thêm Đôi Phần Sắc Sảo Tập 2
“Có lúc, lòng tốt sẽ trở thành từ đồng nghĩa với thiếu tình thương, tự ti, nhu nhược, cô đơn, cực đoan, thường bị cô lập và bắt nạt. Mãi đến sau khi viết cuốn sách Lòng tốt của bạn cần thêm đôi phần sắc sảo, tôi mới biết trên đời có nhiều bạo lực và ức hiếp như thế, có vô số người ở trong bóng tối, tại công sở, họ bị cấp trên chèn ép, cấp dưới lừa gạt; ở nhà bị càm ràm trách móc, thậm chí đánh đập; ở cạnh bạn bè thì sợ làm phật lòng mà không dám từ chối, nỗi đau khổ và đè nén trong lòng không nơi giãi bày, bởi chẳng ai tin, thậm chí chẳng ai thèm nghe, nên mới có đủ thứ trầm cảm, mất ngủ, lầm lì thậm chí tự sát mà nguyên nhân là bản thân không thể phản kháng. Cảm giác tuyệt vọng và bơ vơ của bạn lan rộng ra khắp các mặt trong cuộc sống, bạn sẽ cho rằng mọi việc mình làm đều không có ý nghĩa và giá trị, rất dễ cảm thấy cuộc đời chẳng còn gì đáng lưu luyến nữa. Đây chính là ý nghĩa xuất bản cuốn sách Lòng tốt của bạn cần thêm đôi phần sắc sảo 2: Nếu bạn vẫn luôn cô đơn bơ vơ, tôi mong bạn hiểu được, dù thế giới này không thể lập tức cho bạn lòng dũng cảm, kiên cường và niềm vui, song ít ra bạn vẫn có thể tự tạo ra cho mình những thứ ấy. Đọc thêm một cuốn sách thì có thể có thêm một phần sức mạnh để từ chối hợp lý và phản kháng đúng mực.” Về tác giả: Mộ Nhan Ca – một bác sĩ tâm lý lựa chọn tin vào sự ấm áp của thế giới, một nghệ sĩ múa uyển chuyển lướt giữa những con chữ, tình cảm tinh tế, thích suy tư, có nhiều công trình nghiên cứu tâm lý và dịch thuật. Tác phẩm tiêu biểu: - Lòng tốt của bạn cần thêm đôi phần sắc sảo - Cuộc đời này phải sống vì bản thân mình - Đời khốc liệt bao nhiêu, bạn phải kiên cường bấy nhiêu *** Trích dẫn những câu, đoạn văn tâm đắc trong cuốn sách: “Trên đời này, người chủ động bao giờ cũng đạt được nhiều hơn. Chủ động là một loại năng lực, chủ động chấm dứt tổn thương cũng là một loại năng lực. Nếu bạn không chủ động chấm dứt tổn thương, ắt sẽ đối mặt với sự tổn thương lẫn nhau không bao giờ dứt… “Trên đời không có bữa cơm nào miễn phí, thế gian cũng không có hạnh phúc nào không cần chủ động đi tìm, nếu bạn không có khả năng chủ động chấm dứt tổn thương, thì cũng không có khả năng hưởng thụ hạnh phúc.” “Lòng tốt thật sự là để người bên cạnh tự sống vui mỗi ngày, vào lúc cần giúp đỡ thì dốc hết sức giúp đỡ. Không ai có quyền áp đặt ý tốt của mình hoặc cưỡng ép người khác tuân theo “ bổn phận đạo đức” mà mình cho là đúng cả. Tôi không muốn phạm “tôi tốt bụng” kiểu này với bản thân và người khác.” “Bạn không dám từ chối người nhờ mình giúp đỡ… bạn tốt bụng làm bao việc cho người khác, chẳng qua vì bạn vẫn chưa nếm đủ trái đắng của “lòng tốt”… Bất kể ý tốt của bạn đổi lại bao nhiêu ấm ức, bạn đều lặng lẽ chịu đựng… “Khi lòng tốt khiến bạn luôn đưa ra lựa chọn sai lầm, hiện thực quần bạn tả tơi, bạn sẽ không còn nghiêm khắc yêu cầu bản thân “tốt bụng vô tội vạ” nữa.” “Chúng ta luôn giỏi làm tổn thương những người yêu thương mình, vì chúng ta hoàn toàn không thể làm tổn thương những người không yêu thương mình.” Hy vọng với những tóm tắt nội dung cuốn sách “Lòng tốt của bạn cần thêm đôi phần sắc sảo” giúp bạn thêm sự dũng cảm, kiên cường và niềm vui. Hơn nữa có thêm một phần sức mạnh để từ chối hợp lý và phản kháng đúng mực. Tuy nhiên, sự thay đổi đó không thực hiện ngay được, cần thời gian để suy ngẫm và xem xét toàn bộ. Vì vậy, để có thể tập trung và toàn tâm dành cho cuốn sách này. Hãy sở hữu ngay cuốn sách để trải nghiệm trọn vẹn các nội dung mà tác giả Mộ Nhan Ca muốn nhắn nhủ đến các bạn nhé! Cuốn sách Lòng tốt của bạn cần thêm đôi phần sắc sảo là một cuốn cẩm nang mà bất kỳ ai cũng cần có trên hành trình hoàn thiện bản thân mình.   Mời các bạn đón đọc Lòng Tốt Của Bạn Cần Thêm Đôi Phần Sắc Sảo Tập 2 của tác giả Mộ Nhan Ca.
Thiếu Tiền
Trên các phương tiện truyền thông ở Việt Nam ngày nay, từ “kiều hối” hoàn toàn không xa lạ gì với nhiều người. Nói một cách ngắn gọn, kiều hối là tiền do người dân định cư hay làm việc ở nước ngoài gửi về cho thân nhân ở trong nước. Với những quốc gia đang phát triển thì đây là một nguồn lực tài chính không hề nhỏ, đặc biệt là trong bối cảnh thế giới càng lúc càng trở nên toàn cầu hóa với những mối liên kết, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng chặt chẽ hơn bao giờ hết. Hằng năm, tổng lượng kiều hối trên toàn cầu đạt từ 550-600 tỷ đô la, và con số này đã lên tới 700 tỷ đô la trong năm 2018 vừa qua. Riêng với Việt Nam, lượng kiều hối luôn tăng trong những năm gần đây, cụ thể là từ gần 12 tỷ đô la năm 2016 đã lên tới gần 16 tỷ đô la năm 2018, trong khi GDP của Việt Nam năm 2018 đạt khoảng 240 tỷ đô la. Một phần lớn kiều hối mà Việt Nam nhận được có nguồn gốc từ Mỹ, nơi có cộng đồng Việt kiều đông đảo nhất. Trước kia, người Việt định cư hay làm việc ở nước ngoài thường gửi tiền về nước để hỗ trợ thân nhân trang trải cuộc sống, nhưng gần đây họ còn chuyển tiền về để đầu tư hay góp vốn kinh doanh, khi Việt Nam đang tiến những bước vững chắc trên con đường cải cách nền kinh tế và đạt được tăng trưởng kinh tế khá vững chắc. Các tờ báo kinh tế, tài chính, các cơ quan thống kê trong nước liên tục cập nhật, so sánh các số liệu kiều hối qua từng năm, chia theo địa phương nhận kiều hối, thời gian nhận kiều hối, v.v... Và đó cũng chính là phông nền của câu chuyện mà chúng ta sẽ được đọc trong cuốn sách Thiếu tiền: Văn hóa tiêu tiền trong các gia đình xuyên quốc gia với mức thu nhập thấp này. Đằng sau những con số thống kê khô khan trên báo chí và những đề tài nghiên cứu, Kiều hối mở ra là bao nhiêu cảnh đời, bao nhiêu câu chuyện của những gia đình “xuyên quốc gia”, tức là gia đình bao gồm các thành viên ở cả Việt Nam và Mỹ. Hơn thế nữa, qua cuốn sách chúng ta biết được rằng, không chỉ cho và nhận tiền, việc chi tiêu tiền của Việt kiều trong những lần về thăm quê hương cũng hết sức thú vị và độc đáo. Những người Việt nhập cư vào Mỹ có nghề nghiệp khá bấp bênh, thu nhập tương đối thấp, nhưng vẫn luôn luôn dành ra một phần thu nhập đáng kể để đều đặn gửi về Việt Nam cho thân nhân. Khi về nước du lịch hay thăm thân nhân, họ không ngần ngại tiêu tiền thoải mái cho các nhu cầu của cá nhân. Tại sao họ lại làm như vậy, và những hành vi đó, qua nhiều năm, đã ảnh hưởng ra sao đến cuộc sống và suy nghĩ của cả hai phía - Việt kiều và thân nhân tại Việt Nam? Qua rất nhiều cuộc phỏng vấn và nghiên cứu, phân tích tỉ mỉ, Giáo sư Thái Cẩm Hưng đã làm sáng tỏ những vấn đề tưởng như đơn giản nhưng thực ra vô cùng tinh tế đó. Kiều hối rốt cuộc không chỉ là câu chuyện về tiền bạc và hỗ trợ tài chính, mà nó còn có những hàm ý hết sức quan trọng về mặt cá nhân, tình cảm và văn hóa. Hành vi cho, nhận và chi tiêu tiền trong mối quan hệ giữa di dân và người không di cư, khi được nghiên cứu và phân tích dưới lăng kính xã hội học, đã phản ánh những động cơ và kỳ vọng hết sức đặc trưng của cộng đồng Việt kiều cũng như những người thân của họ đang sống tại Việt Nam. Thông tin về tác giả Là Giáo sư Xã hội học và Nghiên cứu về người Mỹ gốc Á tại Pomona College từ năm 2001, Tiến sĩ Thái Cẩm Hưng tập trung nghiên cứu về các đề tài liên quan tới di dân, các gia đình xuyên quốc gia, hôn nhân và kiều hối của di dân v.v... Sau cuốn sách đầu tiên về đề tài kết hôn giữa Việt kiều và phụ nữ Việt Nam (For Better or For Worse: Vietnamese International Marriages in the New Global Economy - Rutgers University Press, 2008), năm 2014 ông tiếp tục hoàn thành nghiên cứu và cho ra mắt cuốn sách “Thiếu tiền” (Insufficient Funds: The Culture of Money in Low-Wage Transnational Families), như là sự tiếp nối những nghiên cứu về di dân Việt tại Mỹ, nhưng lần này tập trung vào khía cạnh tiền bạc. Đây là kết quả của nhiều năm nghiên cứu, điều tra, phỏng vấn liên quan đến dòng kiều hối Mỹ-Việt. Mời các bạn đón đọc Thiếu Tiền của tác giả Thái Cẩm Hưng.